Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vai trò của nhân vật Tôi trong tác phẩm Người coi trạm của Puskin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.14 KB, 13 trang )

BÀI LÀM
CÂU 1: Đặc điểm văn học Nga thế kỷ XIX giai đoạn 2
Văn học Nga giai đoạn 2 (1855-1893) có những đặc điểm sau:
1
Giữa thế kỷ XIX, bắt đầu thời kỳ mới của văn học hiện
thực, giai đoạn này là lúc văn học hiện thực phê phán phát triển
mới nhờ vào phong trào của nhân dân, các cuộc khởi nghĩa của
nông dân lan rộng buộc Chính phủ Nga Hoàng phải thủ tiêu chế
độ nông nô. Hoạt động tư tưởng của họ cùng với những biến đổi
lịch sử đã tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của
văn học hiện thực phê phán. Ở giai đoạn này văn học hiện thực
phê phán phát triển rộng hơn, sâu hơn, cụ thể hơn, văn học đứng
trước thời đại mới,nhiêm vụ mới và cách giải quyết cho vấn đề
mới đặt ra.
Câu hỏi có tính chất thời đại của giai đoạn 2 là: Làm gì?
Nước Nga đi đâu? Và đi bằng con đường nào? Do đó, đòi hỏi
văn học phải tìm ra câu trả lời thỏa đáng và văn học hiện thực đã
có cố gắng truy tìm nguyên nhân của sự thối nát, cùng khổ, tàn
bạo của vận mệnh nước Nga và vấn đề nông dân sau cải cách.
Đến những năm 80, 90 của thế kỷ XX, văn học hiện thực phê
phán vẫn tiêp tục đứng vững và đảm nhận được vai trò của lịch
sử. Bên cạnh đó đã xuất hiện các trào lưu văn học suy đồi làm
cho xã hội và văn học Nga rơi vào bí bức.
Chủ đề: gồm hai chủ đề chính là:
Văn học tập trung phản ánh tất cả các cuộc sống bị đọa
đày của tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Văn học tập trung giải quyết các vấn đề vận mệnh nước
Nga. Do đó văn học là một nền văn học duy nhất của nhân loại
lĩnh trách nhiệm giải phóng dân tộc. Vận mệnh dân tộc là một
2
trong những chủ đề lỡn của giai đoạn này.Tác giả Tsccnưscpxki


với tác phẩm “Làm gì?” đã đưa ra mô hình xã hội mới – xã hội
xã hội chủ nghĩa không tưởng. Và tác giả L.Tônxtôi đã góp
những câu trả lời dựa trên sự đánh giá đúng đắn vai trò quyết
định lịch sử của nhân dân và phân tích thấu đáo con đường tìm
về với nhân dân của lớp thanh niên quý tộc tiến bộ. Song song
với việc làm tích cực đó. Tônxtôi lại đưa ra một con đường tiêu
cực cho nước Nga. Đó là sự kiện ông cho ra đời học thuyết
“Không chống lại cái ác bằng bạo lực”. Cuối cùng Tsêkhốp
cũng đưa ra những ý tưởng về sự thay đổi, tuy nhiên nó có phần
mơ hồ, cải lương. => dù đưa ra hướng này hay hướng khác tích
cực hay chưa tích cực, các nhà văn học Nga cũng xác nhận một
điều rất căn bản: giải phóng quần chúng về mặt xã hội là điều
kiện cần thiết cho hạnh phúc con người.
Nhân vật chính của văn học giai đoạn này đã có diện mạo tinh
thần khác hẳn so với giai đoạn 1. Đó là những con người tích
cực, con người hành động, có tinh thần cải tạo, có năng lực đấu
tranh giải phóng. ( Các tác phẩm: “đêm trước” – Turghênhép,
“Làm gì” – Tsecnưsepxki, “Chiến tranh và hòa bình” – L.
Tônxtôi ). Họ đoạn tuyệt với cái cũ và điều đó có nghĩa họ đã
gia nhập với cái mới với những mối liên hệ rộng rãi hơn.
3
Những con người đau khổ, những nạn nhân bi thảm của
hoàn cảnh cũng được các nhà văn Nga giai đoạn này chú ý miêu
tả ( Các tác phẩm: “Anna Karênina” – Tônxtôi, “ Tội ác và hình
phạt “ – Đôxtôiepxki, những truyện ngắn của Tsêkhốp v v.)
Lực lượng sáng tác giai đoạn này rất mạnh mẽ, rất hùng
hậu. Văn học giai đoạn này đã đạt đến vinh quang, đến đỉnh cao
với những thành tựu xuất sắc. Những Tsecn uwssepxki,
Xantucốp Seđrin, Turghênhép, Tônxtôi, Đôxtôiepxki,
Tsêkhốp Với hàng loạt những tác phẩm ưu tú đã làm rực rỡ

văn học Nga về mặt văn xuôi. Kịch cũng phát triển với A.
Axtrôpxki Tsêkhốp Ngoài dòng thơ cách mạng, dòng thơ
trong nhà tù cũng phát triển mạnh mẽ với chủ đề nêu cao khí tiết
của người chiến sĩ đấu tranh cho tự do và tố cáo chế độ đương
thời.
Qua một số đặc điểm tiêu biểu về đề tài, nhân vật cũng
như về lực lượng sáng tác đã phần nào cho chúng ta thấy được
thực trạng nền văn học nước Nga giai đoạn 2 của thế kỉ XX
( 1855 - 1893). Có thể thấy đây là một thời đại hoàng kim của
văn học nước Nga nói riêng và là bàn đạp vững chắc tạo nên
những thành tựu cho văn học nhân loại. Với hàng loạt những
cây bút nổi tiếng vang danh hậu thế tới tận ngày nay cùng rất
nhiều những tác phẩm đồ sộ được toàn thế giới biết đến.
4
Thông qua những trang văn, những nhà văn đã phần nào
miêu tả một cách gián tiếp xã hội, cuộc sống của con người
thông qua lăng kính nghệ thuật. Những kiếp người nhỏ bé, lầm
than, cơ cực được hiện lên với những nét đẹp tâm hồn. Họ đại
diện cho cả một giai cấp trong xã hội, giai cấp bị đè nén, trà đạp
tới mức bần cùng hóa. Tác giả lên tiếng cảm thông, sẻ chia và
thấu hiểu một phần cuộc sống của những số phận “ thấp cổ bé
họng” trong xã hội. Mỗi nhà văn có một phong cách thể hiện
riêng, điều đó góp phần làm cho những dòng văn học giai đoạn
này càng đa dạng và phong phú. Vì vậy, khi tìm hiểu về văn học
nước Nga, người ta luôn có một ấn tượng sâu lắng nhất cho giai
đoạn văn học thế kỉ XIX. Một giai đoạn sáng lòa về mảng nghệ
thuật.
5
Câu 2. Vai trò của nhân vật “Tôi” trong tác phẩm Người coi
trạm của Puskin

Puskin là nhà văn vĩ đại của nền văn học Nga cũng như
văn học thế giới. Với vai trò là nhà thơ, nhà văn, Puskin đã có
nhiều tác phẩm để đời và có những đóng góp quan trọng cho
nền văn học nói chung, mà Người coi trạm là một trong số đó.
Đây là tác phẩm đặc biệt trong các sáng tác của Puskin, mở đầu
cho sự ra đời thuật ngữ “Con người bé nhỏ” của nền văn học
Nga, góp phần khẳng định tài năng và tên tuổi Puskin. Để làm
được điều này, có một nhân vật đã đi suốt từ đầu cho đến cuối
tác phẩm như một sợi chỉ đỏ xâu chuỗi tất cả các nhân vật và sự
kiện lại với nhau để tái hiện bức tranh về cuộc sống vật chất và
tinh thần của một người coi trạm, hay cũng là cuộc sống của
những con người lao động nhỏ bé trong xã hội Nga thế kỷ XIX -
đó chính là nhân vật “Tôi”.
Nhân vật Tôi xuất hiện trong tác phẩm là một hình tượng
nghệ thuật để đảm nhận nhiều vai trò quan trọng của câu chuyện
theo ý đồ sáng tác của Puskin. Qua diễn biến câu chuyện và
những sự kiện xảy ra, có thể thấy Puskin đã xuất sắc khi đặt
nhân vật “Tôi” vào cuộc hành trình đến với nhân vật Người coi
trạm và các nhân vật khác để khắc họa bức sang sáng tối về
cuộc sống của những con người ấy.
Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên phải kể đến là nhân vật
“Tôi” xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm để thiết lập những mối
6
quan hệ hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp giữa các nhân vật khác
trong tác phẩm.
Ngay từ đầu truyện, nhân vật “Tôi” đã đặt ra một loạt các
câu hỏi liên tiếp nhau: “Ai là kẻ chưa từng nguyền rủa những
người coi trạm, ai là kẻ chưa từng chửi bới họ?
Ai mà chẳng có lần, trong một phút giận dữ, đã đòi cho
được quyển sổ tai hại để ghi vào đó những lời than phiền bất lợi

về một sự xúc phạm, một thái độ lỗ mãng hay một điều sai hẹn?
Ai là người xem họ như những ác ôn giữa giống người,
như là lũ thơ lại hiện hình, hay ít nhất cũng như những tên kẻ
cướp ở Murom”
Hàng loạt câu hỏi được đặt ra như muốn cho mọi người
biết thực sự người coi trạm là một người như thế nào mà ai cũng
có thể chửi bới họ, coi thường và xúc phạm họ - một thứ hạng
viên chức thứ 14 của xã hội, không có lấy một chút quyền lực
gì. Khi đó “Tôi” lại đặt ra một câu hỏi:“Vậy người coi trạm là
gì?” Không cần người đọc phải trả lời luôn mà chính nhân vật
“Tôi” đã đưa ra luôn câu trả lời: “Đó là kẻ bị đầy ải thực sự ở
bậc thang thứ mười bốn, may lắm cũng chỉ nhờ vào thứ bậc ấy
mà thoát khỏi những cái đấm đá, nhưng không phải lúc nào
cũng thoát được đâu”. Ở ba trang mở đầu, “Tôi” đã đưa đến cho
người đọc được một cái nhìn tổng quan về cuộc sống và số phận
của những người coi trạm nói chung. Nhân vật “Tôi” đã đứng ở
cuộc sống của một người hay được tiếp xúc với người coi trạm
7
để nhìn nhận và đánh giá về họ qua đôi mắt của đa số người dân
Nga lúc bấy giờ.
Việc giới thiệu cuộc sống chung của những người coi trạm
dừng lại ở ba trang mở đầu. Phải đến mười bốn trang truyện sau,
việc thiết lập mối quan hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm mới
được thực hiện rõ qua ba lần nhân vật “Tôi” đến trạm X. Lần
thứ nhất vào một ngày oi bức của tháng 5 năm 1816, “Tôi” có
dịp đi qua trạm X. Tại đây “Tôi” đã gặp một người coi trạm già
khác hẳn với những người coi trạm mà nhân vật “Tôi” đã từng
gặp trong suốt hai mươi năm trước đây - bác Xamxôn. Bác
Xamxôn đã ngoài năm mươi, mạnh khỏe, sống tại trạm cùng cô
con gái tên là Dunhia xinh đẹp mới mười bốn tuổi. Mối quan hệ

giữa cả ba nhân vật (nhân vật “Tôi” với hai cha con, giữa hai
cha con với nhau) đều là mối quan hệ trực tiếp. “Tôi” đã được
dừng lại ăn cơm và có dịp trò chuyện thân thiết với hai cha con
người coi trạm tại căn nhà trạm ấm áp của họ. Lần trở lại trạm X
thứ hai của nhân vật “Tôi” với mong muốn được gặp Dunhia và
bác Xamxôn sau lần gặp thứ nhất 3 năm, nhưng chỉ còn lại
mình bác Xamxôn già với bộ dạng khác hẳn lần trước. Bác
Xamxôn giờ đây đã trở về đúng với bộ dạng của những người
coi trạm thông thường: cũng cáu bẳn khó tính, cũng gày gò bẩn
thỉu vì bác đã mất “tấm bình phong” - cô con gái Dunhia. Lần
này, nhân vật “Tôi” đã trực tiếp được nghe bác Xamxôn kể về
sự ra đi của Dunhia với một gã khinh kỵ trẻ tuổi mà sau này bác
mới được biêt đó là một viên sĩ quan trung úy tên là Minxki và
8
cuộc hành trình đi tìm con gái của bác. Thế nhưng cuộc tìm
kiếm thất bại, lên Xanh-pê-téc-bua tìm thấy con nhưng cô con
gái Dunhia đã không nhận cha, bác Xamxôn cũng nhận ra con
gái bác không phải là con “cừu lạc” để mà dắt về nữa, nên bác
đã trở về trạm tiếp tục sống và làm nhiệm vụ coi trạm như bây
giờ. Ở đây, “Tôi” là nhân vật được nghe kể lại câu chuyện từ
bác Xamxôn nên mối quan hệ được thiết lập giữa “Tôi” với bác
Xamxôn, giữa bác Xamxôn với Dunhia, với Minxki, với người
đánh xe, với người bạn của bác, với người lính canh gác, giữa
Dunhia và Minxki là trực tiếp. Mối quan hệ giữa “Tôi” với
Dunhia và viên trung úy Minxki là gián tiếp. Đến lần trở lại
trạm X lần thứ ba, khi này trạm đã không hoạt động nữa, nhân
vật “Tôi” đã phải bỏ 7 đồng rúp thuê xe ngựa về thăm bác coi
trạm Xamxôn nhưng được tin bác đã mất. “Tôi” đã trực tiếp gặp
được vợ của người nấu rượu bia và cậu bé Vanhia – con trai của
bà. Đây là mối quan hệ trực tiếp. Tại đây, “Tôi” đã được nghe

chuyện về bác Xamxôn qua lời kể của vợ người bán rượu và cậu
bé Vanhia về bác coi trạm già Xamxôn cùng cô con gái Dunhia
– bấy giờ đã là phu nhân của một viên sĩ quan chức tước quyền
quý. Mối quan hệ được thiết lập ở đây là mối quan hệ gián tiếp
giữa “Tôi” và bác Xamxôn, giữa “Tôi” và nhân vật Dunhia. Như
vậy, nhân vật “Tôi” đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình
trong vai trò một sợi dây kết nối các nhân vật và chỉ rõ mối quan
hệ giữa các nhân vật trong truyện với nhau.
9
Nếu như nhiệm vụ thứ nhất là thiết lập những mối quan hệ
giữa các nhân vật với nhau thì nhiệm vụ thứ hai hẳn phải có là
nhân vật “Tôi” trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến những sự
kiện, sự việc trong tác phẩm. Với vai trò là một nhân vật, một
hình tượng nghệ thuật cụ thể, nhân vật “Tôi” đi từ đầu đến cuối
tác phẩm và hoàn toàn có điều kiện trực tiếp hoặc gián tiếp tham
gia vào các sự kiện trong tác phẩm. Puskin đã khéo léo và xử lý
tinh tế khi cho nhân vật “Tôi” xuất hiện với vai trò trực tiếp hay
gián tiếp cho phù hợp trong từng tình huống truyện. Với ba sự
kiện chính, đó là ba lần nhân vật “Tôi” đến thăm trạm X, cũng là
ba lần nhân vật “Tôi” xuất hiện trong vai trò người dẫn truyện,
người đêm đến những tình tiết và diễn biến cho người đọc bằng
cách nào đi chăng nữa. Đó có thể là nhân vật “Tôi” tự khám phá
và kể lại cho người đọc như lần thứ nhất đến trạm X, cũng có
thể là gián tiếp nghe qua lời người khác như lần đến trạm X lần
thứ hai và thứ ba.
Trong vai trò trực tiếp tham gia câu chuyện và kể lại diễn
biến những gì tận mắt chứng kiến, nhân vật “Tôi” được trải
nghiệm và nói lên những suy nghĩ và cảm nhận của mình. Đặc
điểm này liên quan mật thiết tới vai trò thứ ba của hình tượng
nhân vật “Tôi”: Vì trực tiếp thiết lập những mối quan hệ và trực

tiếp tham gia hoặc chứng kiến những sự việc trong tác phẩm nên
nhân vật “Tôi” có điều kiện trực tiếp bộc lộ thái độ của mình.
Ba sự kiện chính của truyện là ba lần “Tôi” đến trạm X.
Lần đầu tiên là nhân vật “Tôi” được trực tiếp gặp gỡ người coi
10
trạm – bác Xamxôn và cô con gái xinh đẹp Dunhia. Lần này
trực tiếp gặp Xamxôn, nhân vật “Tôi” ấn tượng với bác vì bác
không giống như bất kỳ người coi trạm nào trước đây mà “Tôi”
đã từng gặp khi “đi ngang về dọc”, đã rong ruổi trên nhiều nơi
trên khắp nước Nga. Bác khỏe mạnh và vui tính, bác niềm nở và
thân thiện…điều này làm cho nhân vật “Tôi” hơi ngạc nhiên. Ấn
tượng tiếp theo của nhân vật “Tôi” là về căn nhà bác đang ở. Nó
gọn gàng sạch sẽ và ấm áp, có cả tranh treo tường. Ấn tượng thứ
ba là vè cô con gái Dunhia của bác coi trạm. Đó là cô thiếu nữ
mười bốn tuổi xinh đẹp nhưng yểu điệu và cũng rất khéo léo,
thông minh. Cô chăm lo cho gia đình có hai cha con một cách
chu đáo, và vì có cô mà bác coi trạm được như những gì mà
“Tôi” đã trông thấy. Tuy nhiên bức tranh về “đứa con hư” trong
nhà cũng chính là điềm báo và dự cảm về cô con gái Dunhia khi
“chỉ liếc nhìn tôi lần thứ hai là cô bé yểu điệu đã nhận thấy tác
động của nàng đối với tôi ”. Vì nàng xinh đẹp, và quả thật là rất
xinh đẹp khi không một ai là không yêu quý cô, không muốn nói
chuyện với cô và không nhớ đến cô chỉ sau một lần gặp mặt.
Trong khi các bà phu nhân tặng khăn cho cô thì các chàng trai
hay các quan viên đều tìm cách nói chuyện và tiếp xúc với
Dunhia…chính nhân vật “Tôi” cũng rất trìu mến nàng. Đó là
những gì mà linh cảm của “Tôi” sau lần gặp trực tiếp thứ nhất
tạo ra cho cả người coi trạm lẫn cô con gái của bác và không
gian nơi nhân vật “Tôi” đã đến.
11

Sau lần gặp ấy, đến lần gặp thứ hai và thứ ba, thái độ của
nhân vật “Tôi” đối với mỗi nhân vật đều có sự vận động theo
chiều hướng riêng. Lần thứ nhất, nhân vật “Tôi” trực tiếp tham
gia vào câu chuyện nhưng lần này nhân vật “Tôi” đã đứng ở vị
trí gián tiếp để kể lại câu chuyện mà bác Xamxôn lý giải về việc
Dunhia đã không còn ở nhà. Lần này, khi nhân vật “Tôi” đến,
những bức tranh đập vào mắt, một sự việc lạ lùng diễn ra khác
hẳn với lần trước: bác Xamxôn già cỗi, hằn học và lảng tránh
không trả lời câu hỏi của nhân vật “Tôi”. Căn phòng bừa bộn
không còn hoa tươi nữa…Cho đến khi nghe xong câu chuyện từ
người cha đáng thương, thái độ của “Tôi” chuyển sang thương
cảm với bác Xamxôn và chê trách Dunhia. Tuy lần gặp thứ hai
này, đối tượng mà nhân vật “Tôi” muốn gặp là Dunhia nhiều
hơn. Đến lần thứ ba quay trở lại thăm trạm X, người mà “Tôi”
muốn gặp giờ đây là bác Xamxôn, con nhân vật Dunhia thì đã
chìm xuống trong tình cảm của “Tôi”. Đây cũng là lần nhân vật
“Tôi” gián tiếp chứng kiến sự việc đã xảy ra, mà nghe qua lời kể
của một đứa trẻ. Đó cũng là sự tinh tế của nhà văn khi tạo sự
khách quan và tin cậy cho câu chuyện đối với người đọc từ đặc
điểm tính cách của trẻ: nói thật. Thằng bé Vanhia đã thật thà kể
lại những gì đã diễn ra. Đó là việc Dunhia về thăm cha khi
người coi trạm Xamxôn đã chết, là việc Dunhia vẫn một lần nữa
chối bỏ nguồn gốc xuất xứ của mình khi đi đến thăm mộ cha mà
không hề cho ba cậu con trai của cô biết. Lần này, sự thương
cảm của “Tôi” được bộc lộ rõ nhất. Nhân vật “Tôi” càng thương
12
cảm cho số phận nhỏ bé của bác Xamxôn lại càng chê trách cô
con gái Dunhia bấy nhiêu. Đến cuối cùng của tác phẩm, chỉ còn
bác Xamxôn là nhân vật nhỏ bé, còn con gái bác đã thật sự lột
xác thay đổi. Nước Nga bấy giờ với câu hỏi thời đại “nước Nga

đi đâu? Đi vào con đường nào?” đã hé lộ câu trả lời.
Trong Người coi trạm, Puskin đã xây dựng hình tượng con
người nhỏ bé thông qua nhân vật Xamxôn Vưrin. Tác phẩm chỉ
dài 12 trang nhưng có 7 cuộc đối thoại và trong đó có một cuộc
thoại dài chứa 4 cuộc đối thoại con. Puskin miêu tả tâm lý nhân
vật bằng đối thoại, làm sáng tỏ nội tâm bên trong của nhân vật.
Đối thọai giữa bác Xamxơn Vưrin và nhân vật tôi kéo dài 6
trang, và đó là nội dung chính của tác phẩm. Bác Xamxơn Vưrin
đã kể cho nhân vật tôi nghe về đứa con gái đã bị chàng sĩ quan
giàu có đưa đi và nỗi khổ tâm của người bố khi đi tìm lại con gái
mình, mong cho nó trở về nhà. Việc sử dụng hình tượng nghệ
thuật là nhân vật “Tôi” đã tạo hiệu quả tích cực cho việc thể
hiện nội dung của tác phẩm. Ở đây, Puskin đã để nhân vật “Tôi”
thực hiện một cách xuất sắc cả ba nhiệm vụ quan trọng với vai
trò của nó. Hơn thế, Puskin đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về số
phận cuộc đời con người thế kỉ XIX.
13

×