Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 62 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
~~~~~~~~~~~~
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NAM Á
Sinh viên thực hiện : HUỲNH HỒNG NGỌC
Lớp : VBII – 8A6
Mã sinh viên : 08C24010186
Chuyên ngành : TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
HÀ NỘI - 2013
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2
1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại 2
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu 2
1.1.2. Nguồn ền gửi 5
1.1.3. Nguồn vốn đi vay 6
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 8
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn 8
1.2.2. Các hình thức huy động vốn 10
1.2.3. Tăng cường huy động vốn của ngân hàng thương mại 13
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
16
1.3.1. Các nhân tố chủ quan 16
1.3.2. Các nhân tố khách quan 18
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN 20


TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NAM Á 20
2.1. Khái quát về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á 20
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 20
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ 21
2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Nam Á 29
2.2.1. Tình hình huy động vốn tại Ngân hàng Nam Á 29
2.2.2. Vị trí nguồn vốn huy động trong tổng nguồn vốn 31
2.2.3. Chi phí huy động của Ngân hàng Nam Á 32
2.3. Đánh giá chung huy động vốn của Ngân hàng Nam Á 34
2.3.1. Những kết quả đạt được 34
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 36
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG NAM Á 39
3.1. Định hướng hoạt động của Ngân hàng Nam Á 39
3.1.1. Mục êu của ngân hàng Nam Á 39
3.1.2. Định hướng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nam Á đến năm 2015 40
3.2. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nam Á 42
3.2.1. Chú trọng công tác huy động vốn từ dân cư 42
3.2.2. Mở rộng hình thức huy động vốn 44
3.2.3. Vận dụng chế độ lãi suất linh hoạt 48
3.2.4. Hoàn thiện ện ích phục vụ người gửi ền 49
3.2.5. Nâng cao uy Rn Ngân hàng 50
3.2.6. Xây dựng các chương trình markeng hiệu quả 51
3.2.7. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 52
3.3. Kiến nghị 53
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 53
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 54
KẾT LUẬN 55

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Quá trình tăng vốn điều lệ của NAB trong thời gian qua 20
Bảng 2.2: Bảng kết quả huy động vốn 2011 – 2012 25
Bảng 2.3: Bảng \nh hình sử dụng vốn 2010 - 2012 26
Bảng 2.4: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất 28
Ngân hàng TMCP Nam Á (2011-2012) 28
Bảng 2.5: Cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng Nam Á (2010-2012) 29
Bảng 2.6: So sánh vốn huy động trong tổng nguồn vốn năm 2010 – 2012 32
Bảng 2.7: Chi phí huy động vốn của Ngân hàng Nam Á (2010-2012) 33
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT
Viết tắt Nguyên nghĩa
TCKT Tổ chức Kinh tế
TCTD Tổ chức Tín dụng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
TMCP Thương mại Cổ phần
NAB Nam A Bank – Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
CNTT Công nghệ Thông tin
TGD Tổng Giám đốc
GTCG Giấy tờ có giá
TSCĐ Tài sản cố định
NHTM Ngân hàng thương mại
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU

Để có thể tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại phải lựa chọn cho mình
con đường đi phù hợp nhất, từng bước khẳng định uy tín và thương hiệu, nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình. Phương pháp tốt nhất giải quyết vấn đề của mình trong
bối cảnh hiện nay là các ngân hàng thương mại phải tăng cường họat động huy động
vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước, từ đó có thể đảm bảo
khả năng thanh toán, phát triển các hoạt động đầu tư và cho vay, nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của mình
Hiện nay ngân hàng Nam Á đang xây dựng được mối quan hệ khá tốt với khách
hàng của mình trên thị trường cho vay. Tuy nhiên tình hình huy động vốn vẫn gặp phải
những khó khăn nhất định ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kinh doanh của Ngân
hàng. Trên thực tế cho thấy các khoản huy động của Nam Á chưa mang tính chiều sâu,
phạm vi huy động chưa được mở rộng và chưa mang tính chủ động cao. Đặc biệt trong
tình hình tài chính căng thẳng và nhiều biến động như hiện nay thì ngân hàng nào huy
động vốn tốt, ngân hàng nào có nguồn vốn dồi dào thì họ sẽ đạt nhiều thành công.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn huy động trong sự phát triển của ngân
hàng, nhất là những thời điểm diễn biến tình hình tài chính biến động như hiện nay và
tính cấp thiết của hoạt động huy động vốn trong thời điểm hiện nay, em đã chọn đề tài
nghiên cứu “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam
Á”. Đề tài có kết cấu gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Nam Á.
Chương 3: Giải pháp để tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại
Cổ
phần Nam Á
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
1
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính thực hiện chức năng kinh doanh
tiền tệ. Các ngân hàng thương mại có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau,
chẳng hạn ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng quốc doanh và các ngân
hàng liên doanh. Dù dưới bất kỳ hình thức nào, các ngân hàng thương mại luôn đặt
mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt được điều đó, công cụ duy nhất mà các ngân
hàng phải có là vốn.
Ngân hàng thương mại lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh. Do đó, vốn của ngân
hàng thương mại chủ yếu phải là vốn bằng tiền. Để có thể hoạt động, ngân hàng phải
có một số vốn nhất định (vốn pháp định), tuy nhiên ngân hàng kinh doanh phần lớn
dựa trên số vốn huy động. Đó là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi
trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi
vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chuyển
nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ
một khoản thu nhập. Với số vốn huy động được, các ngân hàng thương mại tiến hành
kế hoạch kinh doanh để trang trải chi phí huy động và tích lũy, phục vụ sự phát triển
lâu dài. Có nhiều hình thức sử dụng vốn với các mức độ sinh lời và rủi ro khác nhau,
tùy thuộc vào định hướng cũng như cách thức thực hiện của từng đơn vị.
Như vậy, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện
các nghiệp
vụ kinh doanh khác.
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân
hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân
hàng. Với chức năng bảo vệ, nguồn vốn này được coi như tài sản đảm bảo gây lòng
tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp

thua lỗ.
 Nguồn vốn hình thành ban đầu
Một ngân hàng thương mại muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng
được yêu cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu
phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định, vốn
điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
2
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Khi ngân hàng bước vào
hoạt động thì nguồn vốn này được thể hiện dưới dạng văn phòng, trụ sở, trang thiết bị,
dự trữ…, và ngân hàng không được phép sử dụng vốn này chia lợi tức hay trích lập
quỹ phúc lợi khen thưởng.
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ- CP ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2006 của
Chính phủ quy định, mức vốn pháp định đối với ngân hàng thương mại Nhà nước, đầu
tư là 3.000 tỷ đồng; các ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh, hợp tác, 100% vốn
nước ngoài và Quỹ tín dụng nhân dân TƯ là 1.000 tỷ (3.000 tỷ vào 2010). Vốn pháp
định của chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD…
 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn điều lệ không phải luôn giũ cố
định mà vẫn được bổ sung và tăng dần theo các hình thức: ngân sách nhà nước cấp thêm,
huy động thêm từ các cổ đông, lợi nhuận tích lũy…
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
 Cổ phần phát hành thêm, ngân sách nhà nước cấp thêm
Để mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường khả năng chống đỡ rủi ro các ngân
hàng thương mại cổ phần có thể huy động thêm vốn bằng con đường phát hành thêm
cổ phiếu (có thể là cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu ưu đãi), các ngân hàng thương mại
thuộc sở hữu nhà nước có thể xin cấp thêm vốn ngân sách, các ngân hàng tư nhân hay
ngân hàng liên doanh có thể cùng nhau góp thêm vốn.
 Lợi nhuận bổ sung

Khi ngân hàng hoạt động hiệu quả và có lãi, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng
vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lện
tích lũy tùy thuộc vào khả năng hoạt động cũng như chính sách gia tăng vốn chủ của
mỗi ngân hàng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ
lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
 Các quỹ
Ngoài nguồn vốn hình thành ban đầu, ngân hàng thương mại còn có các quỹ dự
trữ, các quỹ này được coi là nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng và hằng năm được
bổ sung từ lợi nhuận ròng của ngân hàng đó. Tùy theo quy định của từng quốc gia, các
ngân hàng phải thực hiện trích lập các quỹ khác nhau. Thông thường các ngân hàng
thương mại phải lập các quỹ:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
Quỹ được trích lập theo tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng lợi nhuận ròng (có
mức giới hạn do pháp luật từng nước quy định). Tại Việt Nam, theo quy định, hàng
năm các ngân hàng thương mại được trích lập 5% lợi nhuận sau khi hoàn thành nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp để hình thành quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Mức tối đa
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
3
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ thực có của
ngân hàng thương mại.
 Quỹ đầu tư phát triển
Quỹ đầu tư phát triển dùng để đầu tư mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh đổi
mới công nghệ, trang thiết bị của ngân hàng thương mại. Căn cứ vào nhu cầu đầu tư và
khả năng của quỹ, hội đồng quản trị của ngân hàng thương mại quyết định hình thức
và biện pháp đầu tư theo nguyên tăcc có hiệu quả, an toàn phát triển vốn.
 Quỹ dự phòng tài chính
Quỹ dự phòng tài chính được hình thành từ lợi nhuận hàng năm và được dùng để
bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh
doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các cá nhân, tổ chức gây ra tổn

thất, của các tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập từ chi phí. Theo quy định
của pháp luật Việt Nam, quỹ này được trích bằng 10% lợi nhuận sau thuế thu nhập
doanh nghiệp và đã trừ đi các khoản phải trừ như trích quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
trữ bổ sung vốn điều lệ. Số dư tối đa của quỹ này bằng 25% vốn điều lệ của ngân hàng
thương mại
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại còn có thể trích lập các quỹ sau:
 Quỹ bảo toàn vốn
Khi nền kinh tế có lạm phát, quỹ này nhằm bảo toàn vốn bằng cách tăng quy mô
vốn tự có của ngân hàng. Khi nền kinh tế ổn định, các ngân hàng thương mại có thể
không cần lập quỹ này.
 Quỹ thặng dư vốn
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần trong đợt phát hành cổ phần mới, nếu
thị giá của cổ phiếu mà lớn hơn mệnh giá của cổ phiếu đó thì phần chênh lệch giữa thị
giá và mệnh giá được ngân hàng hạch toán vào quỹ thặng dư vốn.
 Quỹ đánh giá lại
Do giá trị thị trường của các tài sản đặc biệt mà ngân hàng nắm giữ như bất động
sản, chứng khoán… có xu hướng biến động mạnh trong từng thời kì khác nhau nên
quỹ này nhằm ghi chép phần chênh lệch do đánh giá lại giá trị của các tài sản và nợ
của ngân hàng. Dựa vào quỹ này, nhà quản lý ngân hàng có thể theo dõi và đánh giá
giá trị thị trường của nguồn vốn chủ sở hữu.
 Các quỹ khác
 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần như trái phiếu có khả năng chuyển đổi có thể được coi là một bộ phận
của vốn chủ sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do một số đặc điểm như sử dụng lâu dài,
có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Nguồn vốn
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
4
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
này thực sự là một công cụ hữu hiệu đối với ngân hàng trong việc gia tăng vốn chủ sở hữu

mà lại không làm mất đi quyền kiểm soát của các cổ đông hiện hữu.
- Theo điều 4 Quyết định 457/2002/QĐ- NHNN thì các “Tổ chức tín dụng, trù
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với
tổng tài sản “Có” có điều chỉnh rủi ro.
1.1.2. Nguồn tiền gửi
Nguồn tiền gửi của ngân hàng thương mại là giá trị tiền tệ mà các ngân hàng
thương mại huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông
qua nghiệp vụ tiền gửi, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm
vốn để kinh doanh.
Bản chất của nguồn vốn này là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng
chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn
cả gốc và lãi khi đến hạn (tiền gửi có kì hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền gửi
không kì hạn). Tiền gửi đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại.
 Tiền gửi
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 2004 – sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín
dụng 1997 quy định rằng “Tiền gửi là số tiền các tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín
dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kì
hạn, tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được
hưởng lãi, không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền.”
 Tiền gửi không kì hạn
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân gửi vào ngân hàng để
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi
trả của đối tượng gửi tiền đều được ngân hàng thực hiện. Với nội dung chi trả như vậy
và việc sử dụng séc để thanh toán nên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là
tài khoản tiền gửi thanh toán hay tài khoản có thể phát séc. Các khoản thu bằng tiền
của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh
toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rấy thấp hoặc bằng không,
thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng.

 Tiền gửi có kì hạn
Nhiều khỏan thu bằng tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân sẽ được chi
trả sau một thời gian xác định. Vì thế trong một khoảng thời gian nhất định, các tổ
chức, cá nhân này có một khoản tiền nhàn rỗi muốn gửi vào ngân hàng nhằm mục đích
an toàn và gia tăng thu nhập. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
5
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân
hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của một tầng lớp dân cư chưa sử dụng
cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và
hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích lũy
tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường, tiền
gửi tiết kiệm được phát triển thành hai loại hình tiết kiệm: tiền gửi tiết kiệm không kì
hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Khoản tiền gửi tiết kiệm không kì hạn là khoản tiền
gửi tiết kiệm có thể rút ra bất kì lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh
toán để chi trả cho người khác. Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là khoản tiền có sự thỏa
thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm
không kì hạn. Hình thức tiền gửi này được ngân hàng đa dạng hóa thành các kì hạn với
các mức lãi suất tương ứng khác nhau, thỏa mãn tốt nhất yêu cầu của mọi đối tượng
khách hàng.
1.1.3. Nguồn vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Tuy nhiên, khi các ngân hàng
đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì các ngân hàng thương
mại sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình. Vốn đi vay là quan hệ vay vốn
giữa ngân hàng thương mại với ngân hàng Nhà nước, hoặc giữa ngân hàng thương mại
với nhau, với các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường. Nguồn đi vay mặc dù
chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng nó đảm bảo cho ngân hàng hoạt động

liên tục, thông suốt. Theo đối tượng vay, tiền vay được chia thành ba loại bao gồm vay
các tổ chức tín dụng và vay ngân hàng nhà nước và vay trên thị trường.
 Vay ngân hàng nhà nước (vay ngân hàng Trung ương)
Vay ngân hàng nhà nước là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi
trả khi ngân hàng thương mại thiếu hụt dự trữ, thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt vốn.
Đây là nguồn cứu tinh sau cùng cho các ngân hàng thương mại để tránh vấp phải
khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, việc vay ngân hàng nhà nước phụ thuộc rất nhiều
vào việc ngân hàng nhà nước đang thực hiện chính sách nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ.
Khi ngân hàng nhà nước đang hạ lãi suất chiết khấu, nới lỏng cung ứng tiền tệ nhằm
kích thích đầu tư thì các ngân hàng thương mại có thể có nguồn vốn dồi dào với chi
phí thấp.
Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay ngân hàng nhà nước được
chia thành các loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay tái cấp vốn.
 Vốn vay ngắn hạn bổ sung
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thức các ngân hàng thương mại xin vay ngân
hàng nhà nước vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức này, các ngân
hàng thương mại chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã
thỏa thuận.
 Vốn vay để thanh toán
Các ngân hàng thương mại vay ngân hàng nhà nước nhằm thực hiện công tác
thanh toán giữa các ngân hàng để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (Thời hạn
vay loại này thường ngắn).
 Tái cấp vốn
Ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại vay trên cơ sở chứng từ có giá là
các thương phiếu. Các thương phiếu này phải là các thương phiếu có chất lượng, tức là
phải thỏa mãn những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn, thời gian đáo hạn
ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng. Tái cấp vốn bao

gồm hai hình thức:
- Cho vay tái chiết khấu: ngân hàng nhà nước nhận các thương phiếu mà các ngân
hàng thương mại đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như trước
đây các ngân hàng thương mại đã làm.Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với
các ngân hàng thương mại đã được giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết
khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước.
- Cho vay có đảm bảo: là hình thức các ngân hàng thương mại đem các thương
phiếu đến ngân hàng nhà nước để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh
giá các chứng từ có giá làm đảm bảo, ngân hàng nhà nước sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất
định tùy theo sự quản lý của nhà nước.
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng do trong quá trình hoạt động, cũng có lúc các ngân
hàng thương mại thiếu hụt dự trữ hoặc thiếu tiền mặt, buộc phải vay mượn các tổ
chức tín dụng khác. Các tổ chức tín dụng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia
tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các
ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu
hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh toán. Như vậy nguồn vay
mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng nhà
nước. Quan hệ vay mượn này diễn ra khá thường xuyên nhưng chỉ trong một thời gian
ngắn thường là dưới một tuần hoặc chỉ trong vài ngày do tính chất của các khoản vay
này là đáp ứng nhu cầu trước mắt, hoặc do các ngân hàng thương mại không muốn
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
lạm dụng hình thức vay mượn này. Quá trình vay mượn rất đơn giản.
 Vay trên thị trường
Bên cạnh phương thức vay trên, các ngân hàng thương mại còn có thể vay trên thị
trường tiền tệ và thị trường vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và

trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ nàu là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc
phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu là phiếu nợ ngắn
hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu
nợ trên được ngân hàng phát hành từng đợt, tùy theo mục đích với sự chấp thuận của
ngân hàng nhà nước hoặc ủy ban chứng khóan nhà nước.
Các nguồn khác
Do quá trình hoạt động, thanh toán và cung cấp các dịch vụ, nguồn vốn của ngân
hàng thương mại còn bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và tiền khác.
 Nguồn ủy thác
Thông qua nghiệp vụ đại lý, thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy
thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân, thu hộ… các ngân hàng thương mại
cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng,
làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một
dự án đầu tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc, nên ngân hàng
có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh. Khi thực hiện các dịch vụ này,
mạng lưới các ngân hàng thương mại được sử dụng như là kênh dẫn vốn tới các mục
tiêu. Do vậy, vốn hình thành từ nguồn ủy thác thường không mấy chi phí.
 Nguồn trong thanh toán
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại cũng tạo được
một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khỏan mở thư tín dụng, tài
khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng
chấp nhận các hối phiếu thương mại… Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài
khỏan này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng nên tạm thời được coi là tiền nhàn rỗi.
 Tiền khác
Bao gồm các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán như lương chưa trả, thuế chưa
nộp…
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn
Vốn là những giá trị tiền tệ do doanh nghiệp tạo lập hoặc huy động được, là biểu
hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính được

đầu tư vào các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại, trong đó chủ
yếu là bỏ vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận. Đối với
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì điều kiện trước nhất là
phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh
doanh. Với đặc thù là kinh doanh chủ yếu dựa trên đồng vốn vay mượn của người
khác, nguồn vốn có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống còn của ngân hàng
thương mại
 Vốn là cơ sở để các ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh.
Vốn là điều kiện bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại để được phép hoạt động.
Ngay từ khi bước vào hoạt động, các ngân hàng cần vốn để mua đất đai, xây dựng cở
sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, và những điều kiện làm việc khác. Và với đặc
trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà
còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại.
 Vốn quyết định quy mô của ngân hàng trong hoạt động tín dụng và các hoạt
động khác
Vốn của ngân hàng có tính chất quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô
hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng, khả năng thanh tóan, chi trả cũng như các
họat động khác. Thông thường, so với các ngân hàng lớn, các ngân hàng nhỏ có khoản
mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và đối tượng cho vay của các ngân
hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi đó, các ngân hàng lớn dễ dang mở rộng phạm vi
cho vay, không chỉ trên địa bàn mình mà còn hướng ra khu vực và quốc tế. Thêm vào
đó, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được
với sự biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các
tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế.
 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
Như đã trình bày ở trên, phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là nguồn tiền gửi từ

các tổ chức kinh tế và dân cư. Đặc điểm của nguồn tiền này là hoàn trả khi có yêu cầu,
nên ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với nhu cầu rút tiền của khách hàng. Vì thế
năng lực thanh toán cao là yếu tố các ngân hàng cần phải đảm bảo và luôn được chú
trọng.
Vì vây, việc nâng cao hoạt động huy động vốn để tạo ra nguồn vốn lớn trong ngân
hàng đã gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán cũng như uy tín của ngân hàng trên
thương trường.
 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, kinh doanh ngân hàng đang là một lĩnh vực
có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Vì thế việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngân
hàng đang là vấn đề cấp bách của các nhà quản lý ngân hàng. Trong lĩnh vực này rất
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
khó có thể tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ hay lãi suất. Do đó, để có thể thu
hút khách hàng, ngân hàng phải có một tiềm lực tài chính mạnh và ổn định. Tiềm lực
tài chính mạnh được xây dựng dựa trên một nguồn vốn lớn. Khả năng vốn lớn là điều
kiện để các ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các tổ chức, cá nhận trong
nền kinh tế, vốn lớn tăng quyền chủ động của ngân hàng trong việc thỏa thuận quy
mô, kỳ hạn, thời hạn, thậm chí cả lãi suất.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn
Trong nền kinh tế mở cửa hội nhập hiện nay, để thu hút được nguồn vốn lớn, các
ngân hàng thương mại phải tìm cách đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa
nhu cầu và thỏa mãn mọi mong muốn của khách hàng. Vì thế, theo các tiêu thức khác
nhau có thể phân các hình thức huy động vốn thành các loại khác nhau.
1.2.2.1 Theo đối tượng huy động
 Huy động vốn từ dân cư
Trong nền kinh tế phát triển, đời sống dân cư được nâng cao thì ngoài khỏan tiền
tiêu dùng, các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời nhàn rỗi. Nhằm
mục đích đảm bảo an toàn và sinh lời, họ có thể sử dụng các hình thức đầu tư như mua

vàng, ngoại tệ mạnh, bất động sản, cổ phiếu hay trái phiếu. Các hình thức này mặc dù
mang lại nguồn lợi nhuận cao nhưng lại tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Do đó, trong đại bộ
phận dân chúng thì đều chọn hình thức gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng vừa được đảm
bảo an toàn, vừa có thể thu được một khoản lợi tức nhất định. Tùy thuộc vào nhu cầu
sử dụng tiền mặt mà khách hàng có thể lựa chọn các hình thức gửi tiền khác nhau với
các kì hạn khác nhau.
 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác
Đây là khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong và ngoài
nứơc, các tổ chức xã hội khác như cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính
trị xã hội… Phần lớn mục đích của nguồn tiền gửi này là nhằm mục tiêu thanh tóan,
hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Bên cạnh đó, còn nhằm mục đích sinh lời đối với
khỏan tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng.
1.2.2.2 Theo phương thức huy động
 Huy động tiền gửi
 Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân hàng
phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc
không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người ta phân chia thành tiền gửi
thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy
- Tiền gửi thanh toán: đây là khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, tổ
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
10
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến hành thanh tóan, chi
trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khỏan chi khác phát sinh trong quá
trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Khi sử dụng các tiện
ích thanh toán, chủ sở hữu tài khỏan phải trả cho ngân hàng một khỏan phí.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: đây là khoản tiền của doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể nhằm mục đích
đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể sử dụng ngay, không mang tính chất phục

vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút ra để chi tiêu. Hình thức
gửi tiền này không được ngân hàng cho phép phát hành séc.
 Tiền gửi có kì hạn
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời
gian rút tiền. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, có
nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi.
Các ngân hàng thương mại nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn
và tiền gửi báo rút (tức là khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền
gửi có kì hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng
vốn trên tài khoản vãng lai nên không thẻ phát séc. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn
là các khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
 Tiền gửi tiết kiệm
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số 1160/2004/QĐ- NHNN
của thống đốc ngân hàng Nhà nước đã quy định rõ “ Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền
của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết
kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo
hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai loại là
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút
tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền
sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
 Phát hành giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sự dụng cho một mục đích nào
đó. Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hành bao gồm kỳ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII

11
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.2.2.3 Theo thời gian huy động
 Ngắn hạn
Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là các khoản huy động
ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ đa dạng hóa các sản phẩm
tiền gửi của các ngân hàng thương mại mà có thể chia nhỏ các kỳ hạn theo ngày, tuần,
tháng, quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường cao. Theo quyết
định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các
tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng là 11% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc. Đây là nguồn tiền thường được khách hàng ưa chuộng nên chiếm tỷ trọng cao
trong tổng vốn huy động.
 Trung và dài hạn
Do ngân hàng chủ yếu là cho vay dài hạn nên để nâng cao khả năng thanh khoản
cũng như hạn chế rủi ro lãi suất, các ngân hàng thương mại thường huy động các
nguồn tiền trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng) và dài hạn (từ 60 tháng trở lên).
Do kỳ hạn dài nên lãi suất chi trả cho nguồn tiền này thường cao. Theo quyết định của
thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức
tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền
gửi có kỳ hạn trên 12 tháng là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là
nguồn tiền có chi phí cao nên chiếm tỷ trọng thấp hơn so với nguồn ngắn hạn trong
tổng nguồn vốn huy động và thường được cho vay, đầu tư vào các dự án có tính khả
thi cao.
1.2.2.4 Theo loại tiền huy động
Căn cứ vào tính thanh khoản, mức độ ưa thích, nhu cầu dự trữ, đầu tư của người
dân mà ngân hàng có thể huy động bằng nội tệ (VNĐ) hoặc là ngoại tệ (ngoại tệ
mạnh).
 Huy động bằng nội tệ
Do quá trình tích lũy và nhu cầu tiêu dùng, thanh toán trong nước nên khách hàng

thường gửi tiền bằng đồng nội tệ. Do đó, nguồn vốn này thường chiếm phần lớn trong
nguồn vốn huy động và có lãi suất cao hơn.
 Huy động bằng ngoại tệ
Từ nhu cầu thanh toán trong xuất nhập khẩu hàng hóa với yêu cầu đầu tư, cất trữ
bằng các ngoại tệ mạnh của khách hàng đã làm nên nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ
trong ngân hàng. Do sự biến động về tỷ giá nên lãi suất huy động của loại này thường
thấp hơn so với huy động bằng nội tệ.
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
12
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.2.3. Tăng cường huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.3.1 Khái niệm
Tăng cường theo từ điển Việt Nam có nghĩa là làm cho mạnh thêm, nhiều thêm
hoặc là sự gia tăng về mặt cơ học để đạt được mục tiêu.
Tăng cường huy động vốn của ngân hàng thương mại là việc đưa ra các biện pháp,
giải pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại.
Mục tiêu của việc tăng cường huy động vốn của các ngân hàng thương mại chính
là tạo ra sự chủ động về vốn trong hoạt động kinh doanh để từ đó nâng cao hiệu quả
kinh doanh trong ngân hàng thương mại.
Hiệu quả của việc tăng cường huy động vốn là yếu tố quyết định tới qui mô đầu
tư, cho vay của ngân hàng thương mại. Việc tăng cường trong công tác Huy động vốn
là nhiệm vụ hàng đầu mà các ngân hàng đặt ra.
Lượng vốn huy động hàng năm phải lớn, chi phí bỏ ra ít nhưng vẫn thu hút được
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, các TCTD hay các TCKT. Nguồn vốn huy động phải
đáp ứng nhu cầu đầu tư, cho vay của ngân hàng. Lợi nhuận mang lại từ nguồn vốn huy
động phải đạt được so với các chỉ tiêu mà ngân hàng đặt ra. Tránh tình trạng huy động
vốn một cách ồ ạt nhưng lại không được mang ra sử dụng, điều đó ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả kinh doanh. Nguồn vốn huy động phải phù hợp với công tác sử dụng vốn
thì hoạt động kinh doanh mới có hiệu quả.
1.2.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại

Để đánh giá hiệu quả vốn huy động, cần xem xét các chỉ tiêu: Mức độ tăng trưởng
vốn ổn định, quy mô vốn phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, chi phí vốn, kỳ hạn vốn
hợp lý.
a. Mức tăng trưởng ổn định của vốn huy động
Vốn huy động tăng trưởng ổn định theo thời gian sẽ đáp ứng nhu cầu tín dụng
cũng như hoạt động kinh doanh khác ngày càng tăng của ngân hàng. Nếu ngân hàng
huy động được một lượng vốn đủ lớn phù hợp với quy mô và nhu cầu của mình, thì
giả sử như khi có một lượng tiền lớn bị rút ra cũng sẽ không gây ảnh hưởng lớn đến
hoạt động của ngân hàng, ngân hàng sẽ không gặp khó khăn trong vấn đề thanh khoản.
Vốn huy động tăng trưởng ổn định sẽ khẳng định được vị thế uy tín và thương hiệu
của ngân hàng. Một ngân hàng có đủ tiềm năng về tài chính cũng như uy tín mới có
thể giữ được mức tăng trưởng về huy động vốn ổn định qua các năm. Tính ổn định của
vốn huy động quyết định một phần an toàn trong kinh doanh ngân hàng và thời hạn tín
dụng. Nó phản ánh khả năng tìm kiếm các khoản nợ mới nhanh chóng với lãi suất thấp
nhằm tăng cường khả năng thanh khoản cho ngân hàng. Vốn huy động tăng trưởng ổn
định sẽ tạo lập và định hướng chiến lược kinh doanh cụ thể của ngân hàng trong việc
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
13
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
sử dụng vốn có hiệu quả.
b. Quy mô và Cơ cấu nguồn vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn
Xuất phát từ kế hoạch sử dụng vốn để có chiến lược Huy động vốn phù hợp. Huy
động vốn đảm bảo phù hợp với sử dụng vốn cả về loại tiền, kỳ hạn, lãi suất sẽ góp
phần đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng và thực hiện đúng cam kết với khách hàng.
Quy mô nguồn vốn của một ngân hàng thương mại cần phải có sự ổn định, phù hợp
với lãi suất và kỳ hạn của nó. Sự gia tăng nguồn vốn theo tiêu chí nào là một chỉ tiêu
phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện để ngân hàng mở rộng quy
mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và ổn định của nguồn vốn. Quy mô nguồn
vốn cần phải được xây dựng theo từng giai đoạn, tùy thuộc vào định hướng chiến lược
phát triển chung của ngân hàng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn

mới. Trên thực tế ngân hàng không thể sử dụng hết số vốn huy động được để cho vay
mà phải giữ lại một tỷ lệ nhất định để đảm bảo khả năng thanh khoản nhằm mục đích
an toàn trong hoạt động kinh doanh, sử dụng để chi trả khi khách hàng có nhu cầu rút
tiền. Tính thanh khoản của vốn huy động được đo bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn
mới với chi phí và thời gian bỏ ra thấp nhất. Thanh khoản hợp lý là không tích trữ quá
nhiều các nguồn vốn khả dụng, tích trữ quá nhiều sẽ làm giảm tỷ suất sinh lời của vốn.
Một ngân hàng được xem là có tính thanh khoản nếu như ngân hàng đó có khả năng
huy động được vốn khả dụng với chi phí thấp vào đúng thời điểm phát sinh yêu cầu
thanh khoản. Cầu thanh khoản chủ yếu phát sinh khi nhu cầu rút tiền gửi và nhu cầu
vay vốn của những khách hàng có chất lượng tín dụng cao nhưng lại không báo trước
với ngân hàng thương mại, nhu cầu nộp thuế, trả cổ tức, thanh toán các khoản vay từ
NHNN và các ngân hàng thương mại khác. Cung thanh khoản thông thường có 3
nguồn chính: Dự trữ sơ cấp hay còn gọi là tiền mặt hay ngân quỹ; các tài sản khác có
tính thanh khoản cao: chứng khoán khả mại, trái phiếu, tín phiếu kho bạc; vốn vay trên
thị trường tiền tệ để bổ xung thanh khoản. Nếu cung thanh khoản lớn hơn cầu thanh
khoản thì ngân hàng vẫn còn dư vốn, ngân hàng nên tiếp tục đầu tư có hiệu quả nguồn
vốn khả dụng cho tới khi yêu cầu thanh khoản mới xuất hiện. Nếu cung thanh khoản
nhỏ hơn cầu thanh khoản thì ngân hàng phải có kế hoạch bổ xung nguồn vốn khả
dụng từ các nguồn khác nhau sao cho chi phí thấp nhất. Thanh khoản mang tính thời
điểm đòi hỏi ngân hàng phải hết sức thận trọng vì khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ
khi nào. Thanh khoản mang tính thời kỳ bao giờ cũng gắn với tính chất và chu kỳ do
đó ngân hàng có thể sử dụng nhiều nguồn để đáp ứng.
Mặt khác, mục đích của ngân hàng là huy động để cho vay và đầu tư, nên ngân
hàng thường tìm cách khai thác và sử dụng tối đa số vốn và huy động để sử dụng hiệu
quả cao nhất chi phí vốn đã bỏ ra, mang lại nhiều nhất lợi nhuận cho ngân hàng. Nếu
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
huy động vốn nhiều nhưng sử dụng vốn ít thì kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng cũng sẽ không có hiệu quả. Tuy nhiên điều này cũng đồng nghĩa với việc ngân

hàng phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro cao, do đó các ngân hàng phải cân nhắc kỹ
xem nên huy động vốn ở mức nào để đảm bảo hoạt động có hiệu quả mà vẫn an toàn .
Hơn thế nữa, tỷ trọng các loại vốn ngắn hạn, trung dài hạn, nội tệ ngoại tệ ở mức
hợp lý, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Bất cứ một sự không phù
hợp nào về kỳ hạn cũng sẽ mang lại bất lợi cho ngân hàng. Nếu không có sự phù hợp
về loại tiền, ngân hàng sẽ chịu chi phí để chuyển đổi từ nguồn tiền đã được huy động
sang loại tiền cần sử dụng và như vậy thì có thể gặp rủi ro về tỷ giá. Nếu không có sự
phù hợp về kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro về
kỳ hạn. Đây là những nguy cơ tiềm ẩn mà ngân hàng phải đối mặt khi sử dụng các kế
hoạch huy động vốn.
c. Chi phí huy động vốn bình quân hợp lý:
Đây là yếu tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động huy động vốn vì nó quyết
định trực tiếp tới phương thức sử dụng vốn và đặc biệt hơn cả là lợi nhuận của ngân
hàng. Chi phí huy động vốn bình quân được thể hiện thông qua chỉ tiêu về lãi suất đầu
vào bình quân. Có hai cách tính lãi suất đầu vào bình quân:
Lãi suất đầu vào bình quân =
Tổng số dư nguồn thứ i × Lãi suất huy động của nguồn thứ i
Tổng số dư các nguồn vốn
Hoặc:
Lãi suất đầu vào bình quân =
Σ (tỉ trọng loại tiền gửi thứ i x Lãi suất tiền gửi i)
Với i = 1 → n
Như vậy, có thể với biểu lãi suất như nhau nhưng do khác nhau về tỷ trọng từng
loại tiền gửi dẫn đến lãi suất huy động bình quân giữa các ngân hàng thương mại rất
khác nhau. Chi phí huy động thấp là một trong những điều kiện cơ bản giúp ngân hàng
thương mại tăng khả năng sinh lời nhưng ít gặp rủi ro. Vì vậy, các ngân hàng luôn
phấn đấu đạt được chi phí huy động bình quân hợp lý nhất, đảm bảo đáp ứng được nhu
cầu cho vay, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay lớn nhất có thể và đảm bảo khả
năng cạnh tranh trên thị trường.
• Kỳ hạn vốn

Quản lý kỳ hạn là xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn sử
dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn. Có hai loại kỳ hạn: kỳ hạn danh nghĩa và kỳ
hạn thực tế. Kỳ hạn danh nghĩa phản ánh tính ổn định ban đầu của nguồn vốn. Việc
xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng.
Để cho vay và đầu tư dài hạn, ngân hàng cần có khả năng duy trì tính ổn định của
nguồn tiền. Mặt khác kỳ hạn liên quan tới chi phí, các nguồn có tính ổn định cao
thường có chi phí duy trì cao. Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
tiền tồn tại liên tục tại ngân hàng. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế của nguồn tiền
là cơ sở để ngân hàng quản lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn nguồn, sử dụng các
nguồn có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn dài hơn. Về nguyên tắc những nguồn vốn
ngắn hạn sẽ được đầu tư vào các tài khoản ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn sẽ đầu tư
vào các tài sản dài hạn. tuy nhiên trong thực tế, các ngân hàng thương mại phải tính tới
yếu tố vòng quay của vốn tức là có thể hoán đổi kỳ hạn dùng nguồn vốn ngắn hạn để
tài trợ cho tài sản dài hạn. Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản cũng là
một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro lãi suất cho ngân hàng thương mại. Đó là
khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi về lãi suất và nhiều yếu
tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kỳ hạn của các hợp
đồng kỳ hạn… Khe hở lãi suất hình thành do sự chênh lệch tài sản và nguồn có độ
nhạy cảm. Như vậy quản lý kỳ hạn cũng là quản lý rủi ro lãi suất và làm giảm khe hở
lãi suất của ngân hàng thương mại.
Kỳ hạn thực tế có thể nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn kỳ hạn danh nghĩa. Để xác định
kỳ hạn sử dụng vốn hợp lý ngân hàng cần đánh giá các chỉ tiêu:
* Số vòng quay của nguồn vốn huy động =
DS chi trả VHĐ trong kỳ
Số dư bình quân VHĐ trong kỳ
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá trong một thời gian nhất định nguồn vốn quay
được bao nhiêu vòng.

Thời hạn bình quân của VHĐ ( tính theo ngày) =
Số dư bình quân của VHĐ × số ngày trong kỳ
Doanh số chi trả VHĐ trong kỳ
Cách tính này cho biết thời gian cần thiết để nguồn vốn quay được một vòng, nếu
số vòng quay của nguồn vốn huy động càng ít hay thời hạn bình quân của nguồn vốn
huy động càng dài thì nguồn vốn càng ổn định. Ngân hàng có thể cho vay dài hạn hoặc
dự trữ ít hơn mà vẫn đảm bảo thanh khoản.
Ngoài ra các chỉ tiêu khác dùng để đánh giá hiệu quả huy động vốn như: khả năng
hoán đổi linh hoạt trong trường hợp huy động tăng giảm quy mô, sự đa dạng và mức
độ hấp dẫn của phương thức huy động. Các chỉ tiêu này được đo lường gián tiếp hoặc
qua điều tra chọn mẫu.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng Thương mại
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
 Quy mô, uy tín của ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh thì uy tín là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định
thành công của doanh nghiệp. Uy tín của ngân hàng không phải một sớm một chiều có
được mà phải do kết tinh của một quá trình lâu dài phấn đấu, cố gắng của tập thể cán
bộ nhân viên trong ngân hàng. Nó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
sự tín nhiệm của người dân, khả năng phục vụ khách hàng, hệ thống cơ sở vật chất,
công nghệ ngân hàng…
Các dịch vụ ngân hàng
Một ngân hàng có cơ cấu sản phẩm dịch vụ đa dạng thì thường có lợi thế cao hơn
trong việc thu hút khách hàng. Các hình thức huy động mới kèm theo các dịch vụ ưu
đãi, khuyến mãi, sử dụng công nghệ hiện đại khiến khách hàng quan tâm nhiều hơn và
đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của khách hàng. Trong thời đại hiện nay, việc cạnh
tranh giữa các ngân hàng thương mại được thể hiện thông qua cuộc chạy đua về sản

phẩm dịch vụ.
Chính sách lãi suất
Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là tiền gửi tiết kiệm. Mục đích của việc gửi
tiền tiết kiệm chính là được hưởng lãi. Do đó, lãi suất cao luôn thu hút được nguồn vốn
lớn. Tuy nhiên, lãi suất huy động chính là căn cứ để ngân hàng tiến hành xác định lãi
suất cho vay, lãi suất cho vay càng cao thì hoạt động tín dụng của ngân hàng càng hạn
chế.
 Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
Các cán bộ nhân viên ngân hàng chính là người đảm bảo vận hành cỗ máy ngân
hàng hoạt động liên tục và hiệu quả. Do đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như
thái độ của nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Cán bộ ngân hàng không những thực thi nghiệp vụ nhanh
chóng, chính xác, linh hoạt mà còn phải có kiến thức sâu rộng có thể tư vấn cho khách
hàng trong các lĩnh vực kinh doanh.
Họat động Marketing ngân hàng
Marketing ngân hàng là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc đưa hình ảnh của ngân
hàng gần gũi hơn với dân chúng. Hoạt động Marketing ngân hàng tốt sẽ giúp ích nhiều
trong việc đưa khách hàng đến gần hơn với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, từ đó có
thể huy động vốn một cách hiệu quả. Các ngân hàng phải vận dụng đồng bộ chính sách
Marketing hỗn hợp bao gồm chính sách giá cả, sản phẩm, phân phối
Mạng lưới hoạt động
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh dịch vụ gửi tiền, việc tiếp cận với khách hàng là
một nhân tố vô cùng quan trọng. Do đó, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch là kênh
phân phối sản phẩm của ngân hàng đến với khách hàng. Kênh phân phối rộng sẽ tăng
cường khả năng giao dịch, tiếp xúc giữa ngân hàng với các khách hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức thì đòi hỏi các ngân hàng cũng phải
nâng cao trình độ công nghệ tin học của mình. Trước đây khi công nghệ thanh toán
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
17

Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
còn lạc hậu, khách hàng chủ yếu thanh toán bằng tiền mặt. Nhưng ngày nay, khi xã hội
đã phát triển hơn thì nhu cầu thanh toán qua ngân hàng cũng ngày càng chiếm ưu thế.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
 Hành lang pháp lý
Để đảm bảo sự phát triển công bằng của tất cả các thành phần kinh tế thì Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ ngành có liên quan phải quy định và giám sát việc
tuân thủ pháp luật của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng cũng
không nằm ngoài sự quản lý chặt chẽ đó. Có thể nói, hành lang pháp lý có ảnh hưởng
lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại. Có những bộ luật tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: Luật các tổ chức tín
dụng, Luật ngân hàng Nhà nước, quyết định, nghị định, chỉ thị… trong nội bộ hệ thống
ngân hàng, và có những bộ luật tác động gián tiếp nhưng các ngân hàng thương mại
cần phải lưu ý, như Luật đầu tư nước ngoài, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp…
 Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước
Nền kinh tế vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển tạo điều kiện tích lũy
nhiều hơn nên việc thu hút vốn của ngân hàng dễ dàng hơn và ngược lại.
 Tình hình kinh tế - xã hội thế giới
Mọi sự biến động của nền kinh tế- xã hội thế giới đều ít nhiều có ảnh hưởng đến
Việt Nam. Nhất là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì sự
ảnh hưởng này lại càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn bao giờ hết. Điều này đặt ra nhiều
cơ hội và thách thức cho nền kinh tế của Việt Nam. Do xu hướng toàn cầu hóa làm cho
các nghiệp vụ ngân hàng phát triển, nguồn vốn dễ dàng di chuyển từ nước này sang
nước khác. Mặt khác, xu hướng này cũng làm tăng rủi ro cho ngân hàng do việc thay
đổi các chính sách tiền tệ của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự thay đổi của các
ngoại tệ mạnh như USD, EURO…
 Tình hình kinh tế - xã hội trong nước
Những yếu tố của nền kinh tế ảnh hưởng đến tăng trưởng nguồn vốn huy động của
các ngân hàng thương mại phải kể đến đó là: Thu nhập bình quân đầu người, tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế, tỷ lệ lạm phát… Khi nền kinh tế ổn định và đang trên

đà phát triển thì thu nhập của người dân tăng lên, nhu cầu thanh toán qua ngân hàng
cũng tăng lên, do đó nguồn vốn huy động trong thời gian này cũng tăng mạnh.
 Tâm lý, thói quen tiêu dùng của khách hàng
Các yếu tố thuộc về tâm lý, thói quen, phong tục của người dân tác động rất lớn
đến hiệu quả công tác huy động vốn của ngân hàng. Các tiêu chí về độ tuổi, giới tính,
học vấn, thu nhập, môi trường làm việc liên quan đến việc lựa chọn sử dụng các hình
thức dịch vụ ngân hàng.
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
18
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
 Đối thủ cạnh tranh
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành ngân hàng trong nước và sự gia nhập của các
ngân hàng nước ngoài sau khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới thì các ngân hàng
thương mại ngày càng phải đối mặt với càng nhiều cạnh tranh trong quá trình thu hút vốn
bởi vì khách hàng ngày càng có nhiều sự lựa chọn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
họ. Để cạnh tranh với các đối thủ, các ngân hàng phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình, phải biết phân tich đặc điểm của từng nhóm đối tượng khách hàng, tiến hành phân
đoạn và lựa chọn các đoạn thị trường chính, áp dụng chính sách khách hàng linh hoạt, phù
hợp, liên tục hoàn thiện và đổi mới sản phẩm dịch vụ, cân nhắc lãi suất huy động, cho
vay…, từng bước khẳng định sức mạnh và vị thế của mình.
Huỳnh Hồng Ngọc Lớp: 8A6 - VBII
19

×