LỜI CẢM ƠN
Vì kiến thức còn hạn hẹp, đề tài mới mẻ, tài liệu còn hạn chế, thời gian tiếp xúc
với Ngân hàng không nhiều và đây cũng là một Ngân hàng còn khá mới nên luận văn
của em không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn sinh viên để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của:
Lãnh đạo LienVietPostBank - Chi nhánh Đông Đô
(Địa chỉ: Số 297 Kim Mã, Phường Giảng Vị, Quận Ba Đình)
Các anh chị tại LienVietPostBank - Phòng giao dịch Hồng Quốc Việt
(Địa chỉ: Số 1014 Hồng Quốc Việt, Từ Liêm, Hà Nội)
đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến:
Các thầy cô của trường Đại học Đại Nam, giảng viên hướng dẫn: Th.S Lê Thị
Thanh Hương đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, xem xét, đóng góp ý kiến cho
em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài để em hoàn thiện luận văn này.
i
THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
TMCP Thương mại cổ phần
LPB Ngân hàng Bưu Điện Liên Việt
NHTW
Ngân hàng trung ương
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD
Tổ chức tín dụng
TCKT
Tổ chức kinh tế
TGTK Tiền gửi tiết kiệm
NVHĐ
Nguồn vốn huy động
ii
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
iii
SƠ ĐỒ
BIỂU
Biểu đồ 2.1.Nguồn vốn huy động tại chi nhánh LPB Đông Đô. Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.3.Cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng tại chi nhánh LPB Error: Reference
source not found
Đông Đô Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2.Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn tại chi nhánh LPB Đông Đô Error:
Reference source not found
iv
LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Hệ thống ngân hàng thương mại với chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước
từ lâu đã là bài toán vô cùng nan giải, cả về phương diện nhận thức khoa học và vận
dụng thực tiễn vào tình hình kinh tế Việt Nam trước vận hội mới, thách thức mới của
quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Vì vậy, đối với các nhà kinh tế - đặc biệt là
các nhà kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng không thể không nghiên cứu, nhận thức và
vận dụng các vấn đề về vốn, các hình thức tạo vốn, thị trường vốn trong các nền kinh
tế vào thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó xác lập một chiến lược huy động vốn qua hệ
thống ngân hàng nhằm thoả mãn nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Hiện tại, các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa thực sự phát huy hết vai
trò của mình vì nguồn vốn huy động được còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn
vốn của xã hội, chất lượng tín dụng còn thấp, tỷ lệ nợ xấu tương đối lớn, tình hình tài
chính của một số ngân hàng thương mại gặp khó khăn. Bên cạnh đó thị trường vốn của
nước ta phát triển chậm, tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn lớn, các loại dịch vụ ngân hàng
chưa đa dạng, nguồn vốn trong dân cư chưa được quan tâm đúng mức. Trong điều
kiện như vậy, chúng ta không thể không có những biện pháp, chính sách hợp lý để huy
động, khai thác hết mọi nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư và trong các tổ chức kinh tế
để đáp ứng nhu cầu vốn cho xã hội, đồng thời mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
của Ngân hàng.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt - chi nhánh
Đông Đô (LPB Đông Đô), em đã tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của chi
nhánh. Thực tế trong những năm qua, nhìn chung LPB Đông Đô đã tập trung chú
trọng vào công tác mở rộng huy động vốn, coi thị trường huy động vốn là động lực
của kinh doanh, tổ chức tốt công tác huy động vốn, đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng, có những biện pháp ứng xử phù hợp với sự thay đổi của vốn, đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng của khách hàng.
Tuy nhiên, những thành công đó vẫn chưa thể đảm bảo cho sự thành công trong
tương lai của LPB Đông Đô. Vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu để mở rộng thị
trường huy động vốn sẽ giúp LPB Đông Đô giành được ưu thế hơn các đối thủ cạnh
tranh và tăng thị phần của mình. Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài: “ Giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Bưu Điện Liên Việt - chi nhánh Đông Đô ” cho khóa luận của mình.
1
2.Mục đích nghiên cứu:
Nghiệp vụ huy động vốn là một trong những nghiệp vụ kinh doanh truyền thống
và đóng vai trị quan trọng cho sự phát triển của ngân hàng. Nắm rõ được vấn đề đó
nên mục tiêu của khóa luận là đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động
vốn của ngân hàng.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động huy đông vốn là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng và đòi hỏi kết hợp
rất nhiều yếu tố thì mới có thể làm tốt công tác này. Trong giới hạn đề tài nghiên cứu,
khóa luận tập trung vào việc tìm hiểu và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả huy
động vốn của LPB Đông Đô.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài việc dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương
pháp thống kê, tổng hợp truyền thống, khóa luận còn dựa trên sự phân tích số liệu thực
tế, đánh giá trung thực và khách quan, từ đó hướng tới một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động huy động vốn tại ngân hàng.
5.Kết cấu khóa luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động huy động vốn của
NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ
phần Bưu Điện Liên Việt - chi nhánh Đông Đô
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng
thương mại cổ phần Bưu Điện Liên Việt - Chi nhánh Đông Đô
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do hạn chế về thời gian và
kinh nghiệm thực tế nên khi thực hiện khóa luận này em khó tránh khỏi những thiếu sót.
Em kính mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy, cô giáo và Ban lãnh đạo, cán
bộ nhân viên LPB Đông Đô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Đặng Thị Thu Trang
2
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.NHTM và các hoạt động của NHTM
1.1.1.Khái niệm và vai trò của NHTM trong nền kinh tế
*Khái niệm:
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng ngàn trăm năm gắn liền với sự
phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của hệ thống NHTM đã tác động rất lớn
và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Ngược lại kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì
NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không
thể thiếu được.
Cho đến nay, ở mỗi nước khác nhau có khái niệm khác nhau về NHTM. Ở Việt
nam, theo điều 4, khoản 3 Luật các tổ chức tín dụng (Luật số 47/2010/QH12) có hiệu
lực thi hành kể từ 01/01/2011 có đưa ra khái niệm như sau: “NMTM là loại hình
ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận” . Trong đó,
“hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường một hoặc một số nghiệp
vụ sau đây: Nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
*Vai trò của NHTM
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế: là cơ sở cho nền sản xuất
và lưu thông hàng hóa và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của
các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức
năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành một bộ phận nền kinh tế phát triển. Sự
đóng góp này thể hiện như sau:
Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức,
cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình
sản suất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư…) thông qua nghiệp vụ tín dụng, NHTM cung
cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Chính nhờ
3
hoạt động của hệ thống NHTM, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có
điều kiện cải thiện hoạt động của mình góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế.
NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu
quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các
NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa bằng
việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng
tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả,
thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm: “Nhà nước điều tiết ngân
hàng, ngân hàng điều tiết thị trường”.
1.1.2.Các hoạt động của NHTM
1.1.2.1.Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động
của ngân hàng. Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau trên cơ
sở nguồn vốn huy động được: ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát
triển sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế địa phương và cả nước. Nghiệp vụ
huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng tạo uy tín của ngân hàng ngày càng
cao. Các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh mở rộng quan hệ tín dụng
với các thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư, mang lai lợi nhuận cho ngân hàng.
Do đó các NHTM phải căn cứ vào các chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước. Từ đó, đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhất là các nguồn vốn trung,
dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
1.1.2.2.Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử
dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định
năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Do vậy ngân hàng cần phải
nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hiệu quả nhất.
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn chung
thì khoảng 60%-75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công
hay thất bại của ngân hàng tùy thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và
4
thành công của tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay
của ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích,
hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả,….
Hai là, ngân hàng tiến hành đầu tư:
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu
khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi ngân
hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp
thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn
sử dụng vốn để đầu tư. Có hai hình thức chủ yếu mà các NHTM có thể tiến hành là:
Đầu tư vào các mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các
doanh nghiệp, các công ty khác.
Đầu tư vào trang thiết bị tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ:
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản
xuất kinh doanh mong muốn. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt
các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân
hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng
không thể bỏ qua sự an toàn. Vì vậy ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi
nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo
an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do trung
ương đề ra.
1.1.2.3.Nghiệp vụ khác
Là trung gian tài chính ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó
là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để
thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách
hàng rất nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
các loại thẻ,….cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền
mặt khi khách hàng cần. Mặt khác các NHTM còn tiến hành môi giới, mua bán chứng
cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho công ty. Ngoài ra ngân hàng
còn thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp
phát, ủy thác giải ngân và thu hộ….
5
Như vậy các dịch vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và
phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Vì
các nghiệp vụ trên có mối lien hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau.
Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử
dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn huy động vốn. Các nghiệp vụ trung
gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng,
qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn cũ hiệu quả.
1.2.Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM
1.2.1.Khái niệm về vốn và nghiệp vụ huy động vốn của NHTM
Cũng như các hoạt động kinh doanh khác, điều kiện đầu tiên cho việc thành lập và
đi vào hoạt động của NHTM là vốn. Vốn trong hoạt động kinh doanh thông thường là
tiền, là máy móc – thiết bị, là phát minh sang chế, là vốn góp dưới dạng tài sản đất đai,
… Với ngân hàng, vốn chính là bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi được ủy
thác vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Vậy chính xác vốn của NHTM là gì?
Một cách chung nhất: “ Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo
lập hoặc được huy động, dung để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác”.
Một NHTM khi được cấp phép thành lập phải có vốn điều lệ theo quy định.
Tuy nhiên, vốn điều lệ chủ yếu để mua sắm tài sản cố định như trụ sở, văn phòng,
máy móc thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn cho ngân hàng thực hiện các hoạt động
kinh doanh như cấp tín dụng và các dịch vụ ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho
các hoạt động này ngân hàng phải huy động vốn từ khách hàng. Do vậy nghiệp vụ huy
động vốn là nghiệp vụ không thể thiếu.
Nghiệp vụ huy động vốn có thể hiểu là nghiệp vụ mà ngân hàng thông qua uy tín
và các hoạt động kinh doanh của mình tiến hành huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ
các thành phần kinh tế trong xã hội, tạo ra nguồn vốn kinh doanh cho mình, góp phần
phát triển kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát,…
Như vậy, để hoàn thành các mục tiêu kinh doanh của ngân hàng cũng như góp
phần thực hiện các chính sách của nhà nước, NHTM phải quan tâm đến công tác huy
động vốn.
6
1.2.2.Vai trò của nghiệp vụ huy động vốn
1.2.2.1.Đối với nền kinh tế
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM nhằm thu hút vốn tiền tệ nhàn rỗi trong lưu thông
để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Huy động vốn tạo điều kiện thanh toán không dung tiền mặt ngày càng mở rộng,
giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ.
Hơn nữa, nguồn vốn huy động là cơ sở cho các khoản vay mà từ đó các dự án khả
thi được thực hiện khiến các ngành nghề mới được ra đời, các doah nghiệp mở rộng
sản xuất kinh doanh tạo thêm công ăn việc làm giúp tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống
cho người lao động.
Ngoài ra, qua nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá NHTM tạo thêm hàng hóa cho
thị trường vốn, thúc đẩy thị trường tài chính, tiền tệ phát triển.
1.2.2.2.Đối với bản thân NHTM
Hoạt động cơ bản của NHTM là đi vay để cho vay cho nên nghiệp vụ huy động
vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của các NHTM:
+ Tạo điều kiện tăng thêm nguồn vốn cho NHTM, để NHTM có nguồn vốn cho
vay các doanh nghiệp và cá nhân.
Tăng thêm lợi nhuận cho NHTM
+ Tạo điều kiện để NHTM thực hiện được các nghiệp vụ ngân hàng khác như: tín
dụng, thanh toán,…
Tóm lại: vốn đóng vai trị hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh
của NHTM, vì vậy hoạt đông huy động vốn của NHTM sẽ ảnh hưởng tới khả năng
thanh toán, quy mô cũng như phạm vi hoạt động của ngân hàng. Huy động vốn là
nghiệp vụ truyền thống của NHTM, do vậy dư thừa huy động vốn, NHTM vẫn phải
duy trì bền vững nghiệp vụ này.
1.2.3.Các hình thức huy động vốn của NHTM
1.2.3.1.Huy động vốn qua hình thức nhận tiền gửi
Các dịch vụ nhận tiền gửi mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng gửi tiền bao gồm:
* Tiền gửi không kỳ hạn:
Là loại tiền gửi mà khách hàng – người gửi tiền có thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc
nào và ngân hàng phải thỏa mãn nhu cầu đó của khách hàng. Chính vì tính không ổn
7
định của tiền gửi không kỳ hạn nên với loại tiền gửi này, khách hàng không được trả
lãi hoặc lãi rất thấp.
+ Ưu điểm của loại tiền gửi không kỳ hạn là lãi suất thấp (vốn rẻ) => Tạo điều
kiện cho ngân hàng tăng thu nhập. Hơn nữa khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào
mà không cần báo trước => thuận tiện cho người gửi tiền.
+ Nhược điểm: là loại vốn không ổn định, khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào
cho nên việc xây dựng kế hoạch sử dụng vốn này của ngân hàng dễ bị động.
* Tiền gửi có kỳ hạn:
Là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thỏa thuận trước về thời hạn
rút tiền.
Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích lũy về bản chất chúng được
ký thác với mục đích hưởng lãi. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền ra khi
đến hạn, nhưng trên thực tế, do áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng nên các ngân
hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn nếu họ có nhu cầu. Trong trường
hợp này khách hàng sẽ hưởng một mức lãi suất thấp hơn lãi suất ban đầu đã thỏa thuận
( thường là lãi suất không kỳ hạn).
Tiền gửi kỳ hạn có các loại về cơ bản, các khoản tiền gửi này không được sử dụng
để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông
thường, tiền gửi có kỳ hạn có thời gian dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và TGTK. Đây là
nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh
doanh. Vì vậy, các NHTM luôn tìm mọi cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng việc
áp dụng nhiệu kỳ hạn với các mức lãi suất khác nhau…
+ Ưu điểm của loại tiền gửi có kỳ hạn là: có tính ổn định => kế hoạch sử dụng vốn
khá an toàn.
+ Nhược điểm: lãi suất cao ( dưới góc độ của ngân hàng).
* Tiền gửi tiết kiệm ( tiền gửi chủ yếu của dân cư)
Là loại tiền tiết kiệm từ các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư ( các doanh nghiệp
không được gửi hình thức này).
8
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử
dụng cho tiêu dung. TGTK là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu
dung cá nhân.
Từ lâu, TGTK được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các NHTM.
Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỉ trọng đáng kể trong tiền
gửi ngân hàng ( ở Mỹ chiếm khoảng 25% tổng tiền gửi ngân hàng). Trên thực tế, trong
nền kinh tế thị trường, TGTK được phat hành dưới hai loại hình tiết kiệm sau:
- TGTK không kỳ hạn: là khảo tiền gửi tiết kiệm của khách hàng có thể rút ra bất
kỳ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
Thực chất đây là khoản TGTK thông thường. Đối với khoản tiền gửi này, chủ tài
khoản có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không phải báo trước. Tuy nhiên, số dư tài khoản
này thường không lớn, nhưng có ưu điểm hơn so với các tài khoản tiền gửi giao dịch ở
chỗ: số dư này ít biến động. Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này, các NHTM thường
trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán.
- TGTK có kỳ hạn: là khoản tiền gửi tiết kiệm có thỏa thuận về thời hạn rút tiền,
có mức lãi suất cao hơn so với TGTK không kỳ hạn.
Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam. Các NHTM ở Việt Nam
thương huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ 3 tháng đến 1 năm hoặc nhiều hơn. Nhưng do
áp lực cạnh tranh và do nhu cầu về vốn ngày càng tăng thêm nên các NHTM tăng dần
lãi suất TGTK và đa dạng hóa thời hạn gửi tiền ( tháng, tuần và thậm chí theo ngày…)
với các mức lãi suất khác nhau.
Hơn nữa, về nguyên tắc một khi khách hàng hàng gửi tiền vào tài khoản nay họ sẽ
không được rút ra (cả gốc vã lãi) trừ khi hết hạn gửi tiền. Để tăng cường sức cạnh
tranh trong thu tiền gửi, các NHTM vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn.
Tiền gửi tiệt kiệm có hình thức huy động khác nhau nhằm thu hút nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân cư như: tiết kiệm có thường, tiết kiệm gửi gốc linh hoạt,…
Tiết kiệm gửi gốc linh hoạt: loại tiết kiệm này phổ biến ở một số nước công
nghiệp, nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi trong thời han dài. So với các loại hình tiết kiệm
khác, đối với loại tiết kiệm này, bất kỳ lúc nào chủ tài khoản cũng có thể gửi tiền vào
tài khoản với số lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại
hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo ra các nguồn vốn có tính ổn định
cao phụ vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn của mình.
9
Vậy, TGTK là nguồn vốn tương đối ổn định và lâu dài vì vậy NHTM cần có giải
pháp tăng cường huy động nguồn vốn này (đặc biệt là về lãi suất) để phục vụ hoạt
động kinh doanh của mình.
1.2.3.2.Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá
* Chứng chỉ tiền gửi (CDs):
CDs là công cụ vay nợ do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trên thị
trường với bản chất tương tự như một khoản tiền gửi có kỳ hạn. Người sở hữu CDs
được hưởng lãi định kỳ và hoàn trả mệnh giá mệnh giá khi đến hạn.
Thời hạn CDs thường là ngắn hạn từ 1-3 tháng, hoặc 6 tháng…
Sự khác biệt chủ yếu của CDs với các khoản tiền gửi có kỳ hạn là chúng có thể
chuyển nhượng và mệnh giá được thống nhất theo một giá chuẩn. Vì vậy nó trở nên
hấp dẫn hơn. CDs giúp ngân hàng có thể huy động vốn một cách chủ động mà không
phải phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng.
* Kỳ phiếu ngân hàng: là giấy nhận nợ của ngân hàng với cam kết trả gốc và lãi
sau một thời gian nhất định.
Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành thường xuyên, có thời hạn khá linh hoạt và
phong phú: ba tháng, sáu tháng,…Do vậy, kỳ phiếu có tính ổn định rất cao, tính tập
trung cao và có lãi suất cao hơn so với tiền gửi cùng kỳ hạn, lại có thể chuyển nhượng
nên thu hút được khối lượng vốn tương đối lớn.
* Trái phiếu ngân hàng: là một công cụ nợ dài hạn của ngân hàng, với cam kết
thanh toán gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán lãi vào những thời gian xác định.
Trái phiếu dung để huy động vốn chung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch
phát triển kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn với sự ổn định cao về thời hạn và lãi
suất. Trong khi kỳ phiếu được phát hành ở cùng chi nhánh với khung lãi suất, thời
gian phát hành riêng biệt, trái phiếu được phát hành với quy mô lớn, đồng loạt trong hệ
thồng mỗi ngân hàng.
Trái phiếu gồm nhiều loại: trái phiếu ghi danh, trái phiếu không ghi danh, trả lãi
trước, trả lãi sau, có thể chuyển nhượng,…các loại trái phiếu có đặc trưng là mệnh giá
được xác định trước (ghi trên trái phiếu), nagyf đáo hạn được công bố khi phát hành.
10
Như vậy, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động rất tiện lợi,
tùy theo tính cân đối nguồn vốn và cho vay từng thời kỳ với mức lãi suất hấp dẫn của
NHTM.
1.2.3.3.Huy động vốn qua đi vay:
* Vay NHTW:
- Vốn vay ngắn hạn bổ sung: Là hình thức các NHTM vay vốn bổ sung vốn ngắn
hạn cho mình. Trong hình thức vay này, cac NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín
dụng và trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
- Vốn vay để thanh toán: các NHTM vay NHTW đẻ thực hiện công tác thanh
toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay
thường ngắn).
- Tái cấp vốn: NHTW cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ
này phải là các chứng từ có chất lượng, tức phải thỏa mãn những điều kiện: hợp pháp,
hợp lệ, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn bao gồm 2 hình thức:
Cho vay tái chiết khấu: NHTW nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đó chiết
khấu trước đây để thực hiện các nhiệm vụ giống như các NHTM đó làm. Ty nhiê, việc
cho vay tái chiết khấu đối với ngân các NHTM đó được giới hạn trong mức cho phép
(hạn mức tái chiết khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến
NHTW để đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá làm
đảm bảo, NHTW sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuy theo quản lý của Nhà nước.
Trong số đó, hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu. Với vai trò là người cho
vay cuối cùng, NHTW luôn cho các NHTM vay với một mức giá nhất định: đó là lãi
suất chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu được NHTW thực hiện như một công cụ điều
tiết vĩ mô, tùy theo yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể nâng cao
hoặc hạ thấp. Để hạn chế tình trạng các NHTM ố ạt vay vốn, NHTW sử dụng các công
cụ như hạn mức tái chiết khấu hay lãi suất tái triết khấu. Song dù sao đây cũng là sân
sau đối với hoạt động huy động vốn nhằm làm gia tăng vốn khả dụng trong kinh doanh
của các NHTM.
11
* Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng thương mại vay lẫn nhau
trên thị trường lien ngân hàng hay thị trường tiên tệ.
* Các hình thức huy động vốn khác:
- Vốn trong thanh toán: là nguồn vốn phát sinh trong quá trình thanh toán của
NHTM do có sự chênh lệch về thời điểm hạch toán trên tài khoaoarn củ khách hàng.
Thực tế vốn tiền tệ nhàn rỗi được tạo ra thông qua:
+ Do chênh lệch giữa thời điểm trích tài khoản người trả tiền và thời điểm nhập số
tiền đó vào tài khoản người thụ hưởng đó tạo ra một lượng tiền nhàn rỗi trong thời
gian nhất định. Loại vốn này được tạo ra trong quá trình thanh toán không dung tiền
mặt giữa các khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại các NHTM.
+ Do trong một số hình thức thanh toán: séc bảo chi, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,
…khách hàng phải lưu ký một lượng tiền nhất định để đảm bảo thanh toán cho người
thụ hưởng, bởi vậy tiền đó trả nhưng thực tế chưa được thanh toán cho người thụ
hưởng nên đã tạo ra một lượng vốn nhàn rỗi nhất định có thể sử dụng làm vốn kinh
doanh cho ngân hàng
1.3.Hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.3.1.Quan điểm về hiệu quả huy động vốn của NHTM
Thực chất: hiệu quả huy động vốn của NHTM là sự so sánh giữa các kết quả
thu đầu ra ( thu nhập từ hoạt động tín dụng và đầu tư) với các yếu tố đầu vào (chi
phí huy đông vốn) trong một thời kỳ nhất định.
Để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn của NHTM, phương pháp ta sử dụng
đó là hệ thống của công cụ và các biện phấp tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện
tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tình
hình hoạt động huy động vốn, các chỉ tiêu tổng hợp – chi tiết, các chỉ tiêu chung va
các chỉ tiêu đặc thù nhằm đánh giá toàn diện thực trạng huy động vốn của NHTM.
1.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM.
1.3.2.1.Các chỉ tiêu trực tiếp
- Lợi nhuận kinh doanh từ vốn huy động (Lãi ròng từ cho vay, đầu tư):
Lợi nhuận kinh doanh từ vốn huy động là khoản thu nhập của NHTM thu được từ
12
hoạt động cho vay và đầu tư sau sau khi trừ chi phí huy động và chi phí hoạt động
khác. Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận ròng thu được từ hoạt động huy động vốn của
NHTM trong kỳ báo cáo.
Chỉ tiêu lợi nhuận kinh doanh từ vốn huy động có ý nghĩa quan trọng trong việc
đánh giá hiệu quả nghiệp vụ huy động vốn. Thông qua việc phân tích và so sánh chỉ
tiêu này ta đánh giá được lợi nhuận thực tế của nguồn vốn huy động.
Phương pháp tính toán chỉ tiêu này như sau:
Lợi nhuận
kinh doanh từ
vốn huy động
=
Thu từ lãi cho vay
và đầu tư
-
Chi phí trả lãi tiền gửi,
tiền vay và chi phí
hoạt động khác
- Tỷ suất lợi nhuận kinh doanh từ vốn huy động (Tỷ suất lãi ròng từ cho vay,
đầu tư):
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, từ 100 đồng nguồn vốn huy động được,
qua quá trình cho vay và đầu tư, NHTM thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu
này được càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn huy động của NHTM càng tốt, góp phần
nâng cao mức lợi nhùn trong kỳ.
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất lợi nhuận
=
Lợi nhuận kinh doanh từ vốn huy động
100
Tổng vốn huy động
1.3.2.2.Các chỉ tiêu gián tiếp:
- Tỷ suất chi phí huy động vốn bình quân:
Thu nhập và chi phí là hai yếu tố chính quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng. Trong đó, chi phí hoạt động ngân hàng cấu thành tự hai bộ phận chính là chi phí
huy động và các chi phí khác. Vì thế, ngân hàng luôn tìm cách nâng cao thu nhập và
giảm thiểu chi phí, đặc biệt chi phí huy động.
Mức tiết kiệm chi phí huy động vốn được xác định thông qua so sánh tỷ suất chi
phí huy động vốn bình quân của ngân hàng ở các thời kỳ hoặc so sánh tỷ suất chi phí
huy động vốn bình quân của ngân hàng so với ngân hàng khác
Tỷ suất chi phí huy
=
Chi phí huy động trong kỳ
100
13
Nguồn vốn huy động bình quân trong kỳ
Trong đó:
Chi phí huy
=
Chi phí trả lãi tiền gửi,
+
Chi phí hoạt động
tiền vay trong kỳ Khác trong kỳ
Chi phí huy động bình quân cho chúng ta biết, trong kỳ phân tích để có được 100
đồng nguồn vốn NHTM phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí để huy động.
- Hệ số sử dụng vốn huy động:
Hệ số sử dụng vốn huy động là một chỉ số cho biết tỷ lệ vốn huy động được sử
dụng để cho vay và đầu tư. Qua đó phản ánh sự phù hợp giữa huy động vốn và sử
dụng vốn xét về quy mô.
Hệ số sử dụng vốn huy động được tính toán như sau:
Hệ số sử dụng vốn
=
Tổng dư nợ cho vay và đầu tư
huy động Tổng nguồn vốn huy động
- Chỉ tiêu cơ cấu nguồn vốn huy động:
Quy mô nguồn vốn huy động cho ta biết quy mô cũng như vị thế của một ngân
hàng. Trong khi đó, việc tính toán cơ cấu từng loại nguồn vốn trong tổng nguồn vốn
của NHTM giúp ngân hàng đánh giá được sự phù hợp giữa cơ cấu nguồn vốn huy
động với cơ cấu sử dụng vốn huy động.
Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHTM là tỷ trọng và mối quan hệ của từng loại
nguồn vốn huy động so với tổng nguồn vốn của NHTM tại một thời điểm nhất định.
NHTM hoạt động có hiệu quả khi nguồn vốn huy động có cơ cấu hợp lý.
Thuần túy về mặt công thức thì:
Tỷ trọng nguồn vốn thứ i =
Số dư nguồn vốn thứ i
100
Tổng nguồn vốn huy động
1.3.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.3.3.1.Nhân tố khách quan:
* Hành lang pháp lý
Những bộ phận tác động đến hoạt động kinh doanh của NHTM như: luật các
14
TCTD, luật Ngân hàng Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài, các chính sách tài chính tiền
tệ,…Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn so với vốn tự có, quy định việc phát
hành trái phiếu, kỳ phiếu, quy định mức cho vay của NHTM đối với một khách
hàng…hoặc của NHTM không đượcNHTM không được nhận tiền gửi hoặc cho vay
bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do ngân hàng Nhà nước đưa ra
và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định.
* Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước
Khi nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện
tích lũy nhiều hơn, do đó tạo môi trưởng thuận lợi cho việc thu hút vốn của các
NHTM. Mặt khác, nó cũng tạo ra môi trường đầu tư cho ngân hàng, từ đó ngân hàng
phải tìm ra biện pháp để huy động vốn sao cho có hiệu quả thiết thực. Khi môi trường
đầu tư được mở rộng thì thu nhập của ngân hàng sẽ không ngừng tăng lên, tạo tiền đề
cho việc mở rộng vốn tự có của ngân hàng. Ngược lại, nền kinh tế trong thời kỳ suy
thoái sẽ cản trở hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
* Tâm lý, thói quen tiêu dựng của người gửi tiền (trình độ dân trí)
Nếu ở những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất
trữ (vàng, hàng hóa,…) là chính thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp phải một số
khó khăn. Còn nếu người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ gửi tiền
vào ngân hàng nhiều hơn, do đó cơ hội huy động vốn của NHTM sẽ tăng lên…
1.3.3.2.Nhân tố chủ quan
* Hình thức huy động vốn được áp dụng
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hóa hình
thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng dễ huy động hơn.
Ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, huy động tiền
gửi: tiền gửi không kỳ han, có kỳ hạn, TGTK trong đó đưa ra nhiều thời hạn khác nhau
cho các loại TGTK có kỳ hạn…
* Lãi suất huy động
Đối với người gửi tiền là các doanh nghiệp thì lãi suất không phải vấn đề mà họ
quan tâm, mà họ quan tâm nhiều đến việc sử dụng các dịch vụ thanh toán từ ngân hàng
(tiền gửi không kỳ hạn). Bên cạnh tiền gửi không kỳ hạn, vốn huy động của ngân hàng
còn bao gồm: tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và TGTK của dân cư, họ gửi vào
15
ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi, vì vậy lãi suất là điều họ rất quan tâm, và bộ
phận tiền gửi này rất nhạy cảm với lãi suất…để huy động được nhiều vốn, các NHTM
phải có chính sách lãi suất hợp lý, sao cho vừa đảm bảo kích thích người gửi tiền, vừa
phù hợp với lãi suất cho vay để tránh việc huy động với giá cao mà đầu tư giá thấp.
Các NHTM thường chia nhỏ lãi suất theo thời hạn khác nhau, và không để ứ đọng vốn
họ lại giảm lãi suất cho vay, nhưng vẫn phải đảm bảo kinh doanh có lãi.
* Sự đa dạng và tiện ích của các dịch vụ do ngân hàng cung cấp cho khách hàng
Nếu một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế hơn các
ngân hàng có dịch vụ giới hạn. Trong điều kiện địa bàn thiếu bãi đậu xe, nếu ngân
hàng có bãi đậu xe tiện nghi rộng rãi cũng là một lợi thế. Hay như ngân hàng có quầy
thu cạnh đường, dịch vụ ngân hàng qua thư, các hệ thống chi trả tự động, làm việc suốt
ngày đêm và các dịch vụ nhận tiền gửi được cải tiến và tốn ít thời gian,… sẽ là một lợi
thế cho ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.
* Mạng lưới phục vụ cho công tác huy động vốn
Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần trung tâm thương mại thì sẽ
thuận lợi khi thu hút vốn. Mạng lưới huy động thường được biểu hiện qua việc tổ chức
các quỹ tiết kiệm. Khi dân chúng có tiền nhàn rỗi sẽ ra quầy tiết kiệm gần nhà nhất để
gửi tiền nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại. Vì vậy, mạng lưới huy động cần
rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Mạng lưới nên mở ra cả ở nhiều
nơi như: nông thôn, vùng sâu, vùng xa,…
* Công nghệ trong thanh toán và tin học
Nhờ có hệ thống tin học hiện đại ngân hàng có thể thu thập các thông tin tốt về
khách hàng, về thị trường, qua đó xác định được thị trường đầu tư vốn có hiệu quả,
phát triển nghiệp vụ và các dịch vụ của mình, giúp hạn chế rủi ro, tăng lợi nhuận, tạo
điều kiện cho ngân hàng mở rộng vốn tự có.
* Nguồn nhân lực
Khi cán bộ ngân hàng có năng lực tốt, trình độ nghiệp vụ cao thì mọi nghiệp vụ
đều được thực hiện nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả. Ngoài ra, nếu ngân hàng
hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời, các nhân viên luôn cởi mở, nhiệt tình sẽ tạo uy tín
tốt cho khách hàng, sẽ ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch, gửi tiền và
16
ngược lại.
* Mức độ thâm niên và uy tín của một ngân hàng
Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một ngân hàng bao giờ họ cũng tin
tưởng vào một ngân hàng có thâm niên hơn là ngân hàng mới thành lập. Vì họ cho
rằng ngân hàng hoạt động lâu đời thì có thế lực, uy tín, có kinh nghiệm, co nguồn vốn
lớn và có khả năng thanh toán cao. Do vậy, mức độ thâm niên về một khía cạnh nào đó
cũng tạo ra lòng tin đối với khách hàng.
17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG TMCP BƯU ĐIỆN LIÊN VIỆT
– CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ
2.1.Khái quát quá trình hình thành và hoạt động của ngân hàng TMCP Bưu Điện
Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô
2.1.1.Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển
2.1.1.1.Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Bưu Điên
Liên Việt
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu Điện Liên Việt (LienVietPostBank) tiền
thân là Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank) được thành lập theo Giấy phép thành lập
và hoạt động số 91/GP-NHNN ngày 28/03/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam. Với việc Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam góp vốn vào LienVietBank
bằng giá trị Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện (VPSC) và bằng tiền mặt. Ngân hàng
Liên Việt đã được Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
cho phép đổi tên thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt. Cùng với
việc đổi tên này, Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam chính thức trở thành cổ đông lớn
nhất của LienViet Post Bank. Hiện nay, với số vốn chủ sở hữu 7.391 tỷ đồng,
LienVietPostBank được xếp hạng là 1 trong 10 Ngân hàng Thương mại Cổ phần lớn
nhất tại Việt Nam. Điều này được khẳng định trên nhiều phương diện:
- Tổng số tài sản (2012): 66.413 tỷ đồng
- Vốn điều lệ (2012) : 6.460 tỷ đồng
- Tổng số nhân sự (2012): 2.430 người
- Tổng số điểm được giao dịch (2012): 63 điểm giao dịch bao gồm 29 Chi
nhánh/Sở giao dịch và 34 Phòng giao dịch/Quỹ tiết kiệm ; 10.000 điểm giao dịch bưu
điện ở 63 tỉnh thành trên cả nước
Ngay từ thời điểm thành lập năm 2008, nền kinh tế thế giới đối mặt với cuộc
khủng hoảng tài chính thế kỷ xuất phát từ bong bóng bất động sản ở Mỹ. Khu vực
ngân hàng của Việt Nam gặp vấn đề về thanh khoản. Trong bối cảnh khó khăn như thế
nhưng LienVietPostBank đã đạt được lợi nhuận khá cao. Sau 10 tháng hoạt động kể từ
18
tháng 05/2008, LienVietPostBank đã đạt lợi nhuận gần 600 tỷ đồng, tổng tài sản đạt
gần 10.000 tỷ đồng.
Cổ đông sáng lập của LienVietPostBank: Công ty TNHH Him Lam (nay là Công
ty cổ phần Him Lam), Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (SATRA) và Công ty dịch
vụ Hàng không sân bay Tân Sơn Nhất (SASCO).
Năm 2010 đánh dấu sự thay đổi nhanh chóng của LienVietPostBank về mặt thể
chế và mạng lưới. Mạng lưới toàn quốc của Ngân hàng tiếp tục mở rộng ở cả 3 miền.
Đồng thời LienVietPostBank cũng đã xây dựng được mô hình tổ chức phù hợp với sự
phát triển toàn diện, khai thác các thế mạnh sẵn có và các thế mạnh mới được tạo dựng
(nguồn vốn, khách hàng, cơ hội kinh doanh mới). LienVietPostBank tiến hành
chuyển đối cơ cấu tổ chức theo hướng tiếp tục phát huy tính đúng đắn của mô hình
quản lý theo khối chức năng kết hợp với sự tham gia quản trị và sâu rộng hơn của toàn
bộ các thành viên Hội đồng quản trị.
Đại hội đồng cổ đông LienVietPostBank ngày 28/03/2010 tại thành phố Đà Nẵng
đã chính thức thông qua chủ trương sáp nhập Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện
(VPSC), 1 thành viên của Tổng công ty bưu chính Việt Nam (VNPost), Tập đoàn bưu
chính viễn thông Việt Nam (VNPT) vào LienVietBank.
LienVietPostBank đã hình thành mạng lưới các đối tác, khách hàng chiến lược,
trong đó có thể kể đến một số tên tuổi như: Công ty cổ phần bảo hiểm ngân hàng nông
nghiệp (ABIC), Công ty cổ phần bất động sản điện lực dầu khí (PV Power Land),
Công ty cổ phần sành sứ thủy tinh Việt Nam (Vinaceglass), Tổng công ty thương mại
Hà Nội (Hapro), Tổng công ty lương thực Việt Nam 2 (Vinafood II), Công ty TNHH
một thành viên tài chính than - khoáng sản Việt Nam, Công ty cổ phần đầu tư và kinh
doanh nhà (Intresco),
LienVietPostBank đã tiếp xúc và đàm phán thêm với các đối tác nước ngoài nhiều
tiềm năng thuộc các quỹ đầu tư, các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế như Dragon
Capital, Mekong Capital, Vietnam Partners, Citi, Ngân hàng Credit Suisse (Thụy Sỹ),
Ngân hàng Wells Fargo (Mỹ), để tìm các cơ hội kinh doanh mới.
Năm 2011, với việc Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam góp vốn vào
LienVietBank bằng giá trị Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện (VPSC) và bằng tiền
mặt. Ngân hàng Liên Việt đã được Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng
19
Nhà nước Việt Nam cho phép đổi tên thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện
Liên Việt. Cùng với việc đổi tên này, Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam chính thức
trở thành cổ đông lớn nhất của LienVietPostBank.
2.1.1.2.Lịch sử hình thành và phát triển ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt –
Chi nhánh Đông Đô
Ngày 09/09/2008, LPB Đông Đô chính thức khai trương hoạt động theo chấp
thuận mở Chi nhánh số 6777/NHNN-CNH ngày 24/07/2008 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngày 23/10/2008, LPB Đông Đô chính thức khai trương hoạt động Phòng giao
dịch trực thuộc Giảng Vị theo xác nhận mở Phòng giao dịch số 449/NHNN-HAN7
ngày 09/10/2008 của Giám đốc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội.
Ngày 27/10/2008, LPB Đông Đô chính thức khai trương hoạt động Phòng giao
dịch trực thuộc Nguyễn Chí Thanh theo xác nhận mở Phòng giao dịch số 448/NHNN-
HAN7 ngày 09/10/2008 của Giám đốc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội.
Ngày 31/12/2009, tổng tài sản LPB Đông Đô đạt 942 tỷ đồng, huy động vốn đạt
929 tỷ đồng, dư nợ tín dụng đạt 592 tỷ đồng. Đây là năm đầu tiên Chi nhánh có lợi
nhuận dương, đạt 4,8 tỷ đồng lợi nhuận trước dự phòng.
Ngày 14/05/2010, LPB Đông Đô chính thức khai trương hoạt động Phòng giao
dịch trực thuộc Hồng Quốc Việt theo xác nhận mở Phòng giao dịch số 2419/NHNN-
HAN7 ngày 14/12/2009 của Giám đốc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội.
Ngày 02/11/2010, LPB Đông Đô chính thức khai trương hoạt động Phòng giao dịch
trực thuộc Thái Thịnh.
Từ năm 2012, hai Phòng giao dịch trực thuộc là Nguyễn Chí Thanh và Thái Thịnh
tách ra khỏi LPB Đông Đô để phát triển thành Phòng giao dịch đặc thù nên Chi nhánh chỉ
còn lại hai Phòng giao dịch là Giảng Vị và Hồng Quốc Việt.
2.1.2.Cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô
Tính đến 31/12/2012, tổng số cán bộ nhân viên của LPB Đông Đô là 92 người trong
đó có 88 nhân viên chính thức và 04 nhân viên thử việc. Trong thời gian qua, Chi nhánh
rất chú trọng đến công tác đào tạo để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của nhân
viên. Chi nhánh đã cử cán bộ, nhân viên tham gia đầy đủ các khó học do Ngân hàng Bưu
điện Liên Việt tổ chức trên toàn hệ thống.
20
Về cơ cấu, trình độ cán bộ, nhân viên: Chi nhánh có 92 cán bộ nhân viên trong đó 05
người có trình độ trên đại học, 67 người có trình độ đại học, chiếm 77%, số còn lại có
trình độ cao đẳng và trung cấp. Hầu hết CBNV đã từng công tác trong ngành ngân hàng.
Sơ đồ 1.1.Cơ cấu tổ chức chi nhánh LBP Đông Đô
- Giám đốc chi nhánh: Là người có quyền lực cao nhất và quyết định những công
việc quan trọng, chịu trách nhiệm về Chi nhánh trước Hội sở chính, đưa ra định hướng
và quyết định phương hướng kinh doanh của Chi nhánh. Giám đốc có quyền giao
nhiệm vụ, công việc cho cấp dưới và ủy quyền cho các Phó giám đốc thực hiện công
việc dưới thẩm quyền của mình.
- Phó giám đốc chi nhánh: Là người có thẩm quyền và chức vụ sau Giám đốc,
thực hiện các công việc do Giám đốc giao, thay mặt Giám đốc chịu trách nhiệm về Chi
nhánh trước Hội sở chính, quản lý các phòng ban, chỉ đạo và quyết định các công việc
và các hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
- Phòng khách hàng: Đây là phòng thuộc sự quản lý trực tiếp của Giám đốc,
thực hiện chức năng kinh doanh tại Chi nhánh thông qua nghiệp vụ cấp tín dụng,
huy động vốn, thanh toán và các nghiệp vụ ngân hàng khác theo quy định của ngân
hàng và pháp luật.
- Phòng kế toán ngân quỹ: Thuộc sự quản lý trực tiếp của Phó giám đốc phụ
trách kế toán ngân quỹ. Phòng trực tiếp thực hiện các công việc về hạch toán kế toán
theo chuẩn mực và nguyên tắc kế toán của Ngân hàng nhà nước và của Ngân hàng
Giám đốc Chi nhánh
PGĐ phụ trách
kế toán ngân
quỹ
Phòng kế
toán ngân
quỹ
Phòng
tổng hợp
Tổ tín
dụng
Phòng
Quản
lý tín
dụng
TD
Phòng
khách
hàng
PGD
trực
thuộc
PGD
trực
thuộc
PGĐ phụ trách kinh
doanh
Tổ kế
toán giao
dịch
21