Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Phát triển ngành cà phê Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.51 KB, 28 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, xuất khẩu Cà phê của Việt Nam đang đứng đầu Châu Á,
đứng thứ hai thế giới sau Brazil. Mặc dù sản lượng xuất khẩu Cà phê của ta
tăng cao, song kim ngạch lại giảm sút đáng kể so với mấy năm trước đây.
Bên cạnh đó, Nhà nước ta vẫn chưa có được những chinh sách đồng bộ
quản lý nghành hàng Cà phê mà hàng năm đem về cho quốc gia một số
lượng ngoại tệ rất lớn. Thực trạng này càng làm cho vấn đề Cà phê trở lên
bức xúc, thu hút sự chú ý của dư luận và sự quan tâm của nhiều tầng lớp xã
hội.
Bản thân em, một sinh viên chuyên ngành Thương mại quốc tế cũng
cảm thấy đó là một tình trạng rất bức xúc, rất có tính thời sự, nên em và có
lẽ cũng sẽ có một số bạn cùng nghiên cứu đề tài này.
Với những kiến thức có hạn của mình, em cũng không có tham vọng
gì lớn ngoài việc có thể góp phần cùng các nhà hoạch định có được cái nhìn
khác đi trong việc phát triển ngành cà phê Việt Nam, qua đó tìm ra được
những hướng đi thích hợp để góp phần tăng giá trị xuất khẩu của Cà Phê.
2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. MỘT VÀI LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Lợi ích tuyệt đối của Adam-Smith (1723 - 1790)
Khi một nước có hiệu quả hơn (hay co lợi thế tuyệt đối so với) một
nước khác trong việc sản xuất một loại hàng hoá nhưng lại kém hiệu quả
hơn (hay kém lợi thế tuyệt đối so với) nước kia trong việc sản xuất một loại
hàng hoá khác thì khi đó, cả hai nước đều có thể được lợi bằng cách mỗi
nước chuyên môn hoá và trao đổi một phần sản lượng với nước kia để có
được hàng hoá mà nó kém lợi thế tuyệt đối.
2. Lợi thế tương đối của David-Ricardo (1772 - 1823)
Ngay cả khi một nước kém hiệu quả hơn (có bất lợi tuyệt đối so với)
một nước khác trong việc sản xuất cả hai loại hàng hoá vẫn có cơ sở cho sự
trao đổi có lợi cho cả hai bên. Nước đó sẽ chuyên môn hoá vào việc sản
xuất và xuất khẩu hàng hóa mà bất lợi tuyệt đối lớn hơn (hàng hoá có bất


lợi tương đối hay so sánh).
3. Học thuyết Hescher-Ohlin
Một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần sử
dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu những
hàng hoá mà việc sản xuất ra nó có nhiều yếu tố đắt và tương đối khan
hiếm ở nước đó.
2 II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN
Như ta đã biết, nguồn thu từ xuất khẩu chiếm một ví trí rất quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, cũng như nó góp phần cải thiện cán cân
thanh toán của một quốc gia, góp phần làm tăng mức sống của nhân dân.
Với Việt Nam, một đất nước đang trong quá trình công nghiêp hoá-hiện
đại hoá thì nguồn thu từ xuất khẩu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong GDP.
3
Nhìn lại năm 2000 vừa qua có thể nhận thấy hoạt động xuất khẩu của
nước ta tiếp tục đạt được những thành tích mới, đánh dấu sự thành công
của chặng đường 10 năm (1992-2000), với nhịp độ tăng trưởng bình quân
18,5%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP 2,6 lần. Kim nghạch xuất
khẩu năm 2000 đạt 14,3 tỉ USD, tăng khoảng 24% so với năm 1999, tăng
gấp 5,95 lần so với năm 1990 hay tăng bình quân 19,52%/năm. Theo đó,
lần đầu tiên Việt Nam vượt qua ngưỡng của các nước có nền ngoại thương
tương đối phát triển với mức xuất khẩu bình quân là 180 USD/người. Tăng
kim nghạch xuất khẩu là kết quả của tăng giá trị xuất khẩu một số hàng chủ
lực: dầu thô tăng 63.8%, thủ công mỹ nghệ tăng 48.8%, thuỷ sản tăng 34%,
hàng điện tử tăng 28.2%, dệt may tăng 8.8%, và giầy dép tăng 7.8%.
III. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Cơ cấu xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các mặt
hàng chế biến (tăng từ 8% năm 1991 lên khoảng 40% vào năm 2000), giảm
tỷ trọng sản phẩm thô.
Chủ trương đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và đa phương hoá quan

hệ kinh tế được thực hiện tương đối thành công. Cơ chế quản lý xuất nhập
khẩu được đổi mới một cách căn bản theo hướng phi tập trung hoá.
Theo Bộ thương mại, kim nghạch xuất khẩu cả năm 2001 ước đạt
15,1 tỷ USD, trong đó phần của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trực tiếp là 6,75 tỷ USD (kể cả dầu thô), phần của các doanh nghiệp
trong nước là 8,35 tỷ USD.
Bảng 1: Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Đơn vị
tính
Thực hiện năm
2000
Ước thực hiện
năm2001
Năm 2001 so
với 2000
Số lượngTrị giá
(tr USD)
Số
lượng
Trị giá
(tr
USD)
Số
lượng
Trị giá
(%)
Tồng kim nghạch XK
Trong đó:
1. Dầu thô.
Tr USD

1.000 T
-
15.423
14.455
3.502
17.000
-
15.100
3.175
-
110,2
104,5
90,7
4
2. Hàng dệt và may mặc
3. Thuỷ sản
4. Giầy dép các loại
5. Hàng điện tử và linh
kiện máy tính
6. Gạo
7. Cà phê
8. Rau quả
9. Hàng thủ công mỹ nghệ
10. Cao su
11. Hạt điều nhân
12. Than đá
13. Hạt tiêu
14. Chè các loại
15. Đậu phông nhân
Tr USD

Tr USD
Tr USD
Tr USD
1000 T
1000 T
Tr USD
Tr USD
1.000 T
1.000 T
1.000 T
1.000 T
1.000 T
1.000 T
-
-
-
-
3.476
733
-
-273
34,2
3.251
37
55
76
1.892
1.478
1.464
782

667
501
213
237
166
167
94
146
69
41
-
-
-
3.550
911
-
-
300
41
4.000
56
58
80
2.000
1.800
1.520
605
588
385
305

237
164
144
108
90
66
39
-
-
-
-
102,1
124,3
-
-109,9
119,9
123
152,2
104,7
105,7
105,7
121,8
103,8
77,4
88,1
76,8
143,2
100
98,9
85,9

115,1
61,4
95,2
96,1
Nguồn: Bộ Thương Mại
Với những nỗ lực, cố gắng lớn lao, xuất khẩu của Việt Nam vượt qua
năm 2001 đầy gian nan, sóng gió. Mặc dù giá hàng xuất khẩu bị giảm sút
mạnh nhưng kim nghạch xuất khẩu vẫn tăng 4,5%, trong đó, kim nghạch
xuất khẩu rau quả tăng 43,2%, thuỷ sản tăng 21,8%, than đá 15,1%…Điều
này đánh dấu sự nỗ lực không nhỏ của ta.
IV. GIÁ TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO GIÁ TRỊ XUẤT
KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM.
“ Giá cà phê lại giảm nhanh” đó là tiêu đề của một bài báo của thời
báo kinh tế Việt Nam ngày 04/01/2002. Ngược lại với xu hướng tăng vững
của hai tuần đầu tháng 12/2001, tăng 3-6%, hai tuần qua giá cà phê trên các
thị trường lại giảm nhanh. Tại Luân Đôn, giá cà phê Robusta giao ngay đó
giảm từ 406 USD/tấn (14/12/2001) xuống 387 USD/tấn (21/12) và xuống
373 USD/tấn (02/1/2002), giảm 8,1%. Tại New York, giỏ cà phờ Arabica
giao ngay thời gian này cũng giảm 3,5%, từ 0,479 USD/Lb xuống 0,462
USD/Lb (1.020 USD/tấn).
5
Theo Dow Jones, hai tuần cuối tháng 12/2001, các nhà sản xuất lại
tăng cường bán cà phê trong dịp lễ Giáng sinh và năm mới. Ước tính hai
tuần cuối tháng 12/2001, tại Sở giao dịch New York, lượng cà phê đăng ký
bỏn của Brazil và Colombia đó đạt 450.000 - 453.000 bao/tuần (1 bao = 60
kg) và 190.000 - 192.000 bao/tuần, tăng 6 - 8% so với 420.000 - 425.000
bao/tuần và 178.0000 - 180.000 bao/tuần trong hai tuần đầu tháng 12/2001.
Mặc dù cà phê của Việt Nam suốt tháng 12/2001 vẫn ở mức thấp, nhưng
xuất khẩu cà phê của Indonesia và một số nước Tây Phi hai tuần qua đó
tăng lên. Trong khi đó, các nhà rang xay cà phê lại hầu như không tham gia

thị trường. Nguồn cung tăng, nhu cầu giảm là nguyên nhân làm giá cà phê
trên các thị trường giảm đáng kể trong hai tuần cuối thỏng 12/2001.
Tại thị trường Việt Nam, từ đầu tháng 3/2002, giá cà phê tăng mỗi
ngày, từ mức thấp nhất 3.600 đ/kg trong thời gian dài đã lên 7.000-8.000
đ/kg. Tuy nhiên, giá này cũng mới chỉ đủ chi phí sản xuất, người trồng cà
phê chưa có lãi, nhất là đối với cà phê nông trường quốc doanh, khó khăn
còn tiếp diễn. Theo dự báo thời tiết: nắng nóng, khô hạn ở Nam bộ sẽ kéo
dài đến hết tháng 4/2002, sang đầu tháng 5 khả năng mới bắt đầu vào mùa
mưa. Đến nay nguồn nước tưới cho cà phê ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ,
nhiều vùng đã cạn kiệt như năm 1996. Những giếng tưới đã được đào sâu
thêm nhưng lượng nước không tăng. Nhiều trang trại cà phê ở Đồng Nai có
hàng ngàn gốc cà phê nhưng mỗi lần nổ máy bơm, chỉ tưới được vài chục
bồn thì nước giếng đã cạn, phải ngưng cả giờ đồng hồ chờ mạch nước rỉ ra
dầ n. Rất có thể nhiều hộ trồng cà phê không cầm cự nổi, đành bỏ cà phê
chết. Giá cà phê hiện nay đang có xu thế tăng lên, song xét cung cầu, giá cả
thị trường phạm vi toàn thế giới thì khó có thể tăng đạt mức trên
10.000đ/kg như cách đây vài ba năm.
Đối với Việt Nam, Cà phê là một trong những mặt hàng chủ lực xuất
khẩu góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia: năm
2000 trị giá xuất khẩu cà phê đạt 501 triệu USD, nâng cao mức sống cũng
6
như cải thiện đời sống của nhân. Do đó, việc giá cà phê liên tục giảm trong
thời gian qua đã làm điêu đứng không biết bao nhiêu người trồng cà phê tới
nguồn thu ngoại tệ của Quốc gia. Vì vậy, việc làm có thể nói là cấp bách
hiện nay là làm sao có thể giảm thiểu sự ảnh hưởng của gia cả thị trường
tới giá cả cung như giá trị của cà phê Việt Nam, tạo điều kiện để cạnh tranh
được trên thị trường thế giới… có như vậy mới có động lực thúc đẩy các
hộ, cá thể, tập thể không nao lúng trước cơn giảm giá manh mẽ của cà phê
hiện nay, cũng như không làm giảm nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
7

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÀ PHÊ VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÀ
PHÊ VIỆT NAM
1. Tình hình sản xuất Cà phê
Cà phê Việt Nam được phân bố rộng rãi từ Bắc chí Nam trên nhiều
tỉnh trung du, miền núi và cao nguyên. Trước kia, người ta trồng cả 3 loại:
cà phê chè (Arabica), cà phê vối (Robusta) và cà phê mít (excolsa). Nay cà
phê mít bị loại bỏ dần vì giá trị kinh tế thấp. Còn lại là cà phê chè và vối,
do có yêu cầu và điều kiện sinh thái khác nhau nên được trồng ở các vùng
khác nhau. Sự phân chia này cũng phù hợp với kết quả phân vùng lãnh thổ
của Việt Nam vì đất miền Bắc là đất không bazan, thích hợp với cà phê
chè, đất ở miền Nam là đất đỏ Latosol, phát triển trên đá bazan, thích hợp
với cà phê vối.
Do chú trọng đầu tư thâm canh nên Cà phê Việt Nam có năng suất và
sản lượng cao và còn có xu hướng tiếp tục tăng rõ rệt từ 600 – 700kg
nhân/ha nay đạt bình quân 1.4 tấn nhân/ha, cá biệt có nơi 4 - 4.5 tấn
nhân/ha. World Bank đánh giá năm 1996 năng suất cà phê vối của Việt
Nam (1.48 tấn/ha ) xếp thứ hai thế giới, sau Costa Rica (1.6 tấn/ha), trên
Thái Lan ( 0.9 tấn/ha). Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê
của Việt Nam cũng đang ở mức rất cao, có xu hướng tiếp tục tăng. Đây
chính là kết quả từ chính sách khuyến khích phát triển cà phể của chính phủ
trong kinh tế hộ gia đình, tư nhân kết hợp với đầu tư hỗ trợ của nhà nước
qua các chương trình đinh canh định cư, phủ xanh đồi trọc, đất trống. Bên
8
cạnh mặt đáng mừng, diện tích tăng mạnh cũng phản ánh tình trạng đáng
ngại đó là sự phát triển vượt tầm kiểm soát của cà phê trồng mới. Đây là
một trở ngại trong việc công tác chỉ đạo kinh doanh xuất khẩu.
2. Tình hình tiêu thụ nội địa
Cà phê là thức uống được nhiều người Việt Nam ưa thích, nhưng do
mức sống còn thấp và việc dùng cà phê chưa là tập quán như uống trà nên

phần lớn cà phê sản xuất ra dành cho xuất khẩu, tiêu thụ nội địa ít, chỉ đạt
6.000 tấn /năm, chiếm từ 1,5 – 2 % tổng sản lượng. Với đà phát triển như
hiện nay, mưc sống Việt Nam sẽ được cải thiện và nhu cầu uống cà phê sẽ
tăng lên. Nghĩa là mức tiêu thụ nội địa của cà phê Việt Nam sẽ tăng, ước
tính đến năm 2010 tiêu thụ nội địa của nước ta đạt từ 5-7% tổng sản lượng
bình quân trên đầu người từ 0,1 – 0,2Kg/người/năm.
3. Thực trạng xuất khẩu Cà phê Việt Nam
a) Theo thị trường
Trước năm 1985, thị trường xuất khẩu Cà phê của Việt Nam chủ yếu
là các nước khu vực I. Liên Xô là thị trường chính, khối lượng nhập khẩu
chiếm 55-56% sản lượng cả khu vực. Từ cuối năm 1985 trở đi Việt Nam
bắt đầu xuất sang các nước thuộc khu vực II. Thời kì này, ta chưa gia nhập
Hiệp hội Cà phê Quốc tế (ICO) nên việc xuất khẩu chỉ là xuất thử hoặc
xuất qua trung gian, thường là Singapore với tỷ lệ 30 – 40% tống sản lượng
bằng 60% lượng xuất khẩu sang khu vực II với giá thấp vì chất lượng cà
phê của ta còn thấp trong khi chât lượng yêu cầu của các nước tiêu thụ trực
tiếp lại rất cao. Đến năm 1994 trở đi Việt Nam mới thâm nhập vào thị
trường các nước Tây Âu, nhật và Mỹ, giảm hẳn lượng xuất qua trung gian
Singgapore, nâng kim nghạch xuất khẩu nên đáng kể. Sự có mặt của cà phê
Việt Nam trên thị trường Mỹ là chứng nhận cho nỗ lực to lớn của nhà xuất
khẩu Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu Cà phê Việt Nam (Tấn)
9
Niên vụ 95 - 96 96 – 97 97 – 98 98 - 99
Khu vực
Châu Mỹ 67048 84255 87384 69381
Châu á 45045 32248 45943 28564
Châu Phi 6767 11729 4816 5340
Châu Âu 94982 189048 243297 278125
Châu úc 6913 7038 8839 15483

Tổng cộng 220755 324318 390279 396893
Qua bảng số liệu trên, ta thấy nếu như niên vụ 1995 – 1996 thị
trường Châu Á nhập 45.045 tấn cà phê Việt Nam (chiếm 20,4% tống sản
lượng xuất khẩu của Việt Nam), thị trường Châu Âu nhập 94.982 tấn (tỷ lệ
43,03%), thì trong niên vụ 98 – 99 thị trường Châu Á chỉ còn nhập 28.564
tấn (tỷ lệ 7,20%), thị trường Châu Âu nhập 278.125 tấn (70,08%). Điều này
chứng tỏ các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam đang từng bước hạn chế việc
xuất qua trung gian và cố gắng mở rộng thị trường sang các nước có nhu
cầu tiêu thụ cà phê lớn như: Mỹ, Đức, Anh, Pháp…
Hiện nay Cà phê Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 50 nước và khu
vực trên thế giới. Trong đó Thụy Sĩ và Mỹ là hai nước nhập khẩu Cà phê
lớn nhất của Việt Nam.
b) Theo số lượng
Bảng số liệu về tình hình thu hoạch và số lượng xuất khẩu Cà phê Việt
Nam
Niên vụ Số lượng cà phê VN Số lượng cà phê VN Tỷ lệ xuất khẩu
thu hoạch được (tấn) xuất khẩu (tấn) (%)
90 - 91 82500 67774 82,15
91 - 92 131400 79070 60,18
92- 93 145200 130528 89,90
93 - 94 179000 165190 92,28
94 - 95 212450 192088 90,42
95 - 96 235000 220755 93,94
10
96 - 97 362000 324318 89,59
97 - 98 400000 390279 97,57
98 - 99 420000 396893 94,50
99 - 2000 600000 546000 90,83
ước đoán
Qua bảng số liệu trên ta thấy mười năm trở lại đây lượng cà phê VN

xuát khẩu tăng nhiều và có xu hướng tiếp tục tăng từ 67.774 tấn (niên vụ
90-91) lên thành 545.000 tấn (niên vụ 99-2000) tăng lên 8 lần. Hàng năm tỷ
lệ xuất khẩu so với sản lượn thu hoạch khá ổn định và giữ ở mức cao, đa số
từ 90% trở lên, tiêu thị nội địa khoảng 10% tống sản lượng. Con số này
phản ánh chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu cà phê của Việt Nam, một phần
cho thấy so với dân chúng các nước khác thì thói quen uống cà phê ở Việt
Nam vẫn còn ít.
c) Theo giá cả
c1. Trên thị trường thế giới
Theo hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA), năm 2000 thị
trường Cà phê thế giới thừa cung lớn, giá cà phê giảm mạnh. Sản lượng cà
phê thế giới vụ 1999/2000 đạt 111,55 triệu bao (6,693 triệu tấn), tăng hơn
4% so với vụ trước. Trong đó sản lượng cà phê Robusta tăng tới 10,3%, lên
38,44 triệu bao (2.306 triệu tấn).Tiêu thụ cà phê thế giới vụ 99/2000 ước
đạt 6,156 triệu tấn và thấp hơn so với sản lượng tới 8% (537.000 tấn). Giá
cà phê thế giới năm 2000 đã liên tục giảm, tháng 12/2000 giá cà phê
Robusta tại Luân Đôn chỉ còn 590-620 USD/tấn, giảm 58-60% so với
tháng 1/2000.
c2. Trên thị trường Việt Nam
Vì giá Cà phê thế giới có ảnh hưởng rất lớn lên giá xuất khẩu cà phê
Việt Nam lên giá Cà phê Việt Nam cũng giảm rất mạnh. Năm 2000, giá
xuất khẩu cà phê Robusta loại 2 (5% đen và vỡ) tháng 12-2000 giá Cà phê
Robusta chỉ còn 430 USD/tấn, FOB, giảm hơn 51% so với tháng 1-2000.
11
Tháng 12-2000 VICOFA đã quyết định các thành viên của mình tạm ngừng
ký kết các hợp đồng xuất khẩu Cà phê và sẽ chỉ chào bán Cà phê với mức
giá tối thiểu là 450 USD/tấn, FOB
II. THƯC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGÀNH CÀ
PHÊ CỦA VIỆT NAM:
Cà phê là một ngành có đóng góp quan trọng trong cơ cấu GDP,

hàng năm nó thu về cho quốc gia hàng trăm triệu USD. Thế mà, cho đến
nay nhà nước ta chưa có một chính sách cụ thể về quản lý Cà Phê, khi tình
hình thị trường Cà phê có biến động lớn ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu thì
nhà nước ta chỉ đưa ra được những giải pháp tình thế, chưa đồng bộ như:
Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp thu mua Cà phê để giảm bớt thiệt hại
cho các chủ thể trồng Cà phê; khoanh nợ; giảm lãi xuất ...
Quản lý và tổ chức thu mua còn rất lộn xộn, vẫn còn hình thức mạnh ai lấy
mua…Chưa có những chính sách đồng bộ để phát triển nghành cà phê
mang tính dài hạn…Do đó, vấn đề dặt ra là nhà nước ta cần có cái nhìn
tổng quát hơn đối với nghành cà phê, thấy rõ được tầm quan trọng của việc
xuất khẩu cà phê mà có được các chính sách quản lý nghành cà phê cho
thật hợp lý, từ đó mà các chủ thể trồng và xuất khẩu cà phê có căn cứ để
hoạt động cho có hiệu quả.
III. THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÀ PHÊ XUẤT KHẨU
Nhu cầu Cà phê thế giới tăng trưởng rất chậm và đòi hỏi Cà phê Việt
Nam phải có chất lượng cao, hiện tại chừng 6,5 triệu tấn. Trong khi đó
lượng cung đã xấp xỉ 7 triệu tấn, chưa tính đến lượng dự trữ tồn kho từ
những năm trước. Thị trường Cà phê thế giới chủ yếu tập trung vào các nhà
trung gian phân phối lớn. Chừng 20 nhà phân phối đầu nậu Quốc tế thao
túng toàn bộ thị trường, chèn ép về giá cả và chất lượng gây nhiều thiệt hại
cho các nhà xuất khẩu.
Hơn 90% sản lượng Cà phê Việt Nam là để xuất khẩu (do thị trường
trong nước nhỏ hẹp). Vì thế, thị trường thế giới chi phối trực tiếp không
12

×