Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.24 KB, 122 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
VŨ THỊ THU HIỀN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Anh
ATM Automatic teller machine Máy giao dịch tự động
ACB Asia Commercial Bank Ngân hàng thương mại CP Á Châu
Agribank Vietnam Bank of Agriculture
and Rural Bank
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông Thôn
ANZ Australia and NewZealand
Banking Group Limited
Ngân hàng ANZ
BIDV For Investment And
Development of Vietnam
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
CAR Capital Adequacy Ratio Hệ số an toàn vốn
HSBC Hongkong and Shanghai
Banking Corporation
Tập đoàn ngân hàng Hồng Kông
Thượng Hải
ICBC Industrial and Commercial
Bank of China
Ngân hàng Công thương Trung Quốc
IPCAS The modernnization of


Interbank paymet and
customer Accounting system
Dự án hiện đại hóa hệ thống thanh toán
và kế toán
MB Military Commercial Joint
Stock Bank
NHTMCP Quân Đội
MIS Management Information
System
Hệ thống thông tin quản lý
POS Point of Sale Máy thanh toán
ROA Return on Total Assets Thu nhập trên tổng tài sản
ROE Return on common Equity Thu nhập trên vốn cổ phần
Sacombank Sai Gon Thuong Tin Bank Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
VIB Vietnam V International Joint
Stock Bank
Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam
Vietcombank Joint Stock Commercial Bank
for Foreign Trade of Vietnam
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt
Nam
Vietinbank Vieetjnam Technological and
Commercial Joint Stock Bank
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt
Nam
VP Vietnam Prosperity Joint -
Stock Commercial Bank./.
Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới
Tiếng việt

NHTM
Ngân hàng Thương Mại
DPRR
Dự phòng rủi ro
NHNN
Ngân hàng Nhà Nước
NHTMCP
Ngân hàng Thương Mại Cổ phần
PGD
Phòng giao dịch
SPDV
Sản phẩm dịch vụ
TCKT
Tổ chức kinh tế
TCTD
Tổ chức tín dụng
TTCK
Thị trường Chứng khoán
TTQT
Thanh toán quốc tế
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Diễn biến kết quả kinh doanh của Agribank Thanh Hoá Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Vốn chủ sở hữu của một số Chi nhánh NH lớn nhất tỉnh
Thanh Hóa thời điểm 31/12/2012.Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.3: Chỉ số ROA của Agribank – Thanh Hóa từ 2008-2012. Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.4: So sánh với nợ xấu / Tổng dư nợ của các TCTD khác trên địa bàn.
Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.5: Diễn biến thị phần huy động vốn của Agribank – Thanh Hoá
giai đoạn 2008 – 2012 trên phạm vi toàn tỉnhError: Reference
source not found
Biểu đồ 2.6: Diễn biến thị phần huy động vốn của Agribank – Thanh Hoá
giai đoạn 2008 – 2012 trên địa bàn đô thị loại 2 Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.7: Diễn biến thị phần dư nợ của Agribank – Thanh Hoá giai
đoạn 2008 – 2012 trên phạm vi toàn tỉnh Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.8: Cơ cấu cho vay theo ngành nghề kinh tế năm 2012 Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.9: Danh mục cho vay theo thành phần kinh tế 2012 Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.10: Diễn biến thị phần thu dịch vụ ngoài tín dụng toàn tỉnh. Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.11: Thu nhập từ dịch vụ thanh toán của một số CNNH tại Thanh
Hoá năm 2012 Error: Reference source not found
Biểu đô 2.12: Thu nhập từ kinh doanh ngoại tệ của một số CN ngân hàng
tại Thanh Hóa năm 2012 Error: Reference source not found
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã qua rồi thời các ngân hàng gặt hái lợi nhuận dễ dàng mà đã đến lúc
phải cạnh tranh quyết liệt để tồn tại. Bởi thực tế, năm 2012, lợi nhuận của
ngành ngân hàng không mấy sáng sủa. Bức tranh lợi nhuận ngành ngân hàng
trong năm qua sụt giảm mạnh là điều đã được cảnh báo từ vài năm trước. Nếu
trước đây, gánh nặng lãi suất vay vốn quá cao đè nặng đã “lấy bớt” lợi nhuận

của doanh nghiệp và nền kinh tế chuyển sang các ngân hàng thì nay, kinh tế
khó khăn, doanh nghiệp hoạt động sa sút, phá sản hàng loạt khiến tín dụng
khó khăn, nợ xấu cao đã ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng. Khoản
lỗ năm nay của các ngân hàng Thương mại còn do các khoản cho vay từ
những năm trước chưa thu hồi được khi nợ xấu tăng cao. Các ngân hàng cũng
không còn được hưởng mức chênh lệch quá cao giữa huy động – cho vay khi
sức chịu đựng của doanh nghiệp không còn. Xử lý nợ xấu, trích lập quỹ dự
phòng rủi ro đầy đủ trong năm 2013 và giảm tăng trưởng tín dụng sẽ tiếp tục
khiến lợi nhuận và sức cạnh tranh của các ngân hàng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên,
điều này sẽ giúp hoạt động của ngành ngân hàng hiệu quả và thực chất hơn.
Năm 2012 và đầu năm 2013 cũng là giai đoạn mà hàng loạt những tin
xấu khác từ ngành ngân hàng như giải thể, sát nhập, thoái vốn với quy mô lớn
hay hàng loạt nhân sự cấp cao của các Ngân hàng vướng vào vòng lao lý,
nhân viên Ngân hàng bị giảm lương, thưởng và nguy cơ thất nghiệp tăng cao.
Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế là lúc bộc lộ rõ nhất năng lực cạnh tranh
của từng ngân hàng trước gian nan, thử thách. Vì thế, năm 2013, bức tranh
ngành ngân hàng sẽ tiếp tục phân hoá mạnh, chỉ những ngân hàng nào mạnh
dạn tái cấu trúc, tận dụng nguồn lực, đổi mới chất lượng dịch vụ mới ổn định
tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nằm trong vòng xoáy ảnh hưởng chung do tác động của khủng hoảng
kinh tế thế giới và kinh tế trong nước, thời gian qua, các ngân hàng có mặt
1
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cũng đã và đang gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Từ năm 2008, tại tỉnh Thanh Hoá, một loạt các NHTM đã mở rộng
phạm vi hoạt động, nâng tổng số các chi nhánh cấp 1 lên 26, ngoài ra là các
phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm. Việc hàng loạt Ngân hàng TMCP ồ ạt ra đời
đã buộc các NHTM hoạt động yếu kém phải cơ cấu lại, các NHTM Nhà
nước cũng phải nhìn nhận lại năng lực toàn diện của mình để giữ vững thị
phần. Argibank –Thanh Hoá là một trong những ví dụ điển hình. Cùng với
khó khăn chung của hệ thống, trong năm qua, năng lực cạnh tranh và thị

phần của Agribank – Thanh Hoá bị suy giảm ở cả khu vực thành thị và nông
thôn. Ngoài những khó khăn chung của nền kinh tế, Agribank – Thanh Hoá
còn phải đối mặt với khó khăn trong cạnh tranh do số lượng TCTD trên địa
bàn ngày càng nhiều và đang có xu hướng mở rộng hoạt động về nông thôn;
đặc biệt là hệ thống Quỹ TDND với hơn 60 Quỹ TDND cơ sở đang cạnh
tranh rất mạnh với Agribank – Thanh Hoá ở khu vực này.Vì vậy, nâng cao
năng lực cạnh tranh trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết, cần có giải pháp
kịp thời, phù hợp trong từng giai đoạn và đặc thù vùng miền đối với
Agribank – Thanh Hoá.
Từ những nhận thức trên, đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn chi nhánh Thanh Hoá”
được lựa chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá lý luận về cạnh tranh của NHTM. Phân tích, đánh giá
năng lực cạnh tranh của Agribank –Thanh Hoá. Phân tích những lợi thế và
khó khăn thách thức của Agribank –Thanh Hoá và những đối thủ cạnh tranh.
Trên cơ sở đó, chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và rút ra
được các nguyên nhân để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị, nâng cao
năng lực cạnh tranh của Agribank –Thanh Hoá.
2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là những vấn đề cơ bản về cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh của NHTM, năng lực cạnh tranh của Agribank
nói chung và Agribank –Thanh Hoá nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của Agribank –Thanh Hoá.
- Phạm vi nghiên cứu: Số liệu thu thập và phân tích về năng lực cạnh
tranh của Agribank-Thanh Hoá và về thời gian tập trung vào giai đoạn từ
2008 – 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, tác giả sử dụng những phương pháp

nghiên cứu: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh, tổng hợp, sử dụng mô hình ma trận SWOT…
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn bao gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Argibank –Thanh Hoá .
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Argibank –
Thanh Hoá.
3
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 KHÁI QUÁT CẠNH TRANH CỦA NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
Ngân hàng, bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật
quý cho những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải
trả cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Cùng với sự phát triển kinh tế
xã hội, các hoạt động của ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú,
NHTM trở thành một định chế trung gian đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong nghiên cứu, có những cách tiếp cận
khác nhau về khái niệm ngân hàng:
Tại Anh: NHTM là tổ chức tài chính trực tiếp giao dịch với công chúng
để huy động các khoản tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính
khác cho công chúng.
Theo Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED): NHTM là một tổ chức tài chính
dưới dạng công ty cổ phần, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, sẵn sàng cho
việc cho vay.
Theo từ điển Tài chính – Ngân hàng của Việt Nam: “NHTM là tổ chức
chịu sự điều tiết về luật lệ của một nước hoặc pháp luật của một nước và

thuộc sở hữu của các cổ đông. Ngân hàng có nhiệm vụ thu nhận tiền gửi, cấp
tín dụng, và một số loại dịch vụ tài chính khác”.
Theo điều 20 Nghị định 49/2000 NĐ - CP ngày 12/09/2000: “NHTM
là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan với mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nước.”
Như vậy, có thể hiểu NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trong
4
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hay
nói cách khác, NHTM là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của
ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nói giữa các cá
nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt
động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hoá đặc
biệt đó là “vốn – tiền”, trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay
vốn, cũng như thu phí từ các loại hình dịch vụ để tạo nên lợi nhuận. Hoạt
động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi
tầng lớp nhân dân, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
1.1.2 Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.2.1 Lý thuyết về cạnh tranh
a. Khái niệm về cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong
nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể
thao; thường xuyên được nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh
tế cũng như các phương tiện thông tin đại chúng và được sự quan tâm của
nhiều đối tượng từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm
khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể như sau:
- Theo K.Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.

- Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cạnh tranh là hoạt động tranh
đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm
dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
- Theo Michael Porter thì: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất
của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
5
nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là
sự bình quân hoá lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn
đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.”(1980)
Mặc dù có sự khác nhau về thuật ngữ sử dụng, tuy nhiên những khái
niệm trên đây tựu chung có thể rút ra khái niệm về cạnh tranh như sau: Cạnh
tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (giữa các quốc gia, doanh
nghiệp) trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế kết hợp áp dụng
khoa học công nghệ trong sản xuất cũng như trong dịch vụ để thoả mãn
nhu cầu khách hàng bằng sản phẩm đảm bảo chất lượng, sự khác biệt và
giá cả hợp lý qua đó giúp doanh nghiệp giành lấy những lợi thế cạnh tranh
trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá để tối đa hoá lợi nhuận.
b. Tính tất yếu của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng
động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa
học công nghệ, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động,
hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì
thường trì trệ và kém phát triển. Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền
kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn
được nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể
hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức
hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại…).

c. Các loại hình cạnh tranh
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phân ra thành nhiều loại.
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường cạnh tranh được chia
thành 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng
6
hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất.
Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ
thuộc vào quan hệ cung - cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc
cạnh tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua
phải chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá mà họ cần.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh
nhằm giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có
lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối
sức, không chịu được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần
của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
* Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế cạnh tranh được phân thành
hai loại:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
khác nhau trong nền kinh tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao nhất, sự cạnh tranh
này hình thành nên tỷ suất sinh lời bình quân cho tất cả mọi ngành thông qua
sự dịch chuyển của các ngành với nhau.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh được phân thành 3 loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán
trên thị trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên
thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng nhất, tức là
không khác nhau về quy cách, chất lượng, mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc

cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành
hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa những
người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau.
Mỗi sản phẩm đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để
7
giành được ưu thế trong cạnh tranh, người bán phải sử dụng các công cụ hỗ
trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là
loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền: bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá
cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không
phụ thuộc vào quan hệ cung cầu.
* Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh chia cạnh tranh thành:
- Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với
chuẩn mực xã hội và được xã hội thừa nhận, nó thường diễn ra sòng phẳng,
công bằng và công khai.
- Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa bào kẽ hở của luật
pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án (như trốn thuế, buôn lậu,
móc ngoặc, khủng bố vv ).
1.1.2.2 Cạnh tranh trong ngân hàng thương mại
Cạnh tranh của NHTM là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các
lợi thế so sánh để giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh với các NHTM
khác, là nỗ lực hoạt động đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung
ứng cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, chi phí rẻ
nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong
cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Giống như mọi doanh nghiệp, NHTM được coi là một doanh nghiệp ra
đời và tồn tại vì mục tiêu lợi nhuận. Khi nền kinh tế của đất nước phát triển và
nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thì sự cạnh tranh giữa các ngân
hàng ngày một gay gắt hơn, đòi hỏi các NHTM tìm mọi cách để làm mới các

sản phẩm và dịch vụ của mình với nhiều lợi ích cho khách hàng, với mức giá
và chi phí cạnh tranh nhất nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị phần và để
đạt lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Về yếu tố cạnh tranh, các NHTM cũng
bao gồm các yếu tố tương tự các TCKT khác như thị phần, nguồn nhân lực,
8
công nghệ, sản phẩm dịch vụ, thương hiệu và văn hoá kinh doanh Tuy nhiên,
sự cạnh tranh giữa các NHTM có những đặc trưng và khác biệt nhất định:
- Hoạt động và lĩnh vực kinh doanh của các NHTM có liên quan đến
tất cả các ngành, các mặt của đời sống kinh tế – xã hội và các cá nhân: Thực
vậy, hoạt động ngân hàng chính là kênh quan trọng để Nhà nước điều tiết
lượng tiền mặt trong lưu thông phù hợp với quy luật lưu thông tiền tệ, đảm
bảo điều kiện không “thiếu tiền” cũng như không “thừa tiền” quá mức. Thông
qua việc huy động vốn nhàn rỗi và cấp tín dụng lại cho các tổ chức và cá
nhân, hoạt động của các ngân hàng đã làm tăng khả năng và hiệu quả sử dụng
đồng vốn của nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động của các NHTM cũng chính là
phong vũ biểu thể hiện “sức khoẻ”, tính lành mạnh hay rủi ro của nền kinh tế
quốc gia. Nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ
vỡ, thì tất yếu tác động dây chuyền đến gần như tất cả các NHTM và tổ chức
tài chính phi ngân hàng khác, tất nhiên ở nhiều cấp độ khác nhau. Chính vì
vậy, các NHTM vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để giành giật thị phần, vừa phải
hợp tác lẫn nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro
hệ thống. Để tránh sự hoạt động của các NHTM mạo hiểm gây nguy cơ đổ vỡ
hệ thống, tất cả NHTW các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này
và đưa ra hệ thống cảnh báo khi cần thiết đề phòng ngừa rủi ro.
- Sản phẩm và dịch vụ của các NHTM liên quan đến một hàng hoá đặc
biệt – Tiền tệ: Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - là lĩnh vực rất
nhạy cảm, chịu tác động bởi nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý,
truyền thống, văn hoá mỗi một nhân tố này có sự thay đổi, dù là rất nhỏ
cũng tác động nhanh chóng tới môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ
cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên một cơn địa chấn lớn,

thậm chí đe doạ cả sự tồn vong của một hệ thống tín dụng. Một NHTM hoạt
động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng và
mối rủi ro cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn Vì vậy, trong
9
hoạt động kinh doanh, chữ “uy tín” đối với các NHTM càng được đặt lên
hàng đầu. Nhân viên ngân hàng luôn cần có một phong cách chuyên nghiệp,
lịch sự, am hiểu nghiệp vụ, khả năng tư vấn và đôi khi cả yếu tố hình thể.
Dịch vụ của ngân hàng cũng đòi hỏi cao về việc đầu tư công nghệ nhanh
chóng, chính xác, thuận tiện và bảo mật. Trong cạnh tranh, thương hiệu của
ngân hàng được xây dựng, phát triển và tồn tại đầu tiên vẫn là nhờ sự tin
tưởng của khách hàng đối với những sản phẩm và dịch vụ theo thời gian.
- Hoạt động ngân hàng mang tính hệ thống cao:
Vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên hoạt động kinh doanh của các
NHTM mang tính rủi ro rất cao – Nó chính là “chỗ trũng” của nền kinh tế,
nên mọi rủi ro hay sự nhạy cảm từ các biến động đều “chảy về” ngân hàng.
Hơn nữa, các NHTM đều chịu tác động chung của quy luật tiền tệ, mục đích
kinh doanh trên cùng một thị trường. Vì vậy để đảm bảo tính đồng bộ, thống
nhất, cùng nhau giảm thiểu rủi ro, hoạt động của các NHTM phải có mối liên
hệ, hợp tác và gắn bó với nhau, vừa cạnh tranh để từng bước mở rộng khách
hàng, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử
dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính lẫn nhau. Đặc biệt ở nước
ta hiện nay, vấn đề sở hữu chéo ngân hàng đã và đang thể hiện sự liên quan
chặt chẽ của các ngân hàng. Năm 2012 đã chứng kiến nhiều cuộc rời bỏ, rút
vốn của các “ông lớn” NHTM ra khỏi các NHTM bé hơn đã làm cả hệ thống
phản ứng “co lại”. Điển hình như loạt thoái vốn quy mô lớn của ACB tại một
số nhà băng, hay thay đổi cổ đông lớn tại Navibank, Western Bank
- Hoạt động của các NHTM không chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước,
mà có liên quan đến các nước khác trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy,
hoạt động trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước
và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán, các thông lệ quốc tế Đặc

biệt, nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong
đó, công nghệ thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng, có tính chất quyết
định đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Điều này cũng có nghĩa là
10
sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều
thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của các nước, sự cạnh tranh phải dựa
trên nền tảng kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Rõ ràng, sự cạnh tranh của các
NHTM là loại cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất
cứ loại hình kinh doanh nào khác.
1.2. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NHTM
1.2.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong NHTM
* Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được
một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất
lượng các sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị
trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Theo WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới – 1997) trong bản Báo cáo cạnh
tranh toàn cầu: “Năng lực cạnh tranh được hiểu là khả năng doanh nghiệp có
thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh
tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi tài trợ
những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời đạt được những mục tiêu doanh
nghiệp đề ra.”
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh trên
cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Cụ thể là:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của một nền kinh tế đạt
được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh
trong và ngoài nước. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu

quả kinh doanh, lợi nhuận và thị phần doanh nghiệp có được.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ: được đo bằng thị phần
của sản phẩm dịch vụ thể hiện trên thị trường. Khả năng cạnh ranh của sản
11
phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh như: chất lượng, tính độc đáo
của sản phẩm, dịch vụ, yếu tố công nghệ chứa trong sản phẩm dịch vụ đó.
* Năng lực cạnh tranh trong NHTM
Theo PGS.TS Trần Huy Hoàng, trong cuốn Quản trị ngân hàng thương
mại, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng được hiểu như sau: “Năng lực
cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và
phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi
nhuận ngày càng cao, có khả năng chống lại một cách thành công sức ép của
các đối thủ”.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM trước hết phải xem xét các
lợi thế cạnh tranh (competitive advantages) của ngân hàng đó, các yếu tố tác
động đến năng lực cạnh tranh thực tế của ngân hàng đó thông qua hệ thống
các chỉ tiêu đánh giá, sử dụng công cụ SWOT để phân tích và cuối cùng là
đánh giá các kết quả thu được. Đây chính là cơ sở cho việc đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
trong điều kiện hiện nay
- Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội phát triển to lớn cho
ngành ngân hàng trước những khó khăn và thách thức. Có thể thấy, khi những
rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài được tháo bỏ sẽ mở ra một sân chơi
lành mạnh hơn cho các ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài sẽ được phát
triển tự do hơn trên mảng tài chính ngân hàng trong khi các ngân hàng nội sẽ
không ngừng cải tiến sản phẩm và nâng cao dịch vụ của mình để cùng cạnh
tranh. Đây cũng được coi như “cú hích” để các NHTM Việt Nam đi lên. Và
nếu một trong số các ngân hàng Việt chưa có sự chuẩn bị kỹ và năng lực cạnh
tranh còn yếu kém sẽ bị đào thải và lúc đó phải sát nhập hoặc bán lại.Thị

trường sẽ sang lọc và những ngân hàng nào quản trị tốt, năng lực cạnh tranh
cao sẽ tồn tại và phát triển mạnh. Hơn nữa, từ 1-1-2011, chi nhánh Ngân hàng
12
nước ngoài đã được bình đẳng trong việc áp dụng các giới hạn về cấp tín
dụng và bảo lãnh. Chính vì vậy, các NHTM Việt Nam càng cần thiết phải
nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại được trong bối cảnh hội nhập.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách
hàng: Hiện nay, khi điều kiện sống và dân trí tăng lên, nhu cầu về giao dịch
qua hệ thống ngân hàng cũng phát triển nhanh chóng với quy chuẩn và tiện
ích đa dạng hơn. Ngân hàng nào có chất lượng tín dụng tốt nhất, đa dạng hóa
được các sản phẩm dịch vụ, tạo ra được sự khác biệt trong phương pháp phục
vụ và giá cả phải chăng sẽ giành được chiến thắng trong quá trình cạnh tranh
khốc liệt này.
- Năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn yếu, trong đó dễ
dàng nhận thấy đó là điểm yếu về vốn tự có còn rất thấp, trình độ tiếp cận
khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế, đội ngũ quản lý điều hành còn kém xa
so với chuẩn mực quốc tế…Chính vì vậy mà bản thân các ngân hàng phải
không ngừng học hỏi và tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để ngày
càng vững vàng hơn.
- Hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển, số lượng các ngân hàng
quốc tế có tiềm lực ngày càng tăng,bối cảnh khó khăn của nền kinh tế tác
động xấu đến hoạt động của các ngân hàng. Nhiều ngân hàng nhỏ còn đối mặt
với áp lực tái cơ cấu bởi sức cạnh tranh yếu kém, có nguy cơ phá sản. Vì vậy,
nâng cao năng lực cạnh tranh là một tất yếu giúp các ngân hàng có thể tồn tại
và phát triển được.
1.2.3 Các nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh của NHTM
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng rất phong phú và đa dạng, nó
được xem như chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực, các chủ thể khác nhau trong
nền kinh tế. Do vậy, có rất nhiều nhân tố tác động đến hoạt động ngân hàng
bao gồm nhân tố vi mô và nhân tố vĩ mô. Các nhân tố này có thể làm cho

năng lực cạnh tranh của ngân hàng tăng lên hoặc ngược lại, bị đẩy lùi nếu
13
không có khả năng chống đỡ và thích ứng. Từ việc xác định đúng và có dự
báo xu hướng theo từng thời kỳ, các NHTM có thể đề ra những chiến lược và
mục tiêu phù hợp để làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
1.2.3.1 Các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô
Môi trường kinh tế: Năng lực cạnh tranh của ngân hàng phụ thuộc rất
nhiều vào môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế lành mạnh và ổn định tạo
điều kiện để ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh và ngược lại.
Môi trường chính trị – Pháp luật: Môi trường chính trị - pháp luật bao
gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các công cụ chính sách của Nhà
nước, cơ chế - tổ chức bộ máy của chính phủ, của tổ chức chính trị xã hội. Nó
là một trong những yếu tố tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Vì vậy, nó ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Khi chính trị bất ổn hay hệ thống luật không phù hợp với xu hướng của nền
kinh tế sẽ cản trở sự phát triển của nền kinh tế, khi nền kinh tế không phát
triển được sẽ kéo theo nhiều ngành nghề khác cũng bị kìm hãm và ngân hàng
cũng không ngoại lệ.
Môi trường văn hoá xã hội: Mỗi tổ chức kinh tế đều nằm trong những
môi trường xã hội cụ thể và chịu sự tác động của môi trường đó. Ví dụ: dân
số, văn hoá, cơ sở vật chất, trình độ dân trí và khả năng hiểu biết của người
dân về các dịch vụ ngân hàng… Quan niệm, lòng tin của khách hàng cũng
như thói quen, tập quán đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Những đặc điểm văn hoá - xã hội còn ảnh hưởng đến nguồn nhân lực của
ngân hàng như: quan điểm về học tập và tự đào tạo, quan điểm về văn hoá
ứng xử, quan điểm về đạo đức nghề nghiệp
Môi trường khoa học và công nghệ: Khoa học – công nghệ trên thế giới
ngày càng phát triển, nhiều ngân hàng nước ngoài có tiềm lực mạnh đang là
mối đe doạ lớn, đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải tự đổi mới công nghệ,
hoàn chỉnh hệ thống máy móc thiết bị tận dụng môi trường khoa học – công

14
nghệ tiên tiến để giúp cho NHTM Việt Nam đi tắt đón đầu, đáp ứng được yêu
cầu cạnh tranh và hội nhập.
Môi trường quốc tế: Khi tiến trình hội nhập nền kinh tế diễn ra nhanh
chóng, nền kinh tế mở cửa vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với kinh tế Việt
Nam nói chung và với ngành ngân hàng nói riêng. Khi gia nhập WTO, ngân
hàng có thể thu hút được nhiều vốn hơn, học hỏi tiếp thu được công nghệ cao
hơn và thị trường nước ngoài cũng mở rộng hơn. Tuy nhiên, khi nền kinh tế
hội nhập sâu hơn, nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hơn, với những
tiềm lực lớn mạnh hơn sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến các ngân hàng Việt Nam.
1.2.3.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến từ môi trường vi mô
Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Là những doanh nghiệp hoạt động trong
cùng lĩnh vực, có hệ thống sản phẩm tương đồng, cùng chia sẻ lợi nhuận trên
thị trường. Đối thủ của ngân hàng là các ngân hàng khác, các tổ chức tín dụng
các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ giống với ngân hàng. Các đối
thủ này là yếu tố quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh của ngân hàng.
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Là những đối thủ cạnh tranh sẽ xuất hiện
trong tương lai. Trong thời kỳ nền kinh tế mở cửa sẽ có rất nhiều ngân hàng
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và sẽ trở thành đối thủ mới. Do vậy, cần
phải chú trọng đến vấn đề này để có những biện pháp hiệu quả, giữ vững và
phát triển thị phần của mình.
Sản phẩm thay thế: Khi đời sống càng ngày càng nâng cao, nhu cầu của
con người đòi hỏi sự thoả mãn mong muốn nhiều hơn. Vì thế, các nhà đầu tư
luôn đưa ra những sản phẩm thay thế nhằm giúp cho người tiêu dùng có nhiều
sự lựa chọn và chính họ cũng sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Do vậy, ngân
hàng cần mở rộng dịch vụ hơn nữa để người tiêu dùng có thể lựa chọn sản
phẩm ngay trong ngân hàng mình. Như vậy ngân hàng sẽ giữ được thị phần từ
đó tăng lợi nhuận cho mình.
Khách hàng: Trong kinh doanh, không chỉ ngân hàng mà đối với mọi
15

doanh nghiệp, khách hàng vô cùng quan trọng bởi sản phẩm, dịch vụ làm ra là
để bán cho khách hàng tiêu dùng.Nếu không quan tâm đến nhu cầu, tâm lý
của khách hàng thì ngân hàng khó giữ được khách hàng cũ và không phát
triển được khách hàng mới. Điều này dẫn đến quy mô hoạt động bị thu hẹp,
doanh thu ít đi năng lực cạnh tranh bị suy giảm mạnh.
1.3 CÁC TIÊU THỨC ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NHTM
Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
Có nhiều tiêu chí khác nhau để đánh giá năng lực cạnh tranh của
NHTM.Tuy nhiên, hiện nay, khi đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
người ta thường quan tâm tới các chỉ tiêu cho biết năng lực tài chính, năng lực
kinh doanh, năng lực công nghệ thông tin, nguồn nhân lực và năng lực quản
lý điều hành, danh tiếng, uy tín và khả năng hợp tác.
1.3.1 Năng lực tài chính
Chỉ tiêu tiềm lực tài chính của ngân hàng thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá
về quy mô nguồn vốn chủ sở hữu, khả năng huy động vốn, khả năng thanh toán,
khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của NHTM.
1.3.1.1 Nguồn vốn chủ sở hữu
“Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một
số tài sản nợ khác của TCTD theo quy định của NHNN. Vốn tự có là cơ sở để
tính toán các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng”.
Vốn chủ sở hữu ban đầu đối với các NHTM chính là vốn do cổ đông
góp thông qua việc mua cổ phần (hoặc cổ phiếu) bao gồm các cổ phần thường
và cổ phiếu ưu đãi. Mức vốn này phải đảm bảo tối thiểu bằng vốn pháp định.
Vốn chủ sở hữu bổ sung bao gồm cổ phần phát hành thêm hoặc ngân sách cấp
thêm trong quá trình hoạt động, lợi nhuận tích lũy, các quỹ, phát hành giấy nợ
dài hạn Nhìn trên bảng cân đối kế toán của các NHTM, khoản mục vốn và
các quỹ thể hiện nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản mục chính như sau: Vốn
điều lệ, quỹ dự trữ phòng tài chính,quỹ khen thưởng và phúc lợi. Vốn chủ sở
16
hữu có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động ngân hàng vì góp phần hình

thành tài sản của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc
biệt là đầu tư trung và dài hạn cũng như tạo ra trang thiết bị và công nghệ
ngân hàng hiện đại để mở rộng hoạt động và thu hút khách hàng. Vốn tự có
cũng quyết định quy mô của ngân hàng lớn, vừa hay nhỏ. Hiện nay, theo quy
định, vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng là 10.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, vốn tự có quyết định số tiền mà ngân hàng được phép cho
vay tối đa. Dựa trên số vốn tự có mà ngân hàng có thể thực hiện các nghiệp
vụ phát hành bảo lãnh, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ.
1.3.1.2 Khả năng sinh lời
Đây là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng đồng thời
cũng phản ánh phần nào kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Các chỉ tiêu cụ thể
đánh giá khả năng sinh lời của một NHTM gồm có: Giá trị tuyệt đối của lợi
nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu lợi nhuận (lợi nhuận
được hình thành từ nguồn nào, từ hoạt động kinh doanh thông thường hay từ
các khoản thu nhập bất thường), tỷ suất sinh lời trên vốn cổ phần (ROE), tỷ
suất sinh lời trên tổng tài sản có (ROA), các chỉ tiêu về mức sinh lợi trong
mối tương quan với chi phí… Trong số các chỉ tiêu này, hai chỉ tiêu thường
được quan tâm để đo lường kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng là
ROE, ROA.
ROA = Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Chỉ tiêu trên cho thấy khả năng bao quát của hoạt động NHTM trong
việc tạo thu nhập từ tài sản. Các ngân hàng thường sử dụng ROA để đo lường
mối quan hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn bởi vì một bộ phận nguồn vốn
được sử dụng tạo nên tài sản không sinh lãi và có một bộ phận tài sản không
sinh lãi lại tham gia tạo nên thu nhập cho ngân hàng. Do vậy, nếu ROA lớn,
chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của NHTM tốt, cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy
17
nhiên, nếu ROA quá lớn làm cho các nhà quản trị lo lắng vì rủi ro nhìn chung
luôn song hành với lợi nhuận.

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
x 100 %
ROE không những được các ngân hàng quan tâm mà nó còn thu hút sự
quan tâm của các cổ đông, bởi ROE là chỉ tiêu phản ánh một đồng vốn chủ sở
hữu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Điều này đồng nghĩa với việc cổ
đông được hưởng bao nhiêu lợi tức trên 1 đồng vốn bỏ ra. Do vậy, các ngân
hàng luôn chú ý tăng chỉ tiêu này để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư,
nhằm kêu gọi vốn góp. Tuy nhiên, nếu ROE quá cao so với ROA chứng tỏ
nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn và
do vậy sẽ ảnh hưởng đến tính lành mạnh trong hoạt động của ngân hàng.
1.3.1.3 Khả năng thanh khoản
Là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán tiền
của khách hàng, được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh
khoản của nguồn vốn.
Khả năng thanh khoản của ngân hàng được thể hiện thông qua các chỉ
tiêu chính như sau:
Khả năng thanh
toán ngay
=
Tài sản Có phải thanh toán ngay
Tài sản Nợ phải thanh toán ngay
Chỉ tiêu này đo lường khả năng ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu tiền
mặt của người tiêu dùng. Tỷ lệ này theo quy định của NHNN tối thiểu phải
bằng 1. Khi nhu cầu tiền mặt của người gửi tiền bị giới hạn thì uy tín của
ngân hàng sẽ bị giảm một cách đáng kể, rủi ro thanh khoản xảy ra, đe dọa đến
sự sống còn của NHTM.
18

Tỷ lệ sử dụng nguồn
vốn cho vay trung và
=
Tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn
Nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn
Tỷ lệ này tối thiểu phải đạt 100% mới đảm bảo yêu cầu. Một nguyên
nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản cao tại các NHTM là sự mất cân đối về kỳ
hạn giữa tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn
vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.
*Khả năng quản trị rủi ro thanh khoản: Việc quản lý tốt rủi ro thanh
khoản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao năng lưc cạnh tranh
cho NHTM. Bởi lẽ, những NHTM nào đã xây dựng cho mình một chiến lược
quản trị thanh khoản một cách khoa học và bài bản với các công cụ hữu ích,
có khả năng dự báo sát các diễn biến của thị trường tài chính, tiền tệ, những
thay đổi về lưu lượng tiền gửi cho vay…sẽ giúp ngân hàng hạn chế tối thiểu
rủi ro về vấn đề thanh khoản trước mọi diễn biến của thị trường. Từ đó tạo
niềm tin trong lòng khách hàng cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngân hàng…
Để xây dựng một chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả, đòi hỏi
các ngân hàng phải có được hệ thống thông tin đầy đủ để đo lường, giám sát và
kiểm soát, báo cáo rủi ro thanh khoản. Bên cạnh đó, phải có một đội ngũ
chuyên viên có trình độ cao, giàu kinh nghiệm, có khả năng xây dựng được
chiến lược và các quy trình quản lý thanh khoản, có khả năng giám sát và phản
ứng linh hoạt trước những biến động bất thường trong cơ cấu tài sản nợ/có.
*Mức độ rủi ro: Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt
và những rủi ro đối với hoạt động ngân hàng là rất cao và mang tính đặc thù.
Bản chất của hoạt động kinh doanh luôn mang tính mạo hiểm nên bất kỳ nhà
phân tích nào cũng phải quan tâm đến rủi ro. Trong phân tích rủi ro ngân
hàng, người ta chú trọng đến các rủi ro thường gặp là: rủi ro thanh khoản, rủi
ro tín dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro thu nhập. Một ngân hàng có năng lực cạnh

tranh cao khi mà các loại rủi ro của nó được đánh giá là thấp và ngược lại. Có
19

×