Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.15 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau Đại hội đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
xác định nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là bước
mở đầu cho kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới. Do
đó việc tìm ra các giải pháp cụ thể cho sự phát triển của các ngành kinh tế của Việt
Nam nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng là một yêu cầu rất quan trọng .
Trước năm 1980, ngành thuỷ sản về cơ bản vẫn là một ngành kinh tế tự cấp
tự túc thiên về khai thác những tiềm năng sẵn có của thiên nhiên nhiên theo kiểu
“hái lượm”: Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung kéo dài, tiêu thụ theo cách giao
nộp sản phẩm đã khiến chúng ta đánh giá thành tích theo tấn tạ bất kể giá trị, tiêu
diệt tính hàng hoá của sản phẩm. Điều đó đã dẫn tới sự suy kiệt các động lực thúc
đẩy xuất khẩu, đưa ngành đến bờ vực suy thoái vào cuối những năm 70 .
Từ năm 1980 đến nay, được mở đầu bằng chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu và
thử nghiệm cơ chế “tự cân đối, tự trang trải” mà thực chất là chú trọng nâng cao
chất lượng giá trị sản phẩm làm, tạo ra nhằm tạo nguồn đầu tư để tái sản xuất mở
rộng đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển. Ngành thuỷ sản có thể coi là một
ngành tiên phong trong quá trình đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam. Trong quá trình đó, từ những nghề sản xuất nhỏ bé ngành đã có
vị trí xứng đáng và đến năm 1993 đã được Đảng và Nhà nước chính thức xác định
là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Qua 20 năm phát triển,
tổng sản lượng của ngành đã tăng gấp 3 lần, giá trị kim nghạch xuất khẩu tăng 87
lần .
Xuất khẩu thuỷ sản nói chung, xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ nói riêng, là một
trong những hoạt động quan trọng của đất nước và ngành thuỷ sản. Để góp phần
giúp ngành thuỷ sản ngày càng phát triển, vươn xa ra các nước trên thế giới, bài
1
tiểu luận này xin đề cập đến Xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ – thực trạng và giải
pháp .

PHẦN I


KHÁI NIỆM VỀ XUẤT KHẨU
I. KHÁI NIỆM Ý NGHĨA CỦA XUẤT KHẨU
1. Khái niệm
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất , nó
phản ánh quan hệ thương mại , buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực
và thế giới . Cùng với hình thức kinh doanh nhập khẩu , hình thức kinh doanh xuất
khẩu là hoạt động kinh tế cơ bản của một quốc gia , nó là “chiếc chìa khoá” mở ra
những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia , tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ
chủ yếu của một nước khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế .
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế
đầu tiên của một doanh nghiệp . Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh
nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt độnh kinh doanh của mình .
Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau : Xuất khẩu
hành hoá hữu hình , hàng hoá vô hình (dịch vụ) ; xuất khẩu trực tiếp do chính các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhận ; xuất khẩu gián tiếp
(hay uỷ thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh , tổ chức kinh doanh trung
gian đảm nhận . Gắn liền với xuất khẩu hàng hoá hữu hình , ngày nay xuất khẩu
dịch vụ rất phát triển.
2. Ý nghĩa của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
- Xuất khẩu khai thác hiệu quả lợi thế tuỵêt đối , lợi thế tương đối của đất
nước và kích thích các ngành kinh tế phát triển , góp phần tăng tích luỹ vốn , mở
2
rộng sản xuất , tăng thu nhập cho nền kinh tế , cải thiện từng bước đời sống nhân
dân .
- Xuất khẩu góp phần không nhỏ vào giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động đồng thời tác động tích cực đến trình độ tay nghề cũng như nhận thức về
công việc của công nhân làm hàng xuất khẩu .
- Xuất khẩu cho phép tập trung năng lực sản xuất cho những mặt hàng truyền
thống được thế giới ưa chuộng hay những mặt hàng tận dụng được những nguyên
liệu có sẵn trong nước hay nước khác không làm được hoặc làm được nhưng giá

thành cao .
- Thông qua hoạt động xuất khẩu đã thúc đẩy phát triển quan hệ đối ngoại
với tất cả các nước nhất là với các nước trong khu vực Đông Nam á , nâng cao uy
tín của Việt Nam trên trường Quốc tế .
3. Rủi ro trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá
Rủi ro về mặt chính trị : Vì xuất khẩu hàng hoá là quan hệ giao dịch giữa các
bên có quốc tịch khác nhau , có thể chế chính trị khác nhau nên khi xảy ra chiến
tranh , đảo chính , bạo loạn ... thì sẽ bị cấm vận . Lúc này các tài khoản của nhà
nước và cá nhân đều bị phong toả .
Rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng : Có thể vì đình công , thiên tai làm cho
khả năng thực hiện hợp đồng gặp khó khăn dù đã ký hợp đồng nhưng không có khả
năng nhận hàng .
Rủi ro trong vận chuyển : việc vận chuyển hàng hoá từ quốc gia này sang
quốc gia khác thưc hiện bằng phương tiện đường bộ , đường sắt , đường thuỷ ,
đường hàng không . Trong quá trình vận chuyển có thể bị thiên tai làm hư hỏng
hàng hoá hoặc có thể bị tai nạn .
Rủi ro trong thanh toán : vì đồng tiền sử dụng trong hợp đồng xuất khẩu có
thể bị biến động về tỷ giá hối đoái làm thiệt hại cho nhà xuất khẩu .
3
4. Thuận lợi đối với Việt Nam
Trong thời gian qua , nhất là trong năm 2000 kim nghạch xuất khẩu đạt
gần14,5 tỷ USD , tăng 25% so với xuất khẩu cả năm 1999 , tăng hơn 2,9 tỷ USD về
số tuyệt đối . Kim nghạch xuất khẩu trung bình tháng trong năm 2000 là 1,2 tỷ
USD , trong khi đó mức tăng của năm 1999 là 0,96 tỷ USD và mức xuất khẩu tính
theo đầu người là 186 USD vượt qua mức trung bình của các nước có nền ngoại
thương đang phát triển theo đánh giá của Liên Hiệp Quốc .
Cũng như năm 1999 trước đó, động lực chính cho mức tăng trưởng cao của
hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2000 vừa qua
ngoài sự lên giá mạnh của dầu thô còn là sự tiếp tục phục hồi nhanh chóng của các
nền kinh tế trong khu vực , đây cũng là bạn hàng chính của các doanh nghiệp Việt

Nam , qua đó tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam .
Như vậy , chúng ta đạt được kết quả to lớn đó , mà nguyên nhân quan trọng
đó là : Do chúng ta biết tận dụng những tiềm năng sẵn có của mình trong việc nâng
cao khả năng cạnh tranh . Trước hết phải kể đến lợi thế về khí hậu , đất đai , nguồn
nước , về vị trí địa lý , hải cảng . Hơn nữa , do thuận lợi về điều kiện sản xuất cũng
như nguồn nhân lực dồi dào nên giá thành một số sản phẩm của chúng ta thấp ,
điều này sẽ thúc đẩy khả năng cạnh tranh cho mặt hàng nông thuỷ sản của nước ta
trên thị trường thế giới .
5. Khó khăn đối với Việt Nam
Hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua đã gặp không ít các khó
khăn cần được khắc phục giải quyết đó là :
Chất lượng hàng xuất khẩu của ta còn kém , nhất là trong khâu chế biến chưa
được đầu tư thích đáng , chỉ mới qua khâu sơ chế . Do đó , chất lượng hàng nông
thuỷ sản xuất khẩu của chúng ta còn kém về sức cạnh tranh , chưa đáp ứng được
4
yêu cầu của thị trường thế giới . Trừ một số mặt hàng nông sản xuất khẩu có nhiều
tiến bộ như : gạo , chè , cà phê ... còn nói chung sản phẩm nông sản của Việt Nam
vẫn đang trong tình trạng chất lượng thấp . Như lúa tạp , dù giá đã giảm tới mức
thấp nhất mà vẫn ế thừa không tiêu thụ được , điều đó khẳng định việc tăng sản
lượng không đi đôi với chất lượng dẫn đến hiệu quả không cao .
Do chất lượng hàng xuất khẩu còn hạn chế , dẫn đến giá hàng xuất khẩu của
Việt Nam còn thua xa so với mặt hàng cùng loại trên thị trường thế giới .
Trong điều kiện như vậy , yêu cầu nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là
một vấn đề bức bách . Mặt khác, chúng ta chưa thiết lập được hệ thống thị trường
ổn định với mạng lưới khách hàng đáng tin cậy . Cho đến nay , phương thức xuất
khẩu qua trung gian vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn , mặc dù chúng ta đã có nhiều
cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Hơn nữa , vấn đề thông tin về thị trường
nông sản thế giới phục vụ cho nhu cầu hoạt động kinh doanh xuất khẩu cũng như
phục vụ cho nhu cầu về công tác quản lý xuất khẩu và công tác nghiên cứu , nhìn
chung còn quá ít ỏi ; chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế đòi hỏi . Trong khi đó ,

hoạt động xuất khẩu đòi hỏi phải có thông tin sâu rộng vế thị trường để theo dõi kịp
thời về diễn biến cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới . Do nghiên cứu thị
trường còn hạn chế , chưa có những thông tin cần và đủ nên chưa nắm bắt được
những cơ hội và ứng xử kịp thời những diễn biến của thị trường .
Về quản lý xuất khẩu : Còn có những hạn chế nhất định , không dự đoán
đúng số lượng sản phẩm sản xuất ra nên việc cấp hạn nghạch xuất khẩu chưa sát
với thực tế , khi cấp được giấy phép xuất khẩu lại gặp nhiều khó khăn về thị trường
và giá cả . Do đó , lợi nhuận xuất khẩu bị thua thiệt nhiều . Chính khâu điều hành
xuất khẩu này , không phù hợp , nhịp nhàng ăn khớp , không nắm bắt đầy đủ thông
tin thị trường để điều chỉnh , cấp giấy phép không kịp thời đúng lúc nên ảnh hưởng
đến hiệu quả xuất khẩu .
5
Về mặt nghiệp vụ xuất khẩu : vẫn còn nhiều hạn chế như chưa am hiểu thị
trường , thương nhân , thông lệ Quốc tế ... dẫn đến tình trạng các doanh nhiệp xuất
khẩu của Việt Nam nhiều khi còn phải chịu thiệt thòi về giá cả.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
1. Tín dụng xuất khẩu
Nhà nước hoặc tư nhân dành cho nước ngoài những khoản tín dụng để mua
hàng của nước mình hay can thiệp vào lĩnh vực tín dụng mà còn tạo ra những điều
kiện tín dụng xuất khẩu ưu đãi hơn so với những điều kiện tín dụng ở trong nước .
Điều đó làm tăng khả năng xuất khẩu . Trong những năm gần đây tín dụng xuất
khẩu thường phát triển theo những hướng sau :
Quy mô tín dụng ngày càng tăng ;
Tăng quy mô tín dụng xuất khẩu của nhà nước ;
Tăng những tín dụng dài hạn và trung hạn ;
Tăng cấp tín dụng trực tiếp cho nhà xuất khẩu nước ngoài ( không thông qua
ngân hàng tín dụng ) ;
Giảm bớt phần tín dụng xuất khẩu của nhà xuất khẩu;
2. Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu
Nhà nước đảm bảo sẽ gánh vác mọi rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng mà

nhà xuất khẩu nước mình dành cho nhà xuất khẩu nước ngoài . Có 2 loại rủi ro xảy
ra đối với khoản tín dụng :
Rủi ro kinh tế : Khả năng tài chính của người mua không đủ để thanh toán
tín dụng ;
Rủi ro chính trị : Những sự kiện xảy ra ngoài khả năng tài chính khiến cho
người mua không thể thanh toấn được khoản tín dụng .
6
Bảo đảm tín dụng xuất khẩu khiến cho nhà xuất khẩu yên tâm và mở rộng
sản xuất . Hiện nay tín dụng xuất khẩu được thực hiện với thời hạn 5 – 7 năm . Để
nhà xuất khẩu quan tâm đến viêc thu tiền của người mua , Nhà nước không đảm
bảo hoàn toàn mà chỉ một phần nhất định khoảng 80 – 90 % của khoản tín dụng .
3. Trợ cấp xuất khẩu
Đó là những ưu đãi về tài chính mà Nhà nước dành cho nhà xuất khẩu khi họ
xuất khẩu được hàng hoá ra thị trường nước ngoài . Mục đích của trợ cấp xuất khẩu
là làm tăng thu nhập của nhà xuất khẩu , nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy
việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài .
Trợ cấp xuất khẩu có thể thực hiện dưới hình thức trực tiếp như tiền thưởng
xuất khẩu , áp dụng tỷ giá khuyến khích đối với ngoại tệ thu được do xuất khẩu ...
hoặc dưới hình thức gián tiếp như dùng ngân sách nhà nước để tuyên truyền quảng
cáo , giúp đỡ về kỹ thuật, tạo điều kiện cho các giao dịch xuất khẩu ...


7
8
PHẦN II
TỔNG QUAN VỀ THUỶ SẢN VIỆT NAM
I. VAI TRÒ CỦA MẶT HÀNG THỦY SẢN VÀ XUẤT KHẨU THỦY
SẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam , có giá
trị ngoại tệ xuất khẩu đứng hàng thứ tư trong các ngành kinh tế quốc dân ( sau dầu ,

gạo , và hàng may mặc ) trước năm 2001và đã vươn lên hàng thứ ba vào năm 2001
Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân
loại . Thực phẩm thuỷ sản có giá trị dinh dưỡng cao rất cần thiết cho sự phát triển
của con người. Không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo công ăn việc làm
cho nhiều cộng đồng dân cư đặc biệt ở những vùng nông thôn và ven biển . ở Việt
Nam , nghề khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cung cấp công ăn việc làm thường
xuyên cho khoảng 1,1 triệu người , tương ứng với 2,9 % lực lượng lao động có
công ăn việc làm . Thuỷ sản cũng có những đóng góp đáng kể cho sự khởi động và
tăng trưởng kinh tế nói chung của nhiều nước .
Không những là nguồn thực phẩm , thuỷ sản còn là nguồn thu nhập trực tiếp
và gián tiếp cho một bộ phận dân cư làm nghề khai thác , nuôi trồng , chế biến và
tiêu thụ cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá như : Cảng , bến , đóng sửa tàu
thuyền , sản xuất nước đá , cung cấp dầu nhớt, cung cấp các thiết bị nuôi , cung cấp
bao bì ... và sản xuất hàng tiêu dùng cho ngư dân . Theo ước tính có tới 150 triệu
người trên thế giới sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào ngành thuỷ sản .
Đồ trang sức được làm từ ngọc trai rất được ưa truộng trên thế giới với giá trị
cũng rất cao . Thậm chí từ những con ốc nhỏ người ta cũng có thể làm ra những
món hàng độc đáo ngộ nghĩnh thu hút sự quan tâm của mọi người .
Thuỷ sản là ngành xuất khẩu mạnh của Việt Nam . Hoạt động xuất khẩu thuỷ
sản hàng năm đã mang về cho ngân sách nhà nước một khoản ngoại tệ lớn , rất
9
quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước . Các sản phẩm được xuất
khẩu ra nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị trí của
Việt Nam nói chung và ngành thuỷ sản Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế .
Với những vai trò hết sức to lớn như trên và những thuận lợi , tiềm năng vô
cùng dồi dào của Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên và con người , phát triển nghề
nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản phục vụ tiêu dùng trong nước và hoạt
động xuất khẩu là một trong những mục tiêu sống còn của nền kinh tế Việt Nam .
II. THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG, KHAI THÁC VÀ CHẾ BIẾN
THỦY SẢN

1. Phân bố ngư nghiệp
Vùng phát triển ngư nghiệp mạnh nhất ở Việt Nam là vùng ven biển từ Bình
Thuận trở vào ; trong đó mạnh hơn cả là các tỉnh : Bà Rịa – Vũng Tàu , Tiền Giang
, Bến Tre , Trà Vinh, Kiên Giang , Bạc Liêu , Cà Mau , với giá trị hàng năm trên 20
tỷ đồng .
Những vùng đánh cá biển mạnh nhất là Kiên Giang (trên 100 nghìn tấn / năm
) , sau đó là Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Thuận ( 50 – 60 nghìn tấn / năm ) .
Nghề nuôi trồng và đánh bắt cá nước ngọt mạnh nhất là Bạc Liêu , Sóc
Trăng thành phố Hồ Chí Minh ( từ 10 – 20 nghìn tấn / năm ) . Riêng tôm thì tập
trung cao nhất ở Cà Mau với sản lượng hàng năm trên 25 nghìn tấn, chiếm 70 %
sản lượng tôm cả nước .
Các vùng trọng điểm ngư nghiệp là Đà Nẵng , Nha Trang, Bình Thuận ,
Vũng Tàu , Kiên Giang , Cà Mau .
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố ngư nghiệp
• Nhóm các yếu tố tự nhiên
Nước ta có 3,2 nghìn km bờ biển với gần 1 triệu km2 thềm lục địa bao gồm
mặt nước trong vũng , vịnh ven bờ , hơn 3 nghìn đảo và quần đảo . Nhiệt độ vùng
10
biển tương đối ấm và ổn định quanh năm , thích hợp cho sự sinh trưởng của các
loài thuỷ sản nước mặn nước , nước lợ .
Biển Việt Nam có trữ lượng cá lớn và đặc sản biển phong phú : Hàng chục
vạn ha diện tích mặt nước trên đất liền ( bao gồm 39 vạn ha hồ lớn ; 54 vạn ha vùng
ngập nước ; 5,7 vạn ha ao và 44 vạn km sông và kênh rạch ) có thể nuôi tôm , cá và
các thuỷ sản khác . Do đó , ngành nuôi thuỷ sản của nước ta , kể cả thuỷ sản nước
mặn , nước lợ , nước ngọt có thể trở thành ngành sản xuất chính .
Vùng biển nước ta có nhiều loài cá và đặc sản quí với hàng nghìn loài cá
biển , 3 trăm loài cua biển , 40 loài tôm he , gần 3 trăm loài trai ốc hến , 1 trăm loài
tôm , trên 3 trăm loài rong biển . Trong đó nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu
cao, được ưa chuộng trên thị trường quốc tế .
Tổng trữ lượng cá trong vùng biển Việt Nam khoảng 3 triệu tấn , trong đó

gần 1,6 triệu tấn cá đáy và 1,4 triệu tấn cá nổi . Với trữ lượng cá trên , có thể đánh
bắt từ 1,3 đến 1,4 triệu tấn / năm .
• Nhóm yếu tố kinh tế – xã hội
Tiềm năng của biển nước ta lớn , nhưng hiện nay sản lượng cá đánh bắt và
các đặc sản biển , sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản nước lợ , nước ngọt
còn thấp . Có nhiều nguyên nhân hạn chế khai thác tiềm năng của biển trong đó
nguyên nhân quan trọng là chưa đầu tư đúng mức lao động , nhất là lao động kỹ
thuật cho nghề đánh bắt nuôi trồng thuỷ và hải sản .
Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành đã và đang được chú trọng phát triển .
Ngoài các xí nghiệp đánh bắt cá quốc doanh trung ương , hàng loạt cơ sở đánh bắt
cá quốc doanh địa phương , các hợp tác xã nghề cá ... đã và đang được xây dựng ở
các huyện , tỉnh ven biển , đi đôi với những cơ sở hậu cần , chế biến tạo điều kiện
cho ngành đánh bắt và chế biến cá biển nước ta phát triển mạnh mẽ. Đồng thời ,
nhiều cơ sở quốc doanh và tập thể , tư nhân đánh bắt cá nuôi trồng và chế biến thuỷ
11
sản nước mặn , nước lợ , nước ngọt được phát triển mở rộng ở nhiều vùng, khu vực
trên phạm vi cả nước ... Tuy nhiên , đội tàu đánh cá hiện nay với 32 nghìn chiếc
hầu hết là tàu thuyền nhỏ, chưa được trang bị hiện đại để đánh bắt ở những vùng
biển sâu và biển xa ... đã hạn chế sự phát triển của ngành.
3. Nuôi trồng thuỷ sản
Nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Theo điều tra sơ bộ
của ngành thuỷ sản , riêng cá nước ngọt có 544 loài , cá nước lợ , nước mặn cũng
có 186 loài. Trong đó nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao , được ưa chuộng
trên thị trường quốc tế . Phương thức nuôi trồng cũng rất đa dạng tạo cho sản phẩm
thêm phong phú .
Nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua phát triển với tốc độ khá nhanh , thu được
hiệu quả kinh tế – xã hội đáng kể , từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở
các vùng ven biển , nông thôn và góp phần giải quyết việc làm , tăng thu nhập và
xoá đói , giảm nghèo .
Theo điều tra và quy hoạch của bộ thuỷ sản , đến tháng 8 năm 2001 tổng

diện tích nuôi trồng ở nước ta là 1,19 triệu ha .
• Nuôi thuỷ sản nước ngọt
Nuôi cá ao hồ nhỏ : Là một nghề có tính truyền thống gắn với nhà nông , từ
phong trào ao cá Bác Hồ đến phong trào VAC. Xu hướng diện tích ao đang bị thu
hẹp do nhu cầu phát triển xây dựng nhà ở . Đối tượng cá nuôi khá ổn định : trắm ,
chép , trôi , mè , trê lai , rô phi ... nguồn giống sinh sản hoàn toàn chủ động. Năng
suất cá nuôi đạt bình quân trên 3 tấn/ha.
Nghề nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ đã phát triển mạnh. Đặc biệt , tôm càng xanh
là một mũi nhọn để xuất khẩu và tiêu thụ trong nước , nhất là ở các thành phố ,
trung tâm dịch vụ góp phần điều chỉnh cơ cấu canh tác ở các vùng ruộng trũng
,tăng thu nhập và giá trị xuất khẩu .
12
Vấn đề khó khăn là sự phụ thuộc của năng suất vào điều kiện thời tiết , khí
hậu cộng với vấn đề trình độ của người nuôi chưa được giải quyết thích hợp đã dẫn
đến sự không ổn định của sản lượng nuôi . Các giống đã đưa vào nuôi là : lươn ,
ếch , ba ba , cá sấu ... Tuy nhiên , do thiếu quy hoạch , không chủ động nguồn
giống , thị trường không ổn định ... đã hạn chế khả năng phát triển .
Nuôi cá mặt nước lớn : Đối tượng nuôi thả chủ yếu là cá mè , ngoài ra còn
thả ghép cá trôi , cá rô phi ... Do khó khăn trong khâu bảo vệ và giá cá mè thấp nên
lượng cá thả vào hồ nuôi có xu hướng giảm .
Hình thức nuôi chủ yếu hiện nay là lồng bè kết hợp khai thác cá trên sông ,
trên hồ . Hình thức này đã tận dụng được diện tích mặt nước , tạo ra việc làm tăng
thu nhập , góp phần ổn định đời sống của những người sống trên sông , ven hồ . ở
các tỉnh phía Bắc và miền Trung , đối tượng nuôi chủ yếu là trắm cỏ , qui mô lồng
nuôi khoảng 12 – 24 m3 , năng suất 400 – 600 kg / lồng . ở các tỉnh phía Nam , đối
tượng nuôi chủ yếu là cá ba sa , cá lóc, cá bống tượng , cá he . Quy mô lồng , bè
nuôi lớn , trung bình khoảng 100 – 150 m3 / bè , năng suất bình quân 15 – 20 tấn /
bè .
Nuôi cá ruộng trũng : Tổng diện tích ruộng trũng có thể đưa vào nuôi cá theo
mô hình cá - lúa khoảng 580.000 ha . Năm 1998 , diện tích nuôi cá khoảng 154.200

ha . Năng suất và hiệu quả nuôi cá ruộng trũng khá lớn . Đây là một hướng cho việc
chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp , tăng thu nhập cho người lao động , xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn .
• Nuôi tôm nước lợ
Nuôi thuỷ sản nước lợ được phát triển rất mạnh thời kỳ qua , đã có bước
chuyển từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá , mang lại giá trị ngoại tệ cao
cho nền kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động .
13
Những năm gần đây tôm được nuôi ở khắp các tỉnh ven biển trong cả nước ,
nhất là tôm sú , tôm he , tôm bạc thẻ , tôm nương , tôm rảo , song chủ yếu là tôm sú
. Tôm được nuôi trong ao đầm theo mô hình khép kín , nuôi trong ruộng và nuôi
trong rừng ngập mặn . Nhìn chung , khu vực miền Nam thuận lợi nhất cho viêc
nuôi tôm . Nghề nuôi tôm ở khu vực này phát triển mạnh , chủ yếu dựa vào việc
đánh bắt các giống tôm tự nhiên . Diện tích nuôi tôm ước tính có tới 200 nghìn ha ,
trong đó 25 % là nuôi kết hợp với trồng ( tôm – lúa , tôm – dừa , tôm – sản xuất
muối , tôm - đước ) .
• Nghề nuôi trồng thuỷ sản nước mặn
Nghề nuôi biển có tiềm năng phát triển tốt . Đến nay nghề nuôi trai lấy
ngọc , nuôi cá lồng , nuôi tôm hùm , nuôi thả nhuyễn thể hai mảnh vỏ , nuôi trồng
rong sụn có nhiều triển vọng tốt . Tuy nhiên do khó khăn về vốn , hạn chế về công
nghệ, chưa chủ động được nguồn giống nuôi nên nghề nuôi biển thời gian qua còn
bị lệ thuộc vào tự nhiên , chưa phát triển mạnh .
• Hệ thống sản xuất giống
Hệ thống sản xuất giống thuỷ sản nước ngọt : Các loài cá nước ngọt truyền
thống hầu hết đã được sản xuất nhân tạo trong thời gian qua . Vấn đề cung cấp
giống cho nuôi trồng các đối tượng này tương đối ổn định . Số cơ sở sản xuất cá
giống nhân tạo trên toàn quốc hiện nay khoảng 354 cơ sở , hàng năm có khả năng
sản xuất khoảng trên 4 tỷ cá giống cung cấp kịp thời vụ cho nhu cầu nuôi trên cả
nước . Tuy nhiên , giá cá giống nhất là các loại đặc sản còn cao , chưa đảm bảo chất
lượng giống đúng yêu cầu và chưa được kiểm soát chặt chẽ .

Hệ thống sản xuất giống tôm : Giống tôm về cơ bản đã cho đẻ thành công ở
cả 3 miền Bắc , Trung , Nam , nhưng sản lượng còn thấp . Vấn đề nuôi vỗ tôm bố
mẹ thành thục chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng dẫn đến
tình trạng khan hiếm nguồn tôm bố mẹ trên cả nước , đặc biệt là vào vụ sản xuất
chính . Đến nay trên toàn quốc đã có 2.125 trại sản xuất và ươm tôm giống , hàng
14
năm sản xuất được khoảng 5 tỷ tôm P15 , bước đầu đã đáp ứng một phần nhu cầu
tôm giống cho nhân dân .
Hạn chế chủ yếu trong sản xuất giống là sự phân bố không đồng đều của các
trại giống theo khu vực địa lý đã dẫn đến tình trạng phải vận chuyển con giống đi
xa , vừa làm tăng thêm giá thành vừa làm giảm chất lượng con giống , chưa có sự
phù hợp trong sản xuất giống theo mùa đối với các loài nuôi phổ biến nhất và thiếu
các công nghệ hoàn chỉnh để sản xuất giống sạch bệnh .
• Tình hình sản xuất thức ăn
Theo thống kê hiện nay trên toàn quốc có khoảng 24 cơ sở sản xuất thức ăn
nhân tạo với tổng công suất 47.640 tấn / năm, sản lượng thức ăn đạt được chưa đáp
ứng nhu cầu cả và số lượng lẫn chất lượng . Giá thành cao do chi phí đầu vào chưa
hợp lý ảnh hưởng đến sức tiêu thụ . Với một số mô hình nuôi bán thâm canh ( nuôi
tôm ) và thâm canh ( nuôi cá lồng ) thì thức ăn được nhập từ nước ngoài và phải chi
trả một lượng ngoại tệ tương đối lớn .
4. Khai thác thuỷ sản
Khai thác luôn giữ vai trò quan trọng trong ngành thủy sản và bảo vệ an ninh
chủ quyền trên biển . ở Việt Nam , khai thác thuỷ sản mang tính nhân dân rõ nét .
Nghề cá ở khu vực nhân dân chiếm 99 % số lượng lao động và 99,5 % sản lượng
khai thác thuỷ sản .
Tàu thuyền : Trong giai đoạn 1991 – 2000 số lượng tàu thuyền máy tăng
nhanh , ngược lại tàu thuyền thủ công giảm dần . Năm 1991 tàu thuyền máy có
44.347 chiếc , chiếm 59,6 %; thuyền thủ công 30.284 chiếc , chiếm 40,4 % , đến
cuối năm 1998 tổng số thuyền máy là 71.767 chiếc , chiếm 82,4 % , tổng số thuyền
thủ công là 15.337 chiếc chiếm 17,6 % tổng số thuyền đánh cá .

Cơ cấu nghề nghiệp khai thác : Nghề nghiệp khai thác thuỷ sản ở nước ta rất
đa dạng và phong phú về quy mô cũng như tên gọi , theo thống kê chưa đầy đủ đã
15

×