Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

báo cáo thực tiễn và xu hướng cải cách tài chính tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.56 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
CAO HỌC K20 - LỚP ĐÊM 7
THỰC TIỄN
VÀ XU HƯỚNG CẢI CÁCH
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn:
TS. Diệp Gia Luật
Nhóm thực hiện:
Họ và tên Ngày sinh Ngành
1. Phan Văn Cương_ nhóm trưởng 27/11/1979 Thương mại
2. Huỳnh Thế Cường 04/9/1981 Tài chính nhà nước
3. Huỳnh Minh Đức 10/01/1975 Kinh tế phát triển
4. Phạm Văn Đức 13/6/1981 Thương mại
5. Nguyễn Thị Thanh Giang 16/7/1985 Thương mại
6. Nguyễn Trọng Hiếu 11/6/1983 Thương mại
7. Thái Thị Lanh 06/6/1985 Thương mại
8. Phạm Gia Lộc 22/11/1986 Thương mại
9. Huỳnh Tấn Tài 09/8/1968 Thương mại
10. Nguyễn Thị Phương Thảo 25/5/1981 Thương mại
(Tháng 03 năm 2011)
MỤC LỤC
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT
TIẾN HÀNH CẢI CÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về tài chính công và thị trường tài chính 4
1.1. Tài chính công 4
1.2. Thị trường tài chính 5
2. Sự cần thiết tiến hành cải cách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam 7
2.1. Tài chính công 7
2.2. Thị trường tài chính 7
CHƯƠNG II


THỰC TIỄN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Tài chính công 9
1.1. Ngân sách nhà nước 9
1.2. Các quỹ tài chính nhà nước 11
1.3. Tài chính ở các đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp 12
1.4. Đánh giá 13
2. Thị trường tài chính 15
2.1. Thị trường tiền tệ 15
2.2. Thị trường vốn 18
2.3. Đánh giá 19
CHƯƠNG III
XU HƯỚNG CẢI CÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Định hướng của Đảng và Chính phủ 23
2. Xu hướng cải cách 23
2.1. Tài chính công 23
2.2. Thị trường tài chính 28
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Dương Thị Bình Minh, TS. Sử Đình Thành – GIÁO TRÌNH LÝ THUYẾT
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ – NXB Thống kê 2005.
2. Cấn Quang Tuấn, Văn phòng Bộ Nội vụ – CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP – 2008.
3. Các văn bản Luật, Nghị định, Thông tư của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ liên quan về
lĩnh vực thuế, tài chính công và thị trường tài chính.
4. Các website vneconomy.vn; Ngân hàng nhà nước (www.sbv.gov.vn); Uỷ ban chứng
khoán nhà nước (www.ssc.gov.vn); Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn).
3
LỜI MỞ ĐẦU
Cải cách tài chính tiền tệ là nhiệm vụ quan trọng của đất nước có liên quan mật thiết
với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, vấn đề cải cách tài chính - tiền tệ ở nước ta

có ý nghĩa rất quan trọng. Việc cải cách đang được Đảng và Chính phủ tiến hành trên cả 2
ĩnh vực là tài chính công và tài chính tư (thị trường tài chính) nhằm huy động nguồn lực
cho phát triển kinh tế một cách hiệu quả, sử dụng ngân sách để điều tiết các nguồn thu -
chi trong xã hội một cách hợp lý, tiến tới việc xây dựng thị trường tài chính Việt Nam theo
chuẩn mực của khu vực và thế giới.
Bên cạnh những thành công đạt được, quá trình cải cách cũng gặp nhiều khó khăn,
thách thức, đòi hỏi phải có những cải cách tiếp tục trong thời gian tới. Do đó, tiểu luận này
sẽ tập trung trình bày thực tiễn cải cách tài chính - tiền tệ ở nước ta và xu hướng trong thời
gian tới.
Với mục tiêu trên, kết cấu của tiểu luận sẽ gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết tiến hành cải cách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
Chương 3: Xu hướng cải cách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
Cuối cùng, nhóm chân thành cảm ơn TS. Diệp Gia Luật cùng toàn thể học viên Lớp
đêm 7 đã góp ý để tiểu luận của nhóm chúng tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
4
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT
TIẾN HÀNH CẢI CÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về tài chính công và thị trường tài chính
1.1. Tài chính công
Tài chính công là một phạm trù gắn với các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà
nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện những chức
năng vốn có của nhà nước đối với xã hội (không vì mục tiêu lợi nhuận).
Nội dung của tài chính công bao gồm: ngân sách nhà nước từ trung ương đến địa
phương; dự trữ nhà nước; tín dụng nhà nước; ngân hàng nhà nước; tài chính của các cơ
quan hành chính nhà nước; tài chính của các đơn vị sự nghiệp nhà nước; các quỹ tài chính
nhà nước (đối với nước ta). Trong đó, ngân sách nhà nước được xem là bộ phận quan
trọng nhất, chi phối đến các thành tố khác. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập đến 3

thành tố có quan hệ chặt chẽ với nhau và liên quan trực tiếp tới việc cải cách tài chính
công hiện nay. Đó là: ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các đơn
vị hành chính sự nghiệp
• Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong 1 năm để bảo đảm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế, hoạt động thu -
chi của ngân sách nhà nước thể hiện quá trình phân phối và phân phối lại một bộ phận giá
trị tổng sản phẩm xã hội. Quy mô phân phối lại phụ thuộc vào mức độ động viên của ngân
sách nhà nước.
Thuế chiếm vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, là thành phần chủ
yếu và chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước có 3 chức năng cơ bản. Đó là: công cụ thực hiện việc phân bổ
nguồn lực trong xã hội; thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập và chức năng điều
chỉnh vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Với các chức năng đó, ngân sách nhà nước tác động
trực tiếp và gián tiếp tới hầu hết các chủ thể, các đơn vị và các tổ chức trong xã hội. Điều
này cũng giải thích tại sao ngân sách nhà nước lại là thành tố quan trọng nhất của tài chính
công.
• Các quỹ tài chính nhà nước, về nguyên tắc, ngân sách nhà nước phải được quản lý
một cách toàn diện, nhưng không có nghĩa là tất cả các khoản chi phải được quản lý theo
quy trình thống nhất. Vì vậy, ở nhiều nước, một số khoản chi của Chính phủ đã được quản
lý thông qua các quy trình đặc biệt, mà chủ đạo là các quỹ tài chính nhà nước, tạo nên sự
linh hoạt nhất định trong quyết định chi tiêu của Chính phủ.
Quỹ tài chính nhà nước có nhiều loại hình khác nhau. Nhưng xét về hình thức tổ chức
thường có 2 loại: là tổ chức tài chính có bộ máy tổ chức, có tư cách pháp nhân (như Quỹ
hỗ trợ phát triển ) hoặc chỉ là nguồn tài chính dành riêng để sử dụng vào một hoặc một số
mục đích nhất định (như Quỹ bình ổn giá cả, Quỹ tích luỹ trả nợ ).
Các quỹ tài chính nhà nước thường có nguồn thu chủ yếu từ ngân sách nhà nước và
huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Việc sử dụng quỹ không được hạch toán vào
5
ngân sách mà được quản lý theo các quy định riêng. Tuy nhiên, cách làm này, bất kể mục

đích gì đều làm nảy sinh một số vấn đề trong việc phân bổ nguồn ngân sách. Thông
thường thì các giao dịch thực hiện từ các quỹ này không được phân loại theo các tiêu chí
như các khoản chi ngân sách, từ đó làm ảnh hưởng đến tính đầy đủ, chính xác của việc
phân tích các chương trình chi tiêu của Chính phủ. Hơn nữa, sự hiện diện của quá nhiều
các loại quỹ tài chính nhà nước trong nền kinh tế sẽ làm cho nguồn lực tài chính nhà nước
bị phân tán, tính minh bạch của ngân sách vì thế cũng sẽ bị hạn chế.
• Tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: các cơ quan hành chính, đơn
vị sự nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những đơn vị có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ
công cho xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt động chủ yếu dựa vào những
khoản cấp phát theo chế độ từ ngân sách nhà nước. Ngoài ra, còn một số khoản thu khác
có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, các khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc từ quyên
góp, tặng, biếu không phải nộp ngân sách nhà nước.
Giữa ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó ngân sách nhà nước
có vai trò quan trọng và chi phối các thành tố khác. Một bộ phận rất lớn của chi ngân sách
nhà nước được các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng trực tiếp, do đó, hiệu
quả tài chính của các khu vực này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chi ngân sách nhà
nước. Ngược lại, quy mô và hiệu quả của ngân sách nhà nước cũng sẽ quyết định, chi phối
tiềm lực và hiệu quả tài chính các đơn vị hành chính, sự nghiệp.
Quản lý tài chính công được thực hiện theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
• Nguyên tắc hiệu quả: là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính
công. Hiệu quả thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Hiệu quả xã
hội và hiệu quả kinh tế là 2 nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình
thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách.
• Nguyên tắc thống nhất: thống nhất quản lý bằng pháp luật là nguyên tắc không thể
bỏ qua trong quản lý tài chính công. Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo tính bình đẳng,
công bằng, hiệu quả, hạn chế những tiêu cực, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan
khi quyết định các khoản chi tiêu.
• Nguyên tắc tập trung dân chủ: tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn lực của xã
hội được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý. Các khoản đóng góp của dân thực sự phải

do dân quyết định chi tiêu nhằm đáp ứng mục tiêu chung của cộng đồng.
• Nguyên tắc công khai, minh bạch: thực hiện công khai minh bạch trong quản lý sẽ
tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài
chính, hạn chế những thất thoát và bảo đảm tính hiệu quả.
1.2. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động giao dịch và mua bán quyền sử dụng
những khoản vốn thông qua các phương thức giao dịch và những công cụ tài chính nhất
định.
• Phân loại thị trường tài chính
Có nhiều cách đến phân loại thị trường tài chính. Nếu phân loại theo công cụ tài chính
trên thị trường, ta có thị trường nợ và thị trường chứng khoán. Nếu phân loại theo thời
gian luân chuyển vốn, ta có thị trường tiền tệ (có thời gian luân chuyển vốn dưới 1 năm)
và thị trường vốn (có thời gian luân chuyển vốn từ 1 năm trở lên). Nếu phân loại theo hình
6
thức phát hành, ta có thị trường sơ cấp (phát hành chứng khoán lần đầu) và thị trường thứ
cấp (mua đi bán lại các chứng khoán). Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các hình thức
phân loại nào thì sẽ tuỳ thuộc vào vấn đề mà người nghiên cứu. Thông thường, khi nói đến
thị trường tài chính người ta thường phân ra theo 2 cách sau.
• Cấu thành của thị trường tài chính
Trong một thị trường tài chính hiện đại, luôn có 3 thành phần cơ bản tham gia là:
người sử dụng cuối cùng, các định chế tài chính trung gian và các nhà đầu tư.
Những doanh nghiệp, cá nhân khi cần vốn cho kế hoạch kinh doanh của mình có thể
huy động nguồn vốn này trên thị trường tài chính, bằng nhiều hình thức khác nhau thông
qua các định chế tài chính trung gian. Họ là những người sử dụng nguồn vốn này để thực
hiện các kế hoạch kinh doanh, tạo ra lợi nhuận. Đồng thời, họ cũng có những nghĩa vụ của
người vay nợ đối với người cho vay.
Các định chế tài chính trung gian gồm:
- Các tổ chức nhận ký gửi là các tổ chức nhận ký gửi bao gồm các ngân hàng thương
mại, các hợp tác xã tín dụng. Các tổ chức này có đặc điểm chung là nhận tiền gửi và sau
đó đem cho vay trực tiếp tới các cá nhân, tổ chức cần vốn và một phần khác đem đầu tư

vào chứng khoán. Như vậy, thu nhập của tổ chức này có được từ 2 nguồn: thu nhập từ tiền
lãi cho vay và đầu tư chứng khoán, thu nhập từ các khoản phí dịch vụ.
- Các tổ chức không nhận ký gửi bao gồm các tổ chức như: công ty bảo hiểm, quỹ
hưu trí, quỹ đầu tư.
- Nhà đầu tư là những người sẵn sàng bỏ vốn ra để đầu tư cho các dự án. Họ là thành
phần đầu vào tạo ra nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Họ là những người gửi tiết kiệm
ngân hàng, mua cổ phiếu, trái phiếu.
• Vai trò của thị trường tài chính
Thứ nhất, hình thành giá các tài sản tài chính. Thông qua tác động qua lại giữa những
người mua và những người bán, giá của tài sản tài chính (chứng khoán) được xác định,
hay nói cách khác, lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được xác định.
Thứ hai, cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán tài sản tài chính. Với đặc tính
này, thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản. Thiếu tính thanh khoản, các nhà đầu tư
phải nắm giữ tài sản tài chính cho đến khi nào đáo hạn, hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào
công ty tự nguyện thu hồi hoặc nếu không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù
tất cả các thị trường tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản giữa
chúng là khác nhau.
Thứ ba, giảm bớt chi phí tìm kiếm và chi phí thông tin. Để các giao dịch có thể được
diễn ra thì những người mua và người bán phải tìm được nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền
và thời gian cho việc tìm kiếm này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ. Chi phí đó
là chi phí tìm kiếm. Bên cạnh, để tiến hành đầu tư họ cần có các thông tin về giá trị đầu tư
như khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền kỳ vọng. Thị trường tài chính nhờ có tính
trung lập này - là nơi để người mua, người bán đến đó tìm gặp nhau, là nơi cung cấp các
thông tin một cách công khai và đầy đủ - nên có khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch
lớn, vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp nhất những khoản chi phí trên.
Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế, đi từ đơn
giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị trường tài chính ngày càng có
nhiều loại trung gian tài chính tham gia. Các trung gian tài chính ngày càng tạo ra nhiều
7
loại sản phẩm tài chính đa dạng, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia

thị trường.
2. Sự cần thiết tiến hành cải cách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
2.1. Tài chính công
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cải cách tài chính công là một đòi hỏi khách quan
xuất phát từ thực trạng tài chính công hiện nay và yêu cầu về cải cách hành chính nhà
nước trong những năm tới.
Thứ nhất, đối với thực trạng tài chính công hiện nay, bên cạnh một số kết quả bước
đầu đạt được, tài chính công vẫn đang còn những hạn chế cần sớm khắc phục, đó là:
• Đối với lĩnh vực ngân sách nhà nước: do chưa xây dựng khuôn khổ tài chính trung
hạn nên hạn chế tính chiến lược của ngân sách và không phù hợp với việc quản lý các dự
án tài chính lớn cần thực hiện trong nhiều năm. Bố trí ngân sách còn bị động, co kéo với
các mục tiêu ngắn hạn. Cơ cấu chi ngân sách còn bất hợp lý, vẫn còn những khoản chi
mang tính bao cấp. Phạm vi chi ngân sách chưa được xác định rõ nên khó giảm được gánh
nặng chi ngân sách trong khi quy mô ngân sách còn nhỏ. Mặt khác, việc chi bao cấp, bao
biện đã tạo tư tưởng ỷ lại, làm giảm động lực phát triển và cản trở việc thu hút đầu tư xã
hội vào việc cung cấp dịch vụ công. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách còn kém
hiệu quả, sử dụng lãng phí. Công tác kiểm soát chi vẫn nặng nề về số lượng, chưa chú ý
đúng mức đến chất lượng, hiệu quả khoản chi
• Đối với tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: định mức, chế độ chi
tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể, không đồng bộ. Cơ chế quản lý biên chế, quản lý kinh phí ngân
sách còn bất cập, chưa tạo động lực khuyến khích sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả,
dẫn đến tình trạng lãng phí khá phổ biến.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và những thể chế mới về
ngân sách nhà nước cũng đặt ra yêu cầu về cải cách tài chính công một cách cấp thiết, cụ
thể:
• Luật ngân sách nhà nước (2002) vừa tạo ra cơ sở pháp lý cho cải cách căn bản về
tài chính công, vừa dẫn đến những yêu cầu về cải cách tài chính công như: cơ cấu lại chi
ngân sách, đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách
• Mục tiêu tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 đã đặt ra
yêu cầu cải cách tài chính công. Đó là: tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ

động xử lý các công việc ở địa phương; phân biệt cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp, dịch vụ công; đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, chuyển từ cấp kinh phí
theo biên chế sang cấp kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào
kiểm soát đầu ra, tăng quyền chủ động của đơn vị sử dụng ngân sách
Những kết quả bước đầu của cải cách tài chính công ở Việt Nam thời gian gần đây đòi
hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn tới.
2.2. Thị trường tài chính
Cấu trúc của thị trường tài chính còn chưa thật phù hợp với yêu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo thể chế kinh tế này, nền kinh tế tồn
tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp. Mỗi thành phần kinh tế và loại
hình doanh nghiệp đều có nhu cầu về dịch vụ tài chính cũng như nguồn vốn phù hợp với
mức độ phát triển của thành phần kinh tế đó. Do vậy, cấu trúc của thị trường tài chính đòi
8
hỏi phải có những định chế tài chính tương thích đáp ứng nhu cầu đa dạng của các thành
phần kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế dịch vụ tài chính ngân hàng và sự phân bổ nguồn vốn
ngân hàng hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu cho các thành phần kinh tế đa dạng này,
làm hạn chế khả năng vận hành có hiệu quả của thị trường tài chính.
Hệ thống chính sách, cơ sở phát lý cho hoạt động của thị trường chưa đầy đủ, các quy
định điều tiết thị trường chưa hoàn chỉnh, đồng bộ. Khả năng của ngân hàng nhà nước còn
hạn chế trong điều tiết, can thiệp thị trường một cách chủ động, linh hoạt. Thị trường thiếu
hệ thống giám sát rủi ro và cảnh báo sớm; chưa hình thành được hệ thống chỉ tiêu chuẩn
để phản ánh tình trạng thị trường và định hướng kỳ vọng cho các thành viên, đặc biệt chưa
có được đường cong lãi suất chuẩn. Hoạt động thị trường liên ngân hàng còn đơn điệu,
chủ yếu là các giao dịch tiền gửi và tín dụng truyền thống, các nghiệp vụ phái sinh tiền gửi
và đầu tư liên ngân hàng chưa được triển khai (đầu thầu tiền gửi, giao dịch kỳ hạn vốn…).
Thị trường còn tiểm ẩn những rủi ro về mất cân đối kỳ hạn, năng lực kiểm soát rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường của các tổ chức tín dụng còn yếu. Nhiều tổ
chức tín dụng chưa có khả năng kiểm soát và quản lý vốn tập trung toàn hệ thống, chưa
thiết lập lên bộ phận kinh doanh vốn, hệ thống quản lý rủi ro độc lập và năng lực tài chính
của các tổ chức tín dụng còn nhiều yếu kém.

Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến kinh tế Việt Nam
cùng với những yếu kém nội tại của nền kinh tế vẫn là thách thức lớn nhất đối với thị
trường tài chính mà trực tiếp là thị trường chứng khoán. Khủng hoảng và suy thoái kinh tế
khiến các doanh nghiệp hoạt động khó khăn hơn làm ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh
nghiệp. Thêm vào đó, sự sụt giảm giá chứng khoán trong năm 2008 còn ảnh hưởng nặng
nề đến tâm lý các nhà đầu tư, khiến nhiều nhà đầu tư không còn mặn nồng đầu tư vào thị
trường chứng khoán. Điều này dẫn đến những khó khăn trong hoạt động của các công ty
chứng khoán, các quỹ đầu tư làm cho dòng vốn lưu chuyển trên thị trường chứng khoán
chậm lại, kém hiệu quả.
9
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Tài chính công
1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1. Thu ngân sách nhà nước
Thuế chiếm vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước. Trong những năm
qua, thuế luôn là nguồn thu ngân sách chủ, đảm bảo cho các mục tiêu tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội.
• Thuế xuất nhập khẩu
Với việc trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đang
từng bước cắt giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng theo đúng lộ trình cam kết. Thuế
suất cam kết cuối cùng (thực hiện trong 5 - 7 năm) có mức bình quân giảm 23% so với
mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn
13,4%). Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã cắt giảm khoảng 3.000 dòng thuế và vẫn
tiếp tục cắt giảm trong những năm kế tiếp theo theo cam kết. Ngoài ra, theo cam kết với
Khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA), Việt Nam cũng đã tiến hành cắt giảm khoảng
7.600 dòng thuế. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu đã làm giảm đáng kể đến tỷ trọng của thuế
nhập khẩu trong tổng thu ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 13% tổng thu ngân sách nhà
nước trước khi tiến hành cắt giảm), nhưng bù lại, việc tự do hóa thương mại với các nước
thành viên sẽ giúp tạo nguồn thu cho xuất khẩu cũng như việc thu hút các dòng vốn đầu tư

về Việt Nam. Ngoài ra, với việc phải cắt giảm thuế nhập khẩu, chúng ta cũng chuyển hình
thức bảo hộ thuế quan sang hình thức bảo hộ phi thuế quan đối với các ngành công nghiệp
non trẻ trước sức ép của hàng ngoại. Đối với thuế xuất khẩu, chúng ta vẫn đang tiến hành
cải cách theo hướng giảm thuế xuất khẩu cho các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao và
tăng thuế đối với nguyên liệu thô hoặc các sản phẩm chưa qua chế biến (gỗ, khoáng
sản…)
• Thuế thu nhập
Đổi mới các chính sách về thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng trong xu hướng cải
cách lĩnh vực thuế. Tỷ trọng đóng góp của thuế trực thu vào ngân sách nhà nước tăng qua
các năm và đây sẽ là nguồn thu chủ yếu trong những năm tới theo định hướng của Nhà
nước. Đây chính là xu hướng phù hợp với các nước phát triển trên thế giới. Trong các loại
thuế trực thu thì thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp là 2 loại thuế chính.
o Thuế thu nhập cá nhân
Hòa cùng xu hướng phát triển chung của các nước phát triển về các chính sách thuế,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 147/2004/NĐ-CP quy định chi tiết về việc thực hành
pháp lệnh thuế đối với người có thu nhập cao. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban hành luật số
04/2007/QH12 về thuế thu nhập cá nhân. Có thể thấy rõ những đổi mới trong luật thuế thu
nhập cá nhân như quy định rõ ràng thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường
xuyên. Thu nhập chịu thuế của các cá nhân được mở rộng ra bao gồm các thu nhập về
chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng vốn, thu nhập từ lãi cho vay…
10
Một đổi mới quan trọng trong luật thuế thu nhập cá nhân đó là việc giảm mức thuế suất
(mức thuế suất thấp nhất giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn
35%). Biểu thuế suất mới của luật thuế thu nhập cá nhân đảm bảo công bằng hơn trong
việc điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Mặt khác,
việc hạ mức thuế suất cao nhất (từ 40% xuống còn 35%) càng khuyến khích người lao
động sản xuất kinh doanh và làm giàu chính đáng. Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập cá nhân
mới vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, như quy định các khoản giảm trừ gia cảnh chưa
được hợp lý, chưa tính đến mặt bằng thu nhập chung của các địa phương.
o Thuế thu nhập doanh nghiệp

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007, theo
đó thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 28% xuống 25%, thể hiện rõ việc khuyến
khích các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh. Tuy nhiên, việc thắt chặt lại thời gian ưu
đãi miễn giảm thuế cũng như các khu vực được hưởng ưu đãi miễn giảm thuế nhằm mục
đích tận thu thuế các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI (những doanh nghiệp luôn dùng thủ
thuật mở rộng sản xuất để hưởng các ưu đãi về thuế).
Một vấn đề quan trọng là việc chống chuyển giá đối với các công ty đa quốc gia khi
lượng thuế thu nhập doanh nghiệp bị thất thu ngày càng lớn. Đến nay, Bộ Tài chính chỉ
mới ban hành 2 thông tư (trong đó Thông tư 66/2010/TT-BTC thay thế Thông tư
117/2005/TT-BTC) quy định về hoạt động chuyển giá. Mặt khác, do những hạn chế về
nhân lực, các cán bộ thuế của các cơ quan thuế vẫn chưa theo kịp với tình hình, đặc biệt là
việc phát hiện và xử lý các vi phạm về chuyển giá của doanh nghiệp.
• Các loại thuế khác
o Thuế giá trị gia tăng
Đối với thuế giá trị gia tăng, việc đổi mới nhằm thống nhất lại các chính sách thuế, về
các vi phạm cũng như ưu đãi. Một điều dễ nhận thấy nữa là trong luật về thuế giá trị gia
tăng ban hành vào năm 2007, đã có tới 17 mặt hang tăng mức thuế từ 5% lên 10% so với
luật cũ. Điều này thể hiện rõ quan điểm xem thuế gián thu như là một nguồn thu chủ yếu
của thu ngân sách trong giai đoạn tới.
o Thuế tiêu thụ đặc biệt
Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, Chính phủ xem đây là một công cụ nhằm bảo hộ các
ngành công nghiệp non trẻ thông qua việc điều chỉnh mức thuế tiêu thụ đặc biệt. Một ví dụ
dễ thấy đó là việc nhập khẩu ôtô, thông qua việc điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt, Chính
phủ đã gián tiếp thực hiện việc bảo hộ đối với ngành công nghiệp ôtô trong nước.
* Cải cách hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế
Việc cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế đang diễn ra theo hướng giúp các doanh
nghiệp và cá nhân dễ dàng hơn trong việc kê khai và nộp thuế. Tổng cục thuế đang triển
khai mô hình kê khai thuế qua mạng và nhân rộng ra các địa phương trên khắp cả nước,
hay như Cục thuế Tp. HCM cũng triển khai phần mềm kê khai thuế cá nhân…
Việc phát triển nhân lực trong ngành thuế cũng được chú trọng, trong đó chú trọng

việc bồi dưỡng cho các cán bộ ngành thuế am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ cũng như
thái độ khi tiếp cá nhân và các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc tuyên truyền các chính sách
thuế cho cá nhân và doanh nghiệp cũng đang được triển khai một cách thành công.
1.1.2. Chi ngân sách nhà nước
• Giai đoạn 1991 - 1995
11
Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách nhà nước đã giảm dần
qua từng năm và được bù đắp bằng vay trong nước và vay nước ngoài. Trong giai đoạn
1991 - 1995, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17%
(1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có
thể thấy bội chi ngân sách nhà nước trong những năm 1991 - 1995 là rất thấp, thể hiện
chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ.
• Giai đoạn 1996 - 2000
Tình hình thu - chi ngân sách nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu không
những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt ngân sách nhà nước
được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn 1996 - 2000, do tác động của khủng
hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000 mới tăng
lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà
nước ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996: 3%, năm
1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ bội chi bình
quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991 - 1995 (2,63%). Năm 2000
có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mức bội chi thấp nhất là 2,49%.
Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức bội chi ngân sách nhà nước như trên
không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn
đi lên.
• Giai đoạn 2001 - 2007
Giai đoạn 2001 - 2007, ngân sách nhà nước cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ
tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt 18,5%.

Bội chi ngân sách nhà nước trong
giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối
ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức
4,9% - 5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ
so với GDP, cũng thấy bội chi ngân
sách nhà nước trong 7 năm trở lại
đây tăng cao hơn các năm trước đó
khá nhiều (bình quân khoảng 4,95%
GDP) vì giai đoạn 1991 - 1995, mức
bội chi ngân sách nhà nước so với
GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn
1996 - 2000 ở mức 3,87% so với GDP.
1.2. Các quỹ tài chính nhà nước
Với việc hình thành các quỹ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, Nhà nước có thêm công
cụ để điều tiết các khoản thu nhập trong xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu công bằng, dân
chủ, văn minh.
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội mang tính xã hội rộng lớn, được áp dụng đối với
mọi người lao động trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế số
người tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên hàng năm. Nếu như năm 1995 có
2,85 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội thì đến cuối năm 2003 đã là 5,24 triệu người.
12
Hình 2.1. Bội chi ngân sách/GDP qua các năm
Hình thành được hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam thống nhất từ trung ương xuống
địa phương. Với hệ thống tổ chức này, lần đầu tiên việc thực hiện các nhiệm vụ thu bảo
hiểm xã hội chi trả cho các đối tượng, xét duyệt hồ sơ hưởng bảo hiểm xã hội đã được tập
trung vào một đầu mối. Về thực hiện chế độ, nếu tính cả 8 năm qua, bảo hiểm xã hội đã
giải quyết cho 1.055 triệu người nghỉ hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, bình quân
mỗi năm tăng 40 vạn người, bằng khoảng 1% nguồn lao động xã hội. Trong khi đó, các
đối tượng được hưởng trợ cấp lại đều chưa có tài khoản cá nhân, phương thức chi trả chủ
yếu là chi trực tiếp.

Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tài chính độc lập được hình thành trên cơ sở đóng góp
của người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước. Với
mức đóng góp 5% của người lao động và 15% của người sử dụng lao động theo Điều lệ
bảo hiểm xã hội đã làm cho quỹ bảo hiểm xã hội hình thành trên thực tế và trở thành quỹ
tài chính độc lập với ngân sách nhà nước. Như vậy, các quan hệ tài chính trong bảo hiểm
xã hội đã được thể hiện rõ ràng các nguồn thu và các khoản chi bảo hiểm xã hội đã được
cân đối một cách tổng thể. Sự đóng góp bảo hiểm xã hội của các bên còn thể hiện quyền
lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong bảo hiểm xã hội.
Việc tổ chức bảo hiểm xã hội được tập trung thống nhất và phân định rõ chức năng của
cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội và cơ quan quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã
hội. Sự quản lý quỹ bảo hiểm xã hội tập trung thống nhất đã tạo điều kiện để các doanh
nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với người lao động, nâng cao trách nhiệm đảm
bảo quyền lợi cho người lao động của cơ quan bảo hiểm xã hội và nâng cao hiệu quả quản
lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Việc thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội theo cơ chế mới dựa trên nguyên
tắc có đóng bảo hiểm xã hội mới được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Nguyên
tắc này đã làm thay đổi một cách cơ bản nhận thức của hàng triệu lao động và người sử
dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, làm cho chính sách
bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, bảo đảm sự công bằng
những người lao động và người sử dụng lao động về nghĩa vụ bảo hiểm xã hội.
1.3. Tài chính ở các đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp
1.3.1. Các đơn vị hành chính, sự nghiệp
Do định mức, chế độ chi tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể, không đồng bộ; cơ chế quản lý biên
chế, quản lý kinh phí còn bất cập chưa tạo động lực khuyến khích sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả, dẫn đến tình trạng lãng phí khá phổ biến.
1.3.2. Khối doanh nghiệp nhà nước
Tính đến đầu năm 2009, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.556 doanh nghiệp và 8
tổng công ty nhà nước, trong đó cổ phần hóa được 3.854 doanh nghiệp và bộ phận doanh
nghiệp, giao 196 doanh nghiệp, bán 155 doanh nghiệp, khoán và cho thuê 30 doanh
nghiệp, sáp nhập 531 doanh nghiệp, còn lại các hình thức khác là 790 doanh nghiệp.

Cổ phần hóa đã trở thành biện pháp sắp xếp lại, làm thay đổi về chất của khu vực
doanh nghiệp nhà nước nhờ vào việc hình thành các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu
cũng như tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp.
Hơn nữa, chính cổ phần hóa cũng đã giúp Nhà nước thu về hàng ngàn chục tỷ đồng
nhờ vào việc bán bớt phần vốn của mình tại các doanh nghiệp nhà nước, từ đó có vốn để
đầu tư cho các dự án trọng điểm cần thiết.
13
Quá trình cổ phần hóa giúp cho các doanh nghiệp nhà nước không chỉ thu lợi từ việc
mở rộng quy mô của mình (thông qua thị trường tài chính), mà còn giúp các doanh nghiệp
này thay đổi mô hình quản lý theo hướng tiếp cận với những quy trình quản lý hiện đại.
Điều này giúp cho các doanh nghiệp cổ phần hóa có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp
tư nhân không chỉ trên phương diện kinh doanh mà còn trên phương diện thu hút vốn, kỹ
thuật và nhân lực.
Tuy nhiên, nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc điều hành các doanh nghiệp cổ
phần (đặc biệt là các tổng công ty), nhằm giúp ổn định và định hướng sự phát triển của các
doanh nghiệp này thông qua lượng cổ phần mà nhà nước nắm giữ (đại diện là Tổng công
ty vốn nhà nước).
1.4. Đánh giá
1.4.1. Thành tựu
• Về lĩnh vực thuế
Như đã biết thuế chiếm vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách. Về cơ bản, việc
đổi mới theo hướng cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết với WTO đang diễn ra theo
đúng lộ trình và dự kiến sau 5 năm, kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, sẽ
đạt mức thuế suất cam kết cuối cùng. Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế đang ngày
càng hoàn thiện theo hướng điều chỉnh cân bằng và coi thuế là công cụ quan trọng để điều
tiết nguồn thu ngân sách cũng như công bằng xã hội. Việc đổi mới các cải cách hành
chính trong lĩnh vực thuế giúp các doanh nghiệp và cá nhân dễ dàng hơn trong việc tiếp
cận các chính sách về thuế của nhà nước cũng như kê khai và nộp thuế. Trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của cán bộ thuế ngày càng được nâng cao, đào tạo đội ngũ cán bộ thuế am
tường nghiệp vụ và tận tụy với công việc.

• Về chi ngân sách nhà nước
Ngân sách này đã được cơ cấu lại theo hướng giảm các khoản chi bao cấp, tăng dần tỷ
lệ chi cho đầu tư phát triển, tập trung ưu tiên chi cho những nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội quan trọng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc. Công tác quản lý và phân
cấp ngân sách đã có những đổi mới cơ bản, nâng cao quyền chủ động và trách nhiệm của
các đơn vị, các địa phương và các ngành sử dụng ngân sách; giảm được nhiều khâu, thủ
tục không cần thiết trong cấp phát ngân sách, tập trung vào công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát tài chính. Bội chi ngân sách nhà nước được xử lý theo hướng tích cực và được
kiềm chế trong giới hạn cho phép. Giải quyết thành công cơ cấu lại nợ nước ngoài, tỷ lệ
nợ nước ngoài được khống chế ở mức an toàn theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện giữ
vững an ninh tài chính quốc gia. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính bước đầu đã thu
được kết quả tích cực.
• Về các quỹ tài chính nhà nước
Nhìn chung, chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành đã góp phần tích cực vào việc làm
lành mạnh hóa thị trường lao động ở nước ta, góp phần thực hiện bình đẳng xã hội và ổn
định xã hội.
Bảo hiểm y tế được triển khai ở nước ta đến nay được 12 năm. Mặc dù những năm đầu
còn gặp rất nhiều khó khăn, song từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 58/1998/NĐ-
CP kèm theo Điều lệ bảo hiểm y tế mới, công tác quản lý và tổ chức thực hiện chính sách
bảo hiểm y tế từ trung ương đến các địa phương đã đi vào nền nếp.
14
Bảo hiểm y tế với bản chất nhân văn, có tính cộng đồng cao đã đáp ứng được nhu cầu
khám chữa bệnh cho người dân. Số người tham gia bảo hiểm y tế liên tục tăng qua các
năm, kể cả dạng bắt buộc và tự nguyện. Nếu như năm 1993 (năm đầu triển khai bảo hiểm
y tế) chỉ có 3,8 triệu người tham gia, số thu đạt 111 tỷ đồng, thì đến năm 2003, số người
tham gia đã lên tới 16,8 triệu người, chiếm 21% dân số cả nước.
• Đối với các đơn vị hành chính, sự nghiệp
Trên cơ sở phân định rõ các đơn vị hành chính với đơn vị sự nghiệp, tiến hành áp dụng
cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, Nhà nước đã ban hành Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử

dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước và Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Tóm
lại, cơ chế tài chính đối với khu vực hành chính, sự nghiệp được đổi mới về cơ bản theo
hướng tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính. Cơ chế tài chính trong
việc cung cấp dịch vụ công theo hướng khuyến khích các tổ chức kinh tế và nhân dân đầu
tư để thực hiện và cung cấp một số dịch vụ công, đẩy mạnh xã hội hóa một số lĩnh vực sự
nghiệp, thu hút được nguồn nội lực đáng kể cho phát triển sự nghiệp.
1.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện cải cách tài chính công còn
tiềm ẩn những yếu tố chưa ổn định. Mặc dù thời gian qua, Chính phủ đã không ngừng
hoàn thiện chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính công nhằm nâng cao chất
lượng hàng hoá công cho xã hội, nhưng kết quả thực tế mang lại không cao do các nguyên
nhân sau:
Một là, thể chế tài chính trong kinh tế thị trường chậm hình thành, hệ thống chính sách,
pháp luật về tài chính thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán đã cản trở quá trình vận hành theo cơ
chế thị trường để có thể phát huy hết các tiềm năng và nguồn lực của nền kinh tế. Những
thay đổi bất lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát sinh trong quá trình hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tiến tới một mặt bằng pháp lý chung. Cụ thể như:
việc thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm ưu đãi về thuế (từ 45% xuống còn
32% và đang duy trì ở mức 25%) nhất là đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp,
khu chế xuất tại các trung tâm đô thị lớn và các dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến
khích đầu tư. Tuy nhiên, bất cập đã xảy ra đối với việc giảm ưu đãi về thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư nước ngoài đặc biệt là chính sách đối với ô tô, xe
máy đã làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu nhất quán của chính sách đẩu tư nước
ngoài, cản trở việc ra quyết định đầu tư của một dự án có quy mô lớn sử dụng công nghệ
cao.
Hai là, sự ách tắc, đình trệ của nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ do trong
chủ trương chưa rõ ràng, chưa tháo gở các vướng mắc trong công tác quy hoạch ngành.
Từ đó, làm hạn chế việc thu hút đầu tư nước, gây quan ngại cho các nhà đầu tư khi ra

quyết định kinh doanh vào thị trường Việt nam. Thêm vào đó, do hạn chế trong nhận thức
về vai trò của tài chính và thị trường vốn trong việc mở đường, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội nên tư duy trong hoạch định chính sách tài chính và phát triển thị trường tài
chính chậm đổi mới, thiếu tính đột phá trong hoạch định chính sách.
Vẫn còn duy trì phương thức quản lý truyền thống hay còn gọi là quản lý ngân sách
theo các khoản mục đầu vào vốn dĩ đã bộc lộ nhiều yếu kém, đó là: không chú trọng các
đầu ra và kết quả trong thực hiện mục tiêu chiến lược ưu tiên của quốc gia; không khuyến
15
khích các đơn vị tiết kiệm ngân sách, đầu tư dàn trải, nguồn tài trợ cho những kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội không được quan tâm đúng mức dẫn đến sự hụt hẫng về tài
chính, nhiều công trình đang khát vốn chờ kinh phí; việc soạn lập ngân sách thiếu mối liên
kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn với nguồn lực trong một
khuôn khổ kinh tế vĩ mô được dự báo nên dẫn đến các kết quả ngân sách nghèo nàn. Còn
nặng về tư duy “tài chính phục vụ sản xuất”, “tài chính bảo đảm vốn cho mọi hoạt động”
dẫn đến người có thẩm quyền quyết định đầu tư không gắn với thẩm quyền bỏ vốn, kết
quả là quyết định đầu tư vượt quá khả năng nguồn vốn đầu tư, làm cho vốn đầu tư dàn trải,
nợ xây dựng cơ bản lớn mà đầu tư thì kém hiệu quả.
Ba là, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển các ngành kinh tế với
chiến lược tài chính, chiến lược thuế…dẫn đến có sự chấp vá không xuyên suốt trong cơ
chế hình thành chính sách; đồng thời làm cho chính sách thường xuyên thay đổi, gây mất
ổn định trong môi trường đầu tư. Mặt khác, công tác phân tích dự báo chưa được coi trọng
đúng mức khi nghiên cứu hoạch định chính sách dẫn đến phải bổ sung, sửa đổi tạo ra sự
không đồng bộ, không nhất quán.
Bốn là, tư tưởng bao cấp, tâm lý muốn được Nhà nước bảo hộ còn nặng nề. Trong
quản lý còn nặng về tư tưởng “xin - cho”, nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào nguồn tín
dụng ưu đãi, không muốn huy động tên thị trường vốn. Chưa thúc đẩy nhanh tiến trình sắp
xếp, chuyển đổi sở hữu và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhà nước lớn, làm hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán
Năm là, chưa kiên quyết trong việc chuyển nhanh các đơn vị sự nghiệp sang thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính. Việc triển khai thực hiện cải cách hành chính song song với cải

cách tài chính còn chậm, công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng lực trong
các lĩnh vực tài chính được chú trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực
tiễn
Sáu là, hệ thống các văn bản pháp luật ban hành và sửa đổi nhiều lần gây khó khăn cho
các doanh nghiệp trong việc nắm vững hệ thống thuế mới. Việc truy thu thuế còn gặp rất
nhiều khó khăn, dẫn đến thất thoát một lượng lớn thuế thu cho ngân sách. Tham nhũng
trong ngành thuế còn diễn ra thường xuyên cũng như việc hạch sách các doanh nghiệp.
Trình độ của cán bộ thuế trong một số lĩnh vực vẫn chưa theo kịp so với tình hình hiện tại,
đặc biệt trong lĩnh vực chuyển giá, tạo kẻ hỡ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài dễ dàng chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Bảy là, tham nhũng trong lĩnh vực tài chính công vẫn còn phổ biến. Công tác cán bộ
bảo thủ, trì trệ, bị chi phối bởi cách nhìn chủ quan, phiến diện, việc bố trí cán bộ ở nhiều
cấp, nhiều ngành còn mang tính bè phái, tính răn đe trong xử lý cán bộ sai phạm chưa
nghiêm.
Tám là, Việt Nam vẫn đang là một nước có mức thu nhập bình quân đầu người chưa
cao, tỷ lệ hộ nghèo còn lớn. Chính phủ Việt Nam nhận thức được điều này và coi tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện chủ yếu và nhân tố quan trọng để rút ngắn
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam so với các nước khác trong khu
vực và trên thế giới, đồng thời tạo nguồn lực để tăng phúc lợi, cải thiện mức sống nhân
dân, giảm nghèo đói, thực hiện công bằng xã hội.
2. Thị trường Tài chính
2.1. Thị trường tiền tệ
16
• Thị trường nội tệ liên ngân hàng
Theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992 của Thống đốc ngân hàng nhà nước cho
phép các tổ chức tín dụng được thực hiện cho vay và đi vay lẫn nhau, thị trường nội tệ liên
ngân hàng chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Đến nay, thị trường này đã phát huy hiệu
quả vai trò khai thông nguồn vốn giữa các ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ vay
và cho vay bằng tiền mặt và cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá.
Hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn

nhau không thực hiện thông qua ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng thỏa thuận phương
thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín
nhiệm và có sự tham gia tích cực của ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng
được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân
hàng cho vay.
Doanh số giao dịch thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh giá của
các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm. Bên cạnh đó,
thời hạn của các giao dịch trong thời gian gần đây đã được áp dụng khá linh hoạt. Trước
đây, thời hạn giao dịch chủ yếu từ 3 đến 6 tháng, đến nay thời hạn giao dịch có thể là qua
đêm, 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng ngày càng được hoàn
thiện. Từ những cơ sở pháp lý nền tảng ban đầu, Thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành
thêm những quyết định như: Quyết định số 114/QĐ-NĐ14 ngày 21/6/1993 ban hành quy
chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, Quyết định số 190/QĐ-NH14
ngày 06/10/1993 bổ sung, sửa đổi quy chế tổ chức và hoạt động về thị trường liên ngân
hàng, Quyết định số 189/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 ban hành quy chế bảo lãnh vay vốn
trên thị trường liên ngân hàng, Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ban hành quy chế
vay vốn giữa các tổ chức tín dụng…giúp cho hoạt động thị trường liên ngân hàng được cải
thiện rõ rệt, từng bước phù hợp với thông lệ của quốc tế.
• Hoạt động cho vay tái cấp vốn giữa ngân hàng nhà nước và ngân hàng
thương mại
Bên cạnh phát triển thị trường liên ngân hàng, nghiệp vụ tái cấp vốn đã được ngân
hàng nhà nước từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền
tệ, thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Tái cấp vốn của ngân
hàng nhà nước cho các ngân hàng thương mại chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức
chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp
với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 2003 đến nay, lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất tái chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng

lãi suất thị trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi suất sàn,
ngân hàng nhà nước đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng. Qua
đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều hành như một kênh thường xuyên với giá rẻ từ ngân
hàng nhà nước. Hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng nhà nước đã đóng góp không nhỏ
trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại, nhất là
vào các thời điểm cuối năm và gần Tết nguyên đán.
Cơ sở pháp lý cho các hoạt động nghiệp vụ tái cấp vốn hoàn thiện; thủ tục, quy trình
nghiệp vụ tái cấp vốn được cải tiến theo hướng tinh giản và thuận lợi. Thời gian xử lý đề
nghị xin vay giảm xuống còn 2 ngày (trước đây 5 ngày).
17
• Nghiệp vụ thị trường mở
Thị trường mở được chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000 và vận hành theo quy
chế hoạt động thị trường mở được ban hành kèm theo Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN
ngày 09/3/2000. Qua quá trình hoạt động, ngân hàng nhà nước đã không ngừng hoàn thiện
cơ sở pháp lý để thị trường mở ngày càng phát huy vai trò, tác dụng trong sự phát triển
của thị trường tiền tệ.
Các công cụ tài chính được phép giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở bao gồm các
loại giấy tờ có giá phát hành bằng đồng Việt Nam như: tín phiếu ngân hàng nhà nước, trái
phiếu chính phủ (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương,
trái phiếu đầu tư do Quỹ hỗ trợ phát hành công trái) và trái phiếu chính quyền địa phương.
Số thành viên tham gia tăng lên hàng năm. Tần suất và khối lượng trúng thầu tăng dần
qua các năm. Từ tháng 11/2004, ngân hàng nhà nước đã tăng định kỳ giao dịch lên 3
phiên/tuần và đến nay mỗi ngày có từ 2 đến 3 phiên giao dịch. Ngân hàng nhà nước còn
mở các phiên giao dịch đột xuất hoặc các phiên giao dịch hàng ngày vào những dịp giáp
Tết để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, không để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh
toán cũng như chậm trả đối với khách hàng. Nhờ đó, hoạt động ngân hàng được diễn ra
bình ổn, củng cố uy tín của hệ thống ngân hàng.
Số lượng các phiên giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở
Năm
Số

phiên
Số phiên mua Số phiên bán
Tần suất giao
dịch
Mua
hẳn
Mua có kỳ
hạn
Bán hẳn
Bán có kỳ
hạn
2000 17 4 10 3 0 10 ngày/phiên
2001 48 3 39 5 1 1 tuần/phiên
2002 85 1 58 26 0 1 tuần/2 phiên
2003 107 0 52 55 0 1 tuần/2 phiên
2004 123 0 109 0 14 1 tuần/3 phiên
2005 158 0 150 6 2 1 tuần/3 phiên
2006 155 148 7 1 tuần/5 phiên
2007 165 153 7 5 1 tuần/5 phiên
Tổng số 858 8 719 109 22
Chủng loại giấy tờ có giá được giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở cũng được mở
rộng (năm 2004, ngân hàng nhà nước cho phép trái phiếu công trình trung ương được sử
dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở).
• Thị trường ngoại hối
Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các
hoạt động kinh doanh hối đoái, đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị trường; tạo các
công cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường
trong tương lại; giúp cho các nhà xuất khẩu, nhập khẩu, các đơn vị kinh tế chủ động trong
kinh doanh; thúc đẩy và phát triển các giao dịch hối đoái để góp phần hoàn thiện thị
trường hối đoái ở Việt Nam.

18
Thị trường ngoại hối của Việt Nam vẫn thuộc loại kém phát triển, ngay cả khi so với
các nước trong khu vực, kể cả quy mô và chiều sâu do chất lượng quản lý không cao,
thiếu thống nhất, các quy định lỏng lẻo, tạo điều kiện cho những hành vi vi phạm về quản
lý. Phổ biến tình trạng niêm yết giá cả bằng ngoại tệ, thanh toán, mua bán ngoại tệ bất hợp
pháp vẫn còn diễn ra phổ biến, các nguồn thu bằng ngoại tệ vẫn còn phân tán trong nhân
dân, doanh nghiệp hoặc một số quỹ ngoại tệ khác, chưa được thu hút vào hệ thống ngân
hàng, chưa nâng cao được tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và chưa phát huy được tác
dụng trong việc khắc phục tình trạng đô la hóa của nền kinh tế.
2.2. Thị trường vốn
Thị trường vốn là thị trường giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn trên 1 năm, là
thị trường cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế. Trong đó, công cụ tài chính là loại tài
sản vô hình mà giá trị của nó thể hiện ở trái quyền hay quyền sở hữu một số tiền trong
tương lai. Do đó, thị trường chứng khoán chính là hình thức vận động điển hình của thị
trường vốn với khối lượng giao dịch và sức hút mạnh mẽ các nhà đầu tư thị trường này
luôn giữ vị trí chủ yếu của trong kết cấu thị trường vốn các nước. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật chung này. Do đó, để đánh giá thực trạng của thị trường vốn Việt
Nam, nhóm nghiên cứu tập trung vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11/7/1998, Chính phủ đã ký Nghị định số
48/CP ban hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán chính thức khai sinh cho thị
trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Từ khi ra đời đến nay, thị trường chứng khoán Việt
Nam trải qua các giai đoạn phát triển chính sau:
• Giai đoạn 2000 – 2005 là giai đoạn chập chững bước đi của thị trường.
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số công ty niêm yết/đăng
ký giao dịch
5 5 20 22 26 32
Mức vốn hóa thị trường cổ
phiếu (% GDP)
0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21

Số lượng công ty chứng
khoán
3 8 9 11 13 14
Số tài khoản khách hàng 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316
.
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm
đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã
hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống
của người dân. Tính đến hết năm 2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán Việt Nam đạt
gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập GDP.
• Giai đoạn 2006 - giữa năm 2007 chứng kiến sự phát triển đột phá của thị
trường chứng khoán. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006, thị
trường chứng khoán Việt Nam trở thành “điểm” có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ hai thế
giới, chỉ sau Zimbabwe. Sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng hấp dẫn
các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỷ USD cuối năm 2006
chiếm 22,7% GDP. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên đến
193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn mười vạn, gấp 3 lần năm 2005.
19
• Giai đoạn cuối năm 2007 - 2010 thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm
cùng trong xu thế nền kinh tế. Trong năm 2007 - 2008, khi dòng vốn nước ngoài gia tăng,
nhất là dòng vốn đầu tư gián tiếp đã thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, thị trường
tín dụng tăng quá mức cùng với các yếu tố tác động bất lợi khác của thị trường tài chính
quốc tế đã gây áp lực tăng lạm phát, tăng thâm hụt thương mại, qua đó gây hoang mang
với nhà đầu tư nước ngoài, từ đó tác động làm suy giảm thị trường chứng khoán. Cùng với
sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 và 2009 ảnh hưởng mạnh đến thị trường chứng
khoán Việt Nam. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm đến 30%. Năm 2009, thị trường
chứng khoán Việt Nam là thị trường tăng trưởng tệ nhất châu Á. Tổng giá trị vốn hóa thị
trường rơi xuống mức khoảng 10 tỷ. Trong bối cảnh đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
đã can thiệp bằng các biện pháp mạnh tay (thay đổi 4 lần biên độ giao động), tái cấu trúc
vốn doanh nghiệp.

2.3. Đánh giá
2.3.1. Thành tựu
• Thị trường tiền tệ
Có thể nhận thấy rằng thị trường tiền tệ đã chuyển tải hiệu quả nguồn vốn giữa các
ngân hàng thương mại với nhau và với ngân hàng nhà nước. Số lượng thành viên và doanh
số hoạt động trên thị trường tăng đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng
đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực hiện qua mạng, thời hạn của các giao dịch khá linh
hoạt. Các quy định, hướng dẫn cho hoạt động của các bộ phận của thị trường tiền tệ ngày
càng được hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và xu hướng chung của nền
kinh tế thị trường. Điều này tạo tiền đề xúc tiến sự phát triển mạnh mẽ hơn của thị trường
tiền tệ Việt Nam.
Một trong những thành tựu đáng kể của cải cách thị trường tiền tệ Việt Nam chính là
cổ phần hóa thành công các ông lớn trong ngành ngân hàng. Tính đến thời điểm cuối năm
2010, Việt Nam đã cổ phần hóa thành công 4 ngân hàng và 1 ngân hàng đang trong giai
đoạn chuẩn bị cổ phần hóa. Các ngân hàng quốc doanh này có lợi thế là sự hỗ trợ về vốn
của Nhà nước, nên quy mô và tầm ảnh hưởng của chúng đến thị trường là không nhỏ. Khi
đã cổ phần hóa, buộc các ngân hàng này đứng trước áp lực: hiệu quả và lợi nhuận. Khi các
ngân hàng này cải thiện hoạt động của chính mình các sản phẩm trên thị trường tài chính
cũng đa dạng hơn, phong phú hơn, góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện của thị trường tài
chính.
• Thị trường vốn
Đến nay, sau gần 10 năm đi vào hoạt động và phát triển dựa trên các mục tiêu đề ra
trong “Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 và Chiến
lược phát triển thị trường vốn đến 2010 và tầm nhìn 2020”, thị trường chứng khoán đã
phát huy được vai trò là kênh vốn hiểu quả, kịp thời của đầu tư, phát triển kinh tế trong
nước. Giá trị vốn hóa chiếm tỷ trọng cao trong GDP của cả nước và tỷ trọng này không
ngừng được cải thiện qua các năm. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thị trường vốn Việt
Nam đã thiết lập được hệ thống thị trường có tổ chức của Nhà nước như cơ chế vận hành,
cơ quan quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các
trung gian hoạt động trên thị trường; quy mô của thị trường vốn có bước phát triển khá

mạnh.
o Về khung pháp lý, thể chế chính sách
20
Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/01/2007, đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao, đồng bộ và thống nhất cho
hoạt động của thị trường chứng khoán, từng bước loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với
các văn bản pháp luật khác.
o Về quy mô và hàng hóa của thị trường
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò
là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ 2000 - 2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt
trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào
năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007. Giá trị vốn hóa thị trường cổ
phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP. Ước tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt
khoảng từ 40 - 50% GDP.
Việc gắn kết công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với công tác tạo hàng cho
thị trường chứng khoán là nhân tố chủ đạo quyết định thành công trong việc tạo ra một
nguồn hàng phong phú, góp phần thúc đẩy tăng trưởng quy mô của thị trường.
Hoạt động phát hành trái phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán dần trở thành một kênh
huy động vốn quan trọng cho Chính phủ. Dư nợ trái phiếu Chính phủ tính đến cuối 2009
vào khoảng 16,9% GDP. Các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành chủ yếu theo hình
thức phát hành riêng lẻ, do vậy, số trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết không nhiều.
o Về hệ thống cơ sở nhà đầu tư
Từ khoảng gần 3.000 tài khoản nhà đầu tư tham gia khi mới mở cửa thị trường vào
năm 2000, tính đến nay đã có trên 90.000 tài khoản giao dịch, trong đó số nhà đầu tư tổ
chức trong nước là 2.662, số nhà đầu tư cá nhân trong nước là 807.558, số nhà đầu tư
nước ngoài là hơn 13.000 nhà đầu tư.
o Về hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán
Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triển nhanh về quy mô và
năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải khắp các tỉnh,

thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công chúng đầu tư tiếp cận dễ dàng hơn với
thị trường chứng khoán. Khi thị trường bắt đầu đi vào hoạt động, toàn thị trường mới chỉ
có 7 công ty chứng khoán và cho đến tận năm 2004 vẫn chưa có một công ty quản lý quỹ
nào. Sau 10 năm hoạt động, tính đến thời điểm hiện tại, đã có 105 công ty chứng khoán và
46 công ty quản lý quỹ đang hoạt động tại Việt Nam.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đáng kể, trong thời gian qua thị trường tài chính vẫn còn tồn
đọng những hạn chế làm kìm hãm tốc độ phát triển của thị trường này.
• Thị trường tiền tệ
o Thị trường nội tệ liên ngân hàng
Quy mô giao dịch còn rất hạn chế, tính phổ biến của thị trường chưa cao. Hầu hết các
giao dịch của thị trường liên ngân hàng diễn ra tập trung ở 2 trung tâm tài chính lớn là Hà
Nội và Tp. HCM. Số lượng các thành viên tham gia còn rất hạn chế và phần lớn là để giải
quyết những nhu cầu đột xuất về nguồn và sử dụng vốn hơn là một hoạt động mang tính
thường nhật của các tổ chức tín dụng.
21
Chưa có sự mua bán vốn với các tổ chức tín dụng của các nước khác trong khu vực và
quốc tế. Do vậy, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng không thể tránh khỏi tính
chất “chợ phiên” và “buồn tẻ”.
Hệ thống thanh toán trong nội bộ từng ngân hàng và hệ thống thanh toán liên ngân
hàng dù đang được hiện đại hoá, song vẫn trong tình trạng manh mún phân tán riêng rẽ
trong mỗi ngân hàng hoặc từng nhóm nhỏ mà vẫn chưa “hoà mạng” thống nhất, thậm chí
chưa liên kết thống nhất giữa các trung tâm trong nước. Điều này cũng là một nguyên
nhân quan trọng dẫn đến tình trạng phân đoạn thị trường và khả năng điều chuyển vốn
giữa các tổ chức tín dụng kém hiệu quả
o Hoạt động cho vay tái cấp vốn giữa ngân hàng nhà nước và ngân
hàng thương mại
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất tái cấp vốn chưa phản ánh chính xác
quan hệ cung cầu và xu hướng vận động của thị trường tiền tệ. Vai trò của ngân hàng nhà
nước trong việc thu thập thông tin diễn biến thị trường liên ngân hàng và tham gia điều tiết

thị trường khá mờ nhạt.
o Nghiệp vụ thị trường mở
Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182 ngày
nhưng trên thực tế, ngân hàng nhà nước thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7 - 30
ngày, dẫn đến các khoản thanh toán với ngân hàng nhà nước đến hạn dồn dập trong một
thời gian ngắn và tăng gánh nặng thanh toán cho các ngân hàng thương mại.
Tốc độ và chất lượng đường truyền kết nối qua mạng giữa ngân hàng nhà nước và các
thành viên còn chậm và đôi lúc bị ngắt quãng, nhất là khi nhiều thành viên đồng thời giao
dịch với ngân hàng nhà nước. Những hạn chế do cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đã ảnh
hưởng đến tốc độ giao dịch trên thị trường mở.
Bên cạnh đó, các ngân hàng khi muốn lưu ký giấy tờ có giá để tham gia các giao dịch
với ngân hàng nhà nước đều phải đến trực tiếp Sở giao dịch ngân hàng nhà nước để hoàn
thành các thủ tục. Ngân hàng nhà nước chưa cho phép đăng ký lưu ký giấy tờ có giá thông
qua website.
o Thị trường ngoại hối
Nguồn cung ngoại tệ vẫn còn thiếu hụt. Mức dự trữ ngoại tệ chưa đáp ứng hiệu quả
nhu cầu ngoại tệ trong nước. Điều này tạo tâm lý khan hiếm ngoại tệ đối với người dân,
các tổ chức kinh tế trong nước, làm tạo áp lực làm tăng tỷ giá, ảnh hưởng không nhỏ đến
xuất nhập khẩu trong nước.
Các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch
thấp. Chính vì vậy, việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại
Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn
Sự thiếu hụt ngoại tệ còn kéo theo những hệ lụy ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường
ngoại hối Việt Nam. Cụ thể đó chính là sự ra đời của thị trường ngoại tệ chợ đen. Chênh
lệch tỷ giá giữa thị trường chợ đen rất lớn so với tỷ giá chính thức cao. Điều đó gây ra
quan ngại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài có ý định đầu tư vào Việt Nam.
• Thị trường vốn
Hàng hóa chưa đa dạng; tính minh bạch công khai còn hạn chế, số lượng nhà đầu tư
chuyên nghiệp không nhiều. Bên cạnh đó, công tác quản lý giám sát thị trường, điều hành
22

vĩ mô còn nhiều bất cập trong khi năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát còn
yếu và thiếu.
Thị trường tự do chiếm thị phần lớn và tiềm ẩn bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Hoạt
động đầu tư thường theo phong trào trong khi nguồn cung còn hạn chế, xảy ra hiện tượng
mất cân đối cung cầu chứng khoán làm cho giá cổ phiếu vượt khỏi giá trị thực của doanh
nghiệp và đã gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Dòng vốn đầu tư gián tiếp đã thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, thị trường tín
dụng tăng quá mức cùng với các yếu tố tác động bất lợi khác của thị trường tài chính quốc
tế đã gây áp lực tăng lạm phát, tăng thâm hụt thương mại, qua đó gây hoang mang với nhà
đầu tư nước ngoài, từ đó tác động làm suy giảm thị trường chứng khoán. Điều này cho
thấy khả năng điều tiết nguồn vốn bên ngoài vào là rất yếu. Hạn chế trên là do: khả năng
quản trị nguồn vốn của các định chế tài chính là rất thấp, tính bảo hộ của Chính phủ đối
với các thành viên thị trường còn phổ biến nên tạo tính ỷ lại của các thành viên thị trường,
làm cho họ thiếu năng động không thiết lập những công cụ dự phòng để ứng phó truớc
những cú sốc.
Tóm lại, thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua đã khẳng định vị trị quan trọng
đối với nền kinh tế Việt Nam. Sự khởi sắc trong các thị trường bộ phận của thị trường tài
chính là động lực, tiền đề để nền kinh tế hàng hóa phát triển và hội nhập vào thị trường
quốc tế. Phát triển bền vững là mục tiêu quan trọng mà thị trường tài chính Việt Nam cần
hướng tới. Để đạt được mục tiêu phát triển này, cần nhìn nhận khái quát các hạn chế chính
của thị trường tài chính Việt Nam hiện nay là:
- Thành viên tham gia thị trường tài chính chưa thực sự thông thoáng, vẫn còn rào
cản tương đối với các tổ chức nước ngoài. Quá trình toàn cầu hóa thị trường tài chính vẫn
chưa được thực hiện hiệu quả.
- Các điều tiết của nhà nước đối với thị trường tài chính vẫn còn chậm. Vai trò của
nhà nước vẫn còn nặng tính “can thiệp”, chưa phải là “giám sát” các hoạt động của thị
trường.
- Khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin đã được áp dụng vào thị trường tài chính.
Tuy nhiên sự thiếu đồng bộ, hạn chế về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đã ảnh hưởng
đến tiến độ giao dịch của thị trường.

- Trình độ, năng lực của đội ngũ quản trị của các tổ chức tín dụng, công ty chứng
khoán tham gia thị trường đã được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu thị
trường.
23
CHƯƠNG III
XU HƯỚNG CẢI CÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Định hướng của Đảng và Chính phủ
Kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu to lớn, làm thay
đổi rõ rệt tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng
năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong
phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được
ổn định chính trị mà còn từng bước phát triển kinh tế đi lên, hòa nhập vào nền kinh tế của
thế giới: đánh dấu Việt Nam là thành viên của tổ chức APEC, ngày 07/11/2006, Việt nam
trở thành thành viên thứ 150 của WTO ; GDP tăng bình quân 7% /năm; nông nghiệp phát
triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm; hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường; các
ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển; quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế không ngừng được mở rộng…
Tuy nhiên, trước sức ép về phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế
thế giới nhưng vẫn hướng nền kinh tế Việt Nam theo đúng chủ trương đường lối chính
sách của Đảng đã đề ra; nhu cầu xã hội về nâng cao chất lượng hàng hoá công thì việc cải
cách tài chính công là một yêu cầu cấp thiết. Trong đó đáng kể nhất là việc xác định thuế
là nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu thay cho dầu thô, cải cách hành chính trong các
lĩnh vực công, xác lập lại khu vực công cạnh tranh với khu vực tư, tiếp tục quá trình cổ
phần hóa các doanh ngiệp nhà nước, phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực tài chính
công, giảm bất bình đẳng trong xã hội.
2. Xu hướng cải cách
2.1. Tài chính công
2.1.1. Xác lập lại khu vực công, hình thành khu vực công cạnh tranh với khu

vực tư
Điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên ngoài để
đưa đến một mô hình kinh tế hợp lý.
Tiếp tục quá trình cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả hoặc các
doanh nghiệp cần mở rộng quy mô nguồn vốn. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra
hình ảnh nhân dân xây dựng và làm chủ nền kinh tế. Khi điều này được thực hiện thì các
khâu của quy trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn
điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự
khác sẽ không như hiện nay, mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trước,
có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế.
Cần vận dụng “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch,
lành mạnh. Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù hợp
với quy chế quản trị công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của
công ty (có vai trò và phạm vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong doanh nghiệp kiểu
cũ).
24
2.2.2. Cải cách lĩnh vực thuế
Tiếp tục tiến trình hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế theo xu hướng thống nhất
và tránh tình trạnh chồng chéo giữa các văn bản pháp luật về thuế. Tiếp tục tiến trình giảm
các loại thuế nhập khẩu theo cam kết với WTO, chuyển các hình thức bảo hộ bằng thuế
quan sang phi thuế quan. Định hướng thuế trực thu (thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập
doanh nghiệp…) sẽ là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tại các nước phát triển,
tỷ trọng nguồn thu từ thuế trực thu chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách nhà nước. Đổi
mới các loại thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường sản xuất và xuất khẩu
(ví dụ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có hàm lượng chế biến
cao) cũng như cá nhân lao động. Ngoài ra, cần phải điều chỉnh các chính sách thuế tạo
những ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp sử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như
công nghệ sạch. Đào tạo các cán bộ thuế có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tận tình với

công việc đi đôi với việc cải cách các thủ tục hành chính về thuế. Chống chuyển giá đối
với các công ty đa quốc gia nhằm truy thu nguồn thuế bị thất thu. Xử phạt các vi phạm
hành chính về thuế theo hướng tăng lên cũng như xử lý vấn đề tham nhũng trong ngành
thuế.
2.2.3. Chuyển từ phương thức soạn thảo ngân sách theo đầu vào sang phương
thức soạn thảo ngân sách theo đầu ra.
Phân cấp rõ ràng về quản lý ngân sách, đảm bảo cho các cấp chính quyền địa phương
có sự chủ động lớn hơn về nguồn thu và thẩm quyển quyết định chi ngân sách, trên cơ sở
đó chủ động bố trí và thực hiện kế hoạch hoạt động quản lý nhà nước và công tác chuyên
môn tại địa phương mình.
Thực hiện nguyên tắc ngân sách của Bộ, ngành, địa phương nào vay, tạm ứng thì ngân
sách của Bộ, ngành, địa phương đó phải bố trí nguồn để trả, ngân sách trung ương không
bố trí nguồn để trả thay. Khắc phục tình trạng tạm ứng vốn quá lớn, thời gian tạm ứng vốn
quá dài hoặc không quy định cụ thể thời gian phải hoàn trả, nhất là đối với các khoản tạm
ứng ngân sách năm sau: kế hoạch năm 2011 sẽ phát hành 45.000 tỷ đồng vốn trái phiếu
Chính phủ để đầu tư các dự án, công trình trong danh mục do Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quyết định. Các địa phương tích cực khai thác, sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương
và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật để thực hiện các dự án, công trình
được trung ương hỗ trợ bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Không bố trí vốn cho các
dự án, công trình không đúng đối tượng, không đủ thủ tục đầu tư, không thật sự cấp bách,
không hiệu quả; bố trí vốn tập trung, nhất là các dự án có khả năng hoàn thành trong năm
2011 - 2012.
Việc phân cấp từng cấp chính quyền có nguồn thu độc lập tương đối khi đó mỗi cấp sẽ
tích cực và chủ động hơn trong việc bồi dưỡng và khai thác nguồn thu. Khoản thu độc lập,
có tính ổn định cao sẽ giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí các khoản chi tiêu cố
định của mình, không bị lệ thuộc vào cấp trên vào trung ương.
Tăng cường quản lý chu trình ngân sách với mục tiêu giúp cho các cơ quan, đơn vị
thực hiện hài hoà giữa kế hoạch hoạt động với kế hoạch tài chính; từ đó có đầy đủ và kịp
thời các nguồn lực tài chính để chủ động thực thi nhiệm vụ đó. Cần linh động, đổi mới các
hoạt động từ lập dự toán ngân sách cho đến chấp hành và quyết toán ngân sách có tính

khoa học và phù hợp với thực tế, mang tính khả thi cao: như cần tiếp tục đổi mới các căn
cứ và quy trình lập dự toán ngân sách, hoàn thiện thủ tục và cơ chế chấp hành ngân sách
cũng như đổi mới phương thức quyết toán ngân sách. Đặc biệt, cần chuyển các định mức
phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực dựa trên đầu vào sang căn cứ vào kết quả đầu ra. Trên
cơ sở đó ngân sách được lập theo tính chất “mở” - công khai, minh bạch. Các nguồn lực
25

×