Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Giải pháp để phảt triển hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 87 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Vào tháng 07/2002 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên lớn nhất của
tổ chức thương mại thế giới WTO, điều này mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội
mới song cũng không ít thách thức đặc biệt cho các ngành có tính cạnh tranh cao.
Đóng vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, có tầm ảnh hưởng lớn đến
các ngành nghề khác của nền kinh tế, ngành hàng không dân dụng Việt Nam mà đi
đầu là Tổng công ty hàng không Việt Nam (VNA) cũng không nằm ngoài quy luật
đó. So với các hãng hàng không khác trong khu vực và trên thế giới thì VNA là
một hãng hàng không còn non trẻ về tuổi đời và tuổi nghề nhưng từ khi thành lập
đến nay với sự nỗ lực của toàn bộ Tổng công ty, VNA đã từng bước khẳng định
được uy tín của mình trên thị trường, khẳng định là một hãng hàng không trẻ và
năng động.
Vận tải hành khách là mảng kinh doanh chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuân
cho VNA. Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày một nâng cao,
sử dụng dịch vụ hàng không làm phương tiện đi lại không còn là vấn đề xa xỉ đối
với một bộ phận người dân. Hơn thế nữa, tham gia tổ chức thương mại thế giới và
nhiều tổ chức khu vực cũng như quốc tế khác đồng nghĩa với việc tăng cường giao
lưu kinh tế, văn hóa và du lịch,...vì thế cũng kéo theo sự gia tăng trong nhu cầu sử
dụng dịch vụ vận tải hành khách của VNA. Tuy nhiên do xuất phát điểm thấp và
gặp nhiều khó khăn trong thời gian vừa qua cũng như đứng trước những sự cạnh
tranh gay gắt trong mảng khai thác vận tải hành khách bằng đường hàng không nên
VNA nói chung và vận tải hành khách của VNA nói riêng đang đứng trước không
ít khó khăn và thách thức.
Để không bị tụt hậu đủ sức cạnh tranh với các hãng hàng không trên thế giới,
Vietnam Airlines cần có những chiến lược kinh doanh đúng đắn, xác định rõ mục
tiêu của mình cũng như hoàn thiện bộ máy quản lý và trình độ nguồn nhân lực và
tăng cường hợp tác, liên minh, liên kết, đưa ra các giải pháp hợp lý và kịp thời
nhằm phát triển hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines.
Với mong muốn tìm hiểu tình hình hoạt động vận tải hành khách của
Vietnam Airlines để thấy được những thành tựu doanh nghiệp đã đạt được và


những tồn tại đang kìm hãm sự phát triển của hoạt động vận tải hành khách, từ đó
có những giải pháp cụ thể để giúp Vietnam Airlines ngày một phát triển bền vững;
nên em đã chọn đề tài “Giải pháp để phảt triển hoạt động vận tải hành khách
của Vietnam Airlines” cho đề tài nghiên cứu khoá luận của mình.
2.Đối tượng, nội dung và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là đưa ra các giải pháp để phát triển hoạt
động vận tải hành khách của Vietnam Airlines.
- Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong việc nghiên cứu tình hình kinh doanh của
Vietnam Airlines và các bài học kinh nghiệm của các hãng hàng không trên thế
giới trong khoảng thời gian 2000- 2007.
3.Phương pháp nghiên cứu:
Xuyên suốt khoá luận, tác giả dùng phương pháp diễn giải, qui nạp, phương
pháp phân tích và phương pháp so sánh để nghiên cứu đội tượng khoá luận.
4.Kết cấu, bố cục của đề tài:
Nội dung chủ yếu của khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề khái quát về hoạt động vận tải hành khách bằng
đường hàng không.
Chương 2: Thực trạng hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines
Chương 3: Giải pháp để phát triển hoạt động vận tải hành khách của VietNam
Airlines.
Trong quá trình làm khoá luận có những hạn chế về mặt thời gian, về nguồn
tài liệu nghiên cứu nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em mong
nhận được sự đóng góp chân thành từ độc giả để đề tài khoá luận này được hoàn
thịên hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn giúp em
hoàn thành khoá luận này.
Chương I: Một số vấn đề khái quát về hoạt động vận tải hành khách bằng
đường hàng không
1.1.Khái niệm và đặc điểm của vận tải hành khách bằng đường hàng không
1.1.1.Khái niệm

Hiểu theo nghĩa rộng thì vận tải hàng không là sự kết hợp các yếu tố về kinh
tế và kỹ thuật nhằm khai thác việc chuyên chở bằng máy bay một cách hiệu quả
nhất. Cũng là một ngành sản xuất vật chất nên vận tải hàng không cũng có sản
phẩm riêng của mình là việc di chuyển hành khách, hàng hoá, hành lý và bưu kiện
từ nơi này đến nơi khác thông qua phương tịên vận chuyển bằng máy bay. Sản
phẩm vận tải hàng không có đặc thù rất cơ bản. Không giống như sản phẩm của các
ngành sản xuất khác, vận tải hàng không không có hình dạng, kích thước, màu sắc
cụ thể mà quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời nên không thể dự trữ sản
phẩm được. Vì thế để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hoá đòi hỏi
các hãng hàng không phải dự trữ năng lực vận chuyển. Như vậy Vận tải hàng
không là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách trong không gian
bằng máy bay nhằm đạt được mục đích kinh tế nhất định. Từ đó, có thể rút ra
khái niệm vận tải hành khách bằng đường hàng không là việc chuyên chở hành
khách từ nơi này đến nơi khác bằng máy bay nhằm đạt được mục đích kinh tế
nhất định.
1.1.2.Đặc điểm
Vận tải hàng không nói chung và vận tải hành khách bằng đường hàng không
nói riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế và ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Lượng khách sử dụng phương tiện đi lại bằng máy bay
tăng vọt trong những năm qua. So với các phương tiện vận chuyển khác, vận tải
hành khách bằng đường hàng không có những đặc điểm khác biệt hẳn:
+ Tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung và hầu như là đường
thẳng, không phải tốn kém trong việc đầu tư xây dựng tuyến đường như vận tải
đường bộ và đường sắt, không phục thuộc vào vị trí địa lý, địa hình nhưng lại phụ
thuộc vào điều kiện khí hậu của từng vùng.
+ Tốc độ vận tải hàng không cao hơn hẳn các loại phương tiện vận tải khác:
Cùng một khối lượng hàng hoá, một quãng đường vận chuyển nhưng nếu sử dụng
vận chuyển bằng máy bay chỉ mất 1 giờ thì với quãng đường ấy sẽ phải mất 27 giờ
nếu vận chuyển bằng đường biển và 8 giờ nếu vận chuyển bằng ô tô hay tàu hoả.
+ Vận tải hàng không được coi là an toàn nhất trong các loại hình phương

tiện vận tải bởi vì vận tải hàng không phải sử dụng công nghệ cao và phải luôn cải
tiến và áp dụng những công nghệ tiên tiến của thế giới. Đối tượng vận chuyển của
vận tải hàng không là người và hàng hoá thường là hàng hoá quý hiếm, có giá trị
cao nên trong các chuyến bay từ phi hành gia đến tiếp viên phục vụ đều phải tuân
thủ những quy tắc nghiêm ngặt về an toàn, không được phép để xẩy ra một sai sót
dù là nhỏ nhất.
+ Chi phí vận tải hàng không cũng tốn kém hơn các loại vận tải khác do đặc
thù của loại hình vận tải này luôn đòi hỏi sử dụng trình độ công nghệ cao, vốn đầu
tư cho trang thiết bị, máy bay lớn và thường chỉ áp dụng để chở người và các loại
hàng hoá quý hiếm, có giá trị cao.
+ Vận tải hàng không cũng bị hạn chế trong việc chuyên chở hàng hoá cồng
kềnh, khối lượng lớn do máy bay có dung tích nhỏ. Loại máy bay lớn nhất hiện nay
chỉ có thể chở được 110 tấn hàng, trong khi với dung tích của tàu thuỷ có thể chở
được hàng chục vạn tấn hàng.
+ Vận tải hàng không đòi hỏi một nguồn vốn khổng lồ để đầu tư cho việc
mua sắm máy bay, trang thiết bị, đào tạo đội ngũ phi công và xây dựng sân bay, hệ
thống dịch vụ. Vì thế, vận tải hàng không thường rất phát triển ở các quốc gia lớn,
đặc biệt là ở Mỹ và các nước Châu Âu nhưng lại là vấn đề khó khăn cho các quốc
gia đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam.
Như vậy, qua những đặc điểm riêng biệt của vận tải hàng không chúng ta có
thể thấy rõ vận tải hàng không có những ưu điểm nổi trội hơn so với các loại hình
vận tải khác như là tốc độ vận chuyển nhanh, rút ngắn được thời gian vận chuyển
tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá trên thế giới, song
vận tải hàng không cũng có những hạn chế không thể tránh được.
1.2.Vai trò và tác dụng của vận tải hành khách bằng đường hàng không trong
nền kinh tế quốc dân
Mặc dù vận tải hàng không Việt Nam xuất phát điểm ở một mức thấp và
trải qua một quá trình phát triển chưa lâu nhưng cùng với các loại hình vận tải
khác vận tải hàng không nói chung và vận tải hành khách bằng đường hàng không
nói riêng đã đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội đất nước

cũng như mở rộng mối giao lưu văn hoá chính trị. Vận tải hàng không tham gia vào
tất cả các quan hệ kinh tế, giao lưu văn hoá, du lịch và quá trình hội nhập của tất cả
các quốc gia trên thế giới:
+ Vận tải hàng không góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc dân và mối quan
hệ kinh tế quốc tế phát triển:
Không một quốc gia nào khép cánh cửa đất nước mình, không giao lưu,
mở rộng quan hệ về mọi mặt với các quốc gia khác mà lại có thể phát triển một
cách bền vững được. Điều đó có nghĩa là muốn nền kinh tế phát triển, đời sống
nhân dân được nâng cao không còn cách nào khác là quốc gia đó phải tiến hành hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới để có thể học hỏi, đúc rút cũng như thừa
hưởng những kinh nghiệm, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật hay những nét văn
hoá đẹp của các nước trên thế giới. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập đó một trong
những điều kiện cần của mỗi quốc gia là phải phát triển mạng lưới vận tải hàng
không bởi lẽ vận tải hàng không là loại hình vận tải có khả năng kết nối nhiều khu
vực trong nội bộ quốc gia, trong châu lục và toàn thế giới mà các loại phương tiện
vận tải khác không thể thực hiện được. Một khi các hãng hàng hàng không thực
hiện mở rộng tuyến đường bay là đồng nghĩa với việc mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế rộng rãi hơn.
Vận tải hàng không được xem như một mắt xích không thể thiếu trong
dây chuyền kinh tế của một quốc gia cũng như toàn thế giới. Thứ nhất, vận tải hàng
không là một mắt xích quan trọng trong việc liên kết các phương thức vận tải khác
với nhau tạo nên mô hình vận chuyển vận tải đa phương thức rất hiệu quả, khai
thác tối đa ưu điểm của từng loại hình vận tải cũng như giúp giảm thiểu chi phí và
rút ngắn thời gian vận chuyển đưa lại lợi nhuận kinh tế lớn nhất. Thứ hai, vận tải
hàng không có khả năng liên kết các trung tâm kinh tế lớn lại với nhau. Như thế có
thể khẳng định vận tải hàng không nói chung và vận tải hành khách bằng đường
hàng không nói riêng là hệ thống huyết mạch của các hoạt động kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, vận tải hàng không góp phần thúc đẩy các ngành khác phát
triển, hỗ trợ một số ngành quan trọng và then chốt của nền kinh tế như phục vụ
ngành dầu khí, ngành bưu chính viễn thông và ngành du lịch, góp phần tạo công ăn

việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Những năm
gần đây, ngành dịch vụ du lịch của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, nhiều hình thức
du lịch được khai thác, nhiều nhà hàng, khách sạn mọc lên và nhiều cửa hàng bán
đồ lưu niệm phục vụ khách du lịch được mở đã thu hút một lượng lớn người lao
động trong cả nước, đặc biệt là những vùng miền có nhiều danh lam thắng cảnh của
cả nước. Có được sự đổi mới và phát triển đó chúng ta không thể phủ nhận vai trò
đóng góp của ngành vận tải hàng không Việt Nam mà tiêu biểu là Vietnam
Airlines. Hàng năm lượng khách du lịch nước ngoài sử dụng dịch vụ của Vietnam
Airlines tăng nhanh, trong năm 2005 có 6584 hành khách quốc tế đến Việt Nam
bằng phương tiện máy bay, chiếm 80,34% tổng lượng khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam bằng các phương tiện khác nhau.(Theo Điều tra chỉ tiêu khách du lịch
2005 củaTổng cục thống kê)
+ Ngành vận tải hàng không và đặc biệt là vận tải hành khách bằng đường
hàng không đóng góp lớn vào cán cân thanh toán quốc tế:
“ Cán cân thanh toán quốc tế là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà
nước ngoài trả cho một nước và những khoản tiền nước đó trả cho nước ngoài
trong một thời gian nhất định” (Tr.57 giáo trình Thanh toán quốc tế.nxb Giáo
dục.2002). Theo đó, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động vận tải hàng không nói
chung và vận tải hành khách bằng đường hàng không nói riêng có tác động đến tình
trạng cán cân thanh toán của một quốc gia.
Trong nền kinh tế Vịêt Nam hiện nay, vận tải hàng không được xem là một
trong những ngành phát triển mạnh mẽ và năng động nhất. Tốc độ phát triển của
vận tải hàng không đạt ở mức cao, trung bình 44,2% trong giai đoạn 1991 -1996.
Doanh thu từ hoạt động kinh vận tải hàng không đóng góp đáng kể cho ngân sách
nhà nước và là nguồn thu ngoại tệ dồi dào cho quốc gia. Năm 1998, VNA nộp ngân
sách nhà nước đạt 981 tỷ đồng và năm 2002 đạt 1.062 tỷ đồng (tăng 10,8% so với
năm 1998, hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch). Trong 5 năm (từ 2001-
2006), thị trường hàng không Việt Nam liên tục phát triển. Không chỉ số lượng
hành khách mà con số hàng hoá VNA vận chuyển cũng tăng lên theo từng năm.
Năm 2000, VNA vận chuyển gần 46 ngàn tấn hàng hoá; năm 2001: hơn 49 ngàn

tấn, doanh thu 708 tỷ đồng. Đến năm 2006, VNA vận chuyển gần 105 ngàn tấn,
doanh thu gần 1.800 tỷ đồng. Trung bình, doanh thu từ vận tải hàng hoá chiếm trên
10 % tổng doanh thu của VNA. 5 năm qua, sản lượng hàng hoá VNA chuyên chở
tăng hơn 2 lần, doanh thu gần gấp 3 lần.
Bằng nguồn thu từ việc bán vé máy bay cho khách nước ngoài trong các
chuyến bay nội địa và các dịch vụ thương mại kèm theo như các dịch vụ du lịch,
tiêu dùng cho việc ăn uống, khách sạn và đi lại trở thành một khoản thuận lợi trong
việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế (Theo số lượng của Tổng cục Thống kê
thì năm 2005 lượng hành khách du lịch quốc tế đến Việt Nam bằng đường hàng
không là 6,8 triệu người, trong tổng số 1287,6 triệu hành khách sử dụng các
phương tiện vận chuyển khác nhau và đạt chỉ số phát triển 123,6%). Thêm vào đó
là nguồn thu từ kim ngạch xuất khẩu với việc chuyên chở hàng hoá xuất khẩu với
hàng chục tấn hàng hoá mỗi năm. Nguồn thu đó đóng vai trò cân bằng nguồn chi
thanh toán cho các hãng hàng không nước ngoài và sự chi tiêu của người đi du lịch
nước ngoài, và cũng là nguồn thu quan trọng để đầu tư mua sắm các trang thiết bị
kỹ thuật phục vụ cho vận tải hàng không.
+ Vận tải hàng không góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hoá
xã hội.
Với những ưu điểm của đặc thù ngành, vận tải hàng không đã góp phần đáp
ứng nhu cầu kinh tế - xã hội, giao lưu văn hoá – xã hội trong nội bộ quốc gia từ
đồng bằng đến vùng núi, hải đảo xa xôi cũng như trong môi trường quốc tế. Với hệ
thống sân bay bố trí hầu khắp trên khắp đất nước, đặc biệt ở những vùng xa xôi,
vận tải hàng không góp phần trong việc vận chuyển hàng hoá, sách báo, đồ viện trợ
và khách du lịch tới đây nhằm phát triển kinh tế và giao lưu văn hoá, góp phần rút
ngắn trình độ phát triển giữa những vùng trung tâm và vùng sâu vùng xa của đất
nước nhằm đạt được sự tăng trưởng đồng đều và bền vững trong cả nước. Vận tải
hàng không Việt Nam đang cố gắng phổ biến hoá loại hình vận tải của mình trong
đời sống nhân dân nhằm phục vụ nhu cầu đi lại và giao lưu giữa các vùng trong đất
nước cũng như giao lưu với bè bạn năm châu.
Xuất phát điểm của ngành vận tải hàng không là thuộc lực lượng vũ trang

nên một vai trò rất quan trọng của vận tải hàng không là giữ vững an ninh quốc
phòng cho đất nước.
Qua những phân tích trên ta có thể thấy rõ vai trò to lớn của vận tải hàng
không nói chung và vận tải hành khách bằng đường hàng không nói riêng trong tất
cả mọi mặt của cuộc sống từ kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, du lịch đến an ninh
quốc phòng. Đảng và Nhà nước cũng như các cấp, các ngành có liên quan phải
nhận thức được và phát huy tối đa vai trò quan trọng của vận tải hàng không trong
quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, đưa nước ta đi lên ngang tầm với thế giới.
1.3. Vận tải hàng không Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy
mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để
chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hoá thương mại hay "tự do
thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư
bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ,
thông tin, văn hoá..
Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó
bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày
càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các
công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một số xu hướng như sau:
 Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế
thế giới
 Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
 Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ
như Internet, các các vệ tinh liên lạc và điện thoại
 Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá
phẩm như phim ảnh hay sách báo.
 Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các

hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC
 Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế
 Phát triển các hệ thống tài chính quốc tế
 Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia
 Gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý
các giao dịch quốc tế ….
Trong những năm gần đây quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ và
sâu rộng hơn bao giờ hết. Hàng năm lượng hàng hoá trao đổi giữa các quốc gia
tăng nhanh gấp đôi tổng sản phẩm quốc nội, thị trường tài chính hoạt động sôi nổi
liên tục 24/24 giờ , các công ty đa quốc gia được thành lập khắp nơi trên thế giới
tạo ra sự giao lưu trong quan hệ kinh tế, văn hoá và xã hội từ những quốc gia phát
triển nhất đến những quốc gia đang và kém phát triển. Thêm vào đó công nghệ
thông tin đang phát triển như vũ bão, điển hình là mạng Internet với những tính
năng của mình đã kết nối con người xa nhau hàng triệu dặm xích lại gần nhau và
cung cấp một lượng thông tin khổng lồ tới bất kỳ đâu trong một khoảng thời gian
ngắn nhất. Trong không khí toàn cầu hoá đó ngành vận tải đang ngày càng phát
triển với việc áp dụng nhiều công nghệ cao đã góp phần vào quá trình toàn cầu hoá
bằng việc chuyên chở một khối lượng lớn hàng hoá trên khắp thế giới cũng như
đưa con người từ các quốc gia khác nhau, màu da khác nhau và văn hoá khác nhau
đến lại gần nhau. Với những ưu điểm hơn hẳn các loại hình vận tải khác, vận tải
hàng không cho phép đi lại dễ dàng hơn. Hành tinh dường như đang nhỏ lại và thu
gọn trong một ngôi “ làng toàn cầu” mà chỉ một thời gian ngắn ngủi con người có ở
xa vạn dặm cũng có thể gặp được nhau..
Trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, toàn cầu hoá thể hiện rõ
trong việc thành lập các tổ chức kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội mang tính toàn
cầu và khu vực như tổ chức thương mại thế giới WTO, diễn đàn kinh tế Châu Á
Thái Bình Dương APEC và vô số các tổ chức khu vực khác. Cũng hoà chung
không khí toàn cầu hoá đó, vận tải hàng không trên toàn thế giới nói chung và trong
từng khu vực nói riêng cũng liên kết, hợp tác với nhau trong việc khai thác mảng
bẩu trời thế giới thông qua các tổ chức như ICAO(International Civil Aviation

Organisation - Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế cấp chính phủ),
IATA(International Airtransport Association - Hiệp hội hàng không dân dụng quốc
tế) và AAPA(Association of Assia Paccific Airlines - Hiệp hội vận tải hàng không
Châu Á),….Toàn cầu hoá tạo ra một môi trường cạnh tranh thông thoáng hơn
nhưng vô cùng khốc liệt cho tất cả các ngành kinh tế và không ngoại trừ ngành vận
tải hàng không. Vận tải hàng không Việt Nam đứng trước những cơ hội lớn và
thách thức không nhỏ.
Trong không khí toàn cầu hoá và hội nhập trên toàn thế giới, muốn phát triển
nhanh và bền vững Việt Nam không thể đứng yên mà phải ra sức tìm kiếm, nắm
bắt và chủ động mở rộng quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực. Với chủ trương, đường
lối tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các quốc gia trên nhiều lĩnh vực
trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và tôn trọng lẫn nhau, Việt Nam đã tham gia vào
nhiều tổ chức kinh tế mang tính quốc tế và khu vực mà tiêu biểu là việc trở thành
thành viên của tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới - tổ chức thương mại thế giới
WTO. Cũng nằm trong chủ trương, đường lối đó của Đảng và Nhà nước, ngành
vận tải hàng không Việt Nam cũng thực hiện lộ trình toàn cầu hoá của mình bằng
việc tham gia vào các tổ chức của ngành như Hợp tác tiểu vùng CLMV giữa bốn
nước là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam về hợp tác hàng không tiểu vùng
Campuchia-Lào-Myanmar-Việt Nam; Hợp tác ASEAN với kế hoạch hành động
EASEAN trong giao thông vận tải và bưu điện với “Chính sách vận tải hàng không
trong ASEAN”; Hợp tác APEC; Hợp tác WTO.
Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào hợp tác CLMV và hợp tác WTO:
+ Tiểu vùng hợp tác vận tải hàng không CLMV được thành lập năm 1998
theo sáng kiến của Việt Nam, nước đăng cai hội nghị lần thứ 1 và thứ 2 tại Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh, nhằm tập trung hợp tác vận tải hàng không giữa các
nước CLMV để hỗ trợ ngành vận tải hàng không của các nước phát triển. Trong
thời gian qua kể từ ngày ký thoả thuận chính thức thiết lập Hợp tác Tiểu vùng
CLMV về vận tải hàng không, trên cơ sở 4 nguyên tắc “hợp tác – giúp đỡ - đồng
thuận và kiên trì thực hiện mục tiêu chung”, sự hợp tác này đã đem lại hiệu quả
đáng kể trong hoạt động vận tải hàng không của 4 quốc gia Campuchia, Lào,

Myanmar và Việt Nam.
+ Hợp tác WTO:
GATS là hiệp định của WTO được công bố ngày 15/12/1993 do 124 nước
thành viên ký ngày 15/4/1994 bao gồm các nguyên tắc được áp dụng vô điều
kiện(không phụ thuộc vào quá trình đàm phán) và các biện pháp áp dụng có điều
kiện (chủ yếu dựa trên các cam kết là kết quả đàm phán của mỗi nước). Các cma
kết về dịch vụ được thể hiện trong Biểu cam kết cụ thể về thương mại và dịch vụ
(Gọi tắt là biểu cam kết dịch vụ). Trong hiệp định GATS có một phụ lục về vận tải
hàng không, trong đó chỉ điều chỉnh các loại hình dịch vụ như dịch vụ sửa chữa và
bảo trì máy bay, dịch vụ tiếp thị vận tải hàng không và dịch vụ đặt giữ chỗ qua
mạng.
Hiện nay, một phần lớn ngành vận tải hàng không - gồm quyền không lưu
và các dịch vụ đi kèm quyền không lưu- đang nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của
GATS. Tuy vậy, GATS cũng quy định rằng các nước thành viên phải xem xét tình
hình này. Quá trình xem xét đã được bắt đầu từ năm 2000 nhằm xác định xem liệu
có nên đưa thêm một số dịch vụ vận tải hàng không khác vào phạm vi điều chỉnh
của GATS hay không. Quá trình này có thể sẽ chuyển thành một cuộc đàm phán
thực chất và dẫn tới sửa đổi GATS bởi vì phạm vi điều chỉnh của GATS sẽ được
mở rộng ra một số ngành dịch vụ mới và danh mục cam kết của mỗi quốc gia sẽ
được bổ sung thêm một số cam kết cụ thể về các ngành dịch vụ mới này.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
WTO, Việt Nam thực hiện việc mở dần từng cánh cửa ngành vận tải hàng không và
cam kết với mức độ vừa phải.
Trong lĩnh vực dịch vụ vận tải hàng không, các hãng hàng không nước ngoài
được phép cung cấp dịch vụ bán và tiếp thị sản phẩm hàng không tại Việt Nam
thông qua văn phòng bán vé của mình hoặc các đại lý tại Việt Nam. Đối với dịch
vụ đặt, giữ chỗ bằng máy tính, Việt Nam không hạn chế, ngoại trừ nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài phải sử dụng mạng viễn thông công cộng dưới sự quản lý của
nhà chức trách viễn thông Việt Nam. Đối với dịch vụ bảo dưỡng và sửa chữa máy
bay, kể từ khi gia nhập, Việt Nam cho phép thành lập liên doanh, trong đó phần

vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 51%.
Thực tế từ khi ra đời đến nay, vận tải hàng không đã có những đóng góp
đáng kể và khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình trong việc phát triển
nền kinh tế nói chung và sự nghiệp toàn cầu hóa nói riêng.
1.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển trong hoạt động vận tải
hành khách bằng đường hàng không tại Việt Nam
1.4.1. Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Nhóm những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp là những nhân tố khách quan
không nằm trong nội tại doanh nghiệp. Có những nhân tố doanh nghiệp có thể kiểm
soát được nhưng ngược lại có những nhân tố hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát
của doanh nghiệp. Hoạt động vận tải hành khách bằng đường hàng không chịu ảnh
hưởng của những nhân tố sau:
1.4.1.1. Môi trường pháp lý, kinh tế và chính trị
Môi trường pháp lý, kinh tế và chính trị của một quốc gia ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của các doanh nghiệp, cụ thể là ảnh hưởng đến đường lối chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp đó. Nếu một quốc gia có môi trường pháp lý chưa
hoàn thiện, còn nhiều bất cập thì khó có thể hoà nhập, tham gia vào các tổ chức
kinh tế, văn hoá xã hội. Khi được trở thành một thành viên của bất kỳ tổ chức nào
thì mỗi quốc gia phải đáp ứng được những yêu cầu của tổ chức đó đề ra. Tiêu biểu
là việc Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì
một trong những yêu cầu đặt ra là Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Như thế nếu hệ thống pháp luật Việt Nam chưa được thế giới công nhận thì sẽ hạn
chế trong việc giao lưu buôn bán giữa Việt Nam và các nước khác. Điều này gây
ảnh hưởng trực tiếp tới ngành hàng không Việt Nam, cụ thể là lĩnh vực vận tải hàng
hoá và vận tải hành khách.
Môi trường chính trị cũng ảnh hưởng nhiều tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Được xem là quốc gia có nền chính trị ổn định so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới nên Việt Nam là điểm dừng chân an toàn
và tin cậy của các nhà đầu tư trên thế giới. Đây cũng là cơ hội tốt để phát triển
ngành vận tải hàng không về vận chuyển hành khách và hàng hoá quốc tế đặc biệt

trong bối cảnh ngành hàng không dân dụng Việt Nam đang rất cần vốn để đầu tư
cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động vận tải hàng không. Ngày nay, các nhà đầu tư
cũng như các khách du lịch bốn phương thường có xu hướng tìm đến những quốc
gia có tình trạng chính trị ổn định cũng như họ thích được khám phá những vùng
đất mới nổi - Việt Nam là một trong những vùng đất ấy. Như thế, thu hút đầu tư
càng nhiều thì năng lực sản xuất càng mạnh, đối tác làm ăn càng nhiều, do đó thúc
đầy việc xuất khẩu hàng hóa kéo theo sự phát triển trong vận tải hàng hoá của
ngành hàng không. Kinh tế phát triển, ngành du lịch nở rộ kéo theo sự phát triển
trong vận tải hành khách bằng đường hàng không.
1.4.1.2.. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Đối với một ngành còn non trẻ và có xuất phát điểm thấp như ngành hàng
không thì sự hỗ trợ của nhà nước giữ vai trò quan trọng, là chất xúc tác giúp cho
ngành hàng không dân dụng Việt Nam phát triển kịp với các hàng hàng không trên
thế giới.
Chính sách hỗ trợ của nhà nước có thể được thể hiện bằng việc thực hiện
chính sách cắt giảm thuế hoặc áp dụng mức thuế ưu đãi cho doanh nghiệp; hỗ trợ
về vốn cho doanh nghiệp trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ cho việc sản xuất kinh doanh; thực hiện đa phương hoá đa dạng hóa, mở rộng
quan hệ với các quốc gia trên thế giới tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển thị
trường tiêu thụ; tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lợi, môi trường
chính trị ổn đinh, an toàn để thu hút đối tác đầu tư, mở rộng sản xuất; có chính sách
đúng đắn và hợp lý trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh
nghiệp.
1.4.1.3.Đối thủ cạnh tranh
Người ta vẫn nói rằng không có cạnh tranh thì con người không thể phát
triển được. Đúng như vậy, chúng ta sẽ không biết được mình đang ở đâu trên con
đường mình đang đi, mình đã làm được những gì và mình làm như thế đã là tối ưu
chưa hay còn người khác có thể làm tốt hơn như thế? Chúng ta sẽ không thể biết
được điều đó nếu như không có ai để cạnh tranh. Vấn đề cốt lõi là mình phải xác
định được đối thủ của mình là ai và tìm được phương pháp cạnh tranh đúng đắn, có

như thế mới ngày một phát triển được. Điều này đặc biệt quan trọng trong kinh
doanh. Cạnh tranh được xem như là vấn đề tất yếu trong kinh doanh.
Không nằm ngoài quy luật đó, trên thị trường khai thác vận tải hàng
không hiện nay, đặc biệt là vận tải hành khách bằng đường hàng không đang tồn tại
những sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Điều đó đòi hỏi các hãng hàng không phải
nắm bắt rõ đối thủ của mình và kịp thời đưa ra những chiến lược kinh doanh kịp
thời và phù hợp.
1.4.2.Những nhân tố bên trong doanh nghiệp
Nhóm những nhân tố bên trong doanh nghiệp là những nhân tố thuộc về
nội bộ doanh nghiệp đó và doanh nghiệp có thể kiểm soát được. Điều này cho thấy
các doanh nghiệp muốn nâng cao sức cạnh tranh, doanh nghiệp cần củng cố, nâng
cao nội lực những nhân tố tạo nên thế mạnh của doanh nghiệp, đồng thời hạn chế
hay khắc phục những nhân tố làm yếu đi sự phát triển của doanh nghiệp đó.
1.4.2.1.Năng lực tài chính
Khả năng tài chính của doanh nghiệp thể hiện khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp đó trên thị trường. Năng lực tài chính ở đây được hiểu là quy mô
nguồn tài chính của DN. Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt thì sẽ dễ
dàng hơn trong việc vay thêm vốn cũng như thu hút thêm sự đầu tư; nhờ đó DN có
thể đầu tư thêm máy móc, thiết bị sản xuất và công nghệ cao góp phần mở rộng
kinh doanh sản xuất hơn nữa.
Với đặc thù ngành nghề kinh doanh đòi hỏi nhiều vốn như vận tải hàng không
thì năng lực tài chính lại càng thể hiện rõ hơn tầm quan trọng. Cho tới nay, có thể
nói VNA đang giữ thế độc quyền trong việc khai thác mảng thị trường hàng không
tại Việt Nam và được sự hỗ trợ của nhà nước về vốn, nhưng trong thời gian tới đây
điều này sẽ dần dần bị xóa bỏ khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Do đó, VNA sẽ sớm phải tự lực về tài chính cho nhu
cầu hoạt động và phát triển của mình. Điều này đã đặt ra không ít khó khăn thách
thức cho VNA trong thời gian tới.
1.4.2.2.Cơ sở hạ tầng
Hầu như không một doanh nghiệp kinh doanh sản xuất nào lại không cần đến

yếu tố cơ sở hạ tầng; có doanh nghiệp thì cơ sở hạ tầng chỉ chiếm một phần nhỏ
trong tổng tài sản của doanh nghiệp nhưng ngược lại có những doanh nghiệp thì
phần lớn tài sản lại là cơ sở hạ tầng, ví dụ như ngành hàng không dân dụng. Vận tải
hàng không đòi hỏi một lượng vốn lớn đầu tư cho cơ sở hạ tầng như mạng lưới sân
bay, đội bay, trang thiết bị phục vụ sân bay,…
Là quốc gia đang phát triển nên tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn kém xa so
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam mới thực hiện việc
chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường trong thời gian chưa
lâu nên không tránh khỏi những khó khăn. Hiện nay, Đảng và Nhà nước vẫn ưu
tiên phát triển nông nghiệp lên hàng đầu nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản
nhưng Đảng và Nhà nước cũng chủ trương phát triển ngành dịch vụ, đặc biệt là
ngành hàng không vì các nhà lãnh đạo nhận thấy vai trò mũi nhọn của ngành này
trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng khó khăn đặt ra là nhu cầu vốn cho ngành hàng
không lớn mà khả năng tài chính eo hẹp nên việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
còn nhiều hạn chế.
Cơ sở hạ tầng của vận tải hàng không bao gồm những nhân tố sau:
+ Máy bay:
Máy bay là cơ sở vật chất không thể thiếu trong vận tải hàng không và chiếm
một mức chi phí vốn lớn trong tổng chi phí hoạt động của hãng hàng không.
Hiện nay trên thế giới có nhiều loại máy bay khác nhau tuỳ thuộc vào tính
năng kỹ thuật, mức độ sử dụng và nước sản xuất.Tuy nhiên sự khác nhau cơ bản
của các loại máy bay là kích cỡ thể hiện ở lượng hành khách và lượng hàng mà
máy bay đó có thể chở được cũng như tốc độ và quãng đường tối đa mà máy bay
đó có thể đi thẳng.
Máy bay có thể có loại chuyên dùng để vận chuyển hàng hoá, có loại chuyên
dùng để vận chuyển hành khách và có loại sử dụng kết hợp vận chuyển hàng hoá
và hành khách. Tuy nhiên giữa máy bay chở hàng và chở hành khách không khác
nhau là mầy vì thực chất từ máy bay chở hành khách người ta sẽ bỏ những dãy ghế
giành cho hành khách đi và gia cố thêm sàn máy bay để chất hàng hoá. Xu hướng
phổ biến hiện nay của các hãng hàng không trên thế giới là sử dụng máy bay kết

hợp vận chuyển hành khách và hàng hóa.
+ Sân bay:
Càng ngày lượng sân bay được xây dựng để đáp ứng nhu cầu mở rộng mạng
đường bay và nhu cầu đi lại của người dân càng tăng cao. Tính đến cuối năm 2004,
trên thế giới có 80 sân bay của 45 hãng khác nhau được xếp hạng lớn nhất với lợi
nhuận ròng là 3.123,6 triệu USD doanh thu chiếm 10% doanh thu.
Tuy các hãng hàng không của Mỹ và Châu Âu vẫn luôn đi đầu trong việc
tăng trưởng nhưng các hãng hàng không Châu Á lại đạt tốc độ cao trong việc tăng
lượng khách và hàng hoá. Các quốc gia Châu Á đang chi hàng tỷ đô la cho việc xây
dựng và nâng cấp các sân bay trong khu vực để đáp ứng sự gia tăng về lượng hành
khách và hàng hoá.
1.4.2.4.Chiến lược kinh doanh
Bất cứ doanh nghiệp nào muốn phát triển bền vững thì đều phải đề ra
chiến lược kinh doanh cho riêng mình, bao gồm chiến lược kinh doanh dài hạn và
chiến lược kinh doanh ngắn hạn.
Thị truờng vận tải hàng không là thị trường có tiềm năng khai thác lớn
nhưng tính cạnh tranh ngày một trở nên gay gắt hơn. Đối với VNA, những năm qua
gần như đây là thị trường của riêng mình nhưng thế mạnh này đang dần có xu
hướng bị xoá bỏ, nhiều hãng hàng không quốc tế và một số hãng hàng không nội
địa đang có những chiến lược cạnh tranh gay gắt trong việc khai thác mảng thị
trường không trung này. Trong hoàn cảnh đó, hãng hàng không nào trang bị cho
mình một mạng lưới phân phối rộng khắp, mạng dịch vụ hoàn chỉnh, chất lượng và
đạt tiêu chuẩn cao thì sẽ hứa hẹn nhiều thành công trong cuộc chiến này. Tuy
nhiên, muốn tồn tài và phát triển, cũng như đủ sức cạnh tranh thì bất kỳ một doanh
nghiệp nào, đặc biệt là VNA cần phải hoạch định cho mình một chiến lược kinh
doanh lâu dài, có căn cứ khoa học và có tính thực tiễn.
1.4.2.5.Năng lực quản lý
Nếu một doanh nghiệp được đầu tư với mộ nguồn vốn lớn, được trang bị
một công nghệ kỹ thuật cao, đội ngũ công nhân lành nghề, nói chung tất cả đều
hoàn hảo để có thể bắt tay vào việc kinh doanh sản xuất. Nhưng chỉ sau một thời

gian hoạt động doanh nghiệp đó đã lâm vào tình trạng khủng hoảng và có nguy cơ
phá sản. Lý do đưa ra để giải thích cho tình trạng trên là năng lực quản lý của
những người đứng đầu quá kém; họ không hoạch định được những chiến lược kinh
doanh cụ thể và phù hợp cho doanh nghiệp mình, họ không xác định được đối thủ
của mình cũng như những chiêu bài kinh doanh của đối thể để đưa ra những
phương án có thể cạnh tranh hiệu quả; họ không nắm bắt kịp thời sự thay đổi
trong thị hiếu người tiêu dùng để đáp ứng một cách hiệu quả nhất. Như vậy ta có
thể thấy rõ năng lực quản lý đóng vai trò rất quan trọng trong sự thành công của
một doanh nghiệp.
Đối những ngành nghề kinh doanh phức tạp và đòi hỏi trình độ công nghệ
cao như vận tải hàng không thì năng lực quản lý là nhân tố quan trọng để phát triển
hoạt động vận tải hàng không nói chung và vận tải hành khách nói riêng và cũng
được thể hiện khá rõ qua những hoạt động và kết quả đạt được trong kinh doanh
vận tải hàng không.
1.4.2.6.Trình độ nguồn nhân lực
Nhân lực là nguồn lực không thể thiếu trong bất kỳ doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh nào từ trình độ kỹ thuật thấp tới trình độ kỹ thuật cao. Thông thường
chúng ta có thể thấy rõ trong mỗi doanh nghiệp nguồn nhân lực thường được phân
ra hai cấp là cấp quản lý và đội ngũ công nhân viên.
Giống như vị thuyền trưởng chèo lái con tàu vượt đại dương bao la cập bến được
an toàn cần phải có một bề dày kinh nghiệm, am hiểu về tàu và biển, một sự quyết
đoán; nhà quản lý doanh nghiệp phải có trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm
kinh doanh, có khả năng phân tích và có mối quan hệ đối ngoại tốt thì mới có thể
đưa doanh nghiệp mình phát triển và đứng vững trên thương trường khốc liệt.
Đội ngũ quản lý là những người đưa ra các ý tưởng chíên lược kinh
doanh, các phương pháp hoạt động nhưng người trực tiếp áp dụng những ý tưởng,
chiến lược vào thực tiễn một cách hiệu quả là đội ngũ công nhân viên. Vì thế, một
ý tưởng, một chiến lược kinh doanh có hoàn hảo đến đâu đi nữa nhưng những
người thực hiện nó không đủ trình độ tay nghề, kỹ năng làm việc, ý thức trách
nhiệm, sự sáng tạo trong công việc thì những ý tưởng, chiến lược kinh doanh ấy

cũng trở nên vô giá trị.
Đặc biệt trong mảng kinh doanh vận tải hàng không với công nghệ kỹ
thuật cao cũng như đòi hỏi những yêu cầu khắt khe khác thì năng lực quản lý cũng
như trình độ nguồn nhân lực lại càng đòi hỏi ở mức cao hơn, theo tiêu chuẩn quốc
tế thì mới có khả năng đủ sức cạnh tranh.
1.4.2.7.Sản phẩm:
Sản phẩm là kết quả đạt được sau những quá trình sản xuất, kinh doanh gian
khổ, đồng thời nó thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó cũng
như sự thành công của doanh nghiệp thông qua sự tiếp nhận của khách hàng đối
với sản phẩm. Như vậy sản phẩm có tính quyết định đến thành bại của doanh
nghiệp. Việc đánh giá sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện qua những mặt sau:
+ Chất lượng sản phẩm:
Có thể nói chất lượng sản phẩm là công cụ đầu tiên và quan trọng để thắng
đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt là trong thời buổi hiện nay khi mà hàng hoá tràn ngập
khắp mọi nơi, có xuất xứ từ mọi nơi trên thế giới; cùng một công dụng nhưng mỗi
nhà sản xuất, mỗi quốc gia chế tạo ra những kiểu dáng, màu sắc khác nhau gây khó
khăn cho khách hàng trong việc lựa chọn mặt hàng phù hợp. Lúc đó khách hàng sẽ
có xu hướng tìm đến những mặt hàng có chất lượng tốt, đảm bảo cho mục đích sử
dụng cũng như sức khoẻ của bản thân họ. Vấn đề chất lượng sản phẩm lại đặc biệt
quan trọng trong ngành kinh doanh sản phẩm dịch vụ như vận tải hàng không, nó
thể hiện ở việc người tiêu dùng cảm thấy thật sự thoải mái khi họ được phục vụ ân
cần, chu đáo và xứng đáng với chi phí họ bỏ ra.
+ Chi phí và giá thành sản phẩm:
Lại xét đến khía cạnh nếu như cùng một loại sản phẩm do hai doanh nghiệp
khác nhau sản xuất, cung cấp với chất lượng được xem là ngang nhau thì khách
hàng sẽ có xu hướng lựa chọn tiêu dùng sản phẩm có giá rẻ hơn. Vì vậy, giá cả của
sản phẩm cũng ảnh hưởng không nhỏ trong tiến trình phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên việc xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như cung cầu của thị trường, thị hiếu của khách hàng,… và quan trọng
là giá thành cấu thành nên sản phẩm đó. Giá thành sản phẩm thể hiện liệu doanh

nghiệp đó đã sử dụng, phân bổ chi phí hợp lý cho quá trình sản xuất, cung cấp sản
phẩm chưa, liệu doanh nghiệp đã lựa chọn được nhà cung cấp với nguyên vật liệu
tốt mà giá thành hợp lý chưa và liệu công tác phân phân phối sản phẩm đã tối ưư
nhất, tốn ít chi phí nhất chưa? Để thực hiện được điều này đòi hỏi năng lực quản lý
cao của những nhà lãnh đạo.
Như chúng ta biết chi phí phục vụ cho vận tải hàng không rất cao do đặc thù
của ngành là sử dụng máy móc công nghệ cao cũng như chi phí đạo tạo phi công và
đội ngũ nhân viên cao. Vì vậy, các nhà hoạch định chiến lược của vận tải hàng
không cần phải tính toán hợp lý giá vé để có thể kinh doanh hiệu quả, đạt được lợi
nhuận và đồng thời có thể cạnh tranh về giá được với các hãng hàng không khác.
+ Chủng loại sản phẩm:
Hiện nay đời sống người dân ngày một nâng cao, người ta không còn ăn no
mặc ấm nữa mà giờ đây họ đã có xu hướng ăn ngon mặc đẹp và có yêu cầu cao hơn
đối với sản phẩm, dịch vụ. Khách hàng không chỉ dừng lại ở những sản phẩm đơn
điệu nữa mà phải có sự đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, sản phẩm càng độc đáo
càng thu hút người mua hơn. Mỗi một sản phẩm khi được tung ra thị trường đều có
một vòng đời nhất định và vòng đời đó bị rút ngắn khi có sự cạnh tranh xẩy ra giữa
các doanh nghiệp với nhau. Chính vì thế, doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp
để kéo dài vòng đời sản phẩm như thường xuyên cải tiển mọi mặt của sản phẩm,
tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ.
Cạnh tranh trong thị trường vận tải hàng không ngày càng khốc liệt và các
hãng hàng không liên tiếp đưa ra những chiến lược kinh doanh với việc đa dạng
hoá sản phẩm, dịch vụ vận tải hàng không và đổi mới những sản phẩm dịch vụ
hàng không hiện có đã đặt ngành vận tải hàng không trước những thách thức lớn,
đòi hỏi các nhà lãnh đạo cần có những bước đi đúng đắn trong việc đưa ra những
sản phẩm, dịch vụ mới có những giải pháp phù hợp cho những sản phẩm, dịch vụ
cũ để có thể cạnh tranh ngang sức ngang tài với các hãng hàng không khác.
Chương II. Thực trạng hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines
2.1.Khái quát về hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines
2.1.1.Lịch sử ra đời và phát triển của Vietnam Airlines

Khởi đầu từ năm 1956 với đội ngũ máy bay chỉ gồm 5 chiếc, Vietnam
Airlines đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển trước khi trở thành như ngày nay.
Với tên gọi là Hàng không dân dụng Việt Nam, Vietnam Airlines bắt đầu bay với
tư cách một hãng hàng không độc lập ngay sau khi tiếp quản sân bay Gia Lâm. Qua
hơn 48 năm, Vietnam Airlines đã trải qua nhiều thay đổi và không ngừng phát
triển, mở rộng và cải thiện dịch vụ để trở thành một hãng hàng không đạt tiêu
chuẩn quốc tế.
Năm 1976, Vietnam Airlines đổi tên thành Tổng cục hàng không dân dụng
Việt Nam. Cũng trong năm đó VNA bắt đầu đi vào hoạt động thường xuyên,
chuyên chở 21.000 hành khách trong đó 7.000 hành khách trên chuyến bay quốc tế
và 3.000 tấn hàng hoá.
Năm 1993, Vietnam Airlines đổi tên thành Hãng Hàng không Quốc gia Việt
Nam. Năm 1995, Tổng công ty hàng không Việt Nam được thành lập với tư cách là
một tập đoàn kinh doanh vận tải hàng không có quy mô lớn của nhà nước. Tổng
công ty có chức năng nhiệm vụ kinh doanh, dịch vụ, phục vụ về vận tải hàng không
đối với hành khách, hàng hóa ở trong nước và nước ngoài, trong đó có xây dựng kế
hoạch phát triển, đầu tư, xây dựng, tạo nguồn vốn, thuê và mua sắm tầu bay, bảo
dưỡng và sửa chữa thiết bị, xuất nhập khẩu vật tư thiết bị, phụ tùng, nguyên liệu,
nhiên liệu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Tổng công ty; liên doanh, liên kết
với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài. Từ đó đến nay, VNA đã đạt được
sự tăng trưởng vững chắc trong kinh doanh vận chuyển hành khách và các loại hình
dịch vụ khác.
Tiếp tục vươn tới tương lai, Vietnam Airlines đã xây dựng những định
hướng lớn cho sự phát triển của mình. Đó là xây dựng Tổng công ty Hàng không
Việt Nam trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, phát huy vai trò của một đơn vị
kinh tế kỹ thuật hiện đại, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng. Trên cơ sở lấy kinh doanh vận tải
hàng không làm cơ bản đồng thời đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, nhanh
chóng hiện đại hóa, làm chủ công nghệ mới, nâng cao vị thế, xây dựng Vietnam
Airlines trở thành một hãng hàng không có tầm cỡ, có bản sắc, là một trong những

hãng hàng đầu của khu vực về chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh.
Trong 3 năm trở lại đây, Vietnam Airlines không ngừng phát triển mạng bay
và tiếp tục mở thêm nhiều đường bay mới quốc tế và nội địa. Hiện nay, VNA khai
thác và hợp tác đến 18 thành phố trong nước và 38 thành phố trên thế giới ở châu
Âu, châu Á, châu Úc và Bắc Mỹ.
Năm 2006, Vietnam Airlines đã vận chuyển được gần 6,8 triệu hành khách
trong đó có gần 3,1 triệu khách trên các chuyến bay quốc tế, và 3,7 triệu khách trên
các chuyến bay nội địa. Ngoài ra, Vietnam Airlines cũng chuyên chở được khoảng
106 nghìn tấn hàng hoá.
Để làm cho sản phẩm của Vietnam Airlines đa dạng, phong phú và tiện lợi
hơn đối với hành khách, VNA đã liên danh liên kết với nhiều đối tác trên thế giới
thông qua các hợp tác liên doanh; liên danh trao đổi chỗ và các hợp đồng trao đổi;
chia chặng đặc biệt...
2.1.2.Các loại hình sản phẩm và dịch vụ vận tải hành khách của Vietnam
Airlines
Hiện nay, phạm vi kinh doanh của Tổng công ty Hàng không Việt Nam bao
gồm những lĩnh vực sau: Kinh doanh, dịch vụ và phục vụ vận tải hàng không đồng
bộ đối với hành khách, hàng hóa ở trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, Tổng
công ty Hàng không Việt Nam còn kinh doanh một số ngành nghề khác như: Xăng
dầu, các dịch vụ thương mại tại các cảng hàng không, dịch vụ ủy thác xuất – nhập
khẩu, các dịch vụ thương mại tổng hợp, vận tải mặt đất, nhựa cao cấp, in, khảo sát
thiết kế, xây dựng công trình, cung ứng lao động chuyên ngành.
Sản phẩm vận tải hành khách của VNA bao gồm vận tải hành khách nội địa
và vận tải hành khách quốc tế. Điểm đến của VNA như sau:
Nội địa: Buôn Ma Thuột, Đà Nẵng, Điện Biên, Đà Lạt, Hà Nội, Hải Phòng, Huế,
Nha Trang, Phú Quốc, Vinh, Côn Đảo, Chu Lai, Quy Nhơn, Tuy Hoà, TP Hồ Chí
Minh, Plâycu, Cà Mau
Đông Dương: Phnôm Pênh – Campuchia, Siêm Riệp- Campuchia, Viên
Chăn – Lào, Luông Phờ Ra Băng - Lào
Úc: Menbơn – Xitni

Châu Âu: Pari – Pháp, Phờ Răng Phuốc - Đức, Matxcơva – Nga,
Đông Bắc Á: Hồng Kông - Hồng Kông, Đài Bắc – Đài Loan, Cao Hùng –
Đài Loan, Fu ku o ka - Nhật Bản, Ô-sa-ka - Nhật Bản, Na-gôi-a - Nhật Bản, Quảng
Châu – Trung Quốc, Côn Minh – Trung Quốc, Bắc Kinh – Trung Quốc, Xê-un –
Hàn Quốc, Pu-san – Hàn Quốc, Tô-ky-o - Nhật Bản.
Đông Nam Á: Băng Kốc – Thái Lan, Kua-la-lăm-pơ – Malayxia, Ja-cac-ta –
Indonexia, Singapore – Singapore, Manila – Philipin.
Bắc Mỹ: Atlanta - Mỹ, Denver - Mỹ, Washington - Mỹ, Newyork - Mỹ,
Miami - Mỹ, Chi-ca-go - Mỹ, Boston - Mỹ, Dallas Fort Worth - Mỹ, Houston - Mỹ,
Losangeles - Mỹ, Oklohama - Mỹ, San Francisco - Mỹ.
Lịch bay của VNA hiện nay khá hợp lý và không có vấn đề gì quá nổi cộm.
Bất cập lớn nhất và cũng là nguy hại lớn nhất đối với sản phẩm lịch bay của VNA
là việc không ổn định trong khai thác, chậm huỷ chuyến bay xẩy ra thường xuyên
gây ảnh hưởng đến tâm lý của khách hang và uy tín của VNA trên mọi thị trường.
VNA nên bố trí hợp lý lịch bay đi Châu Âu và xen kẽ ngày bay giữa các đường bay
đi CDG và FRA. Nếu có thể thì tăng thêm chuyến đi FRA vì đây là điểm hút đi
toàn châu Âu.
2.2.Thực trạng hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines
2.2.1.Tình hình hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines
trong những năm gần đây
Trong hơn mười năm qua, thị trường vận tải hàng không có rất nhiều biến
động phức tạp do phải chịu ảnh hưởng nặng nề của hàng loạt biến cố trên toàn thế
giới, như khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á (1997-1998), khủng bố
11/09/2001 tại Mỹ, hai lần chiến tranh vùng vịnh (năm 1991 và năm 2003), đại
dịch SARS và gần đây nhất là dịch cúm gia cầm và chiến tranh ở Irắc. Trong bối
cảnh đó, do kiên trì thực hiện mục tiêu chiến lược đã đề ra, VNA đã vững vàng
vượt qua khó khăn, tận dụng mọi cơ hội và phát huy nội lực, từng bước xây dựng
VNA từ một hãng hàng không nhỏ bé thành hãng hàng không trẻ, năng động, có
bản sắc và uy tín trong khu vực. Trong 10 năm liền VNA vẫn duy trì được mức
tăng trưởng bình quân là 12,5% cao gấp rưỡi mức tăng GDP của Việt Nam (từ 7-

9%). Vận chuyển hành khách tăng từ 1,1 triệu lượt hành khách năm 1993 lên 4
triệu hành khách năm 2003; tổng doanh thu giai đoạn 1993-2003 là 75.442 tỷ

×