Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.47 KB, 100 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






HIỆP







ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC







- 2014




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





HIỆP





ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ



Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÍCH THU




- 2014





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CẢM ƠN

Luận văn đã được hoàn thành tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm, Đại
học Thái Nguyên.
Với tình cảm chân thành nhất, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.
Nguyễn Bích Thu người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận
lợi để em hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Ban Giám hiệu, khoa
Sau đại học, khoa Ngữ văn – trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện

đề tài.
Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, ủng
hộ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2014
Tác giả


Triệu Thị Hiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Nguyễn Bích Thu, kết quả nêu trong luận văn này là hoàn toàn
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả



Triệu Thị Hiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
2.1. Những ý kiến nhận xét về thể loại truyện ngắn 2
2.2. Những ý kiến bàn về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
3.1. Đối tượng nghiên cứu 6
3.2. Phạm vi nghiên cứu 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
4.1. Mục đích nghiên cứu: 7
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Cấu trúc của luận văn 8
NỘI DUNG 9
Chƣơng 1. TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ TRONG BỐI CẢNH 9
CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 9
1.1. Một số vấn đề lý thuyết về truyện ngắn 9
1.1.1. Giới thuyết về truyện ngắn 9
1.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong dòng chảy của truyện ngắn nữ
đương đại 11
1.2. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 13
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác 13
1.2.1.1. Cuộc đời 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác 14
1.2.2. Đề tài và chủ đề 18
1.2.2.1. Đề tài tình yêu 18
1.2.2.2. Đề tài hôn nhân, gia đình 20

1.2.2.3. Đề tài đô thị, văn hóa đô thị 21
1.2.3. Một số phương diện nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 23
Chƣơng 2. CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN 29
NGUYỄN THỊ THU HUỆ 29
2.1. Cái nhìn đa chiều về cuộc sống trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 29
2.1.1. Phát hiện những thói tật xấu xa 29
2.1.2. Khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp 34
2.2. Cái nhìn đa diện về con người trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 36
2.2.1. Con người tự ý thức 37
2.2.2. Con người với sự trải nghiệm nỗi đau 41
2.2.3. Con người với đời sống tâm linh, vô thức 50
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TRONG TRUYỆN NGẮN 56
NGUYỄN THỊ THU HUỆ 56
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 56
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật 56
3.1.2. Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật 58
3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện 60
3.2.1. Cốt truyện tâm lý 60
3.2.2. Cốt truyện kỳ ảo 62
3.3. Không – thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 64
3.3.1. Không – thời gian đô thị với những mảnh vỡ rời rạc không liền mạch 65
3.3.2. Không – thời gian tâm trạng 69
3.4. Ngôn ngữ 72
3.4.1. Ngôn ngữ người kể chuyện 72
3.4.1.1. Ngôn ngữ sắc sảo, bạo liệt 72
3.4.1.2. Ngôn ngữ đằm thắm dịu dàng 74
3.4.2. Ngôn ngữ nhân vật 76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3.4.2.1. Khai thác triệt để ngôn ngữ độc thoại nội tâm 76

3.4.2.2. Xây dựng ngôn ngữ đối thoại trong độc thoại 79
3.4.2.3. Ngôn ngữ đối thoại đậm chất dung tục đời thường 80
3.5. Giọng điệu 81
3.5.1. Giọng khinh bạc xót xa 82
3.5.2. Giọng mỉa mai, châm biếm 84
3.5.3. Giọng phân tích, chiêm nghiệm, triết lý 86
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Thị Thu Huệ là cây bút không còn xa lạ với những ai yêu thích văn
chương, đặc biệt là văn chương sau đổi mới. Sau năm năm vắng bóng trên văn đàn,
tưởng chừng nhà văn đã “buông phím gác bút” để tập trung vào truyền thông và điện
ảnh. Thì bất ngờ chị trở lại văn đàn với Thành phố đi vắng, tập truyện ngắn gồm mười
bốn truyện được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2012. Chúng ta mới hay sức sống văn
chương trong chị vẫn còn đầy tràn cùng với bao điểm nhìn mới khác.
Có thể nói, từ sau đổi mới 1986, văn học Việt Nam đã đạt được những thành
công trên nhiều lĩnh vực, thể loại, đặc biệt là truyện ngắn. Bên cạnh những cây bút kỳ
cựu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, nối tiếp Nguyễn Huy
Thiệp, là sự xuất hiện của lớp nhà văn trẻ với lối viết hoàn toàn mới mẻ, tràn đầy tâm
huyết đã thổi vào nền văn học nước nhà một luồng sinh khí mới, với những tên tuổi
như: Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo, Đỗ Bích Thúy, hòa
chung vào dòng chảy đó là Nguyễn Thị Thu Huệ với tư cách là một nhà văn nữ có cá
tính độc đáo và cách viết mới lạ.
1.2. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ là một gương mặt tiêu biểu của văn xuôi nữ
sau đổi mới. Ngay từ những truyện ngắn đầu tiên chị đã nhanh chóng xác lập được vị

trí của mình trên văn đàn. Không thuộc số những nhà văn viết khỏe, Thu Huệ chỉ viết
khi câu chuyện đã đầy ắp trong tim óc cần hiện diện ra thành câu chữ, và khi đó chị
viết như “lên đồng”, ý tưởng tuôn trào như không kịp nghĩ. Tuy vậy, hơn hai mươi
năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng đã sở hữu bảy tập truyện ngắn được dư luận
chú ý: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1994), Phù thủy (1997), 21 truyện ngắn
(2001), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010)
và gần đây nhất là Thành phố đi vắng (2012). Chị cũng là nữ nhà văn gặt hái được
nhiều thành công và đã nhận được rất nhiều giải thưởng có uy tín: đạt giải nhì cuộc
thi truyện ngắn của Hội văn học nghệ thuật Hà Nội (1986); giải nhì cuộc thi truyện
ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong (1993); giải nhất cuộc thi truyện ngắn Nxb
Hà Nội (1994), cùng năm đó chị cũng đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí
Văn nghệ Quân đội tổ chức và nhận tặng thưởng Hội Nhà văn với tác phẩm Hậu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

thiên đường. Năm 2012, chị được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập
truyện ngắn Thành phố đi vắng.
Với những tập truyện đặc sắc của mình, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đã góp
phần cách tân nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Truyện ngắn của chị có khả năng
phản ánh các vấn đề gay gắt, nóng bỏng của xã hội hiện đại, đặc biệt có khả năng
khai thác chiều sâu những góc khuất “thế giới bên trong” con người. Để làm được
điều này, nhà văn phải có quan niệm mới mẻ về hiện thực cuộc sống và con người,
cũng như có sự táo bạo trong cách viết, cách xử lý vấn đề. Đây là những yếu tố quyết
định làm nên những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn
Thị Thu Huệ.
1.3. Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ lâu nay đã có một vài
chuyên luận, nhưng đi sâu tìm hiểu truyện ngắn của cây bút tài hoa này nhằm nhận
diện đặc trưng nghệ thuật vẫn còn những khoảng trống. Chính vì vậy, chúng tôi đã
lựa chọn Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối tượng nghiên cứu, với
mong muốn góp một cách nhìn khẳng định những thành tựu của truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ và vị trí của chị trong đời sống thể loại nói riêng và đời sống văn học

đương đại Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những ý kiến nhận xét về thể loại truyện ngắn
Trong cuộc sống hiện đại đầy sôi động, gấp gáp, khi mà thời gian được coi là
“vàng”, thì truyện ngắn là một trong các thể loại đi đầu trong việc tiếp cận và phản
ánh hiện thực cuộc sống một cách nhanh nhẹn, sắc bén. Với dung lượng nhỏ, gọn,
hàm súc, truyền dẫn thông tin nhanh, truyện ngắn đã phù hợp với sự kiên nhẫn có hạn
của người đọc khi mà con người ngày càng bị dồn ép về mặt thời gian. Với những thế
mạnh đó truyện ngắn luôn được người đọc đón nhận một cách hào hứng và cũng thu
hút được sự quan tâm của giới lý luận phê bình.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng (1986) đã nhận định: “Truyện ngắn như một
“trinh sát viên” đã trườn tới, đột vào các ngõ ngách sâu nhất của đời sống để khám
phá và phát hiện Giống như loại kính hiển vi có độ phóng cực mạnh, truyện ngắn
giúp chúng ta nhìn sâu hơn và thấy rõ ràng hơn cuộc sống của con người trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

những biểu hiện phong phú và phức tạp nhất của tư tưởng, tình cảm và tâm lý” [40-
10]. Còn nhà văn Nguyên Ngọc (1991) thì nhận xét: “Theo tôi, trong đại trà, có thể
hiện nay truyện ngắn đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt tính khái quát xã hội cao
hơn. Nó đi thẳng vào những vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con
người, ý nghĩa nhân sinh lẽ sống con người ở đời sâu và sắc hơn. Tức là có vẻ như
nghịch lý, nó lại có tính tiểu thuyết cao hơn những cuốn sách dày cộp có ghi rõ trên
bìa là tiểu thuyết hẳn hoi” [30-12].
Tác giả Bích Thu (1996) trong một bài viết đã ghi nhận: “truyện ngắn từ sau
1975, nhất là trong thời kì đổi mới dường như lúc nào cũng đáp ứng được tâm lý thị
hiếu của độc giả không chỉ bởi sự nhỏ, gọn của hình thức mà còn do sự chuyển tải
nhanh nhậy những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội hôm nay” [45-32]. Ở bài viết
này, tác giả còn đưa ra nhận định “Với đặc trưng cơ bản của thể loại, truyện ngắn đã
tạo cơ sở cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người Văn học sau 1975,
nhất là ở truyện ngắn đã đề cập đến vị trí và giá trị của con người cá nhân” [45-34].

Tác giả chỉ ra “trên địa hạt truyện ngắn, nhà văn đã khắc họa chân dung những con
người vừa đẹp đẽ, cao thượng, vừa đời thường, trần thế, luôn khao khát cái đẹp và
hướng tới cái thiện. Đó chính là nét nổi bật mang đậm ý nghĩa nhân văn khi nhìn
nhận con người, tạo nên tiếng nói đa thanh trong truyện ngắn hôm nay” [45-35].
Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh (1996) nhận định: “không phải ngẫu nhiên mà
truyện ngắn “lên ngôi”, trở thành mũi nhọn của văn xuôi hiện nay. Sự hàm súc cô
đọng, sự khai thác theo chiều sâu số phận và nội tâm con người, tính tập trung của
chủ đề và triết lý, những gợi mở tạo cho truyện ngắn hiện nay một chất lượng mới
vượt ra ngoài cái khung chật hẹp của thể loại” [1-31].
Tóm lại: Qua các ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu về thể loại
“nhỏ” này đã cho thấy những đặc trưng và khả năng của thể loại trong việc khai thác
số phận cá nhân, cũng như phản ánh những vấn đề của đời sống, của con người được
nhìn nhận mang tính khái quát triết lý xã hội cao. Những ý kiến đó thực sự là những
tư liệu quý, những định hướng ban đầu, giúp chúng tôi trong việc tiếp cận và triển
khai đề tài.
2.2. Những ý kiến bàn về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Đến với truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ người đọc sẽ bắt gặp những đề
tài, những ý tưởng, những cách viết khá táo bạo và mới mẻ, cũng như thấy ở nữ nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

văn này một vốn hiểu biết, một vốn sống phong phú và nhiều nét sắc sảo, độc đáo.
Truyện ngắn của chị hiện nay thu hút được sự chú ý của độc giả cũng như giới nghiên
cứu phê bình.
Nguyễn Văn Lưu phê bình về tập Cát đợi đã nhận xét: “Truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ có một chất gì đó vỡ ra ào ạt, khuấy đảo sôi sục cảm xúc trong người
đọc” [23-217].
Lý Hoài Thu đã nhận ra nét riêng trong một số truyện ngắn dự thi của Thu
Huệ: “những cuộc săn đuổi, tìm kiếm đích thực của tình yêu dường như được nâng
lên để đẩy đến tận cùng của ý đồ” [48]. Phát hiện này cũng đồng thời chỉ ra mảng đề
tài rộng lớn mà Thu Huệ dành bút lực để trải nghiệm.

Hồ Phương cũng đưa ra nhận xét về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ: “Trong
các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm, sao
còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi thế. Nó như con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc
trong bụng mình. Ruột gan mình có gì hình như nó cũng biết cả” [35].
Kim Dung thì cho rằng: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt –
vừa “bụi bặm” trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa
thanh khiết. Một cái gì đó thuần nhất, không đơn giản thậm chí có khi còn đối chọi
nhau trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ” [4-108].
Về văn phong của Nguyễn Thị Thu Huệ, Đoàn Hương ghi nhận: “Huệ lại có
lối viết văn như bị “lên đồng”. Trong truyện ngắn của mình không phải là cô “kể”
cho chúng ta nghe mà là cô “lôi” chúng ta đi theo nhân vật. Đó là phong cách độc
đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ” [19-7].
Theo Bùi Việt Thắng: “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc
trước hết vì giàu chất đời” và “những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người
viết biết bứt lên được trên cái có thực đến tận cùng để tìm tòi cái gì đó cao hơn con
người, đó là đời sống tâm hồn vốn không rõ ràng, rành mạch, vốn bí ẩn khó giải
thích bằng lý trí” [42]. Ngoài ra tác giả còn nhận xét về các phương diện khác như đề
tài “Thu Huệ quan tâm đến gia đình trong xã hội hiện đại đang tồn tại và tan rã như
thế nào, bởi những nguyên nhân nào”; tình huống “tuy hẹp nhưng đặc sắc”; ngôn ngữ
“có độ căng của nhịp điệu”; câu thường ngắn, cấu trúc đơn giản; “ hoạt trong giọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

điệu: lúc bạo liệt, lúc thật thà, lúc thâm trầm triết lý, có lúc đỏng đảnh lại có lúc dịu
dàng đến bất ngờ”.
Nguyễn Việt Hòa phê bình tập truyện: Nào, ta cùng lãng quên của Nguyễn Thị
Thu Huệ, đã đưa ra nhận xét: “Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
tương đối đặc biệt, nó toát ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ -
phụ nữ” [11].
Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, Hồ Sỹ
Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn của Thu Huệ trên bình diện thi pháp và chỉ ra rằng:

“Nhà văn này đã vượt ra ngoài phương thức miêu tả vừa thực, vừa hư, vừa trần thế,
vừa ảo mộng, chuyện hiện tại, chuyện dĩ vãng nhằm tạo dựng một cuộc sống có dung
tích, khai thác chiều sâu những góc khuất uẩn khúc “thế giới bên trong” của con
người” [50-7].
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài viết Báo cáo giải thưởng Hội nhà văn
Việt Nam 2012 đã ghi nhận “(Thành phố đi vắng) đã thực sự làm đầy thêm hồ sơ sáng
tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và đặt chị vào vị trí những nhà văn
Việt Nam đương đại viết truyện ngắn tiêu biểu” [56].
Gần đây nhất, nhà văn Nhật Tuấn trong bài viết Một thành tựu văn xuôi hiện
đại, nhân đọc Thành phố đi vắng đã nhận thấy: “(Thành phố đi vắng) thực sự rất
đáng ghi nhận như một tín hiệu đáng mừng, một thành tựu mới trong văn xuôi hiện
đại” [49-19].
Vũ Thị Tố Nga ở đề tài Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ đã xem xét một cách khá toàn diện về các truyện ngắn của Thu
Huệ và chỉ ra “tư duy hướng nội là một đặc điểm định tính đã phần nào chi phối các
phương thức diễn đạt. Nhiều hình thức nghệ thuật đã được Thu Huệ khéo léo đan cài
và sử dụng phù hợp trong việc biểu đạt tâm trạng – đi sâu vào thế giới nội tâm của
nhân vật. Bằng lối viết hết mình đến cạn kiệt chúng ta thấy được nỗi say đắm của
chị với cuộc đời và con người” [29-108].
Ngoài ra còn có luận văn Nhân vật nữ trong truyện ngắn Y Ban, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ và luận văn Đặc điểm phần mở đầu truyện ngắn của tác giả Y
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ, đó là những đề tài có liên quan nhưng khác về góc độ
và nhiệm vụ nghiên cứu với đề tài của chúng tôi.
Nhìn chung qua các bài viết, có thể thấy Nguyễn Thị Thu Huệ được đánh giá
là tác giả có khả năng nắm bắt và phản ánh hiện thực nhạy bén, sâu sắc, có giọng văn
đặc biệt. Nhưng một điều có thể nhận thấy là các ý kiến phần lớn bàn về truyện ngắn
của Thu Huệ nói chung mới là những nhận xét, đánh giá mang tính khái quát ở những
khía cạnh khác nhau mà hầu như chưa tìm hiểu và xem xét truyện ngắn của Nguyễn

Thị Thu Huệ một cách hệ thống. Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên
biệt về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Chọn đề tài này, chúng tôi sẽ dựa
trên cơ sở thành tựu của người đi trước, từ đó triển khai vấn đề để làm nổi bật đặc
điểm về nội dung và hình thức trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, trên cơ sở đó
ghi nhận đóng góp của chị với thể loại truyện ngắn nói riêng và với văn học Việt
Nam đương đại nói chung.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát trên phạm vi các tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Thị
Thu Huệ:
- Cát đợi ( Nhà xuất bản Hà Nội – 1992)
- Hậu Thiên Đường ( Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 1993)
- Phù thủy (Nhà xuất bản Văn học – 1995)
- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2001)
- Nào, ta cùng lãng quên (Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2003)
- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Văn học – 2006)
- Thành phố đi vắng ( Nhà xuất bản Trẻ - 2012)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Nhận diện đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên cả phương diện nội
dung và nghệ thuật.
Khẳng định thành tựu và những đóng góp của Nguyễn Thị thu Huệ với thể loại
truyện ngắn và với văn học Việt Nam đương đại.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khảo sát và tìm hiểu cách nhìn cuộc sống và con người trong truyện ngắn

Nguyễn Thị Thu Huệ.
Tìm hiểu nghệ thuật thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Khẳng định vị trí của Nguyễn Thị Thu Huệ trong nền văn xuôi Việt Nam
đương đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp liên ngành
Các phương pháp nghiên cứu trên không tách rời nhau mà tương tác, bổ sung
cho nhau trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu một cách hệ thống về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên hai
phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Tìm hiểu và chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ.
- Ghi nhận thành tựu và đóng góp của Nguyễn Thị Thu Huệ với truyện ngắn
Việt Nam đương đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong bối cảnh của truyện ngắn
nữ Việt Nam đương đại
Chương 2: Hiện thực cuộc sống và con người trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ



















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

NỘI DUNG
Chƣơng 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ TRONG BỐI CẢNH
CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Một số vấn đề lý thuyết về truyện ngắn
1.1.1. Giới thuyết về truyện ngắn
Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm,
trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho
tác phẩm một loại hình thức tồn tại chỉnh thể. Không phải ngẫu nhiên mà sau nhan đề
tác phẩm người ta thông báo ngay tên thể loại. Điều này có ý nghĩa, nói tới thể loại là

nói tới một cách tổ chức tác phẩm, một kiểu tái hiện đời sống và một kiểu giao tiếp
nghệ thuật.
D. Gronopxki trong sách Đọc truyện ngắn viết: “Truyện ngắn là một thể loại
muôn hình muôn vẻ, biến đổi không ngừng”. Thật vậy, bởi xung quanh thuật ngữ này
có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Từ điển văn học giải thích “Truyện ngắn là hình
thức tự sự loại nhỏ; truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập
trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong
một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn
đề xã hội” [39 -137]. Trong 150 thuật ngữ văn học thì truyện ngắn được xác định là
“thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập đến hầu hết
các phương diện đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới
hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với người tiếp nhận (độc giả)
đọc nó liền mạch không nghĩ” [2 - 359]. Các định nghĩa trên bổ sung cho nhau làm
nổi bật rõ những đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngắn.
Đặc điểm cơ bản nhất của truyện ngắn để phân biệt với truyện dài, tiểu thuyết
là “ngắn”. Nhà văn Nguyên Ngọc, giải thích cái ngắn trong truyện ngắn như sau: “Sở
dĩ truyện ngắn ngắn, sở dĩ người ta có thể viết ngắn là vì người ta đã biết quá nhiều.
Qúa nhiều đến mức có thể tước bỏ tất cả những gì phù phiếm, không cốt lõi, không
quan trọng. Phải có rất nhiều nguyên liệu thì mới có thể chưng cất. Truyện ngắn vì
nó là tác phẩm nghệ thuật chưng cất, chứ không phải là nguyên liệu thô” [26 - 14].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Số lượng câu chữ có hạn nhưng lại có “sức chứa”, “sức mở” lớn cũng là một
đặc điểm nổi bật của truyện ngắn. Khi bàn về dung lượng truyện ngắn trong cuộc trao
đổi về truyện ngắn năm 1992 trên báo Văn nghệ. Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhấn
mạnh: “Dung lượng truyện ngắn hiện nay rất lớn, trong độ ba trang mấy nghìn chữ
mà rõ mặt cuộc đời, một kiếp người, một thời đại…Các truyện ngắn bây giờ rất nặng,
dung lượng của nó là dung lượng của cả một cuốn tiểu thuyết, bởi vì cái đặc sắc của
thể loại buộc nó phải dồn nén lại, cho đến sắc lịm, nhọn hoắt. Như vậy dung lượng
hay chất lượng nghệ thuật của truyện ngắn bình đẳng với tiểu thuyết” [31- 3].

Điều cốt yếu đối với truyện (truyện ngắn cũng như tiểu thuyết) là con người, là
nhân vật “Trong một tác phẩm nếu là truyện ngắn, do lệ thuộc vào số trang eo hẹp,
cốt truyện tập trung, sự kiện dồn dập, đường dây chặt chẽ, cho nên số lượng phân
phối nhân vật cũng không phải nhiều” [6 - 26]. Truyện ngắn thường ít nhân vật, nhà
văn không thể miêu tả quá trình phát triển tính cách của nhân vật từ trưởng thành,
biến đổi, đấu tranh hay dằn vặt như trong tiểu thuyết, mà chỉ đi sâu vào một vài khía
cạnh, một thời điểm trong cuộc đời nhân vật. Dù không được khắc họa sắc nét về
ngoại hình, lý lịch nhưng người ta vẫn hình dung được gương mặt tinh thần tương đối
trọn vẹn của nhân vật và gây được một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và con người.
Trong truyện ngắn, kết cấu rất quan trọng – mà trước hết là sự sắp xếp các yếu tố
cốt truyện. Nhà văn Ma Văn Kháng đã ý thức rất rõ về điều này: “Vấn đề là anh tổ chức
sao cho truyện ngắn của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn nói, không xô
đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã so
sánh với tiểu thuyết: “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là cái
mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết
một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kỹ
thuật tinh xảo – kĩ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm
pháo, dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên”.
Truyện ngắn là thể loại năng động, dễ bắt kịp hơi thở thời đại, có khả năng là
tiếng nói nhanh nhạy nhất, phản ánh thời sự các vấn đề nóng hổi của thời đại, con
người một cách chính xác. Vì là một thể loại năng động, bén nhạy, nên truyện ngắn
hiện nay mang trong mình nhiều dấu hiệu không ổn định, cách xây dựng truyện ngắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

hiện nay uyển chuyển đa dạng hơn, xu hướng tự nới mở, không ngừng cách tân trong
cách thức diễn đạt, khiến truyện ngắn linh hoạt hơn. Và đây cũng chỉ là những khả
năng, đặc điểm mang tính bản thể của thể loại truyện ngắn.
Với những khả năng, đặc điểm đó, truyện ngắn đã tạo cho bản thân thể loại
những giá trị riêng biệt. Mỗi truyện ngắn đều gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời
và tình người, nói như D. Boulanger là: “Đánh thức và cuốn hút cả năm giác quan

của người đọc”. Tạo được ấn tượng nổi bật nhất, sâu sắc nhất và những chiều sâu
chưa nói hết, đó chính là điều khiến truyện ngắn luôn hấp dẫn bạn đọc.
1.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong dòng chảy của truyện ngắn nữ
đƣơng đại
Thập niên 90 của thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XIX là khoảng thời gian
được mùa của truyện ngắn. Trong đó có sự đóng góp của các cây bút nữ. Người ta nói
nhiều đến một nền văn học “mang gương mặt nữ”. “Đã hình thành một tỉ lệ giữa phái
yếu và đấng mày râu là 2/3 – một tỉ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn
trẻ hôm nay và văn chương nói chung mang gương mặt nữ” ( theo Bùi Việt Thắng).
Bên cạnh thế hệ nhà văn đã trưởng thành trong chiến tranh như: Lê Minh,
Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Lê Minh Khuê…., là thế hệ nhà văn
mới phát lộ tài năng. Đây là đội ngũ nhà văn đông đảo, trẻ tuổi, sung sức, tự tin và
đầy nhiệt huyết. Có thể kể đến những gương mặt quen thuộc với bạn đọc như: Võ Thị
Hảo, Lý Lan, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Thị Châu Giang, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy….Với nhiệt huyết và sáng
tạo không ngừng họ xứng đáng là đội ngũ kế cận thế hệ đàn chị của mình.
Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong những cây bút nổi lên ngay từ đầu những
năm 90 của thế kỉ XX. Những năm 90 độc giả yêu thích văn chương đã thực sự sửng
sốt và ngỡ ngàng khi xuất hiện một truyện ngắn mà tác giả của nó chưa có tên tuổi:
Hậu thiên đường. Cái nhìn của một nhà văn trẻ - một cô gái trẻ thật táo bạo, thật mới
nhưng cũng thật buồn, mang đậm hơi thở cuộc sống, có sức hút kì lạ. Tác phẩm ấy
như tiếp sức cho chị viết một loạt các truyện ngắn có tiếng vang khác: Cõi mê; Biển
ấm; Phù thủy; Xin hãy tin em; Của để dành…Và cho đến thời điểm này, trên văn đàn
Việt Nam hiện đại, cái tên Nguyễn Thị Thu Huệ đã không còn xa lạ, thậm chí chị đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

tạo được một phong cách riêng độc đáo, không lẫn với bất cứ nhà văn nào. Truyện
ngắn của chị gợi nên biết bao trăn trở trong mỗi người về con người và cuộc đời này.
Trong dòng chảy chung của văn xuôi nữ thời kì đổi mới, so với Võ Thị Hảo
ngọt ngào dịu nhẹ, Y Ban thâm trầm sâu sắc, Phan Thị Vàng Anh sắc sảo, trí tuệ

thâm thúy, Lý Lan hồn hậu sắc sảo, Nguyễn Ngọc Tư sâu lắng mượt mà…thì Nguyễn
Thị Thu Huệ khẳng định mình với phong cách viết dịu dàng mà mạnh mẽ, đằm thắm
mà táo bạo. Là người phụ nữ từng trải, chị sống sâu sắc, mạnh bạo và dám thách
thức. Chị là một nhà văn giàu nội lực với vốn sống phong phú đã cho ra đời những
tác phẩm thu hút được nhiều độc giả. Đọc tác phẩm của chị người ta sẽ thấy gần gũi,
thân quen nhưng cũng không kém phần thấm thía, sâu sắc.
Xuất hiện kịp thời khi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn chương
đã thay đổi từ sau đổi mới, Nguyễn Thị Thu Huệ có dịp đi vào những vấn đề rất đỗi
dung dị, bình thường nhưng không hề tầm thường, những vấn đề nhức nhối trong
cuộc sống hiện đại đầy biến động. Đó là vấn đề tình yêu và hôn nhân, gia đình cùng
những mâu thuẫn, xung đột xoay quanh tạo nên những bi kịch xã hội. Khác với một
số đề tài của các nhà văn đương thời khác như Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài…là đi
vào dư âm của cuộc chiến tranh, bi kịch của người lính trở về sau chiến tranh. Đây
cũng là điểm khác của chị so với những nhà văn đó, đặt trong sự đổi mới của văn học
Việt Nam nói chung. Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng đã đụng chạm đến
những vấn đề cấm kị của văn học, tình yêu đã chớm mang màu sắc nhục thể nhưng
đằm thắm, kín đáo, nhẹ nhàng. Đây là điểm mà các nhà văn trẻ sau này như Nguyễn
Ngọc Tư, và đặc biệt là Đỗ Hoàng Diệu khai thác một cách mạnh bạo, công khai hơn.
Từ khi bước vào nghiệp văn chương, Thu Huệ cùng với những tác phẩm của
mình đã dành được thiện cảm của người đọc và giới phê bình, giảng dạy văn học.
Gần đây nhất là giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi
vắng (2012). Tập truyện đánh dấu sự trở lại của Thu Huệ sau hơn năm năm vắng
bóng trên đàn và ghi dấu những đổi thay rõ nét trong đề tài và lối viết của chị. Truyện
ngắn của Thu Huệ hôm nay đã đi sâu vào phản ánh những góc khuất, những mảng vỡ
vô hình của cấu trúc văn hóa đô thị đang ăn sâu vào đời sống của những con người
hiện đại. Cùng với các cây bút nữ trong dòng chảy của văn xuôi nữ đương đại,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Nguyễn Thị Thu Huệ và các trang viết của chị đã góp phần làm nên diện mạo của văn
học Việt Nam đương đại trong quá trình đổi mới và hội nhập hôm nay.

1.2. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.2.1.1. Cuộc đời
“ Làm được những việc mình yêu thích, có được những thứ mình cần do chính
bàn tay mình làm ra. Viết văn, viết kịch, làm phim, đọc sách làm cho cuộc sống của
tôi phong phú. Nhưng điều quan trọng hơn là những tác phẩm của tôi được độc giả
tiếp nhận và yêu thích, đó là một sự đền bù vô giá.” [53]. Đây chính là những chia sẻ
của nữ nhà văn tài hoa Nguyễn Thị Thu Huệ khi nói chuyện về cuộc sống và công
việc của mình.
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12 tháng 8 năm 1966 tại Hà Nội. Hiện nay, chị
đang sinh sống ở Hà Nội và làm việc tại Đài Truyền hình Việt Nam.
Bố chị mất khi chị mới 17 tuổi. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú là mẹ chị, bà
qua đời năm 2013. Cái tên Huệ là do chính bà đặt cho con, theo tên nhân vật chính
trong cuốn tiểu thuyết đầu tay Huệ đã được trình làng năm 1964. Cuốn tiểu thuyết
Huệ “đứa con tinh thần” mang bao hoài bão, khát vọng của bà, giờ đây được gửi gắm
vào đứa con đầu lòng và duy nhất Nguyễn Thị Thu Huệ. Chị đã không phụ sự kì vọng
đó, đã khẳng định được tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của mình trên con đường văn
chương, tiếp bước những ấp ủ từ người mẹ yêu quý.
Ngay từ khi còn nhỏ Thu Huệ sớm đã bộc lộ năng khiếu văn chương và hội
họa, nhưng chị lại mê hội họa hơn và thích trở thành họa sĩ. Thu Huệ từng tâm
sự:“Mình không nghĩ sau này sẽ trở thành nhà văn, thế hệ bọn mình lúc đấy hồn
nhiên lắm, không bao giờ có ước mơ phải trở thành một người nổi tiếng, giàu sang gì
đâu” [55]. Nhưng niềm say mê và tài năng đã đưa chị đến với văn chương. Khi vừa
tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Tổng hợp, chị giấu bố mẹ đăng hai truyện ngắn Mưa
trái mùa và Mùa hoa sấu rụng trên Báo Văn Nghệ khiến văn đàn xôn xao một thời.
Nhưng con đường trở thành nhà văn của chị bị ngắt quãng khi chị lập gia đình và
dành toàn bộ thời gian để chăm sóc con cái. Sau hai năm ở nhà trông con, chị quyết
định vào làm biên tập viên sân khấu tại Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. Cuộc sống nhàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


hạ cứ thế trôi đi nếu không có một lần chị thấy mẹ buồn. Bà tủi thân vì thấy nhiều
người bằng tuổi con mình đã có tiếng tăm, còn con mình dường như quên hẳn văn
chương. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và
sự nghiệp viết văn của Thu Huệ. Hiểu được tâm tư và sự kì vọng của mẹ, vậy là chị
viết, viết như điên, cứ mỗi chiều sau khi cơm nước xong, chị đạp xe lên cơ quan,
mượn chiếc máy chữ và lạch cạch gõ đến tận khuya:“Lúc đó tôi đã viết như lên đồng,
ý tưởng tuôn trào như không kịp nghĩ”. Và kết quả năm truyện ngắn Hậu thiên
đường, Biển ấm, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?, Minu xinh đẹp gửi đi dự thi
Tạp chí Văn nghệ Quân đội khiến Ban giám khảo không biết chọn truyện nào đạt giải
nhất.
Sau đó chị chuyển sang làm tại hãng Phim Truyền hình Việt Nam. Liên tiếp
các truyện ngắn của chị được chuyển thể thành phim và gây được tiếng vang lớn. Đầu
tiên là Của để dành, sau đó là Nước mắt đàn ông cũng đến với khán giả và đoạt huy
chương vàng liên hoan phim Truyền hình. Chị trở thành “Của để dành” của các đạo
diễn với nhiều truyện ngắn rất đời thường bởi dường như ai đọc cũng cảm giác có
mình trong đó. Sau sáu tháng làm việc ở đây, chị được đề bạt làm trưởng phòng
phim, Xưởng trưởng xưởng II của hãng Phim Truyền hình. Sau đó với năng lực của
mình, chị đã vươn lên đứng ở vị trí Giám đốc của VTC9 Let’s Việt (2008), một kênh
chuyên về phim Truyền hình Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Huệ mặc dù rất bận rộn với công việc quản lý nhưng không
vì thế niềm đam mê văn chương, nhu cầu được viết của chị giảm bớt. Chị vẫn miệt
mài viết, miệt mài sáng tạo vì văn chương đã trở thành người bạn tinh thần của chị:
“Văn chương luôn làm ấm lòng tôi, viết và đọc là điều không thể thiếu trong cuộc
sống” và“ Văn chương đối với tôi là người bạn chung thủy có thể chia sẻ với mình
nhiều điều” [54].
1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ thuộc thế hệ cầm bút, xuất hiện từ đầu thập niên
90 của thế kỷ XX. Thu Huệ được coi là nhà văn nữ độc đáo và tài hoa, hào hiệp và
mạnh mẽ, một cây bút chuyên tâm với truyện ngắn. Không đao to búa lớn, không gây
dư luận ồn ào hay những tranh cãi nảy lửa trong giới phê bình nhưng tác phẩm của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

chị vẫn có sức hấp dẫn riêng. Thu Huệ thể hiện những vấn đề nhức nhối của cuộc
sống nhân sinh một cách giản dị tự nhiên như chính đời sống hàng ngày, nó như
những thước phim sống động, chân thực về cuộc sống. Vì vậy, tác phẩm của chị “hữu
xạ tự nhiên hương”, cứ lan tỏa, thấm thía vào tâm hồn bạn đọc một cách tự giác.
Hơn 20 năm cầm bút, Thu Huệ đã tạo dựng được phong cách riêng, không lẫn
với bất cứ nhà văn nào. Cho đến nay chị đã có trong tay bảy tập truyện ngắn: Cát đợi
(1992); Hậu thiên đường (1993); Phù thủy (1995); 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ (2001); Nào, ta cùng lãng quên (2003); 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
(2006) và Thành phố đi vắng (2012).
Thu Huệ cũng là người có duyên với các giải thưởng và được đánh giá cao tại
các hội đồng chấm giải. Chị đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học Nghệ
thuật Hà Nội 1986 (Một khoảng đời chờ đợi); Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác
phẩm tuổi xanh báo Tiền Phong 1993 (Những đêm thắp sáng); Giải nhất cuộc thi
truyện ngắn NXB Hà Nội 1994, cùng năm đó chị cũng đạt giải nhất cuộc thi truyện
ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức cho chùm tác phẩm gồm 5 truyện ngắn
(Hậu thiên đường, Biển ấm, Minu xinh đẹp, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?)
và nhận thưởng của Hội Nhà văn cho tập truyện Hậu thiên đường. Năm 2012, Thu
Huệ được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi
vắng.
Theo dõi hành trình sáng tác văn chương của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng ta
nhận thấy chị đã có những thay đổi ít nhiều so với thời Hậu thiên đường. Nếu như khi
mới bước chân vào làng văn, Thu Huệ được độc giả nhớ đến những câu chuyện viết
về cuộc sống hiện đại muôn hình vạn trạng nhưng mối quan tâm lớn nhất, trở thành
tâm điểm hút xoáy những vấn đề khác chính là phụ nữ, những vấn đề xoay quanh số
phận của người phụ nữ (Hậu thiên đường; Biển ấm; Cõi mê; Nào, ta cùng lãng
quên” ). Trong xã hội hiện đại, nỗi ám ảnh phái yếu trong truyện của chị không phải
là tiền tài, danh vọng, không phải bổn phận và trách nhiệm, càng không phải những
giá trị đạo đức mà xã hội mặc nhiên khoác lên vai họ mà chính là tình yêu. Những

nhân vật phụ nữ của Thu Huệ dù già hay trẻ, dù đã yên ấm gia đình hay đang đổ vỡ,
dù thiếu nữ hay thiếu phụ đều có một điểm chung nhất, đó là những tâm hồn khát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

yêu, luôn luôn tất tả trên hành trình khám phá, kiếm tìm tình yêu, dâng hiến, hi sinh
cho tình yêu đến kiệt cùng tuổi trẻ và hạnh phúc.
Với cái nhìn của một nhà văn trẻ - một cô gái trẻ thật táo bạo nhưng cũng thật
tinh tế, thật mới nhưng cũng thật buồn, mang đậm hơi thở cuộc sống, Thu Huệ đã tỏ
ra sắc sảo, nhạy bén trong việc phát hiện những thói tật xấu xa của cuộc đời và đôi
khi nhìn đời không khỏi bi quan, u ám. Chị đã nhanh chóng nhận thấy những vết rạn
trong tế bào xã hội, những gia đình tan vỡ, những ông bố, bà mẹ ngoại tình, những
người mẹ đơn thân, những đứa trẻ bơ vơ, cô đơn và cô độc. Mỗi gia đình nhỏ như con
thuyền tròng trành trong bão, có thể lật úp, có thể rạn vỡ, có thể tan tác mà rất ít khả
năng giữ được nguyên lành. Có thể thấy, mỗi truyện ngắn của chị như một vết cứa
sắc vào lòng độc giả, đầy gợi mở suy tư về thân phận con người, đặc biệt là phụ nữ.
Tuy nhiên, ẩn đằng sau những trang viết không bình lặng đó vẫn hiện lên niềm tin
yêu, tin tưởng vào con người, vào hạnh phúc và tình yêu.
Với Thành phố đi vắng, tập truyện gần đây đã ghi dấu những đổi thay rõ nét
trong cảm hứng và lối viết của chị. Ở tập truyện mới nhất này, Thu Huệ quan tâm
nhiều đến vấn đề đô thị hiện đại. Thay vì kiếm tìm tình yêu, tập truyện là những ưu tư
về tình người ngày một cạn kiệt thậm chí biến mất trong đô thành hiện đại. Tình
người băng giá, sự vô cảm, nỗi bất an và cái chết trở thành những ám ảnh trong đời
sống đương đại. Chị chia sẻ “Ngày trước, những câu chuyện của đời sống đến với tôi,
và tôi kể lại chúng theo cách nhìn của một người trẻ, trong một xã hội ít bất an, đâu
đó còn nhiều góc bình yên. Bây giờ, đời sống của đám đông, của những thân phận bị
trồi lên trụt xuống quẫy đạp nhằm tồn tại trong những cơn sóng táp thẳng, khiến tôi
chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và tôi đã kể những chuyện qua lắng kính của tôi,
những ngày tháng này. Lạnh lùng ở câu chữ, nhưng xa xót trong tâm can. Tuy vậy,
tôi chưa mất hẳn niềm tin vào con người. Rải rác ở đâu đó vẫn còn những người đau
đáu làm điều tốt, làm ra những thứ có ích cho cộng đồng” [51].

Xuyên suốt các câu chuyện trong Thành phố đi vắng là cảm thức về sự mất
mát trong đời sống con người. Đó là sự lạnh lùng thờ ơ, thói vô cảm và tội ác với
nhiều bộ mặt khác nhau. Con người sống với nhau ngày càng mất đi những sợi dây
kết nối, họ đã thực sự “đi vắng” trong chính sự tồn tại của mình. Thu Huệ chia sẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

“Tôi luôn bị ám ảnh về những dòng chảy đang xoay chuyển những thế hệ người Việt
theo hướng xấu đi, đang đi xuống. Sự thanh cao, phẩm chất đáng quý của người Việt
một là dần bé lại, hai là bị đè nén trước sự trần trụi và thô tục, sự suy cấp đạo đức,
bế tắc không lối thoát trong khi vẫn phải sống chứ không chết hay tìm ra một giải
pháp khác. Sự bất an, đời sống khó khăn, đơn điệu, những thói quen sinh hoạt văn
hóa cộng đồng ít dần làm người ta mất cảm xúc Những giá trị tốt đẹp bị triệt tiêu từ
từ, thay bằng sự hào nhoáng phô trương của trang phục, đồ dùng tỷ lệ nghịch với văn
hóa sống ” [51]. Cùng với lối viết khách quan, trung tính, tiết chế cảm xúc tối đa,
mỗi truyện ngắn trong tập sách của chị hiện diện như một bản tường thuật về đời
sống. Giống một nhà quay phim, nhà văn hướng ống kính vào những mảng đời sống
khác nhau cặm cụi, tỉ mỉ ghi hình. Không tham dự, không phán quyết, không dự
đoán, mỗi truyện ngắn đưa độc giả tiếp cận gần nhất với đời sống đô thị đương đại
cùng những vấn đề của nó, như trong các truyện ngắn: (Xmen có mùi trường đua; Cú
mèo và rượu hoa; Không thể kết thúc; Sống gửi thác về; Của cha, của con những
cành vạn niên thanh; Thu xếp cuối đời; Thành phố đi vắng ).
Nguyễn Thị Thu Huệ đã tâm sự “Tôi không có ý định là phải thay đổi phong
cách, hay phải làm mới mình. Nếu có sự thay đổi, có lẽ do trong đầu mình cảm nhận
đời sống này, chiêm nghiệm về những gì đang diễn ra xung quanh thay đổi, nên khi viết
ra thì thành như vậy. Nhân vật, câu chuyện dẫn dắt cách kể và tôi bị họ cuốn đi. Tôi
sống trong đời sống của họ, thấm thía sự tan nát của họ, và buồn bã cùng họ” [52].
Yêu mến, tìm hiểu, nghiên cứu những truyện ngắn của chị, từ những truyện ngắn đầu
tiên của thời Hậu thiên đường đến Thành phố đi vắng dễ dàng nhận thấy đã có sự thay
đổi trong cách viết của chị. Bên cạnh những nét sắc sảo và táo bạo, bén nhạy và tinh tế,
là sự trưởng thành, già dặn của một người từng trải với những chiêm nghiệm suy tư về

những giá trị cuộc đời và con người. Với ngòi bút sắc sảo và mạnh mẽ cùng trực cảm
phụ nữ tinh nhạy, tập truyện mới nhất này đã cảnh báo một đời sống của “vô cảm, ích
kỉ và thù hận và gián tiếp dự báo một tội ác kinh hoàng hơn trong tương lai nếu lương
tâm con người không được đánh thức” (Nguyễn Quang Thiều).
Đã hơn hai mươi năm cầm bút, nhưng Nguyễn Thị Thu Huệ vẫn luôn là cây
bút nữ không (chưa) mệt mỏi trên hành trình sáng tạo văn chương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1.2.2. Đề tài và chủ đề
Có thể thấy đời sống xã hội thời kỳ đổi mới là môi trường thuận lợi để Nguyễn
Thị Thu Huệ phát huy khả năng sáng tạo của mình. Ở góc độ của người phụ nữ sáng
tác văn chương, từ quan niệm về nghề, quan niệm về thiên chức của người cầm bút,
nhà văn đã đem đến những cảm hứng và giọng điệu mới. Truyện ngắn của Thu Huệ
thường áp sát hiện thực đời sống khi nhìn nhận mặt trái của hiện thực, nó luôn được
nhìn từ hai phía, cả niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau, hy vọng và thất
vọng, kiến tạo và đổ vỡ.
Nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ và làm nên nét riêng của chị là
mảng sáng tác về đề tài tình yêu và hôn nhân gia đình. Song, cùng với sự vận động và
đổi thay của cuộc sống cũng như những trải nghiệm và sự trưởng thành của bản thân,
ngòi bút của chị đã hướng vào những vấn đề nhức nhối, sự băng hoại, rạn nứt trong
văn hóa đô thị của cuộc sống đương đại. Đó là sự “đi vắng” của tình người và tình
đời trong lòng đô thị hiện đại đầy sôi động. Viết về đô thị, văn hóa đô thị là thể hiện
sự thay đổi trong đề tài và lối viết của Thu Huệ.
1.2.2.1. Đề tài tình yêu
Tình yêu là mảng đề tài xuất hiện khá đậm đặc trong sáng tác của Thu Huệ.
Dù còn mang nhiều đắng chát nhưng tình yêu vẫn luôn được diễn tả như một niềm
khao khát vĩnh hằng của con người.
Nguyễn Thị Thu Huệ viết về người phụ nữ trong tình yêu bằng sự nhạy cảm
của ngòi bút nữ, chị đã nhìn thấy những biến thái tinh vi của tình yêu thời hiện đại,
mà ở đó người phụ nữ là những người phải hứng chịu nhiều đau khổ nhất. Cô gái

(Một chiều mưa) đã chờ đợi người yêu dưới mưa với những day dứt, ân hận, hối lỗi
và lo lắng, trong khi đó người yêu của cô lại đang vui vẻ với một cô gái khác trong
ngôi nhà ấm áp tràn ngập tiếng cười. Người con gái xem tình yêu, người yêu là tất cả
cuộc sống bỗng chốc sụp đổ mọi niềm tin, hi vọng. Trong Đêm dịu dàng lại là bi
kịch tình yêu của người con gái bị người yêu phụ bạc. Anh ta muốn bỏ cô, nên đã
dựng một màn kịch và mượn tay lão thủ trưởng già đẩy cô vào tình huống xấu hổ,
nhục nhã vì bị xâm hại, mặc cảm đau đớn vì thấy mình có lỗi với người yêu. Nhưng
cuối cùng chính cô cũng đã nhận ra bản chất thật của người yêu khi chứng kiến cảnh

×