Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nghiên cứu thực trạng và xu hướng biến đổi của một số thảm cỏ tại xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 106 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



ĐẶNG THỊ NHUNG


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ XU HƢỚNG
BIẾN ĐỔI CỦA MỘT SỐ THẢM CỎ TẠI XÃ NHAM SƠN,
HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.20


LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. HOÀNG CHUNG



THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
Tác giả


Đặng Thị Nhung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng thành kính, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc và sự kính trọng tới:
- Thầy giáo PGS.TS Hoàng Chung đã quan tâm, tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn này.
- Ban chủ nhiệm khoa Sinh – KTNN, Thầy giáo Lê Ngọc Công cùng toàn
thể các thầy cô giáo, các cán bộ khoa Sinh – KTNN trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
- Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Nham Sơn, cán bộ phòng Nông Nghiệp
huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang đã giúp đỡ tôi nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2014
Tác giả


Đặng Thị Nhung


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục i
Danh mục các từ viết tắt ii
Danh mục các bảng iii
Danh mục các hình iv
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Khái niệm vùng, phân vùng 3
1.1.1. Khái niệm vùng 3
1.1.2. Khái niệm phân vùng 4
1.2. Các dạng phân vùng 4
1.2.1. Phân vùng địa vật lý 4
1.2.2. Phân vùng khí hậu 5
1.2.3. Phân vùng thổ nhưỡng 7
1.2.4. Phân vùng sinh thái thảm thực vật 9
1.3. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 13
1.3.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới 13
1.3.2. Những nghiên cứu về thành phần loài 14
1.3.3. Những nghiên cứu về dạng sống 15
1.3.4. Những nghiên cứu về năng suất 17
1.4. Những nghiên cứu về thoái hóa đồng cỏ do chăn thả và vấn đề sử
dụng hợp lý đồng cỏ miền Bắc Việt Nam 18
1.4.1. Những nghiên cứu về thoái hóa đồng cỏ do chăn thả 18
1.4.2. Những nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ miền Bắc Việt Nam 20


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

CHƢƠNG II: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VÙNG
NGHIÊN CỨU 22
2.1. Điều kiện tự nhiên của xã Nham Sơn 22
2.1.1. Vị trí địa lý của huyện Yên Dũng 22
2.1.2. Vị trí địa lý của xã Nham Sơn 22
2.1.3. Địa hình, địa mạo 24
2.1.4. Khí hậu 24
2.1.5. Các nguồn tài nguyên 25
2.2. Điều kiện kinh tế xã hội xã Nham Sơn 27
2.2.1. Tình hình phát triển các ngành kinh tế 27
2.2.2. Lao động, việc làm 28
CHƯƠNG III: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 29
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 29
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 29
3.2. Nội dung nghiên cứu 29
3.3. Phương pháp nghiên cứu 29
3.3.1. Điều tra cơ bản vùng nghiên cứu qua số liệu thứ cấp tại địa phương 30
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên 30
3.3.2.1. Lập tuyến điều tra 30
3.3.2.2. Điều tra nghiên cứu theo ô tiêu chuẩn 30
3.3.2.3. Điều tra trong dân 31
3.3.3. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 31
3.3.3.1. Xác định tên khoa học của mẫu thực vật 31
3.3.3.2. Xác định dạng sống 31
3.3.3.3. Nghiên cứu năng suất cỏ 31
3.3.3.4. Phân tích mẫu đất 31
CHƢƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 33


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4.1. Đặc điểm đặc trưng của các tiểu vùng 33
4.1.1. Tiểu vùng sinh thái ven sông 33
4.1.2. Tiểu vùng sinh thái ven suối. 33
4.1.3. Tiểu vùng sinh thái chân đê 33
4.1.4. Tiểu vùng sinh thái gò đồi 34
4.1.5. Tiểu vùng sinh thái dưới tán rừng trồng keo 34
4.2. Tổ hợp thành phần loài, dạng sống và khối lượng thực vật trong từng
tiểu vùng sinh thái 34
4.2.1. Tiểu vùng sinh thái ven sông 34
4.2.1.1. Thành phần loài 34
4.2.1.2. Thành phần dạng sống thực vật 39
4.2.1.3. Khối lượng thực vật 41
4.2.2. Tiểu vùng sinh thái ven suối 42
4.2.2.1. Thành phần loài 43
4.2.2.2. Thành phần dạng sống 46
4.2.2.3. Khối lượng thực vật 48
4.2.3. Tiểu vùng sinh thái bãi bằng chân đê 49
4.2.3.1. Thành phần loài 49
4.2.3.2. Thành phần dạng sống 55
4.2.3.3 Khối lượng thực vật 57
4.2.4. Tiểu vùng sinh thái trên đồi cỏ tự nhiên 59
4.2.4.1. Thành phần loài 59
4.2.4.2. Thành phần dạng sống 64
4.2.4.3. Khối lượng thực vật 67
4.2.5. Tiểu vùng sinh thái dưới tán rừng 68
4.2.5.1. Thành phần loài 68
4.5.2.2. Thành phần dạng sống 73

4.5.2.3. Khối lượng thực vật 76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4.3. Đánh giá thực trạng và xu hướng biến đổi của từng thảm cỏ trong
tình trạng khai thác hiện nay 77
4.3.1. Thảm cỏ ven sông 77
4.4.2. Thảm cỏ ven suối 78
4.4.3. Thảm cỏ bãi bằng chân đê 79
4.4.4. Thảm cỏ trên đồi 80
4.4.5. Thảm cỏ dưới tán rừng trồng Keo 82
4.4. Phương hướng sử dụng các tiểu vùng sinh thái trong tình trạng khai
thác hiện nay. 86
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 88
1. Kết luận 88
2. Đề nghị 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DS : Dạng sống
Nxb : Nhà xuất bản
UBND : Ủy ban nhân dân
GTCT : Giá trị chăn thả
To : Giá trị chăn thả tốt
TB : Giá trị chăn thả trung bình
Ke : Giá trị chăn thả kém
Ho : Không có giá trị chăn thả
ĐVTA : Đơn vị thức ăn




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1 Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam 16
Bảng 2.1. Cơ cấu đất đai của xã Tân Hương 26
Bảng 4.1. Thành phần loài trong thảm cỏ ven sông 35
Bảng 4.2. Những dạng sống chính của thực vật trong các thảm cỏ ven sông 39
Bảng 4.3. Khối lượng thực vật trong thảm cỏ ven sông (g/m
2
) 41
Bảng 4.4. Thành phần loài trong thảm cỏ ven suối 43
Bảng 4.5. Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ ven suối 46
Bảng 4.6. Khối lượng thực vật trong thảm cỏ ven suối (g/m
2
) 48
Bảng 4.7. Thành phần loài trong thảm cỏ bãi bằng chân đê 49
Bảng 4.8. Những dạng sống chính của thực vật trong bãi bằng chân đê 55
Bảng 4.9. Khối lượng thực vật bãi bằng chân đê (g/m
2
) 57
Bảng 4.10. Thành phần loài trong thảm cỏ trên đồi 59
Bảng 4.11. Những dạng sống chính của thực vật trên đồi 64
Bảng 4.12. Khối lượng thực vật trên gò đồi (g/m
2
) 67
Bảng 4.13. Thành phần loài trong thảm cỏ dưới tán rừng 69

Bảng 4.14. Những dạng sống chính của thực vật dưới tán rừng 73
Bảng 4.15. Khối lượng thực vật dưới tán rừng (g/m
2
) 76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Yên Dũng 23
Hình 2.2. Bản đồ hành chính xã Nham Sơn 23






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của từng quốc gia,
đã từ lâu thu hút sự chú ý của loài người. Để tạo ra nhiều sản phẩm chăn nuôi
có chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường thì việc cung
cấp thức ăn đủ, có chất lượng cao và ổn định là yếu tố quan trọng quyết định sự
thành công trong chăn nuôi. Đồng cỏ là một trong những cơ sở quan trọng để
phát triển ngành chăn nuôi gia súc đặc biệt là trâu bò. Chúng ta biết rằng, đồng
cỏ là kho dự trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hóa năng lượng
chứa trong đồng cỏ thành thức ăn của con người. Cỏ không những là nguồn

thức ăn gia súc có chất lượng, rẻ tiền và phù hợp với điều kiện của nhiều nước
mà cỏ còn có nhiều tác dụng như bảo vệ và cải tạo đất trồng dưới dạng này hay
dạng khác, tham gia cải thiện khí hậu…
Từ lâu, con người đã biết khai thác đồng cỏ để làm thức ăn cho gia súc,
lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhưng do nhu cầu phát triển ngày
càng tăng, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không đáp ứng được. Vì vậy
đòi hỏi con người phải tìm cách để làm tăng năng suất cỏ cung cấp đủ cho
ngành chăn nuôi.
Sự phát triển của đồng cỏ cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: khí hậu,
đất đai, các hình thức tác động khác của con người. Sự sinh trưởng của thảm cỏ
cũng có sự biến động theo mùa rõ rệt. Ở các vùng sinh thái khác nhau thì thảm
cỏ có sự phát triển khác nhau tạo nên thảm cỏ với năng suất khác nhau.
Trên thực tế hiện nay, nguồn thức ăn xanh ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ
chăn thả dần bị thu hẹp để nhường chỗ cho cây trồng khác. Bên cạnh đó, con
người chăn thả gia súc một cách bừa bãi không có kỹ thuật đã làm cho một số
bãi chăn thả trở thành đất trống, đồi chọc không còn khả năng khai thác. Từ đó,
nguồn thức ăn của gia súc trở nên thiếu đặc biệt là vào mùa đông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Yên Dũng là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang. Số lượng đàn gia
súc của huyện ngày càng giảm do diện tích chăn thả ngày càng bị thu hẹp.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu thực trạng và xu hƣớng biến đổi của một số thảm cỏ tại xã
Nham Sơn, huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở điều tra các yếu tố khí hậu, thủy văn, đất đai, thảm thực vật
của các tiểu vùng sinh thái trong xã Nham Sơn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc
Giang tiến hành:
- Đánh giá thực trạng khai thác thảm cỏ tự nhiên trong từng tiểu vùng

sinh thái.
- Đánh giá xu hướng biến đổi của thảm cỏ trong từng tiểu vùng sinh thái.
- Đề xuất phương hướng khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
trong từng tiểu vùng.
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

CHƢƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm vùng, phân vùng
1.1.1. Khái niệm vùng
“Vùng” là một khái niệm được dùng một cách rất phổ biến và cách tiếp
cận nó cũng rất khác nhau. Vùng thường được dùng để chỉ một lãnh thổ có phổ
biến một hiện tượng nào đó về mặt không gian được đặc trưng bởi sự thống
nhất về các đặc điểm khác nhau. Lãnh thổ đất nước được chia thành những
vùng khí hậu, thổ nhưỡng, các vùng kinh tế, các vùng hoang mạc…[23, tr.5].

Theo Lê Bá Thảo “Vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có một sắc thái
đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có những mối quan hệ tương
đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó cũng như mối quan hệ có
chọn lọc với không gian các cấp bên ngoài” [31, tr.281].
Vùng sinh thái được hiểu là một bộ phận lãnh thổ cụ thể có chung nguồn gốc
phát sinh và phát triển, đặc trưng bởi sự đồng nhất tương đối về các điều kiện
tự nhiên (địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, đất) và trên đó phát triển một
sinh quần lạc điển hình. Vùng sinh thái bao gồm một tập hợp có quy luật các
đơn vị sinh thái cảnh quan cấu trúc (đơn vị cấp thấp). Mỗi vùng sinh thái có
những chức năng xã hội (chức năng kinh tế) nhất định, trước hết chúng phải
phù hợp với điều kiện và tài nguyên tự nhiên của chính vùng đó. Tại đây có
những hình thức khai thác, sử dụng và cải tạo thiên nhiên tương đối giống nhau
của cộng đồng con người [35, tr. 9].
Như vậy có thể hiều vùng là một hệ thống bao gồm các mối liên hệ của
các bộ phận cấu thành với các dạng liên hệ địa lý, kỹ thuật, kinh tế, xã hội bên
trong hệ thống cũng như bên ngoài hệ thống. Vùng có quy mô rất khác nhau,
song dù quy mô thế nào, lớn hay nhỏ đều có điểm chung, đó là một lãnh thổ có
ranh giới nhất định, trong đó có sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố tự nhiên,
môi trường và con người.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1.1.2. Khái niệm phân vùng
a. Sự phân vùng
Phân vùng là sự phân chia lãnh thổ, vùng biển ra thành các vùng hay các
phần, được phân biệt bởi mức độ đồng nhất bên trong của nó. Những dấu hiệu
được sử dụng để phân vùng có thể khác nhau về đặc điểm, theo mức độ rộng
hẹp của dấu hiệu nào đó về phân bố hoặc theo mục đích phân vùng. Thời kỳ
đầu nghiên cứu lãnh thổ thường phải phân vùng, từ đó cho phép sử dụng hợp lý

tài nguyên và lao động.
b. Nguyên tắc phân vùng
Theo Lê Bá Thảo phân vùng dựa trên 3 nguyên tắc:
- Về tính đồng nhất tương đối, thường được áp dụng để phân định các
vùng - cảnh quan, vùng tự nhiên hay vùng văn hóa lịch sử.
- Sự khai lợi và trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó sự gắn kết của
vùng được thể hiện thông qua vai trò của hệ thống các đô thị các cấp, quan
trọng nhất là của thành phố có sức hút và của vùng ảnh hưởng lớn nhất, coi như
cực tạo vùng.
- Tính hữu hiệu của các điều kiện đảm bảo sự quản lý lãnh thổ [29, tr.282].
1.2. Các dạng phân vùng
Trong phần tổng quan chúng tôi chỉ đề cập đến một số dạng phân vùng
sau: Phân vùng địa vật lý, phân vùng thổ nhưỡng, phân vùng khí hậu, phân
vùng sinh thái thảm thực vật.
1.2.1. Phân vùng địa vật lý
Phân vùng địa vật lý là hệ thống phân chia bề mặt trái đất. Cơ sở để phân
chia và nghiên cứu là tổ hợp các đặc trưng bên trong và rất riêng của nó - thiên
nhiên. Người ta có thể phân chia theo từng tổ hợp riêng (như địa hình, khí hậu,
đất…) hoặc phân chia theo cả một tập hợp các yếu tố (phân vùng cảnh quan).
Theo Lê Bá Thảo (1970), dựa trên chỉ tiêu địa mạo - kiến tạo ông đã
phân vùng miền Bắc Việt Nam thành 6 miền thuộc đới á Bắc đó là: Đông Bắc,
Tây Bắc, Trường Sơn Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị
Thiên [30].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Vũ Tự Lập (1976), khi nghiên cứu vùng cảnh quan miền Bắc ông đã
phân chia thành 2 miền: Miền Bắc và Đông Bắc, miền Tây Bắc và Bắc Trung
Bộ. Miền Bắc và Đông Bắc lại được phân chia làm 3 khu: Khu Việt Bắc, khu
Đông Bắc và khu đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ

chia thành 5 khu: Khu Tây Bắc, khu Phanxipăng - puluong, khu Hòa Bình -
Thanh Hóa, khu Quảng Bình - Vĩnh Ninh, khu Nghệ Tĩnh [24].
1.2.2. Phân vùng khí hậu
Trên thế giới trái đất được chia thành 6 châu lục, mỗi châu lục có những
đặc điểm khí hậu khác nhau. Trong mỗi châu lục lại có sự phân miền khí hậu.
Châu Âu chia làm 3 miền khí hậu: Miền khí hậu cực và cận cực, miền khí hậu
ôn đới đại dương và ôn đới lục địa, miền khí hậu á nhiệt đới khô (khí hậu Địa
Trung Hải, khí hậu cận nhiệt đới). Châu Á được chia ra làm 6 miền khí hậu:
Miền khí hậu xích đạo, miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, miền khí hậu nhiệt đới,
miền khí hậu á nhiệt đới, miền khí hậu ôn đới, miền khí hậu ôn đới lạnh và cận
cực. Châu Phi được phân ra làm 7 miền khí hậu: Miền khí hậu xích đạo, 2 miền
khí hậu cận xích đạo, 2 miền khí hậu nhiệt đới khô, 2 miền khí hậu á nhiệt đới
khô. Châu Mỹ gồm Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Bắc Mỹ gồm các khu vực khí hậu:
khu vực khí hậu cận và cận cực, khu vực khí hậu ôn đới, khu vực khí hậu á
nhiệt đới, khu vực khí hậu nhiệt đới. Nam Mỹ gồm các khu vực khí hậu: khu
vực khí hậu xích đạo, khu vực khí hậu cận xích đạo và nhiệt đới, khu vực khí
hậu á nhiệt đới, khu vực khí hậu ôn đới. Châu đại dương chia ra các khu vực
khí hậu: khu vực khí hậu nhiệt đới, khu vực khí hậu nửa hoang mạc, khu vực
khí hậu ôn đới. Châu Nam Cực là một lục địa lạnh [39].
Các tác giả như H.Gaussen, P.Legris, P.blasco (1976) đã nghiên cứu và
thành lập bản đồ sinh khí hậu đối với vùng lãnh thổ Đông Nam Á [41].
Ở Việt Nam có khí hậu nội chí tuyến gió mùa ẩm, đa dạng và thất
thường. Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

và có cả sự phân hóa từ thấp đến cao. Vấn đề phân vùng khí hậu ở Việt Nam từ
trước đến nay đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu.
Vào thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã có những nhận xét về đặc điểm khí hậu
các vùng địa lý và dựa trên đó đánh giá những thuận lợi khó khăn trong công

cuộc mở mang kinh tế ở từng vùng. Tiếp theo đó là Lê Tắc, Vân Anh, Lê Quý
Đôn, Ngô Thời Sỹ, Nguyễn Nghiễm và nhiều nhà địa lý khác bắt đầu đi sâu
vào nhiều khía cạnh khí hậu kinh tế các vùng của đất nước.
Những năm 1970, Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc đã đưa ra những sơ
đồ đầu tiên về phân vùng khí hậu miền Bắc Việt Nam [36]. Đến những năm 80,
khi xây dựng Atlat quốc gia, viện khí hậu thủy văn cũng đưa ra phân vùng khí
hậu Việt Nam ở tỷ lệ 1/3000.000.
Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc (1993) đã phân chia lãnh thổ Việt
Nam thành 3 miền khí hậu lớn: Miền khí hậu phía Bắc, miền khí hậu Đông
Trường Sơn, miền khí hậu phía Nam. Ngoài ra còn có thêm một miền khí hậu
phụ nữa là miền khí hậu Biển Đông. Miền khí hậu phía Bắc được chia làm 5
vùng khí hậu: Khí hậu khu vực núi Đông Bắc, khu vực núi Việt Bắc - Hoàng
Liên Sơn, khu vực núi Tây Bắc, khu vực đồng bằng Bắc Bộ, khu vực Bắc
Trung Bộ. Trong đó khí hậu khu vực núi (Đông Bắc, Việt Bắc và Tây Bắc) đều
được phân chia thành 3 vùng: Vùng thấp, vùng có độ cao trung bình và vùng
núi cao. Miền khí hậu Đông Trường Sơn có sự phân hóa thành 3 vùng khí hậu:
Vùng khí hậu khu vực Bình - Trị - Thiên, khu vực Trung Trung Bộ (được chia
thành 2 khu vực nhỏ hơn: Quảng Nam - Quảng Ngãi và Bình Định - Phú Yên
cũ), khu vực Nam Trung Bộ. Miền khí hậu phía Nam chia thành 2 vùng khí hậu
sau: Vùng khí hậu khu vực Tây Nguyên (được phân chia thành 3 khu vực nhỏ
hơn: Bắc Tây Nguyên, Trung Tây Nguyên và Nam Tây Nguyên), khu vực đồng
bằng Nam Bộ. Miền khí hậu Biển Đông chia thành 2 vùng khí hậu: Vùng khí
hậu khu vực phía Bắc Biển Đông, khu vực phía Nam Biển Đông [36].
Trong công trình Atlat khí hậu Thủy văn Việt Nam (1994) đã đưa ra một
sơ đồ về phân vùng khí hậu Việt Nam. Phân chia khí hậu Việt Nam thành 2
miền khí hậu: Miền khí hậu niền Bắc và Miền khí hậu miền Nam với ranh giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

là dãy núi Bạch Mã. Đồng thời nước ta còn được phân chia ra 7 vùng khí hậu

trong đó có 4 vùng khí hậu thuộc miền khí hậu miền Bắc (khu vực núi phía
Bắc, khu vực núi Tây Bắc, khu vực đồng bằng Bắc Bộ và khu vực núi phía
Tây, khu vực Bắc Trung Bộ) và 3 vùng khí hậu thuộc miền khí hậu miền Nam
(khu vực Nam Bộ, khu vực ven biển Nam Trung Bộ, khu vực Tây Nguyên)
[38].
Mai Trọng Thông (1998) và một số tác giả khi nghiên cứu phân vùng khí
hậu Việt Nam đã nêu nguyên tắc và đưa ra sơ đồ phân vùng khí hậu Việt Nam.
Theo sơ đồ này khí hậu Việt Nam được chia ra làm 2 miền khí hậu: Miền khí
hậu phía Bắc (miền khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh) và miền khí
hậu phía Nam (miền khí hậu nhiệt đới gió mùa không có mùa đông lạnh).
Trong phạm vi mỗi miền khí hậu đã phân chia ra các vùng khí hậu khác nhau:
Miền khí hậu phía Bắc đã được phân thành 6 vùng khí hậu (vùng khí hậu Đông
Bắc, vùng khí hậu Tây Bắc, vùng khí hậu Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn, vùng khí
hậu đồng bằng Bắc Bộ và bắc của Bắc Trung Bộ, vùng khí hậu của Bắc Trung
Bộ, vùng khí hậu Bình Trị Thiên), miền khí hậu phía Nam được phân ra 3 vùng
khí hậu (vùng khí hậu Tây Nguyên, vùng khí hậu Trung và Nam Trung Bộ,
vùng khí hậu đồng bằng Nam Bộ) [34].
Theo quan điểm của các nhà phân vùng khí hậu thì đơn vị lớn nhất trong
hệ thống phân vị là miền rồi đến vùng và nhỏ nhất là khu.
1.2.3. Phân vùng thổ nhƣỡng
Để phân loại đất người ta dựa vào các kiểu đá mẹ, đặc điểm và phẫu diện
của các kiểu đất, độ phì của đất, cấu trúc và chế độ nước, chế độ nhiệt. Nó được
thể hiện trên bản đồ đất.
Trên thế giới có nhiều tác giả nghiên cứu về phân vùng thổ nhưỡng. V.
Dokutsaev đã căn cứ vào kinh nghiệm và những tài liệu điều tra thổ nhưỡng
trên một đơn vị rộng lớn, đề ra học thuyết về tính địa đới của thổ nhưỡng: theo
chiều ngang, theo chiều cao, tính địa phương hay tính vùng [31].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


E.N. Ivanova và cộng sự (1962) đã công bố phân vùng địa lý thổ nhưỡng
ở Liên Xô. Trong đó lãnh thổ Liên Xô được chia theo các dấu hiệu tự nhiên
thành các dải, miền, đới và tỉnh thổ nhưỡng - khí hậu sinh vật [19].
Ở phía Đông, Đông Bắc Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản từ Bắc xuống
Nam phân bố 3 vùng đất: Vùng đất nâu rừng, vùng đất nâu của các rừng khô và
cây bụi, vùng đất cận nhiệt và đất đỏ [21].
Kết quả sự phân bố thổ nhưỡng trên thế giới gồm: Nhóm đất thuộc đới
Bắc cực và đài nguyên (chia thành 5 đới phụ), nhóm đất thuộc đới rừng Taiga,
nhóm đất thuộc đới rừng cây lá rộng ôn đới, nhóm đất thuộc đới thảo nguyên
ôn đới, nhóm đất rừng và rừng cây bụi cận nhiệt đới, nhóm đất thuộc vành đai
nhiệt đới [32].
Ở Việt Nam vấn đề phân vùng thổ nhưỡng từ lâu đã được các nhà khoa
học quan tâm.
Năm 1930, Jve Henry đã nghiên cứu về đất đỏ và đất đen phát triển trên
đá mẹ bazan ở Đông Dương. Ông đã nêu đầy đủ điều kiện phát sinh, phát triển
tính chất các nhóm đất trên đá mẹ bazan và các tiểu vùng phân bố của chúng ở
Việt Nam [42].
Năm 1958 dựa trên sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỷ lệ
1/1000.000 (xây dựng năm 1957). V.M.Fridland và Lê Duy Thước đã xây dựng
bản dự thảo phân vùng địa lý thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam, phân chia miền
Bắc Việt Nam thành 40 vùng địa lý thổ nhưỡng, quy lại thành 17 liên vùng.
Năm 1975 dựa trên bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1/500.000,
Ban biên tập bản đồ đất Việt Nam chủ trì cho xây dựng bản dự thảo phân vùng
địa lý thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam thành 63 vùng địa lý tự nhiên. Sau khi
nhà nước thống nhất (1975), dựa trên bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/1000.000,
Ban biên tập bản đồ đất Việt Nam đã xây dựng bản dự thảo phân vùng địa lý
thổ nhưỡng Việt Nam phân chia lãnh thổ cả nước thành 154 vùng địa lý tự
nhiên (kể cả các đảo) [17].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


Lê Văn Khoa (1993), căn cứ vào địa hình có thể chia ra 3 vùng đất:
Vùng núi hay vùng thượng du, vùng đồi gò hay trung du, vùng đồng bằng [21].
Dựa vào đặc điểm chủ yếu của đất đai, khí hậu, tổ nghiên cứu sinh thái
và môi trường - Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã chia ra 5 vùng đất:
Vùng đất cát và cồn cát ven biển, vùng đất phèn, vùng ngập mặn ven biển,
vùng đồng bằng châu thổ và vùng đồi núi [12].
Tổng hợp những kết quả nghiên cứu phân vùng thổ nhưỡng năm 1996
đã xác định hệ thống phân vị trong phân vùng thổ nhưỡng Việt Nam có 4 cấp
là: Miền thổ nhưỡng, á miền thổ nhưỡng, khu thổ nhưỡng và vùng thổ nhưỡng.
Theo kết quả nghiên cứu này, nước ta được phân ra làm 2 miền thổ nhưỡng, 6 á
miền thổ nhưỡng, 16 khu thổ nhưỡng và 142 vùng thổ nhưỡng. Hai miền thổ
nhưỡng là miền thổ nhưỡng phía Bắc và miền thổ nhưỡng phía Nam. Miền thổ
nhưỡng phía Bắc được chia thành 3 miền á thổ nhưỡng (á miền thổ nhưỡng Bắc
và Đông Bắc Bộ, á miền thổ nhưỡng Tây Bắc, á miền thổ nhưỡng Trường Sơn
Bắc) và 8 khu thổ nhưỡng. Miền thổ nhưỡng phía Nam cũng được chia ra làm 3
miền thổ nhưỡng (á miền thổ nhưỡng Nam và Đông Nam Bộ) và 8 khu thổ
nhưỡng. Các khu thổ nhưỡng trên lại được phân chia ra 142 vùng thổ nhưỡng,
trong đó miền thổ nhưỡng phía Bắc có 77 vùng và miền thổ nhưỡng phía Nam
có 65 vùng thổ nhưỡng [16].
1.2.4. Phân vùng sinh thái thảm thực vật
Trên trái đất khí hậu thay đổi từ nóng sang lạnh, từ ẩm sang khô. Mỗi
loại hình lớn của nó có thành phần thực vật, động vật đặc trưng - người ta gọi là
các biomes. Biomes theo trường phái Anh Mỹ đó là hệ sinh thái xâm chiếm
vùng rộng lớn có sự giống nhau về khí hậu và sinh vật. Cũng có thể coi biomes
là hệ sinh thái mà ở đó có một số nơi sống cùng tồn tại.
Humboldt (1805) có xu hướng địa lý trong nghiên cứu mối quan hệ giữa
phân bố thực vật với sự phân bố nhiệt độ trên lục địa, ông đã hệ thống hóa
những tri thức địa lý thực vật, vẽ được bản đồ chung về sự phân bố lớp phủ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

thực vật trên trái đất. Tiếp đó K.F. Lêđêbur cũng công bố cuốn thực vật chí đầu
tiên của Nga (4 tập) về các hệ thực vật thuộc các vùng khác nhau trên trái đất
[40].
Năm 1865, cuốn sách giáo khoa tiếng Nga đầu tiên về địa lý thực vật do
A.N.Beketov viết được xuất bản. Sách bao gồm những đặc điểm chung của lớp
phủ thực vật trên trái đất viết theo từng miền, phân tích những nguyên nhân
lịch sử của sự phân bố thực vật [40].
Năm 1903, G.I.Tanfilev công bố công trình nghiên cứu về thảm thực vật
ở Nga kèm theo bản đồ tỷ lệ 1/25.000.000. Đây là tấm bản đồ địa lý thực vật
đầu tiên của Nga [40].
A.Hensen (1920) dựa trên khu hệ thực vật đã phân chia hệ thực vật thế
giới theo các vành đai vĩ độ và độ cao (8 vành đai). Các vành đai đó đặc trưng
cho các vùng nhiệt độ khác nhau, với các thảm thực vật khác nhau gọi là vành
đai khí hậu [11].
Dựa vào vĩ độ địa lý, độ cao so với mặt nước biển và độ lục địa. Meusel
(1943) đã có những nghiên cứu phân chia hệ thực vật thành các vành đai khác
nhau (4 vành đai).
Poronov (1955) khi nghiên cứu mối quan hệ giữa thực vật với động vật
của các vành đai tự nhiên đã phân chia ra thành 3 vùng: Vùng rừng, vùng
Tunđra (đài nguyên cực Bắc) và vùng thảo nguyên [33].
Schimithusen (1959) đã phân biệt các vùng thực vật theo quần xã ưu
thế, chủ đạo và ổn định. Ông đã phân biệt được các đơn vị không gian tự nhiên
nhỏ nhất của thảm thực vật, đó là “các tiểu khu thực vật” (Wuchsdistrikte), các
tiểu khu này họp thành các đơn vị lớn hơn: Khu, vùng, miền, khu hệ [28].
A.G. Voronov (1976), trên cơ sở tổng hợp những kết quả nghiên cứu
trước đó đã phân chia thành 6 miền thực vật trên lục địa: Cổ nhiệt đới
(Palaeotropic), Toàn Bắc (Holarctic), Tân nhiệt đới (neotropic), Capsk, Châu
Úc (Australia), Châu Nam Cực (Antarctic). Trong đó miền Toàn Bắc phân


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

thành 9 phân miền (Âu Châu - Xibia, Actic, Trung Hoa - Nhật Bản, Pông tích -
Trung Á - Địa Trung Hải, Bắc Mỹ - Thái Bình Dương), miền cổ nhiệt đới được
chia thành 3 phân miền (Châu Phi - Ấn Độ, Mã Lai, Tân Tây Lan), miền Tân
nhiệt đới được chia thành 3 phân miền ( Trung Mỹ, nhiệt đới, Angđơ) [40].
Olson (1983) trong bảng phân vùng sinh thái được nhiều người công nhận
ông dung khái niệm biomes. Theo ông biomes là một vùng rộng lớn trên trái đất,
nó được phân biệt với nhau bởi khí hậu và sinh vật. Trong bảng phân loại các
biomes ông chia ra 4 dạng: Các biomes trên đất liền gồm 10 kiểu lớn, các biomes
nước ngọt gồm 8 kiểu, các biomes nước mặn gồm 8 kiểu, các biomes nhân tạo
gồm 3 kiểu [44]. Phần biomes trên đất liền (Tirrestialbiomes) ông chia ra các
kiểu sau: Tundra (lãnh nguyên), Temperate deciduous forest, Boreal coniferous
forest (rừng lá kim phương Bắc hoặc rừng Taiga), Tropical grassland and
savanna (thảm cỏ nhiệt đới và savan), Temperate rainforest (rừng mưa ôn đới),
Temperate grassland (thảm cỏ ôn đới), Chaparal (dạng thảo nguyên), Semi -
evergreen tropical forest (rừng mưa mùa nhiệt đới), Desert (hoang mạc),
Evergreen tropical rainforest (rừng mưa nhiệt đới)
Về sự phân bố cây trồng, theo Nguyễn Phi Hạnh, Đặng Ngọc Lân (1980),
cây trồng được phân bố ở 10 trung tâm trên thế giới trong đó có 6 trung tâm nằm
hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới ( Trung Mỹ, Nam Mỹ, Êtiopi, Tây Xu - đăng,
Ấn Độ, Đông Nam Á); 2 trung tâm nằm trong vành đai cận nhiệt đới (Địa Trung
Hải, Tiền Á) và 2 trung tâm nằm ở vành đai cận nhiệt, có một phần lan sang cả
vùng ôn đới (Trung Quốc và Trung Á) [14].
Các công trình nghiên cứu về phân vùng sinh thái thảm thực vật ở Việt
Nam còn rất ít. Maurand P (1943) khi nghiên cứu thảm thực vật ở Đông Dương đã
chia thảm thực vật này thành 3 vùng: Vùng Nam Đông Dương, vùng Bắc Đông
Dương và vùng trung gian [43].
Trần Ngũ Phương (1970), khi nghiên cứu phân loại rừng miền Bắc Việt Nam

đã chia rừng miền Bắc thành 3 đai lớn theo độ cao phân bố: Đai rừng nhiệt đới mùa
mưa, rừng á nhiệt đới mưa mùa và rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao [27].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Theo phân hóa độ cao so với mặt biển, Thái Văn Trừng (1978) đã phân
chia thảm thực vật thành hai nhóm kiểu chính: Nhóm các kiểu thảm thực vật
nhiệt đới ở vùng thấp và vùng có độ cao trung bình dưới 700m (ở miền Bắc),
nhỏ hơn 100m (ở miền Nam); nhóm các kiểu thảm thực vật ở vùng núi có độ
cao lớn hơn 700m (miền Bắc) và lớn hơn 1000m (ở miền Nam) [39].
Dương Hữu Thời (1981), khi nghiên cứu về thảm cỏ Bắc Việt Nam, ông
chia Bắc Việt Nam thành 5 vùng tự nhiên với sự phân bố các loài: vùng Bắc
Trung Bộ, vùng Trung Bộ, Vùng Đông Bắc, vùng Việt Bắc, vùng Tây Bắc
[32].
Lê Trần Chấn, Nguyễn Hữu Trí, Huỳnh Nhung (1994) trên cơ sở những
hiểu biết về điều kiện tự nhiên và sự phân hóa về thành phần loài của hệ thực
vật, phân chia ra các vùng sinh thái thực vật sau: Vùng núi Đông Bắc, vùng núi
Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn, vùng núi Tây Bắc, Vùng Đông Bắc Bộ, vùng Bắc
Trung Bộ, vùng Bình Trị Thiên, Vùng Trung Trung Bộ, vùng Nam Trung Bộ,
vùng Tây Nguyên, vùng đồng bằng Nam Bộ [4].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), nghiên cứu các kiểu khu phân bố địa lý thực
vật của các chi thực vật có hoa ở Việt Nam. Ông cho rằng điều kiện địa hình,
địa chất và khí hậu quyết định cấu trúc hệ thực vật đó và ở mỗi vùng địa lý của
Việt Nam được đặc trưng bởi một số yếu tố địa lý nhất định. Đó là kết quả của
sự biến đổi về địa chất, địa lý, khí hậu và đã tạo ra 4 vùng hệ thực vật chính:
Khu Đông Bắc Bộ và Đông Bắc Trường Sơn, khu Tây Bắc và dãy Trường Sơn;
khu Đông Nam Trường Sơn được chia thành hai phân khu (phân khu 1 và phân
khu 2); khu Tây Nguyên và Nam Bộ được chia thành 2 phân khu (Tây Nguyên
và Nam Bộ) [22].
Hoàng Chung (2004) khi nghiên cứu về đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam

đã chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành hai vùng: Vùng Đông Bắc và vùng Tây
Bắc, mỗi vùng có một tổ hợp quần hệ, quần hợp khác nhau [7].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1.3. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.3.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác ở khắp nơi nhưng tập trung nhiều nhất
vẫn là trên các đồi núi và cao nguyên của trung du và miền núi (chiếm tới 10
triệu ha). Những khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích lớn không nhiều
lắm, đại diện là các đồng cỏ Mộc Châu và Mai Sơn (Sơn La), Lai Châu, đồng
cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn), Lạng Sơn và một số đồng cỏ thuộc vùng Tây Nguyên.
Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm ha. Các
đồng cỏ thường xuất hiện trên đất xấu, cây quán mộc nhiều, những khu vực này
dùng từ bãi chăn có lẽ chính xác hơn.
Nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại hình đồng cỏ
được hình thành bằng con đường tự nhiên nhưng cũng có những đồng cỏ được
hình thành do hoạt động của con người trên vùng đất rừng, thảo nguyên hay
đầm lầy… làm thay đổi điều kiện môi trường và hình thành ra đồng cỏ [5].
Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới giữa các tác giả có các ý kiến
khác nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ
tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [7].
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong vùng nhiệt
đới khác nhau, các tác giả đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ và cây bụi trong
vùng nhiệt đới đều được hình thành trên những quần xã rừng bị chặt hạ. Con
người khi chặt phá rừng và đốt nương làm rẫy đã làm đất bị cháy và khô đi,
những tác động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa ở đây sẽ
được gieo trồng các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần như vậy đất
sẽ bị bỏ hoang, trên đó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại tiếp tục bị chặt hạ để
trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt, cây gỗ không còn điều

kiện tái sinh nữa, hình thành nên lớp cỏ hay còn lẫn một số loài cây thảo và cây
bụi hạn sinh. Về ngoại mạo nó gần giống với thảo nguyên vùng ôn đới. Vì nguồn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ phân bố rải rác ở các vành đai khác nhau, tồn
tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ sử dụng của con người.
Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu hình savan, đồng cỏ
và các dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá khi
mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng cỏ
vì thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung sinh
sống lâu năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động tiếp
theo con người sẽ làm cho lớp đất bề mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước của
đất kém, đất có độ chua cao, trong thảm cỏ tỷ lệ cây hạn sinh tăng lên, cuối
cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi hạn sinh, cây đoản mệnh, hình thành
savan cỏ, savan cây bụi và thảm cây bụi hạn sinh. Có thể tóm tắt quá trình trên
như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh - đồng cỏ - savan cỏ hay savan bụi -
thảm cây bụi hạn sinh [7].
1.3.2. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những tài liệu nghiên cứu về thành phần loài của các quần xã cỏ vùng
Đông Nam Á còn rất hạn chế. Kết quả nghiên cứu thành phần loài thực vật
đồng cỏ Bắc Việt Nam còn đơn lẻ và chưa thật đầy đủ.
Trong công trình tổng kết các kết quả nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt Nam
của Dương Hữu Thời (1981) đã công bố 213 loài của 5 vùng thuộc Bắc Việt
Nam [32].
Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loài và dạng sống của đồng
cỏ vùng núi Bắc Việt Nam đã công bố thành phần loài thu được là 233 loài
thuộc 54 họ và 44 chi [5]. Trong cuốn “Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam” năm
2004 là 79 họ, 402 loài [7].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) khi nghiên cứu một số đặc

điểm sinh thái, sinh vật học của Savan Quảng Ninh và các mô hình sử dụng đã
phát hiện được 60 họ với 131 loài thực vật khác nhau [18].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997) nghiên cứu thành phần loài, dạng
sống của savan bụi ở vùng đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123
loài thuộc 47 họ khác nhau [3].
Ma Thế Quyên (2000) nghiên cứu về động thái đồng cỏ trong mối quan
hệ với hình thức sử dụng của người dân địa phương (Ngân Sơn - Bắc Kạn) Sưu
tầm được 88 loài thuộc 35 họ [28].
Lục Thị Nghi, Hoàng Chung (2003), nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Chi
Lăng - Lạng Sơn điều tra được 83 loài thuộc 33 họ.
Vũ Văn Thường, Hoàng Chung (2004), nghiên cứu đồng cỏ vùng núi
Móng Cái - Quảng Ninh đã điều tra được 98 loài thuộc 44 họ.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả: Lê Sinh Tăng,
Nguyễn Chính (1959); Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tăng (1964, 1969); Trịnh
Văn Thịnh và các tác giả (1974); Nguyễn Đăng Khôi (1978, 1979, 1981); Võ
Duy Giảng (1983)…
1.3.3. Những nghiên cứu về dạng sống
Humbon (1805) là người đầu tiên đặt cơ sở cho môn địa lý thực vật đề
nghị phân loại thực vật theo hình dạng bên ngoài và đã xác định được 19 dạng
thực vật như Hòa thảo, Dương xỉ, Dây leo… Sau Humbon kiểu phân loại như
vậy được hàng loạt các nhà nghiên cứu tiến hành. Cùng với thời gian đó, người
ta đã không chỉ dùng dấu hiệu bên ngoài mà cả tổ chức cơ thể thực vật để phân
loại. Từ đó đã hình thành khái niệm dạng sống của cơ thể thực vật. Người đầu
tiên đề cập đến khái niệm này là Warming (1901). Ông sử dụng các đặc điểm
sinh vật học như: Đặc điểm chồi, những phương thức sinh sản, sự kéo dài đời
sống, sự phát triển… để nghiên cứu và phân chia dạng sống của thực vật thuộc
thảo thuộc vùng ôn đới.

Drude (1913), Raunkiner (1905, 1934) khi phân chia dạng sống đã sử
dụng vị trí của chồi và khả năng tồn tại trong điều kiện bất lợi làm tiêu chuẩn
để phân chia [7]. I.K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 5 nhóm: Thực

×