Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh trong thành tựu văn chương thời đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.71 KB, 107 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
–––––––––––––––––––––




TRẦN THỊ HƢỜNG




TIỂU THUYẾT "ĐỘI GẠO LÊN CHÙA" CỦA
NGUYỄN XUÂN KHÁNH TRONG THÀNH TỰU
VĂN CHƢƠNG THỜI ĐỔI MỚI





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC






THÁI NGUYÊN – 2014



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
–––––––––––––––––––––



TRẦN THỊ HƢỜNG



TIỂU THUYẾT "ĐỘI GẠO LÊN CHÙA" CỦA
NGUYỄN XUÂN KHÁNH TRONG THÀNH TỰU
VĂN CHƢƠNG THỜI ĐỔI MỚI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Phong Lê





THÁI NGUYÊN – 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp
đỡ cho việc thực hiện luận văn này đều đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014
Người viết luận văn

TRẦN THỊ HƢỜNG


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến GS. Phong Lê –
người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
bằng một tinh thần khoa học nhiệt thành và nghiêm túc.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa
Ngữ văn, khoa sau Đại học – Trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên
đã giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã quan
tâm động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Với trình độ và kiến thức còn hạn chế của người viết, luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự lượng thứ và góp ý
chân thành của các thầy, cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm đến vấn
đề được tìm hiểu trong luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014
Tác giả luận văn


TRẦN THỊ HƢỜNG

LUẬN VĂN NÀY ĐÃ ĐƢỢC CHỈNH SỬA THEO ĐÓNG GÓP CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀY 07 / 06 / 2014

XÁC NHẬN CỦA NGƢỜI HƢỚNG DẪN


GS. PHONG LÊ

XÁC NHẬN CỦA KHOA NGỮ VĂN


TS. CAO THỊ HẢO


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục………………………………………………………………… iii
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Kết cấu của luận văn 7
Chƣơng 1: NGUYỄN XUÂN KHÁNH VÀ DÒNG TIỂU THUYẾT
VĂN HÓA - LỊCH SỬ TRONG NỀN VĂN XUÔI VIỆT NAM
ĐƢƠNG ĐẠI 8
1.1. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh 8
1.1.1. Nguyễn Xuân Khánh - những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp
văn chương 8
1.1.2. Nguyễn Xuân Khánh - một hiện tượng văn học độc đáo 10
1.2. Dòng tiểu thuyết văn hóa - lịch sử Nguyễn Xuân Khánh trong bối cảnh
tiểu thuyết văn xuôi Việt Nam đương đại 12

1.2.1. Khái quát chung về tiểu thuyết văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX và đầu
thế kỉ XIX 12
1.2.2. Dòng tiểu thuyết văn hóa- lịch sử Nguyễn Xuân Khánh 14
1.2.3. “Đội gạo lên chùa” trong mối tương quan với tiểu thuyết đương đại 16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Chƣơng 2: “ĐỘI GẠO LÊN CHÙA” - MỘT CÁI NHÌN BAO QUÁT,
TOÀN DIỆN VỀ VĂN HÓA - LỊCH SỬ THẾ KỈ XX QUA MỘT ĐƠN
VỊ LÀNG VÀ NHỮNG CUỘC PHIÊU LƢU 20
2.1. Một đơn vị làng 20
2.1.1. Một đơn vị làng trong kháng chiến chống Pháp 21
2.1.2. Một đơn vị làng trong cải cách ruộng đất 25
2.1.3. Một đơn vị làng là hậu phương của kháng chiến chống Mĩ 34
2.2. Những cuộc phiêu lưu 37
2.2.1. Cuộc phiêu lưu của những nhân vật chính 37
2.2.1.1. Cuộc phiêu lưu của Nguyệt và An 37
2.2.1.2.Cuộc phiêu lưu của các vị sư 39
2.2.2. Cuộc phiêu lưu của các nhân vật phụ 45
2.2.2.1. Cuộc phiêu lưu của mẹ con bà Nấm 45
2.2.2.2. Cuộc phiêu lưu của thế hệ những người trẻ tuổi 46
2.2.2.3. Cuộc phiêu lưu của đội Khoát, Bernard và Thalan 47
2.2.2.4. Cuộc phiêu lưu của những người nông dân 48
Chƣơng 3: “ĐỘI GẠO LÊN CHÙA”- NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC
TRONG NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT 51
3.1. Thế giới nhân vật đa dạng về số phận và tính cách 51
3.1.1. Nhân vật đại diện cho cái Thiện 52
3.1.1.1. Những bậc tu hành- hiện thân tuyệt đối của cái Thiện 52
3.1.1.2. Những người được cảm hóa bởi cái Thiện 54
3.1.1.3. Những người trẻ tuổi 56

3.1.1.4. Những người nông dân hướng thiện và những người phụ nữ 60
3.2.2. Những nhân vật đại diện cho cái Ác 64
3.3.3. Nhân vật có sự xen cài, chuyển hóa giữa cái Thiện và cái Ác 68
3.3.4. Phối hợp nhân vật tính cách với nhân vật tư tưởng 72
3.2. Đội gạo lên chùa - kết cấu cổ điển mà hiện đại 75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3.2.1. Mở đầu và kết thúc tác phẩm 75
3.2.2. Tổ chức kết cấu cốt truyện 77
3.2.3. Kết cấu theo trình tự không gian- thời gian 78
3.2.4.Kết cấu đan lồng 81
3.2.5. Kết cấu lưỡng phân 83
3.3. Ngôn ngữ phong phú va sống động 85
3.3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện 85
3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại 90
3.1.3. Ngôn ngữ độc thoại 91
KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong sự đa dạng của đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế

kỉ XXI, xu hướng cách tân trong các thể loại văn chương đang được diễn ra rất
sôi động. Các tác giả thường hướng đến những tiểu thuyết hiện đại với những
nội dung mang tính thế sự và được thể hiện dưới một hình thức thu gọn đến
mức tối đa. Bên cạnh đó lại xuất hiện một dòng tiểu thuyết hướng tới những giá
trị văn hóa, lịch sử đi tìm nguồn cảm hứng từ trong quá khứ, trong lịch sử văn
hóa của dân tộc- đó chính là dòng tiểu thuyết văn hóa- lịch sử. Dòng tiểu thuyết
này đã đóng góp những thành tựu quan trong cho nền văn học đương đại nước
nhà với những tên tuổi như: Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn
Mộng Giác…Họ đã tạo nên những giá trị mới cho tiểu thuyết Việt Nam.
Trong xu hướng phát triển hết sức mạnh mẽ và đa dạng của dòng tiểu
thuyết văn hóa- lịch sử, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nổi lên như một hiện
tượng nổi trội. Chùm ba trường thiên tiểu thuyết Hồ Quý Ly (2000), Mẫu
thượng ngàn (2006) và Đội gạo lên chùa (2011) đã minh chứng chân dung của
một tiểu thuyết gia hàng đầu. Không quá quan tâm đến việc chạy theo đổi mới,
cách tân, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh mang nhiều đặc điểm của tiểu thuyết
cổ điển, nhưng mỗi một tác phẩm là một kho tri thức văn hóa, lịch sử, đối nhân
xử thế của con người mà lịch sử và văn hóa là sợi chỉ đỏ, là cái xương sống
xuyên suốt. Với tất cả sự đón nhận và đánh giá tích cực của giới nghiên cứu
cũng như độc giả, đã có đủ căn cứ thuyết phục để cho rằng văn học Việt Nam
đã xuất hiện dòng tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.
1.2. Khảo sát dòng mạch tiểu thuyết văn hóa- lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh, chúng ta nhận thấy có sự phát triển mang tính bổ khuyết và hoàn thiện.
Nếu như Hồ Quý Ly hướng tới khái thác nhân chứng lịch sử, Mẫu thượng ngàn
hướng tới khai thác vấn đề phong tục thì Đội gạo lên chùa khai thác vấn đề tôn
giáo. So với hai cuốn tiểu thuyết trước thì Đội gạo lên chùa được coi là thành
công ở tầm mức cao hơn. Thành công hơn cả bởi đây là một cuốn tiểu thuyết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

được coi như là một kho kiến thức sâu rộng về lịch sử, về tôn giáo, về văn hóa

và về cách suy nghĩ, tình cảm của con người Việt Nam trong chiều dài lịch sử
nước nhà qua nhiều giai đoạn khác nhau. Từ kháng chiến chống Pháp đến cải
cách ruộng đất rồi đến kháng chiến chống đế quốc Mĩ- tất cả đã tạo nên một cái
nhìn đa chiều, toàn diện và xuyên sốt đối với lịch sử nước nhà dưới con mắt
của một người từng trải, một người có nhận thức sâu sắc về lịch sử, văn hóa
trong toàn cảnh và qua từng giai đoạn.
Đặt trong mối quan hệ với tiểu thuyết của các thế hệ nhà văn tiền bối
như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Minh Châu … thì ta dễ dàng nhận
thấy Đội gạo lên chùa đã phản ánh đến một nội dung có tính chất bao quát,
toàn vẹn và sâu sắc, xuyên suốt chiều dài của lịch sử hơn. Chính vì thế có
thể nói trong văn chương thời kì đổi mới thì Đội gạo lên chùa đã đạt được
những thành tựu rực rỡ.
Thực hiện luận văn: “Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh trong thành tựu văn chƣơng thời đổi mới”, chúng tôi mong muốn
khẳng định những thành tựu đặc sắc của Nguyễn Xuân Khánh ở cả hai phương
diện nội dung phản ánh và hình thức thể hiện, so với những tác phẩm tiểu
thuyết văn hóa - lịch sử khác của ông, cũng như so với những tác phẩm tiểu
thuyết của các tác giả khác cùng thời.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về các cuộc phỏng vấn và trao đổi
Trên các phương tiện báo chí và truyền thông, một số cuộc phỏng vấn, trò
chuyện văn chương của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh xung quanh tác phẩm
Đội gạo lên chùa, chuyện nghề, chuyện đời…v.v đã được công bố, Hoàng Lan
Anh có bài ghi chép trò chuyện Viết tiểu thuyết ở tuổi 79, đăng trên báo Người
lao động, ngày 26 tháng 6 năm 2011. Thanh Vân có cuộc phỏng vấn với tiêu đề
Không trải nghiệm nào là vô ích, đăng trên tạp chí Tia sáng, số 13, ngày 5
tháng 7 năm 2011. Đáng chú ý trên tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 729, tháng 7
năm 2011, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh có bài tự thuật Tôi đã viết tiểu thuyết


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

“Đội gạo lên chùa” như thế nào, bộc lộ và chia sẻ nhiều điều xung quanh tác
phẩm. Trên báo Sài Gòn giải phóng, ngày 30 tháng 10 năm 2011, Cao Minh có
bài phỏng vấn với tiêu đề Nhà văn phải là nhà tư tưởng v.v…
Tất cả những ý kiến, quan điểm mà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đưa ra
trong những cuộc trả lời phỏng vấn, trò chuyện văn chương, đều là những tài
liệu tham khảo có ích, giúp chúng tôi tiếp cận tác phẩm và thực hiện luận văn
một cách thuận lợi hơn.
2.2. Về các bài báo
Ngay sau khi ra đời, Đội gạo lên chùa ra đời đã tạo nên một làn sóng xôn
xao trong dư luận và nhiều giới bạn đọc. Một số nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà
thơ đã có những bài báo đáng chú ý về tác phẩm:
Trên báo An ninh thế giới số 118, tháng 6 năm 2011, tác giả Vũ Từ Trang
có bài Nguyễn Xuân Khánh: Nhà văn độc hành, độc bộ, khẳng định hướng đi
riêng thành công của nhà văn. Bài viết có đoạn cho rằng: “Khác với các nhà
văn viết tiểu thuyết lịch sử trước, ông không phụ thuộc vào các sự kiện. Sự kiện
lịch sử chỉ là nới nương tựa để ông giăng mắc các số phận. Từ những số phận
đan chéo buồn vui, ông lí giải mọi mâu thuẫn. Văn của ông có sức mê dụ người
đọc, tạo thành những thủ pháp riêng của ông”.
Trên báo Điện tử ngày 7 tháng 9 năm 2012, có bài viết đã khẳng định như
sau: Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là cây bút có nhiều tác phẩm văn xuôi được
giới nghề nghiệp và bạn đọc quan tâm trong những năm gần đây, nổi bật là ba
tiểu thuyết gây đình đám: Hồ Quý Ly (năm 2000), Mẫu thượng ngàn (năm
2006) và Đội gạo lên chùa (năm 2011). Trong đó, tiểu thuyết Đội gạo lên chùa
đã được tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2011…Lí giải về cây bút
Nguyễn Xuân Khánh, Văn Chinh ví tác giả như gốc mai già, mấy mươi năm
chìm khuất đâu đó chợt bật lên rừng rực nở. PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp
khẳng định: “Tư tưởng của ông là đóng góp chính yếu trong tư cách tiểu thuyết
gia. Tư tưởng ấy đã làm nên bước ngoặt về quan niệm nghệ thuật, là trở về với

lối tự sự truyền thống trong khi rất nhiều nhà văn tài năng khác dấn thân vào
con đường đổi mới nghệ thuật văn xuôi”. Nhà phê bình Đoàn Ánh Dương có
bài “Kiến giải về dân tộc trong Đội gạo lên chùa” trên báo Văn nghệ, số 27,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ngày 2 tháng 7 năm 2011. Tác giả viết: “Bộ ba tiểu thuyết văn hóa lịch sử này,
Nguyễn Xuân Khánh đã gác sang bên những trăn trở về đổi mới bút pháp để đi
sang đổi mới về mặt tư tưởng. Tư tưởng, chứ không phải là nghệ thuật tiểu
thuyết, mới là mục đích chính yếu, đóng góp chính yếu của Nguyễn Xuân
Khánh trong tư cách tiểu thuyết gia. Làm nên bước ngoặt về quan niệm nghệ
thuật, là trở về với lối tự sự truyền thống trong khi rất nhiều nhà văn Việt Nam
tài năng khác dấn thân vào con đường đổi mới nghệ thuật tự sự, Nguyễn Xuân
Khánh đã thực sự thành công, tâm huyết không chỉ trong vai trò của nhà văn,
mà còn trong vai trò của một trí thức luôn quan tâm đến các vấn đề của văn
hóa, quốc gia, dân tộc”.
Còn rất nhiều bài báo khác nhận định, đánh giá về tiểu thuyết Đội gạo lên
chùa. Trên đây chỉ là một số bài tiêu biểu mà chúng tôi có điều kiện được đọc.
Nhưng việc giải quyết cụ thể cái hay, cái đặc sắc về vấn đề phản ánh và hình
thức phản ánh trong tiểu thuyết thì vẫn là một vấn đề chưa kết thúc. Song với
nội dung của những bài báo đó là những gợi dẫn quan trong để chúng tôi căn
cứ và vận dụng triển khai luận văn.
2.3. Về hội thảo khoa học
Như đã trình bày ở trên, ngay sau khi tác phẩm Đội gạo lên chùa được
xuất bản nó đã gây một tiếng vang lớn, thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của giới
nghiên cứu và bạn đọc.
Tháng 6 năm 2011, Nhà xuất bản Phụ nữ và Hội nhà văn Hà Nội kết hợp
tổ chức cuộc Tọa đàm khoa học Nguyễn Xuân Khánh - Đội gạo lên chùa.
Nhiều nhà phê bình đã có những tham luận công phu và nghiêm túc, tập trung
vào việc tìm hiểu vấn đề Phật giáo trong đời sống văn hóa Việt Nam. Nguyễn

Văn Tùng khai thác Cảm hứng Phật giáo; Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái
tìm hiểu đặc thù đạo Phật Việt Nam ở vấn đề Tùy duyên; Phạm Xuân Thạch coi
tiểu thuyết Đội gạo lên chùa là Một tiếng gọi khẩn thiết của cái thiện. Những
phân tích, giải mã của họ đã cho thấy một sự đánh giá rất cao và một sự đón
nhận rất trân trọng dành cho tác phẩm.
Tháng 10 năm 2012, Viện Văn học tổ chức Tọa đàm khoa học Lịch sử và
văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Tọa đàm đã đi vào một số vấn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

đề lớn như tư tưởng nghệ thuật, vấn đề thể loại tiểu thuyết lịch sử, vấn đề nghệ
thuật tự sự.v.v…Những tham luận trong tọa đàm đã khẳng định những nỗ lực tìm
kiếm giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, đồng thời
cũng chỉ ra một số đặc điểm hạn chế trong nghệ thuật tự sự của nhà văn.
Qua buổi tọa đàm, các bài viết tham luận đã được tập hợp thành cuốn sách
Lịch sử và văn hóa- cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh. Đây là cuốn sách
dày dặn, công phu, đưa ra những cách tiếp cận đa chiều về tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh, đặt trong diễn trình của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
2.4. Về các luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học
Vì Nguyễn Xuân Khánh xuất hiện như là một hiện tượng văn học đương
đại, nên đã có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh nói chung và tiểu thuyết Đội gạo lên chùa nói riêng. Nó cho thấy sức
hút và giá trị văn học của những tác phẩm của nhà văn này.
Lê Thị Thúy Hậu thực hiện luận văn: “Thế giới nghệ thuật trong tiểu
thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh” (Đại học
Vinh năm 2009), Tống Thị Thanh thực hiện luận văn “Những đóng góp của
Nguyễn Xuân Khánh vào tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại”
(Đại học KHXH & NV- Đại học QG Hà Nội, năm 2010), Lê Thị Thu thực hiện
luận văn “Nhân vật tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh” (Đại học sư phạm
- Đại học Thái Nguyên, năm 2010), Nguyễn Diệu Linh thực hiện luận văn

“Diễn ngôn lịch sử và văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh” (Đại học
sư phạm Hà Nội, năm 2010), Phạm Văn Vũ thực hiện luận văn: “Cảm quan
triết luận - Phật giáo trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh” (Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên, năm 2010), Hoàng Thị Thu
Hương với luận văn: “ Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua tiểu
thuyết Đội gạo lên chùa” (Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên), Võ Thị
Hồng Thắm với luận văn: “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn thể
loại” (Đại học Vinh)…v.v.
Những công trình nghiên cứu khoa học trên đây đều rất công phu, khoa
học, tất cả đều là những tiền đề mang tính định hướng và gợi ý để chúng tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

tiến hành thực hiện đề tài về “Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh trong thành tựu của văn chương đổi mới”.
Như vậy có thể nói có rất nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên cứu khoa
học về tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nói chung và tiểu thuyết
Đội gạo lên chùa nói riêng. Tiếp nhận toàn bộ những gì đã có của những người
đi trước, trong luận văn này, chúng tôi mong hướng tới một nhận thức tổng thể
những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của Đội gạo lên chùa trong tiến trình
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và trong thành tựu văn chương đổi mới.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
Tập trung khảo sát tiểu thuyết Đội gạo lên chùa trong bộ ba tiểu thuyết
của Nguyễn Xuân Khánh: Hồ Qúy Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa
để khẳng định những đóng góp đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của nó. Qua
đó xác định vị trí của Đội gạo lên chùa nói riêng và tác giả Nguyễn Xuân
Khánh nói chung trong thành tựu của văn xuôi Việt Nam đương đại - thập niên
mở đầu thế kỉ XXI.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Tiến hành thực hiện luận văn, trong khi tiếp cận với tiểu thuyết Đội gạo

lên chùa, chúng tôi tập trung nghiên cứu những thành công của tiểu thuyết trên
sự gắn bó giữa hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Ngoài việc liên hệ với
hai tác phẩm trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh là Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn, chúng tôi sẽ liên hệ, so sánh,
đối chiếu với một số tiểu thuyết của các bậc tiền bối để có cái nhìn quy chiếu
cho vấn đề chính là thành công của tiểu thuyết Đội gạo lên chùa trong thành
tựu văn chương đổi mới.
Luận văn chủ yếu khảo sát tiểu thuyết Đội gạo lên chùa (2011), bên cạnh
đó khảo sát mang tính quy chiếu với một số tác phẩm: Hồ Quý Ly (2000) và
Mẫu thượng ngàn (2006) của cùng tác giả. Và một số tiểu thuyết của các nhà
văn lớp trước để có cái nhìn quy chiếu cho vấn đề chính là thành công của tiểu
thuyết Đội gạo lên chùa trong thành tựu văn chương đổi mới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tiến hành làm luận văn, chúng tôi kết hợp đồng bộ một số phương pháp
sau đây:
- Phương pháp liên ngành: kết hợp đồng bộ phương pháp nghiên cứu tôn
giáo, nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu văn hóa.
- Phương pháp loại hình, phân tích tác phẩm theo đặc trưng của thể loại.
- Các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích và tổng hợp, so sánh,
thống kê…
6. Đóng góp của luận văn
6.1 Thông qua đề tài, luận văn muốn khẳng định vai trò không thể thay thế
được của thể loại tiểu thuyết truyền thống trong việc thể hiện nội dung văn hóa
- lịch sử mà tiểu thuyết Đội gạo lên chùa truyền tải.
6.2 Luận văn là công trình nghiên cứu mang tính tổng quát về giá trị nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm Đội gạo lên chùa.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, nội dung của luận
văn có kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Nguyễn Xuân Khánh và dòng tiểu thuyết văn hóa- lịch sử
trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
Chương 2: Đội gạo lên chùa - một cái nhìn bao quát, toàn diện về văn hóa
- lịch sử thế kỉ XX qua một đơn vị làng và những cuộc phiêu lưu.
Chương 3: Đội gạo lên chùa- những nét đặc sắc trong nghệ thuật tiểu thuyết.









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Chƣơng 1
NGUYỄN XUÂN KHÁNH VÀ DÒNG TIỂU THUYẾT VĂN HÓA -
LỊCH SỬ TRONG NỀN VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
1.1.1. Nguyễn Xuân Khánh - những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp
văn chương
Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933, bút danh là Đào Nguyễn. Quê gốc ở
làng Cổ Nhuế - Từ Liêm - Hà Nội. Là nhà văn có cuộc đời trải qua nhiều cay
cực, vất vả. Vốn là người gốc Hà Nội, từng sống ở làng Cổ Nhuế, sau đó có
quãng thời gian cùng gia đình sống ở phố Huế - một phố buôn bán sầm uất.
Hiện nay, ông sống ở ngõ nhỏ Trần Khát Chân. Mấy chục năm trên mảnh đất
này, diện mạo của khu phố nay đã khác xóm nghèo ngày trước. Những căn nhà

lá xập xệ. Những bờ ao, bờ chuôm thả đầy rau muống bè. Những khóm tre tả
tơi. Những người lao động lầm lũi. Những cống rãnh nước thải của thành phố
đổ về. Xác chuột chết, lòng lợn lòng gà thối, những cọng rau ôi vật vờ
trôi…Tất cả những hình ảnh ấy đã tạo nên dấu ấn đậm nét trong những trang
viết của ông sau này.
Nghiệp văn chương đến với Nguyễn Xuân Khánh cũng khá bất ngờ. Ông
đã từng kể lại, đang là sinh viên trường Y, một trường đại học sang trọng ở Hà
Nội, năm 1952, ông bỏ bút nghiên xin đi bộ đội. Nhiều người trong gia đình
ngạc nhiên phải kêu lên, ông có thần kinh không đấy? Thế rồi những ngả
đường hành quân, những buổi diễn tập và tình đồng chí đã thôi thúc Nguyễn
Xuân Khánh cầm bút. Truyện ngắn đầu tay Một đêm in trên tạp chí Văn nghệ
quân đội năm 1959, rồi tập truyện ngắn Rừng sâu, Nhà xuất bản Văn học, in
năm 1962, là những chứng chỉ để ông bước vào con đường văn học đầy cam go
và những cái giá phải trả. Những ngày tháng tham dự lớp Bồi dưỡng viết văn
trẻ khóa I, ông đã được tiếp xúc với nhiều nhà văn, nhà thơ danh tiếng, được
sống cùng với những đồng đội cùng trang lứa, rồi sau này, họ chính là những
người tạo nên diện mạo nền văn học nước nhà. Học xong lớp Bồi dưỡng viết
văn trẻ, Nguyễn Xuân Khánh đến với Tạp chí Văn nghệ quân đội, ông là một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

cây bút năng nổ. Thế rồi dính tai nạn nghề nghiệp, ông phải chuyển sang báo
Thiếu niên Tiền phong. Những năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc sau 1964 ông làm phóng viên tại khu IV. Năm 1983, ông về nghỉ hưu non.
Đời ông lại chuyển sang một bước ngoặt mới. Ông phải làm mọi việc nặng
nhọc để có tiền nuôi con ăn học: thợ mộc, thợ bốc vác, thợ cán bột mỳ, bảo vệ
kho lương thực. Có thời kì ông làm thợ may, ông có bàn tay khéo léo nên từng
may quần áo cho nhiều nhạc sĩ, họa sĩ. Thậm chí một thời túng quá ông phải đi
bán máu. Ông từng làm Bí thư chi bộ tiểu khu Thanh Nhàn. Nhưng rồi, con
người ông sinh ra có lẽ là để gắn bó với con chữ. Sau những giờ phút lao động

mưu sinh cật lực để nhận những đồng tiền nuôi vợ con, những con chữ, những
trang sách vẫn không ngừng quẫy đạp trong tâm trí ông. Khốn nỗi lâm nạn
nghề nghiệp một thời nên khi cầm bút viết tâm trí ông lại càng dằng xé. Ban
ngày lao động mệt mỏi, ban đêm ông lại chong đèn cùng với những con
chữ. Vốn ngoại ngữ tiếng Pháp được cơ hội phát huy nên ông đã dịch hàng
chục cuốn sách. Ông đã sớm có ý thức củng cố kiến thức chuẩn bị hành
trang cho con đường dài của nghề nghiệp.
Trong cuộc đời của mình, ở giai đoạn nào dù là khó khăn nhất, Nguyễn
Xuân Khánh cũng có những mục tiêu để theo đuổi. Một đêm (1959), Rừng sâu
(1962) là những tập truyện ngắn đầu tay. Đến những năm tháng vất vả, cực
nhọc nhất trong cuộc đời mình, ông cho ra đời: Miền hoang tưởng (tiểu thuyết,
NXB Đà Nẵng, 1990), đây là tác phẩm đầu tiên ông lấy bút danh Đào Nguyễn.
Rồi Trư cuồng (1981- 1982, chưa xuất bản) cũng được ông viết trong thời gian
này. Nhưng đặc biệt không thể không nhắc đến bộ ba tiểu thuyết: Hồ Quý Ly
(2002); Mẫu thượng ngàn (2005); Đội gạo lên chùa (2010) - những tác phẩm
đã đưa tên tuổi của Nguyễn Xuân Khánh lên một tầm cao mới và tạo nên một
hiện tượng hiếm có trên văn đàn. Cũng trong khoảng thời gian cho ra đời bộ ba
tiểu thuyết, ông còn có: Hai đứa trẻ và con chó Mèo xóm núi (NXB Nhi đồng,
Hà Nội, 2002) và Mưa quê (NXB Nhi đồng, Hà Nội, 2003). Ngoài những tác
phẩm viết bằng tiếng Việt, phải kể đến những tác phẩm dịch của Nguyễn Xuân
Khánh. Ông dịch hàng chục cuốn sách nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến:
Những quả vàng của Nathalie Sarraute; Lời nguyền cho kẻ vắng mặt của Taha

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Ben Jelloun; Nhận dạng nam của Elizabeth; Người đàn bà trên đảo Saint
Dominique của Bona Dominique; Bảy ngày trên kinh khí cầu của Jules Verne;
Hoàng hậu Sicile
của Pamela Schoenewaldt…
Với số lượng tác phẩm tuy không phải là nhiều so với những cây đại thụ

của văn học Việt Nam như: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu… nhưng với những tác phẩm mà Nguyễn Xuân
Khánh để lại cũng đủ giúp chúng ta khẳng định thể loại tiểu thuyết văn hóa-
lịch sử là sở trường, là thế mạnh ở nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và cũng là thể
loại mà ông đã thực sự để lại những viên ngọc quý giúp tên tuổi của ông trở
thành hiện tượng hiếm thấy trên văn đàn.
1.1.2. Nguyễn Xuân Khánh - một hiện tượng văn học độc đáo
Với một cuộc đời không ít cay đắng, cơ cực, lại trải qua rất nhiều nghề
khác nhau để trung thành với văn chương, Nguyễn Xuân Khánh được ví như
một cội mai lão vẫn quyết liệt nở hoa (Văn Chinh, Báo Văn nghệ, Số 6 ngày
11- 2- 2012). Nếu như đại đa số các nhà văn, nhà thơ đều chín ở độ tuổi còn trẻ
hoặc trung niên thì Nguyễn Xuân Khánh lại chín nhất, thành công độ tuổi thất
thập cổ lai hi. Hồ Quý Ly ra đời khi ông ở tuổi bảy mươi; Mẫu thượng ngàn ra
đời khi ông đã bảy ba và đến Đội gạo lên chùa thì ông đã bước sang tuổi bảy
mươi lăm. Thật là một hiện tượng hiếm có trên văn đàn Việt Nam.
Nét độc đáo nữa ta bắt gặp ở nhà văn Nguyễn Xuân Khánh chính là việc
lựa chọn thể loại để truyền tải cảm hứng của mình - thể loại tiểu thuyết văn hóa
- lịch sử. Giữa thời đại bùng nổ kĩ thuật tự sự hiện đại và hậu hiện đại, trong
khi nhiều nhà tiểu thuyết đang nỗ lực cách tân, hiện đại hóa tiểu thuyết để thích
ứng với nhu cầu và sự phát triển của xã hội thì việc cho ra đời ba tác phẩm tiểu
thuyết: Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa ở vào thập niên đầu
của thế kỉ XXI đã chứng tỏ Nguyễn Xuân Khánh vẫn trung thành với thể loại
tiểu thuyết cổ điển. Có thể thấy lão nhà văn ở tuổi ngoài thất thập vẫn điềm tĩnh
lựa chọn bút pháp cổ điển để đi sâu kiến giải về lịch sử, văn hóa và sức sống
của dân tộc với cách viết vừa lịch lãm, vừa nhẹ nhàng, tinh tế. Tuy nhiên nét
độc đáo chính là nằm trong quan điểm của ông khi chọn tiểu thuyết lịch sử- văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

hóa làm phương tiện sáng tác của mình. Nếu như tiểu thuyết lịch sử xuất hiện

trong văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII với Nam triều công nghiệp diễn chí
của Nguyễn Khoa Chiêm, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái…chủ
yếu lấy việc diễn giải sự thật lịch sử làm mục đích sáng tác văn chương, thậm
chí được thanh lọc qua điểm nhìn ý thức hệ, nặng tính chính trị, thì tiểu thuyết
đương đại thoát dần ra khỏi việc nô lệ của sự thật lịch sử. Lịch sử được soi
chiếu nhiều phía và được diễn giải theo ý hướng cá nhân nên vượt xa mô hình
cũ với nhiều chiều hướng khác nhau. Có xu hướng trung thành với chính sử
như: Bão táp triều Trần và Tám triều vua Lí của Hoàng Quốc Hải, Sông Côn
mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy…Có xu
hướng lại xem lịch sử chỉ là cái đinh để treo bức họa mà thôi (Dumas), nghĩa là
nhà văn mượn lịch sử để suy tư hiện tại, đào sâu những bi kịch của con người
trong cơn biến động lịch sử để biện giải quá khứ, dự báo, cảnh báo hiện tại.
Trong bộ ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh thì Hồ Quý Ly là tác phẩm
được viết theo xu hướng này. Ngoài ra có thể thấy xu hướng này được thể hiện
trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Dưới chín tầng trời của Dương Hướng, Hội
thề của Nguyễn Quang Thân…Tuy nhiên chọn tiểu thuyết lịch sử - văn hóa để
sáng tác bởi Nguyễn Xuân Khánh quan niệm tiểu thuyết lịch sử không phải là
kể lại lịch sử, minh họa lịch sử mà là phản ánh những vấn đề của con người
hiện tại vì vậy cần đề cập đến những điều mà họ quan tâm. Phải chăng chính vì
quan niệm này nên tiểu thuyết lịch sử của ông không bị khô khan, cứng nhắc.
Chính vì thế mà dù phải đọc gần hàng nghìn trang những tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh, người đọc vẫn không cảm thấy ngán, mà ngược lại càng
đọc càng cuốn hút, càng hấp dẫn khiến người đọc say mê.
Không chỉ độc đáo ở thời gian ra đời của bộ ba tiểu thuyết mà nét độc đáo
nữa người đọc thấy được ở nhà văn Nguyễn Xuân Khánh chính là một ngòi bút
tràn trề sinh lực. Phải chăng một con người đã sống và đã trải qua tất cả các
thời kì lớn của dân tộc từ chiến tranh - hòa bình - đổi mới cộng thêm vốn sống,
vốn hiểu biết sâu sắc đã làm nên những trang sách như dựng lại cả một nền văn
hóa, một bức tranh lịch sử đầy sinh động của con người Việt Nam? Hơn nữa
sau một thời gian dài vắng bóng trên văn đàn cũng là quãng thời gian nhà văn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Nguyễn Xuân Khánh thu lượm, góp nhặt, tích lũy để đến khi cầm bút viết thì
câu chữ cứ tuôn trào, căng tràn sức sống. Để mỗi câu, mỗi chữ đều minh chứng
cho một khối kiến thức đồ sộ, sâu sắc. Để thỏa khát khao, ước muốn trong một
con người có duyên nợ với con chữ. Vì vậy mà dù ra đời trong thời đại ăn
nhanh, các tác phẩm văn học dường như cũng co ngắn đến mức tối đa thì văn
chương Nguyễn Xuân Khánh vẫn ngồn ngộn câu chữ, ngộn ngộn sức sống. Vì
thế mà Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa không tác phẩm nào
dưới tám trăm trang. Hiếm có những tác phẩm có khả năng bao quát lịch sử,
văn hóa dân tộc một cách rộng lớn đến như vậy!
1.2. Dòng tiểu thuyết văn hóa - lịch sử Nguyễn Xuân Khánh trong bối cảnh
tiểu thuyết văn xuôi Việt Nam đƣơng đại
1.2.1. Khái quát chung về tiểu thuyết văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX và đầu thế
kỉ XXI
Tiểu thuyết là thể loại giữ vai trò quan trọng, then chốt trong đời sống văn
học nhân loại bởi khả năng riêng trong việc phản ánh đời sống hiện thực một
cách khái quát, sinh động, sâu sắc, dân chủ nhất. Thể loại này cũng được xem
là nhân vật chính trên sân khấu văn học hiện đại bởi tiểu thuyết gắn liền với
quan niệm nhân bản về con người, nhìn con người như bản ngã cá nhân có ý
thức. Có nhiều ý kiến bàn về khái niệm thể loại tiểu thuyết trong đó đáng chú ý
là ý kiến của Hê ghen. Ông gọi tiểu thuyết là Sử thi tư sản hiện đại và nhấn
mạnh tính chất văn xuôi của tiểu thuyết. Đồng quan điểm với Heghen, Banzac
xem tiểu thuyết là nhãng tấn bi kịch của xã hội tư sản. Bêlinxki cho tiểu thuyết
là sự hiện thực hóa thực tại với sự thực trần trụi của nó, là xây dựng một bức
tranh toàn vẹn, sinh động và thống nhất. Bakhtin đề cập đến vai trò thể loại và
khái quát đặc điểm riêng của thể loại tiểu thuyết. Ông xem thể loại tiểu thuyết
là nhân vật chính của lịch sử văn học, trong đó tiểu thuyết là thể loại quan trọng
nhất, đang vận động, biến đổi chưa hoàn tất.

Ở Việt Nam, khái niệm tiểu thuyết được nhiều nhà lí luận văn học bàn đến
như Phạm Quỳnh, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Thanh
Lãng, Nguyễn Văn Trung, Phan Cự Đệ, Trần Đình Sử, …Mặc dù khái niệm
tiểu thuyết chưa được bàn đến một cách toàn diện song hầu hết các ý kiến đều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

chỉ ra đặc trưng của thể loại. Phạm Quỳnh khẳng định: Tiểu thuyết là một loại
truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội hay là
những sự tích là đủ làm cho người đọc hứng thú. Còn Nguyễn Văn Trung trong
Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên đề nghị hiểu tiểu thuyết theo lối Tây
phương là một thể văn xuôi, kể một câu chuyện, tuy là tưởng tượng nhưng phải
dựa vào thực tế đời sống hàng ngày, có thể có thực và người đọc không thể dự
đoán trước mọi diễn biến hay kết thúc câu chuyện kể (nghĩa là truyện không
nhất thiết phải có hậu). Còn theo Từ điển thuật ngữ văn học (do Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên), tiểu thuyết là tác phẩm tự sự
cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và
thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức xã hội, mô tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện
nhiều tính cách đa dạng.
Văn học Việt Nam thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI đã đạt được những thành
tựu đáng kể ở thể loại tiểu thuyết văn xuôi. Trước hết phải kể đến thế hệ nhà
văn có công khai phá như Hoàng Ngọc Phách, Ngô Tất Tố, Khái Hưng, Nhất
Linh, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao…trước
1945. Sau 1945 gồm nhiều thế hệ, kể từ Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn
Đình Thi…qua Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu…đến Lê
Lựu, Chu Lai, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Dương Hướng, Hồ Anh
Thái… Và đặc biệt từ cuối thế kỉ XX đến nay còn có sự xuất hiện đầy ngoạn
mục của một lớp nhà văn mà do thử thách hoặc bất trắc của thời cuộc đã có một
quãng dài ngừng nghỉ trong quá khứ như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Xuân

Khánh…
Đặt trong thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam thế kỉ XX và đầu thế kỉ
XXI, dòng tiểu thuyết văn hóa - lịch sử mà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh lựa
chọn là một hiện tượng đặc biệt để lại những thành tựu lớn tạo dấu ấn sâu sắc.
Cùng thời với thế hệ các nhà văn như: Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Ma
Văn Kháng…tuy nhiên giống như một số văn nghệ sĩ Trần Dần, Lê Đạt, Dương
Tường, Bùi Ngọc Tấn…Nguyễn Xuân Khánh không được phép công bố sáng
tác. Phải đến thời kì Đổi mới, ông mới có điều kiện để công bố sáng tác và tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

trung thời gian, tâm sức cho việc viết văn. Mặc dù không phải là một hiện
tượng văn chương duy nhất ở Việt Nam nhưng trường hợp của Nguyễn Xuân
Khánh lại rất đặc biệt. Các tác phẩm của ông công bố vào thời kì này đều có
bản thảo sáng tác từ trước thời kì Đổi mới và ngay sau khi xuất hiện, những tác
phẩm này đã được dư luận, đặc biệt là giới phê bình, nghiên cứu đánh giá cao,
đạt doanh thu lớn và kỉ lục về số lần tái bản đồng thời giành về rất nhiều giải
thưởng cao quý của hội nhà văn.
1.2.2. Dòng tiểu thuyết văn hóa - lịch sử Nguyễn Xuân Khánh
Tiểu thuyết văn hóa - lịch sử là loại hình tiểu thuyết lấy đề tài lịch sử và
văn hóa làm nội dung chính. Viết về quá khứ đã qua, công việc của nhà viết
tiểu thuyết lịch sử là làm sống lại lịch sử bằng việc phục hiện lại các sự kiện,
biến cố lịch sử, khám phá những bí ẩn, khuất lấp, lí giải lịch sử từ số phận cá
nhân và tìm ra sợi dây liên hệ giữa quá khứ với đời sống hiện tại. Để làm được
điều đó, lẽ cố nhiên nhà văn phải dựa trên một phông nền, một khung cảnh lịch
sử nhất định, dù đó chỉ là phương tiện, là cái đinh để treo những bức tranh tư
tưởng của mình. Hơn thế, người ta vẫn thường nói đến cái gọi là sự thật lịch sử,
tính chân thực lịch sử, hằng số lịch sử như thời đại, văn hóa, phong tục tập
quán, chiến tranh… khi bàn đến bất kì một tự sự về lịch sử nào. Vì vậy, vấn đề
đặt ra cho các nhà tiểu thuyết là sẽ lựa chọn giai đoạn lịch sử nào, với cảm thức

lịch sử và quan niệm nghệ thuật ra sao. Và thời điểm lịch sử ấy có ý nghĩa như
thế nào trong việc thể hiện ý đồ sáng tạo của tác giả cũng như trong giá trị nối
kết với hiện tại. Từ đặc trưng thể loại cùng thực tiễn sáng tác của tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau 1986, chúng ta nhận ra rằng, mỗi tác phẩm viết về đề tài
lịch sử luôn chứa đựng trong nó những mã lịch sử, mã văn hóa, mã ngôn ngữ
của thời đại. Tác giả là người xây dựng nên văn bản - tiểu thuyết lịch sử bằng
cách khai thác các mảnh vỡ của những tiền văn bản. Các tiền văn bản này có
thể là những trứ tác lịch sử, các bộ thông sử theo lối biên niên (chính thống và
không chính thống), các giá trị văn hóa tâm linh, cũng có thể là những câu
chuyện được lưu giữ trong kí ức dân gian (dã sử, giai thoại, truyền thuyết,
huyền thoại…). Nhà văn trước khi bắt tay vào công việc, ắt hẳn đã phải đầu tư
tìm tòi, nghiên cứu, nghiền ngẫm, thậm chí cả nghe ngóng rất kĩ lưỡng những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

tư liệu về thời đại, sự kiện hay nhân vật lịch sử mà mình quan tâm. Người viết
tìm thấy ở đó những điểm níu giữ, những chất liệu chân thực, từ đó dùng trí
tưởng tượng, khả năng sáng tạo và hư cấu của mình để phục dựng lại quá khứ,
tái hiện những nhân vật lịch sử. Soi rọi từ góc nhìn liên văn bản, người đọc sẽ
gọi dậy những kí ức về văn hóa, lịch sử, nhằm kiến tạo và thụ hưởng quá khứ
theo cách riêng của mình. Nhìn vào bức tranh tổng thể của tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau 1986, chúng ta dễ dàng nhận ra có rất nhiều xu hướng cùng tồn
tại. Mặc dù trong mỗi xu hướng sáng tạo có cảm thức lịch sử, quan niệm nghệ
thuật, mục đích riêng, nhưng các nhà văn vẫn gặp nhau ở điểm chung, đó là tìm
thấy trong lịch sử, văn hóa nguồn chất liệu và cảm hứng cho sự tự do sáng tạo
văn chương. Từ đó xuất hiện những tên tuổi như: Hoàng Quốc Hải, Nguyễn
Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh…
Bộ ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh: Hồ Quý Ly, Mẫu thượng
ngàn, Đội gạo lên chùa là kết quả của cảm hứng văn hóa và lịch sử. Bối cảnh
của Hồ Quý Ly được xây dựng dựa trên những sự kiện đầy biến động của giai

đoạn cuối Trần đầu Hồ thế kỉ XIV-XV, cốt truyện xoay quanh chân dung của
một trong những nhân vật phức tạp, đa diện bậc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Thông qua việc lựa chọn lịch sử đó, nhà văn muốn khắc sâu sự khủng hoảng,
bế tắc của nhà Trần, đưa ra tình thế buộc phải thay máu để chấn hưng đất nước,
đồng thời đối thoại, tranh luận với lịch sử và con người hiện tại, về ý nghĩa
thời thế của nhân vật Hồ Quý Ly trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Cùng với
tôn giáo, tín ngưỡng dân gian cũng được các nhà văn phục hiện lại một cách
sinh động và độc đáo. Sinh động bởi lẽ nhà văn đã lột tả hết tinh thần và đời
sống tâm linh của người Việt được gửi gắm trong các lễ hội truyền thống,
phong tục tập quán; và độc đáo do nhà văn đã không nhìn ở một chiều thuận
mà luôn đặt vấn đề trong cái nhìn giải thiêng, ngược sáng. Trong Mẫu Thượng
ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đã nỗ lực tìm kiếm một yếu tố mang tính nền tảng
bền vững, một hằng số có khả năng kiến tạo văn hóa Việt, có sức cố kết cộng
đồng, mang sức mạnh vượt thoát qua bao cuộc chìm nổi, thăng trầm của lịch sử
dân tộc từ xa xưa cho đến tận ngày hôm nay. Ông đã giải phẫu sức sống văn
hóa Việt trong văn hóa làng xã (lễ hội, tín ngưỡng đa thần, huyền thoại dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

gian) và đặc biệt qua tín ngưỡng thờ Mẫu đậm chất bản địa. Nếu như trong tiểu
thuyết Hồ Quý Ly, cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử, Mẫu thượng ngàn
với cảm hứng văn hóa là chủ đạo thì đến Đội gạo lên chùa là sự kết hợp nhuần
nhuyễn của cả cảm hứng lịch sử và văn hóa. Viết về ảnh hưởng của văn hóa
Phật giáo trong đời sống cư dân nông nghiệp Bắc bộ, qua những biến thiên của
lịch sử Việt Nam gần như trải dài suốt thế kỉ XX qua hai cuộc chiến tranh cho
đến những ngày đầu thống nhất đất nước. Từ lịch sử dân tộc, tác giả đi vào kiến
giải những phong tục, tập quán, những khoảng tâm linh đầy thiêng liêng của
đạo Phật trong lối sống, cách nghĩ của người dân Việt.
Khi đọc tiểu thuyết văn hóa - lịch sử của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh,
người đọc cảm nhận được một cảm quan huyền bí bao trùm. Con người giữ

những ràng buộc bí ẩn với nhau, tất cả các mối quan hệ ngẫu nhiên đều có sự
liên hoàn, mật thiết, trong đó cái huyền ảo nghiễm nhiên tồn tại. Cái thực và cái
ảo dường như đan xen hòa quyện vào nhau khiến cho những trang viết của ông
có sức sống, say mê đối với độc giả. Đối với Nguyễn Xuân Khánh không có
trải nghiệm nào là vô ích bởi chính cuộc đời vất vả, cực nhọc trải qua muôn
vàn khó khăn gian khổ là tư liệu quý giá nhất giúp ông có thể viết nên những
trang sách ngồn ngộn sức sống như vậy.
1.2.3. “Đội gạo lên chùa” trong mối tương quan với tiểu thuyết đương đại
Tiếp nối những đặc điểm truyền thống văn xuôi thế kỉ XX, tiểu thuyết
đương đại Việt Nam tiếp tục đổi mới và cách tân. Có thể nói đổi mới là yếu tố
duy nhất, đảm bảo cho sự phát triển của đất nước, đồng thời cũng là khát khao,
nguyện vọng của toàn dân tộc khi đất nước vừa trải qua những năm tháng chiến
tranh ác liệt. Đời sống sau hòa bình với những khó khăn bộn bề đòi hỏi các nhà
văn phải sáng tạo được những tác phẩm phản ánh được hơi thở của thời đại.
Với tinh thần cởi trói, dân chủ mà Đảng khuyến khích, các nhà văn không bị gò
bó theo những quy phạm, khuôn khổ của giai đoạn trước nữa mà thỏa sức sáng
tạo, thể nghiệm. Các nhà văn luôn trăn trở, chủ động tìm cho mình một hướng
đi mới thích hợp với sự vận động của bản thân văn học. Bàn về sự đổi mới của
văn học nói chung, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết “Ai cũng đổi mới nhưng
đổi mới sự thật là gì? Theo tôi đổi mới là nghĩ đúng, làm đúng quy luật khách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

quan, là tôn trọng tinh thần khoa học”. Còn nhà nghiên cứu Hà Xuân Trường
trong cuộc tọa đàm Văn học đổi mới là phát triển đã nhận định: “Đổi mới trong
văn học, điều quan trọng nhất, quyết định nhất là cái nhìn và cái tâm của nhà
văn. Đề tài, nhân vật, phong cách cá tính không là cái gì nếu không nhìn thời
đại sâu sắc, thấu suốt nhân tình, nếu không có được cái tâm trong sáng, nhân ái,
cộng với ý thức đầy đủ về chức trách cao cả của văn học đối với con người, đối
với cuộc đời, với nhân dân mình. Không có cái đó thì không có đổi mới”.

Tiếp thu tình thần Đổi mới của văn học nói chung, thể loại tiểu thuyết văn
xuôi cũng só sự đổi mới rất cơ bản. Tiểu thuyết đương đại đổi mới theo hai xu
hướng: xu hướng hiện đại hóa triệt để gắn liền với tên tuổi những nhà văn như:
Nguyễn Bình Phương với Vào cõi (1991), Những đứa trẻ chết già (1994),
Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kì thủy (2004), Ngồi
(2006). Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn. Tạ Duy Anh
với Lão khổ (1992), Đi tìm nhân vật (1999), Thiên thần sám hối (2004), Giã
biệt bóng tối (2008)… Xu hướng thứ hai là xu hướng đổi mới dựa trên lối viết
truyền thống, xu hướng này xuất hiện những tác giả, tác phẩm tiêu biểu như: Lê
Lựu với Thời xa vắng, Ma Văn Kháng với Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng
trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú. Nguyễn Khắc Trường với
Mảnh đất lắm người nhiều ma. Ngoài ra không thể không nhắc đến tên tuổi của
các tác giả: Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo, Bảo Ninh
…Ở xu hướng thứ hai tiểu thuyết văn xuôi đương đại lại có sự phân chia thành
nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau. Có thể nói quãng thời gian hơn mười
năm đầu thế kỷ XXI, văn học bắt kịp với thời đại khi viết về những vấn đề mới.
Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm viết về những vấn đề thời đại chưa để lại tác
phẩm hay, nhất là ở các cây bút trẻ. Trong khi đó, một trong những khuynh
hướng sáng tác gần đây là quay trở lại với những thời đại đã trở thành lịch sử
để suy ngẫm những vấn đề đương đại. Hướng đi này đã có một số thành công
nhất định như các tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh. PGS -
TS Nguyễn Đăng Điệp phát biểu đề dẫn trong buổi tọa đàm về tiểu thuyết văn
hóa lịch sử Nguyễn Xuân Khánh đánh giá hướng tìm về cội nguồn của tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh là mới mẻ, hòa cùng với tư duy tiểu thuyết về lịch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

sử của các lý thuyết hiện đại, hậu hiện đại. Ở cận kề tuổi tám mươi, sau Hồ Quý
Ly và Mẫu thượng ngàn, Nguyễn Xuân Khánh lại bất ngờ cho ra đời cuốn tiểu
thuyết Đội gạo lên chùa. Cuốn tiểu thuyết đã bất ngờ làm nóng diễn đàn văn

học nước nhà.
Đặt trong mối quan hệ tương quan với tiểu thuyết văn xuôi đương đại, tác
phẩm Đội gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh vừa mang trong
mình những kế thừa của tiểu thuyết truyền thống vừa có sự cách tân đổi mới để
bắt kịp với sự đổi mới của văn học nói chung và thể loại tiểu thuyết văn xuôi
nói riêng. Bìa bốn cuốn Đội gạo lên chùa có ghi một dòng nhận xét: “Tiểu
thuyết Đội gạo lên chùa được viết theo lối cổ điển…”. Đúng là sáng tác của
một loạt nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê
Lựu, Nguyễn Khắc Trường…. cũng đều viết theo lối cổ điển. Nhưng đọc kĩ
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, ta thấy lối viết cổ điển không xung đột với
những cách tân nghệ thuật. Tiểu thuyết của ông được cấu trúc trên nền tư duy
tiểu thuyết hiện đại, mang tinh thần từ bỏ sự mặc nhiên của tư duy công thức,
sơ đồ hóa một thời, ngộ ra sự song hành tồn tại của nhiều chân lý cuộc đời,
không có cái tuyệt đối, tối thượng… Tinh thần đó đã chi phối nhà văn trong
sáng tạo. Những cách tân nghệ thuật trong sáng tác của ông vừa mang đậm dấu
ấn phong cách cá nhân, vừa thể hiện xu hướng vận động của văn học thời đại.
Nét cổ điển của Đội gạo lên chùa là ở đề tài, kết cấu, lối kể, nhân vật và ngay
cả dung lượng của tác phẩm. Đề tài về văn hóa - lịch sử và những trải nghiệm
của nhà văn trong quá khứ dựa trên tinh thần tôn giáo - đạo Phật. Lối kết cấu
giống với kết cấu của lối tiểu thuyết chương hồi. Với gần chín trăm trang sách,
tác phẩm Đội gạo lên chùa được chia làm ba phần: I- Trôi sông; II- Bão nổi
can qua; III- Về cõi nhân gian. Và trong mỗi phần lớn như vậy lại có rất nhiều
những phần nhỏ. Lối kết cấu như vậy tạo nên một mạch truyện lôgíc, phải đọc
hết phần này, người đọc mới hiểu được phần tiếp và cứ như vậy mỗi một phần
lại mở ra cho người đọc những trải nghiệm mới có sức cuốn hút mạnh mẽ. Về
lối kể, tiểu thuyết là câu chuyện được kể lại theo trình tự thời gian, trình tự tâm
lí có lúc xuôi chiều từ quá khứ - hiện tại nhưng cũng có lúc lại từ hiện tại ngược
về quá khứ thông qua suy nghĩ, hồi tưởng của các nhân vật. Về nhân vật, cả

×