Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm địa lí dân cư, dân tộc vùng cao nguyên đá Đồng Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.33 KB, 6 trang )

Nguyễn Xuân Trường và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 70(8): 25 - 30
25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ DÂN CƯ, DÂN TỘC
VÙNG CAO NGUYÊN ĐÁ ĐỒNG VĂN - TỈNH HÀ GIANG

Nguyễn Xuân Trường
1
*, Hoàng Thị Tám Thúy
2
, Nguyễn Phương Nga
3

1
Đại học Thái Nguyên,
2
Trường THPT Yên Minh - Hà Giang,
3
Trường THPT Vùng cao Việt Bắc

TÓM TẮT
Cao nguyên đá Đồng Văn tỉnh Hà Giang là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng của tỉnh Hà Giang và cả nước. Tuy nhiên, đây là vùng
tiềm ẩn không ít khó khăn về điều kiện tự nhiên, là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người, trình độ
dân trí thấp, tồn tại những phong tục tập quán lạc hậu. Nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm địa lý dân cư,
dân tộc vùng cao nguyên đá Đồng Văn có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở khoa học cho việc lập các
dự án phát triển KT-XH, đặc biệt là dự án công viên địa chất Đồng Văn để công nhận ở cấp quốc gia,
đồng thời trình UNESCO xem xét công nhận là Công viên địa chất quốc tế đầu tiên ở Việt Nam.
Từ khóa: Cao nguyên đá; Đồng Văn; địa lý dân cư, dân tộc; công viên địa chất.




MỞ ĐẦU
Cao nguyên đá Đồng Văn là tên gọi chung
cho khu vực lãnh thổ gồm 4 huyện vùng cao
núi đá phía bắc của tỉnh Hà Giang: Quản Bạ,
Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn. Đây là một
trong những cao nguyên đá vôi đặc biệt của
nước ta, có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với các
du khách đến thăm quan du lịch và những nhà
nghiên cứu khoa học bởi phong cảnh hùng vĩ
của cao nguyên đá với hàng loạt sườn vách và
thung lũng, hình thành dọc theo các đứt gãy
làm nên các hẻm vực sâu như hẻm vực Mã Pí
Lèng trên sông Nho Quế, nhiều kiểu địa hình
khác như sườn xâm thực - bóc mòn, rừng đá,
hoang mạc đá, các núi đá vôi dạng kim tự
tháp, các nếp uốn Ngoài ra, cao nguyên đá
Đồng Văn còn chứa đựng những giá trị văn
hoá đặc sắc của đồng bào các dân tộc: Mông,
Dao, Tày, Nùng, Lô Lô, Hoa, Pu Péo Trong
suốt bề dày lịch sử, họ đã tạo dựng cho mình
kho tàng kiến thức phong phú, đa dạng, thể
hiện kỹ năng thích ứng và hoà đồng với thiên
nhiên trong lao động sản xuất, các lĩnh vực
sinh hoạt cộng đồng. Người dân sống quyện
với đá, dọn đá để dựng nhà, khoét đá tìm
dòng nước ngọt. Đá dựng thành tường rào,
giữ nước, giữ đất để có ruộng bậc thang; đá
thành rừng, thành luỹ để bảo vệ biên cương

Tổ quốc. Các giá trị di sản thiên nhiên độc
đáo đều gắn chặt với những nét đẹp văn hoá
đặc sắc của các dân tộc. Tuy nhiên, đây cũng
là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, các huyện trong vùng đều nằm



Tel: 0914 765087, Email:
trong danh sách 62 huyện nghèo nhất cả nước
theo Chương trình đầu tư phát triển của Chính
phủ từ năm 2008. Do vậy, sự phát triển của
vùng đòi hỏi phải có những quyết sách mang
tính đột phá và bền vững.
PHẠM VI LÃNH THỔ VÀ ĐẶC ĐIỂM
MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÙNG CAO
NGUYÊN ĐÁ ĐỒNG VĂN
Phạm vi lãnh thổ vùng cao nguyên đá
Bốn huyện vùng cao núi đá phía Bắc của tỉnh
Hà Giang (Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc và
Đồng Văn) có tổng diện tích tự nhiên hơn
2356 km
2
, số dân 253.864 người (năm 2009),
chiếm 29,6% diện tích và 35,8% số dân tỉnh
Hà Giang. Đây là vùng có điều kiện tự nhiên
khắc nghiệt, kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn
so với các huyện, thị trong tỉnh và cả nước.
Bốn huyện vùng cao núi đá nằm trọn vẹn
trong một phạm vi lãnh thổ phía bắc tỉnh Hà

Giang, tất cả các huyện đều tiếp giáp với
nước láng giềng Trung Quốc. Quốc lộ 4C
được xây dựng năm 1959 và hoàn thành năm
1965, đây là con đường độc đạo chạy từ thị xã
Hà Giang xuyên suốt qua các huyện và được
ví là con đường “Hạnh phúc” của vùng cao
nguyên đá. Do vậy, vùng cao nguyên đá có
một vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng
của tỉnh Hà Giang.
Bảng 1. Diện tích, dân số và mật độ dân số 4
huyện vùng cao nguyên đá
T
T
Tên
huyện
Số
xã/
thị
trấn
Diện
tích
(Km
2
)
Số dân
năm
2009
(Người)
Mật độ

dân số
(Ng/k
m
2
)
1
Đồng Văn
19
461,1
63.897
138,5
Nguyễn Xuân Trường và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 70(8): 25 - 30
26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Mèo Vạc
18
576,6
69.359
120,0
3
Yên Minh
18
786,1
76.762
98,0
4
Quản Bạ

13
532,2
43.846
82,0
Toàn vùng
68
2356,0
253.864
108,0
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Giang năm 2008. Cục
Thống kê tỉnh Hà Giang; Dân số Hà Giang qua kết quả
sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009)
Khái quát đặc điểm môi trường tự nhiên
của vùng
Theo kết quả khảo sát của các nhà khoa học,
Cao nguyên Đồng Văn có tới 80% diện lộ đá
vôi, với 11 hệ tầng, trong đó có loại trầm tích
cổ nhất có niên đại từ 600 đến 400 triệu năm.
Cao nguyên đá còn rất đa dạng về các loại
thạch địa tầng, các loại hình khoáng sản và sự
đa dạng cổ sinh học, với hàng nghìn loại
thuộc 120 giống của 17 nhóm sinh vật.
Địa hình của 4 huyện vùng cao nguyên đá chủ
yếu là núi đá có xen lẫn núi đất bị chia cắt
mạnh, núi cao, vực sâu; độ cao tuyệt đối phổ
biến từ 800m - 1.200m so với mặt nước biển
với những dãy núi đá, rừng đá tai mèo trùng
điệp. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và
từ Đông bắc xuống Tây nam.
Khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ

tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình năm
20
0
C - 23
0
C. Lượng mưa trung bình năm
1400mm nhưng do địa hình kaster nên nước
mưa nhanh chóng thẩm thấu xuống các hang
động ngầm, độ ẩm trung bình 80 %. Khí hậu
của vùng khá khắc nhiệt, thời tiết có nhiều
biến động bất thường, những tháng mùa đông
thường có sương muối và mưa phùn, thậm chí
có tuyết và băng giá. Nhìn chung, khí hậu
thích hợp với các loại cây trồng có nguồn gốc
ôn đới và cận nhiệt, có ưu thế trồng cây dược
liệu, cây ăn quả, sản xuất hạt rau giống, nuôi
ong mật, chăn nuôi bò, dê.
Trong vùng có 2 con sông chính là sông Nho
Quế, sông Miện và mạng lưới sông suối nhỏ
khác phân bố đều khắp trong vùng đó là các
con suối nhánh của thượng nguồn sông Lô và
sông Gâm. Sông có độ dốc lớn, nhiều gềnh
thác, hiệu ích phục vụ sản xuất nông nghiệp
và sinh hoạt rất thấp nhưng lại có khả năng
khai thác thuỷ điện. Do địa hình chia cắt
mạnh, phần lớn là núi cao có độ dốc lớn,
nhiều hang động Kaster nên nguồn nước
ngầm vừa hiếm lại rất phức tạp, trong khi đó
các con sông, suối, những sông, suối này ở

thấp hơn và xa nơi định cư, địa bàn canh tác
nên ít có khả năng phục vụ sản xuất và đời
sống. Hiện nay, ngoài các “mỏ nước” tự
nhiên, việc sử dụng nước sinh hoạt đối với 4
huyện vùng cao núi đá chủ yếu dựa vào
“nước trời” (nước mưa), do các “hồ treo nhân
tạo” cung cấp.
Do một phần các xã nằm trên địa bàn núi đá;
một phần nằm trên địa bàn núi đất, thêm vào
đó hậu quả của chiến tranh và phát rừng làm
nương rẫy, nên diện tích rừng tự nhiên còn rất
ít, độ che phủ đạt 30 %, cây rừng còn trong
vùng chủ yếu là: cây thông, sa mộc, kháo, de,
dổi, cây bụi và thảm thực bì. Cây trồng, vật
nuôi khá phong phú: cây lúa, ngô, mạch, đậu
các loại…; cây công nghiệp có chè Shan tuyết,
đậu tương, lanh…; cây ăn quả có đào, lê, mận,
hồng…; cây dược liệu có đỗ trọng, thảo quả,
hoàng tinh, ba kích, tam thất; động vật nuôi có
bò, trâu, dê, lợn, gia cầm, ong mật.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ DÂN CƯ, DÂN TỘC
Số dân và gia tăng dân số
Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày
01/4/2009, dân số toàn vùng là 253.864 người,
chiếm 35,8 % dân số trong tỉnh, trong đó: Nam:
125.863 người, chiếm 49,6 % dân số của cả
vùng; Nữ: 128.001 người, chiếm 50,4 % dân
số của cả vùng. Số dân thành thị: 18.917
người, số dân nông thôn: 234.947 người, tỷ lệ
dân số sống ở thành thị là 7,45 %.

Bảng 2. Thống kê dân số vùng cao nguyên đá năm 2009
TT
Tên huyện
Dân số
(người)
Phân theo
Phân theo giới
Số hộ
Bình quân số
người/ hộ
T.Thị
N.Thôn
Nam
Nữ
1
Đồng Văn
63.897
2.143
61.754
31.652
32.245
13.333
4,8
2
Mèo Vạc
69.359
5.586
63.773
34.208
35.151

13.421
5,2
Nguyễn Xuân Trường và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 70(8): 25 - 30
27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Yên Minh
76.762
6.077
70.685
38.170
38.592
14.821
5,2
4
Quản Bạ
43.846
5.111
38.735
21.833
22.013
9.681
4,5
Tổng
253.864
18.917
234.947
125.863

128.001
51.256
4,95
(Nguồn: Dân số Hà Giang qua kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009. Ban chỉ đạo Tổng điều tra
dân số và nhà ở tỉnh Hà Giang, 12/2009)
Mật độ dân số trung bình của vùng là 108
người/km
2
. Mật độ phân bố không đều, cao nhất
là huyện Đồng Văn 138,5 người/km
2
, thấp nhất
là huyện Quản Bạ 82 người/km
2
. Mật độ dân số
khá thưa, nhưng với vùng cao nguyên đá đất đai
canh tác hạn chế và thiếu nước trầm trọng thì
“sức chứa lãnh thổ” đã đến giới hạn. Tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên trung bình năm 2008 toàn vùng
là 1,76 %. và có xu hướng giảm; tỷ lệ tăng dân
số cơ học không đáng kể.
Bảng 3. Tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên vùng cao nguyên đá năm 2008 ( Đơn vị: %)
T
T
Tên huyện
Tỷ lệ
sinh
Tỷ
lệ tử

Tỷ lệ
tăng tự
nhiên
1
Đồng Văn
26,6
8,3
18,3
2
Mèo Vạc
26,2
7,6
18,6
3
Yên Minh
23,2
7,7
15,5
4
Quản Bạ
23,4
5,3
18,1
Toàn vùng
24,8
7,2
17,6
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Giang năm 2008)
Số dân của vùng năm 1999 là 203.034 người,
đến năm 2009 tăng lên 253.864 người. Như

vậy, sau 10 năm dân số của vùng tăng thêm
50.830 người, tương đương với dân số của 1
huyện và mỗi năm tăng thêm hơn 5000 người.
Toàn vùng có 51.256 hộ gia đình, bình quân
mỗi hộ có 4,95 nhân khẩu. Tỷ lệ % của từng
loại hộ như sau: hộ từ 1 - 2 người chiến 10,6
% tổng số hộ; hộ 3 - 4 người chiến 35,3 %;
hộ 5 - 6 người chiến 34,5 %; hộ ≥ 7 người
chiến 19,7 % tổng sộ hộ. Như vậy, tỷ lệ hộ ≥
7 người chiến 19,7 % tổng số hộ là tương đối
cao (so với tỷ lệ 13,3% của toàn tỉnh), điều
này phản ánh mức sinh còn khá cao và số hộ
gia đình đông con còn chiếm tỷ lệ lớn.
Nguồn lao động và đặc điểm lao động
Tổng số người trong độ tuổi lao động 149.272
người, chiếm 58,8% dân số vùng. Lao động
phân theo các ngành nghề như sau: Lao động
ngành nông - lâm nghiệp là 132.105 người,
chiếm 88,5% số lao động, còn lại là lao động
làm việc trong khu vực dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp chiếm 2,7%, các ngành nghề khác
chiếm 8,8 %. Sản xuất Nông - Lâm đóng một
vai trò then chốt, thu hút phần lớn lao động
nông thôn, hầu hết lao động trong lĩnh vực
này chưa qua đào tạo cơ bản qua các trường
dạy nghề. Nhìn chung về trình độ lao động,
sản xuất còn nhiều hạn chế, các tiến bộ khoa
học kỹ thuật chưa được áp dụng sâu rộng vào
sản xuất, năng suất lao động chưa cao, sản
xuất còn mang tính tự cung tự cấp, đời sống

của nhân dân còn nhiều khó khăn.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu
người từ 15 tuổi trở lên có trình độ chuyên
môn kỹ thuật như sau: tỷ lệ người có bằng sơ
cấp và trung cấp nghề là 1,01%; trung cấp
chuyên nghiệp: 3,63 %; cao đẳng nghề 0,06
%; cao đẳng: 1,15 % và đại học trở lên là 1,23
%. Nhìn chung, số lao động không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật còn chiếm tỷ lệ lớn,
điều này ảnh hưởng đến chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã
hội vùng đặc biệt khó khăn.
Bảng 4. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên có trình độ chuyên môn kỹ thuật
so với tổng số người cùng độ tuổi năm 2009 (Đơn vị: %)
TT
Các huyện

Tổng
số
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Không có
TĐ CMKT
Sơ cấp và
Trung cấp
nghề
Trung cấp
chuyên
nghiệp
Cao đẳng
nghề

Cao đẳng
Đại học
trở lên
1
Đồng Văn
100
93,03
0,13
3,12
0,07
1,59
1,16
2
Mèo Vạc
100
95,13
0,65
2,69
0,02
0,58
0,93
3
Yên Minh
100
94,41
0,47
3,38
0,06
0,79
0,89

4
Quản Bạ
100
88,09
2,15
5,75
0,10
1,79
2,12
Toàn vùng
100
92,92
1,01
3,63
0,06
1,15
1,23
Nguyễn Xuân Trường và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 70(8): 25 - 30
28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

(Nguồn: Dân số Hà Giang qua kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009. Ban chỉ đạo Tổng điều tra
dân số và nhà ở tỉnh Hà Giang, tháng 12/2009)

Bảng 5. Số hộ gia đình chia theo dân tộc năm 2009 (Đơn vị: Hộ gia đình)
TT
Dân tộc
Toàn
vùng

Phân theo huyện
Đồng Văn
Mèo Vạc
Yên Minh
Quản Bạ
1
Dân tộc Mông
33.983
11.121
10.107
7.544
5.211
2
Dân tộc Tày
4.299
456
541
2.123
1.179
3
Dân tộc Dao
3.992
104
690
1.975
1.223
4
Dân tộc Kinh
2.929
643

654
914
718
5
Dân tộc Giáy
2.401
210
879
1.108
204
6
Dân tộc Nùng
2.001
62
289
873
777
7
Dân tộc Hoa (Hán)
726
394
33
122
177
8
Dân tộc Lô Lô
296
114
180
2

0
9
Dân tộc Cờ Lao
242
133
12
94
3
10
Dân tộc Bố Y
173
1
2
8
162
11
Dân tộc Pu Péo
96
64
3
29
0
12
Dân tộc Sán Chay
51
15
15
10
11
13

Các dân tộc khác
67
16
16
19
16
Cộng
51256
13.333
13.421
14.821
9.681
(Nguồn: Dân số Hà Giang qua kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009. Ban chỉ đạo Tổng điều tra
dân số và nhà ở tỉnh Hà Giang, tháng 12/2009)

Nguyễn Xuân Trường và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 70(8): 25 - 30
29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Thành phần dân tộc
Khu vực Cao nguyên đá Đồng Văn là địa bàn cư trú của 17 dân tộc anh em với sự đa dạng về phong tục,
tập quán; đó là các dân tộc: Mông, Dao, Lô Lô, Tày, Nùng, Giáy, Cờ lao, Pu Péo, Bố Y, Hoa…. Sự quần
cư của nhiều tộc người trên cao nguyên đá Đồng Văn đã tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo nhất trong cộng
đồng 22 dân tộc sinh sống ở Hà Giang.
Những phương thức canh tác độc đáo, các giá trị văn hóa được truyền lại từ nhiều đời qua nhiều thế hệ
của những con người “sống trên đá”, những lễ hội văn hóa giàu tính nhân văn đã làm tăng sức hấp dẫn
của vùng đất nơi địa đầu Tổ quốc này.
Toàn vùng có 253.864 nhân khẩu với 51.256 hộ gia đình (năm 2009), bao gồm 17 dân tộc anh em sinh
sống, trong đó:

+ Dân tộc Mông có số dân đông nhất với 33.983 hộ chiếm 66,3 % hộ dân cư của vùng và 78,8 % hộ dân
tộc Mông sinh sống ở tỉnh Hà Giang.
+ Dân tộc Tày: 4299 hộ, chiếm 8,4 % hộ dân cư của vùng và 10,6 % hộ dân tộc Tày sinh sống ở tỉnh Hà
Giang.
+ Dân tộc Dao: 3992 hộ, chiếm 7,78 % hộ dân cư của vùng và 19,0 % hộ dân tộc Dao sinh sống ở tỉnh Hà
Giang.
+ Dân tộc Kinh: 2929 hộ, chiếm 5,71 % hộ dân cư của vùng và 10,4 % hộ dân tộc Kinh sinh sống ở tỉnh
Hà Giang.
+ Dân tộc Giáy: 2401 hộ, chiếm 4,7 % hộ dân cư của vùng và 74,4 % hộ dân tộc Giáy sinh sống ở tỉnh
Hà Giang.
+ Dân tộc Nùng: 2001 hộ, chiếm 3,9 % hộ dân cư của vùng và 13,4 % hộ dân tộc Nùng sinh sống ở tỉnh
Hà Giang.
+ Dân tộc Hoa (Hán): 726 hộ, chiếm 1,41 % hộ dân cư của vùng và 41,6 % hộ dân tộc Hoa sinh sống ở
tỉnh Hà Giang.
+ Dân tộc Lô Lô: 296 hộ, chiếm 0,5 % hộ dân cư của vùng và 97,4 % hộ dân tộc Lô Lô sinh sống ở tỉnh
Hà Giang.
+ Dân tộc Cờ Lao: 242 hộ, chiếm 0,47 % hộ dân cư của vùng và 51,6 % hộ dân tộc Cờ Lao sinh sống ở
tỉnh Hà Giang.
+ Dân tộc Bố Y: 173 hộ, chiếm 0,33% hộ dân cư của vùng và 82,4 % hộ dân tộc Bố Y sinh sống ở tỉnh
Hà Giang.
+ Dân tộc Pu Péo: 96 hộ, chiếm 0,18 % hộ dân cư của vùng và 76,8 % hộ dân tộc Pu Péo sinh sống ở tỉnh
Hà Giang.
+ Dân tộc Sán Chay: 51 hộ, chiếm: 0,1 % hộ dân cư của vùng và 30,5 % hộ dân tộc Sán Chay sinh sống ở
tỉnh Hà Giang.
+ Các dân tộc khác: 67 hộ, chiếm 0,13% hộ dân cư của vùng.
Mỗi dân tộc có nét văn hóa đặc sắc, phong tục, tập quán sinh hoạt riêng nhưng có tinh thần đoàn kết, gắn
bó tạo thành sức mạnh tập thể, cùng nhau xây dựng quê hương. Nhóm cộng đồng dân tộc: Kinh, Tày,
Hoa, Nùng, Giáy… thường sống ở những vùng núi thấp và các thị trấn vùng cao như: thị trấn Tam Sơn,
thị trấn Yên Minh, thị trấn Phó Bảng, thị trấn Mèo Vạc, thị trấn Đồng Văn nơi có đường giao thông thuận
tiện cho giao lưu và nguồn nước thuận lợi cho canh tác nông nghiệp và trồng lúa nước, tập quán sinh sống

định canh định cư, phát triển dịch vụ và buôn bán. Các dân tộc này có trình độ dân trí tương đối cao, biết
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Nhóm cộng đồng dân tộc Mông, Nùng, Dao, Giáy, Lô Lô, Cờ Lao, Sán Chay…thường cư trú rải rác trên
những triền núi cao, vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn. Tập quán canh tác là ruộng bậc thang,
đốt nương làm rẫy, sản xuất theo lối quảng canh, đời sống còn gặp không ít khó khăn. Một số ít đồng bào
Mông, Dao còn có lối sống du canh du cư, đã làm ảnh hưởng đến diện tích rừng và đất rừng. Đặc biệt,
đồng bào đân tộc H’Mông đã tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm canh tác trên nương đá, đó là mô hình
trồng ngô trong hốc đá hay còn gọi là “thổ canh hốc đá”, là một tập quán canh tác sáng tạo và mang tính
Nguyễn Xuân Trường và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 70(8): 25 - 30
30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

bản địa của người H’Mông sống ở vùng cao núi đá thiếu nước trầm trọng, trên bề mặt có ít hoặc rất ít đất
nằm rải rác trong các hốc đá hay nằm trên bề mặt đá.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm địa lý dân cư, dân tộc vùng cao nguyên đá Đồng Văn có ý nghĩa quan
trọng, làm cơ sở khoa học cho việc lập quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là dự án công viên địa
chất Đồng Văn để công nhận ở cấp quốc gia, đồng thời trình UNESCO xem xét công nhận là Công viên
địa chất quốc tế đầu tiên ở Việt Nam. Các huyện vùng cao núi đá tỉnh Hà Giang là vùng có vị trí đặc biệt
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, đây là vùng tiềm
ẩn không ít khó khăn về điều kiện tự nhiên, địa bàn cư trú của các dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp,
tồn tại những phong tục tập quán lạc hậu. Việc triển khai xây dựng dự án cao nguyên địa chất đá Đồng
Văn thực chất là mô hình phát triển kinh tế - xã hội mới, một dự án đầu tư lớn, dài hạn cho cả 4 huyện
vùng cao núi đá nên cần một cơ chế quản lý đặc thù. Chính phủ đang có chương trình 135, chương trình
định canh định cư, chương trình di dân ra biên giới cho các dân tộc vùng sâu vùng xa, xây dựng cơ sở hạ
tầng, tạo lập cuộc sống, đáp ứng với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đề ra. Đặc biệt, Nghị
quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 62 huyện nghèo là "cú hích" tiếp thêm sinh khí giúp 4 huyện đặc biệt khó khăn vùng cao
nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang xóa đói, giảm nghèo một cách hiệu quả và bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Dân số Hà Giang qua kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009, Ban chỉ đạo Tổng điều tra
dân số và nhà ở tỉnh Hà Giang, 12/2009.
[2]. Niêm giám thống kê 2008, Cục Thống kê tỉnh Hà Giang, tháng 6/2009.
[3]. UBND tỉnh Hà Giang, Dự án đầu tư bảo vệ và phát triển rừng tại 4 huyện vùng cao núi đá tỉnh Hà Giang giai
đoạn 2008 – 2015, Hà Giang, 2007.
[4]. UBND tỉnh Hà Giang, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kỷ yếu Hội thảo Quốc
tế xây dựng công viên địa chất Đồng Văn - Tỉnh Hà Giang, Hà Giang, 2009.
[5]. Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao Hà Giang, Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang, Hà Giang, 1994.

SUMMARY
FEATURES OF GEOGRAPHICAL POPULATION AND ETHNIC MINORITIES IN DONG VAN
STONE PLATEAU, HA GIANG PROVINCE

Nguyen Xuan Truong
1

, Hoang Thi Tam Thuy
2
, Nguyen Phuong Nga
3
,
1
Thai Nguyen University,
2
Yen Minh High school, Ha Giang,
3
Vietbac High school


Dong Van Stone Plateau in Ha Giang province is recognized as a strategic position towards socio-economic
development and security of Ha Giang province as well as the whole country. Nevertheless, it is defined as
an area with potential difficulties in terms of natural conditions, location of ethnic minorities with poor
education and backward practices. The research on geographical features, population and ethnic minorities
in the Dong Van Stone Plateau plays an important role as a scientific basis for proposing projects on socio-
economic development, particularly the project on Dong Van geological Park. This project will be
submitted for national level recognition, and then submitted to UNESCO for being recognized as the first
international geological park in Vietnam.
Key words: Dong Van; Stone Plateau; Population geography, ethnic minorities, Geological park; Ha
Giang.


Tel: 0914 765087, Email:

×