Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Nghiên cứu về đặc điểm thơ ca dân tộc Thái hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.11 KB, 132 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Trang 1
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 9
3.1. Mục đích, đối tƣợng 9
3.2. Phạm vi nghiên cứu 10
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
11
6. Cấu trúc luận văn 12

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO THƠ CA DÂN TỘC THÁI
1.1 Thơ ca dân tộc Thái trƣớc năm 1945
14
1.2. Thơ ca dân tộc Thái từ năm 1945 đến nay 24
1.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1975 25
1.2.2. Từ năm 1975 đến nay 35
1.3. Một số thành tựu của thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại 47
CHƯƠNG II
NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG NUÔI DƯỠNG VÀ PHÁT TRIỂN
THƠ CA DÂN TỘC THÁI THỜI KỲ HIỆN ĐẠI

2.1. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc- quê hƣơng của ngƣời dân tộc Thái 55
2.2. Hình ảnh con ngƣời đƣợc khắc hoạ chân thực và cảm động 65
2.3. Những nét phong tục, tập quán đậm đà bản sắc Thái 72
CHƯƠNG III


MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
CỦA THƠ CA DÂN TỘC THÁI THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
3.1. Sự ảnh hƣởng của truyện thơ dân gian trong thơ ca Thái hiện đại 92
3.2. Sự vận dụng sáng tạo và hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao Thái 100
3.3. Một số đặc điểm ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ ca Thái hiện đại 104
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Là một bộ phận hợp thành của nền văn học Việt Nam, thơ ca các dân tộc
thiểu số đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển chung của nền
thơ ca Việt Nam hiện đại. Điều này đã đƣợc Nghị quyết Trung ƣơng V (khoá
VIII) đánh giá “văn học các dân tộc thiểu số có bƣớc tiến đáng kể. Đội ngũ
những nhà văn hoá ngƣời dân tộc thiểu số phát triển cả về số lƣợng lẫn chất
lƣợng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học
nghệ thuật”. Thực tế cho thấy, thơ ca các dân tộc thiểu số đã trở thành một
phần không thể thiếu đƣợc trong nền thơ ca dân tộc, và diện mạo của nền thơ
ca Việt Nam hiện đại chỉ có thể đƣợc nhìn nhận một cách trọn vẹn trong một
chỉnh thể thống nhất mà đa dạng, phong phú bao gồm trong đó có thơ ca các
dân tộc thiểu số.
Với nền tảng là kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng, các dân
tộc thiểu số đã xây dựng một nền văn học hiện đại đa sắc, đa màu, có nhiều
thành tựu cả về đội ngũ và tác phẩm. Nhiều dân tộc đã có những tác giả tiêu
biểu đại diện cho tiếng nói và bản sắc văn hoá của dân tộc mình nhƣ: dân tộc

Dao có Bàn Tài Đoàn, Triệu Kim Văn...; dân tộc Tày có Nông Quốc Chấn, Y
Phƣơng, Dƣơng Thuấn...; dân tộc Thái có Cầm Biêu, La Quán Miên, Lò Cao
Nhum...; dân tộc Giáy có Lò Ngân Sủn...; dân tộc Mông có Ma A Lềnh, Mùa
A Sấu; dân tộc PaDí có Pờ Sảo Mìn… ; dân tộc Mƣờng có Vƣơng Anh, Đinh
Lăng Lƣợng...; dân tộc Chăm có Inrasara....
Là một thành viên của đại gia đình các dân tộc ở Việt Nam, dân tộc Thái
có địa bàn cƣ trú chính ở vùng thƣợng lƣu sông Thao (nậm Tào), sông Đà
(nậm Tè), sông Mã miền Bắc Việt Nam. Ngƣời Thái tự hào có nền lịch sử,
văn hoá lâu đời, có chữ viết cổ, nền văn học phong phú, trong đó nổi tiếng với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
các truyện thơ Xống chụ xôn xao, Khum lú- Nàng Ủa, Tản chụ xiết sƣơng, hay
sử thi Chƣơng Han, Khun Chƣởng, Táy pú xấc…Dân tộc Thái đã góp phần
vào sự hình thành những giá trị về nhiều mặt cho đời sống văn hoá dân tộc,
trong đó có những sáng tác văn học độc đáo mang nét đặc trƣng riêng của
ngƣời Thái.
Cùng với đội ngũ nhà văn của các dân tộc anh em khác, các nhà thơ, nhà
văn dân tộc Thái đã góp phần đƣa tiếng nói tâm hồn của dân tộc vƣợt qua núi
cao, sông sâu để hoà nhịp vào sự phát triển của nền thơ ca hiện đại nhƣ Cầm
Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó, Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung, Cầm Hùng,
La Quán Miên, Sa Phong Ba, Cầm Bá Lai, Lò Cao Nhum, Cà Thị Hoàn…Họ
là các thế hệ nhà văn song hành cùng các thời kỳ phát triển của văn học dân
tộc Thái. Trong đó, có ngƣời vừa sáng tác thơ, vừa viết tiểu thuyết, vừa
nghiên cứu sƣu tầm, giới thiệu văn học dân gian, vừa viết truyện, ký. Và ở
lĩnh vực nào họ cũng có những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, thơ là một địa
hạt thành công và có giá trị hơn cả của văn học dân tộc Thái thời kỳ hiện đại
trên cả phƣơng diện đội ngũ và tác phẩm. Có thể kể đến các nhà thơ dân tộc
Thái tiêu biểu nhƣ: Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung,
Lò Vũ Vân (Sơn La), La Quán Miên (Nghệ An), Lò Cao Nhum (Hoà Bình).

Họ là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều tác phẩm đạt giải thƣởng của
Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, của Uỷ ban toàn quốc
Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam hay của Hội Nhà văn Việt
Nam…

Mặc dù so với các nhà thơ dân tộc Kinh, đội ngũ các nhà thơ dân tộc
Thái còn khiêm tốn nhƣng họ đã góp một tiếng nói riêng đối với nền thơ ca
Việt Nam hiện đại nói chung, thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng. Theo khảo
sát của chúng tôi, số lƣợng các nhà văn, nhà thơ dân tộc Thái đông thứ hai
trong số các nhà thơ, nhà văn ngƣời dân tộc thiểu số (sau dân tộc Tày). Có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
nhiều cây bút đã gắn liền với sự hình thành và phát triển của văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam, có nhiều tác giả, tác phẩm của dân tộc Thái đã đƣợc
giới nghiên cứu, phê bình và bạn đọc yêu mến, khẳng định.
Đƣợc nuôi dƣỡng từ nôi văn hoá giàu bản sắc, thơ ca dân tộc Thái thời
kỳ hiện đại đã từng bƣớc khẳng định vị trí của mình trong sự phát triển của
nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu, đánh
giá về thơ văn dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Thái nói riêng vẫn
chƣa xứng đáng với tầm vóc và thành tựu của nó. Nhà thơ Lò Ngân Sủn nói
đến tình trạng “bất cập, hẫng hụt” trong đời sống phê bình văn học các dân
tộc thiểu số qua bài viết “Viết về văn học các dân tộc thiểu số - một công việc
ít đƣợc quan tâm”. Riêng đối với việc nghiên cứu, phê bình thơ ca dân tộc
Thái thời kỳ hiện đại thì cũng nằm trong tình trạng “bất bình đẳng” nhƣ vậy:
“việc tổ chức, sƣu tầm, nghiên cứu, giới thiệu chƣa đƣợc tiến hành liên tục,
rộng khắp” [52, tr.12]. Vì thế, việc nghiên cứu đặc điểm thơ ca dân tộc Thái
thời kỳ hiện đại dƣới góc độ khoa học sẽ góp phần khẳng định những đóng
góp về mặt nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái,
mặt khác cũng làm xoá đi tâm lý “chiếu cố” (Lâm Tiến) khi nghiên cứu văn

học dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Thái nói riêng.
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ ca dân tộc Thái hiện đại, luận văn chỉ ra
một số đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc Thái về nội dung và hình thức
nghệ thuật. Đó là hình ảnh thiên nhiên, quê hƣơng, con ngƣời, bản mƣờng
cùng với những phong tục, tập quán giàu bản sắc của dân tộc Thái. Vẻ đẹp
hoang sơ, kỳ vĩ, thơ mộng của thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc; Sự dung dị,
chân thành, nhân ái, khéo léo và tài hoa của con ngƣời miền núi...theo cách
cảm nhận riêng của những nhà thơ Thái. Bên cạnh việc chỉ ra một số đặc
điểm nội dung cơ bản, luận văn cũng khẳng định nét riêng độc đáo về nghệ
thuật trong thơ Thái hiện đại, đó là những tác phẩm có sự kết hợp, kế thừa
những lời thơ giàu hình ảnh, nhạc lý của văn học và văn hóa dân gian Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
với cá tính sáng tạo mới mẻ, hiện đại của các nhà thơ Thái...Từ đó góp phần
khẳng định vị trí và những đóng góp độc đáo của thơ Thái hiện đại đối với
nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung một cách khách quan, thuyết phục.
Ngoài ý nghĩa khoa học, đề tài có tính thực tiễn quan trọng, đó là góp
thêm một tiếng nói vào việc gìn giữ, bảo tồn những nét đẹp của bản sắc văn
hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đang bị mai một dần qua việc nghiên cứu
một cách hệ thống, toàn diện về thơ ca dân tộc Thái hiện đại (cũng nhƣ một
số các dân tộc khác), bởi đây là một công việc cụ thể, có ý nghĩa cho những
ngƣời có ý thức về sự hiện diện và vai trò của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại nhƣ ý kiến của nhà thơ, nhà nghiên cứu dân tộc thiểu số Dƣơng
Thuấn “Hiện nay đã có một vài tác giả ngƣời dân tộc thiểu số làm công việc
phê bình nghiên cứu nhƣng còn yếu và lẻ tẻ. Nên nghiên cứu theo hƣớng đi
sâu vào từng tác giả, từng dân tộc hơn là nghiên cứu chung chung nhƣ hiện
nay. Trên cơ sở nghiên cứu từng tác giả, từng dân tộc sẽ đánh giá một cách
hệ thống từng tác giả hoặc từng vùng văn học” [35].
Ngoài ra, luận văn còn phục vụ trực tiếp cho việc học tập, nghiên cứu

khoa học và góp phần vào việc giảng dạy văn học dân tộc thiểu số ở trƣờng
trung học phổ thông, cao đẳng, đại học.

2. Lịch sử vấn đề
Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với thơ ca của dân tộc Kinh nhƣng thơ ca
các dân tộc thiểu số đã có một quá trình phát triển và đã đạt đƣợc một số
thành tựu nhất định “Chúng ta đã có một nền văn nghệ dân tộc thiểu số thực
sự trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam hiện đại...Tuy còn non trẻ
nhƣng đã có lực lƣợng, thành tựu qua mấy chục năm phát triển” [9]. Song
việc phê bình, nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số hiện nay ở nƣớc ta còn
nhiều hạn chế, còn đang lâm vào tình trạng “rời rạc, lẻ tẻ, chắp vá...” [69,
tr.27]. Vì vậy, nhiều tác giả, tác phẩm chƣa đƣợc chú ý, nhiều thực tế phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
phú chƣa đƣợc tổng kết, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chƣa đƣợc xem xét,
nghiên cứu cặn kẽ, thấu đáo.
Tuy nhiên, đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu, đánh giá về
văn học các dân tộc thiểu số, trong đó có văn thơ Thái hiện đại nhƣ trong các
cuốn: Đƣờng chúng ta đi (NXB Việt Bắc, 1972), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng
sắc (NXB Văn hoá, 1977), Chặng đƣờng mới (NXB Văn hoá, 1985) của
Nông Quốc Chấn; Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945-
1985 (NXB Văn hoá, 1981); 40 năm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam của Phong Lê (NXB VHDT, 1985), Văn học các dân tộc- từ một
diễn đàn (1999) của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam;
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (NXB VHDT,1995), Văn học
các dân tộc thiểu số Việt Nam (NXB VHDT, 1997), Về một mảng văn học
dân tộc (NXB VHDT, 1999), Văn học và miền núi (NXB VHDT, 2002) của
Lâm Tiến, Hoa văn thổ cẩm (NXB VHDT, 1999), Thơ của các nhà thơ dân
tộc thiểu số (NXB VHDT, 2001), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu

số (NXB VHDT, 2002) của Lò Ngân Sủn, Nhà văn các dân tộc thiểu số- Đời
và văn (NXB VHDT 2003) của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Văn hoá các dân tộc thiểu số- Từ một góc nhìn (NXB VHDT
2004) của Vi Hồng Nhân…và một số bài viết về văn học các dân tộc thiểu số
đăng rải rác trên các báo, tạp chí nhƣ: Văn học thiểu số trƣớc thềm thế kỷ XXI
của Mai Liễu, Bản sắc dân tộc- Nỗi lo của ngƣời cầm bút của Triệu Kim Văn;
Để văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam có chất lƣợng ngang
tầm với văn học nghệ thuật cả nƣớc và Tôi muốn văn học các dân tộc thiểu số
nổi lên của Lò Ngân Sủn; Nét mới của văn học các dân tộc thiểu số của
Dƣơng Thuấn.. (đăng trên Tạp chí Văn hoá dân tộc); Văn học các dân tộc
thiểu số trong quá trình đổi mới của Đỗ Kim Cuông (Báo Đảng Cộng sản
Việt Nam); Nhìn lại văn nghệ các dân tộc thiểu số của Nông Quốc Bình (Báo
Nhân dân); Kế thừa và phát huy vốn văn hoá dân tộc trong sáng thơ của các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
tác giả dân tộc thiểu số hiện nay của Vƣơng Anh (Tạp chí xứ Thanh) hay Văn
học các dân tộc thiểu số còn một khoảng trống của Trần Thảo (Báo Khoa học
và Đời sống)….
Có thể nói rằng, văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại cũng đã
thu hút đƣợc sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học, tuy nhiên, so với số lƣợng các công trình nghiên cứu đồ sộ về thơ ca, về
văn học Việt Nam hiện đại nói chung thì số lƣợng tác phẩm, công trình tổng
kết, đánh giá về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam còn rất khiêm tốn,
trong đó, số lƣợng các bài viết, các công trình nghiên cứu, phê bình về thơ ca
dân tộc Thái lại càng ít ỏi. Những công trình, chuyên đề, bài viết trên đây đã
nêu lên đƣợc những thành tựu, những đóng góp của văn học các dân tộc thiểu
số trong đó ít nhiều có đề cập đến thơ dân tộc Thái hiện đại nhƣng mới chỉ
dừng lại ở mức độ sƣu tầm, giới thiệu một cách khái quát về thơ dân tộc Thái
nhƣ “Dân tộc Thái với các gƣơng mặt thơ: Cầm Biêu, Lò Văn Cậy, Lƣơng

Quy Nhân, Vƣơng Trung, Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai…Với những bài thơ,
truyện thơ dạt dào cảm xúc, giàu bản sắc, đầy ắp chất trữ tình và đôi khi có
những triết luận, sắc sảo, độc đáo…” [65]; hoặc là sự ghi nhận những gƣơng
mặt tiêu biểu của văn học các dân tộc thiểu số nói chung trong đó có nhà văn
dân tộc Thái “Thơ dân tộc thiểu hiện đại đang có những đại diện xứng đáng
nhƣ Y Phƣơng, Dƣơng Thuấn (Tày), Lò Ngân Sủn (Giáy), Vƣơng Anh
(Mƣờng), Triệu Kim Văn (Dao), Lò Cao Nhum (Thái)...Họ đã góp phần làm
nên diện mạo thơ Việt Nam hiện đại” (Nguyễn Thị Thu Hiền- Chúng ta đã có
một nền văn nghệ dân tộc thiểu số); hay việc giới thiệu những tác phẩm tiêu
biểu: “Thơ dân tộc thiểu số đã từng có tác phẩm đỉnh cao: Muối Cụ Hồ (Bàn
Tài Đoàn), Em là con gái Châu Yên (Cầm Giang), Ing éng (Vƣơng Trung),
Đất, Dốc, Núi (Lƣơng Quy Nhân), Hoa trong Mƣờng (Vƣơng Anh), Đi tìm
bóng núi, Cực tình (Dƣơng Thuấn), Rƣợu núi (Lò Cao Nhum)…” [71].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Ngoài ra, việc lấy văn hoá Thái làm đối tƣợng nghiên cứu bƣớc đầu cũng
đƣợc quan tâm, thể hiện ở một số công trình, bài viết nhƣ: “Ngƣời Thái gửi
gắm tâm hồn mình vào lời ca, điệu khắp. Chính những bài khắp, điệu pí đó đã
nâng họ vƣợt lên bề mặt cuộc sống vốn gian lao, vất vả, tiếp thêm sức mạnh
cho họ bay bổng vƣơn lên” [29, tr.250]; “Thẩm mỹ Thái qua trang phục biểu
hiện một tâm hồn tinh tế, một sự rung cảm sâu xa của cộng đồng trong giới tự
nhiên và chính bản thân con ngƣời” [29, tr.294]; “Nhà sàn Thái là biểu tƣợng
cho sự tài hoa của con ngƣời, vừa đậm tính thẩm mỹ cao vừa kết hợp hài hoà
vẻ đẹp tự nhiên với đất trời” [45, tr.24)...Ngoài ra còn có một số công trình,
bài nghiên cứu có liên quan nhƣ: Lễ “Khửn cẩu”- nét đẹp văn hoá truyền
thống của ngƣời Thái của Tô Hợp [22]; Ẩm thực Thái- Sự giao hoà với thiên
nhiên- dân tộc và thời đại của Tố Minh [50]; “Ngƣời Thái cúng vật nuôi ngày
tết” của La Quán Miên [47]; “Cách làm đẹp của các cô gái Thái” của Hà
Lâm Kỳ, “Tục cúng vía của ngƣời Thái đen” của Hoàng Hạnh [33] …Những

bài viết, công trình này chủ yếu đề cập tới những phong tục tập quán của dân
tộc Thái và nhấn mạnh đến nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Thái chứ không đi
sâu vào bình diện nội dung hay nghệ thuật thơ dân tộc Thái.
Một số các tác giả ngƣời dân tộc Thái đã đƣợc giới phê bình chú ý và có
những đánh giá nhƣ: “Cầm Biêu vẫn giữ đƣợc phong cách của một ngƣời làm
thơ dân tộc trƣớc đây...ông luôn luôn có ý thức dùng hình thức thơ ca truyền
thống để thể hiện con ngƣời và cuộc sống hôm nay...” [84, tr.132]; “Thơ Cầm
Biêu xứng đáng là chiếc cầu nối cho các dân tộc anh em trong đất nƣớc ta
đến với nhau...” [11, tr. 361]; “Những bài thơ hay của các tác giả dân tộc
thiểu số thƣờng là ngắn, có khi rất ngắn, các bài thơ của Cầm Bá Lai cũng
vậy: Bài Con tép- 5 câu, Buồn- 7 câu, Chim bìm bịp- 7 câu, Rƣợu- 15 câu...”
[65, tr.96]; “Lò Cao Nhum vừa xuất hiện đã có thể đứng ngang hàng với mọi
bậc đàn anh...” [ 28, tr.413]…hay là việc phân tích, bình giảng một tập thơ
hoặc một số bài thơ của các nhà thơ dân tộc Thái nhƣ: “Hạt muối hạt tình (Lò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Văn Cậy) nảy nở cùng cách mạng, cùng với sự đổi đời của dân tộc, đƣợc khơi
gợi từ cuộc sống, chiến đấu, lao động và từ những áng văn học dân gian dân
tộc” [65, tr.18]; “Đời đời nhớ ơn Bác (Lƣơng Quy Nhân) diễn đạt tình cảm
mộc mạc, chân thành nhƣ đời sống vốn có của ngƣời dân miền núi, khái quát
một giai đoạn đồng bào dân tộc Tây Bắc đi theo Đảng, Bác Hồ làm cách
mạng...” [3]; “Không thể nói thơ Lò Vũ Vân là một giọng thơ vui, hào sảng
nhƣng nó vẫn lóng lánh niềm tự hào về quê hƣơng, đất nƣớc, về dân tộc và
con ngƣời Tây Bắc...”[40, tr.16]…Có thể nhận thấy, những công trình, bài
viết trên đây mới chỉ dừng lại ở phạm vi bình giảng, phân tích một (hoặc một
số) bài thơ tiêu biểu của một số tác giả mà chƣa đi sâu vào phân tích, bình giá
những đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái hiện đại nói
chung.
Theo sự khảo sát của chúng tôi, cho đến nay chƣa có công trình nào

nghiên cứu về đặc điểm thơ ca dân tộc Thái hiện đại một cách thấu đáo và
hệ thống. Đó vừa là thuận lợi nhƣng cũng là khó khăn, thách thức đối với
chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.

3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu.
3. 1. Mục đích
Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận khăng khít, độc đáo và đặc
sắc của nền văn học Việt Nam. Sự phát triển phong phú, đa dạng của nó đã có
những đóng góp đáng kể vào diện mạo chung của văn học Việt Nam hiện đại.
Do đó muốn tìm hiểu những đặc điểm của thơ ca Việt Nam hiện đại, không
thể không nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của bộ phận thơ ca các dân tộc thiểu
số Việt Nam, trong đó có thơ ca dân tộc Thái.
Ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của thơ ca các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại, thơ ca dân tộc Thái đã dần khẳng định vị trí và chỗ
đứng của mình trên thơ đàn. Việc tìm hiểu, nghiên cứu một số những đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
điểm của thơ ca dân tộc Thái hiện đại từ năm 1945 đến nay góp phần tìm
hiểu, soi sáng một bộ phận văn học trong bức tranh văn học các dân tộc thiểu
số Việt Nam, từ đó có cái nhìn tƣơng đối đầy đủ, toàn diện về những đặc
điểm nổi bật, độc đáo của thơ ca dân tộc Thái trên các bình diện nội dung và
hình thức nghệ thuật.
Từ việc nghiên cứu “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện
đại từ năm 1945 đến nay” luận văn khẳng định những đóng góp về nội dung
cũng nhƣ về nghệ thuật thơ dân tộc Thái trong quá trình phát triển của thơ ca
các dân tộc thiểu số nói riêng và sự phong phú, đa dạng của nền thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đọc, tham khảo và nghiên cứu các loại

tài liệu sau:
- Các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc Thái từ năm 1945 đến nay.
- Một số tác phẩm thơ dân tộc Thái trƣớc năm 1945, đặc biệt là thơ dân
gian Thái (để so sánh, đối chiếu).
- Một số tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác để so sánh, đối chiếu
làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt của thơ dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
- Các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc Thái nói riêng và các
công trình nghiên cứu về thơ dân tộc thiểu số nói chung.
- Một số tài liệu về lý luận, lý thuyết có liên quan đến đề tài.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn cố gắng làm sáng tỏ và đi đến khẳng định những đặc điểm nổi
bật của thơ dân tộc Thái hiện đại ở hai phƣơng diện cơ bản:
Tìm hiểu, khám phá vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên, quê hƣơng, con
ngƣời và những phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc Thái đƣợc phản
ánh và xây dựng trên cảm hứng trữ tình, ngợi ca của các nhà thơ Thái hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
đại. Từ đó đi đến khẳng định những nét đặc điểm riêng của thơ ca dân tộc
Thái hiện đại (so với các sáng tác của các nhà thơ dân tộc anh em khác).
Nghiên cứu một số hình thức nghệ thuật đƣợc sử dụng một cách đặc sắc
và hiệu quả nhƣ ngôn ngữ, hình ảnh…qua đó thấy đƣợc sự kế thừa và kết hợp
những tinh hoa của văn hoá dân gian Thái với sự sáng tạo, cách tân của các
nhà thơ dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của thơ dân tộc
Thái từ sau năm 1945 đến nay, luận văn đi đến khẳng định những thành công,
những đóng góp của thơ dân tộc Thái đối với thơ ca các dân tộc thiểu số nói
riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.


5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp
nghiên cứu chính sau:

5. 1. Phương pháp phân tích, khái quát hoá:
Để tìm hiểu đặc điểm nội dung hay nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái
hiện đại cần phải dụng phƣơng pháp phân tích, khái quát hoá. Từ việc phân
tích những tác phẩm thơ ca của một số nhà thơ tiêu biểu sẽ giúp ngƣời nghiên
cứu tổng hợp và khái quát đƣợc những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ
thuật của thơ ca Thái hiện đại.
5. 2. Phương pháp đối chiếu, so sánh:
Việc sử dụng phƣơng pháp đối chiếu, so sánh nhằm tìm hiểu sự ảnh
hƣởng, tiếp thu có chọn lọc của các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại với các tác
phẩm của nền văn học dân gian Thái, giữa các sáng tác của dân tộc Thái với
các nhà thơ dân tộc anh em..., từ đó đi đến khẳng định những đặc điểm nổi bật
của thơ văn dân tộc Thái hiện đại.

5. 3. Phương pháp thống kê, phân loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Để việc phân tích, lý giải, đối chiếu, so sánh có kết quả, cần phải thực
hiện công việc thống kê, phân loại.

Ba phƣơng pháp trên đây đƣợc sử dụng và phối hợp chặt chẽ với nhau
trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu tổng hợp khác.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung đƣợc triển khai theo 3

chƣơng:
Chƣơng I. Một vài nét về diện mạo thơ ca dân tộc Thái.
Chƣơng II. Những mạch nguồn cảm hứng nuôi dƣỡng và phát triển thơ
ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
Chƣơng III. Một số đặc điểm nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái thời kỳ
hiện đại.













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13




PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I


MỘT VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO THƠ CA DÂN TỘC THÁI

So với một chặng đƣờng dài hình thành, phát triển văn học viết của
ngƣời Kinh thì “văn học viết các dân tộc thiểu số Việt Nam mới chỉ hình
thành và phát triển vào thế kỷ XX” [84, tr.138].
Trƣớc đó, ở thế kỷ XVII, dân tộc Tày ở Cao Bằng đã có Bế Văn Phủng
và Nông Quỳnh Văn viết bản trƣờng ca “Tam nguyên luận” và “Lƣợn tứ
quý”, còn vào cuối thế kỷ XIX, dân tộc Thái cũng có Ngần Văn Hoan viết
“Lời hát nền Văn Hoan”... tuy nhiên, sự xuất hiện đó còn ở dạng “lẻ tẻ, không
có sự chắp nối, chất lƣợng tác phẩm còn mang đậm dấu vết của văn học dân
gian” [81, tr.139] nên chƣa đủ điều kiện hình thành một nền văn học các dân
tộc thiểu số bên cạnh nền văn học của ngƣời Kinh.
Tác giả Nông Quốc Bình trong bài viết “Nhìn lại văn học nghệ thuật các
dân tộc thiểu số” [2] và tác giả Đỗ Kim Cuông trong bài “Văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam trong qúa trình đổi mới” [12] đều khẳng định:
Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ra đời cùng cuộc
cách mạng tháng 8/ 1945. PGS-TS Phan Đăng Nhật trong cuốn “Văn học các
dân tộc thiểu số Việt Nam” [59] cũng lấy năm 1945 để làm mốc phân chia
giữa văn học dân gian và văn học hiện đại các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Đồng nhất với các ý kiến trên, nhà nghiên cứu, phê bình văn học các dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
thiểu số Lâm Tiến nhận định “Thơ các dân tộc thiểu số hiện đại hình thành và
phát triển từ sau năm 1945” [81, tr.94], ông thừa nhận, dù mầm mống của
văn học hiện đại các dân tộc thiểu số đã có trƣớc cách mạng tháng 8/ 1945
nhƣng nó thực sự chỉ ra đời từ sau cách mạng tháng 8/1945 và ông cũng
khẳng định “thơ là thể loại xuất hiện đầu tiên” của nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại.
Nhƣ vậy, việc lấy năm 1945 là mốc ra đời của nền văn học các dân tộc

thiểu số Việt Nam hiện đại là quan niệm chung nhất, phổ biến nhất của các
nhà nghiên cứu hiện nay.

1.1. Thơ ca dân tộc Thái trước năm 1945
Trƣớc cách mạng tháng 8/ 1945, văn học các dân tộc thiểu số chủ yếu là
văn học dân gian. Cũng giống nhƣ nền văn học dân gian của ngƣời Kinh, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số gắn liền với đời sống sinh hoạt của nhân dân
lao động. Nó ra đời từ trong những câu nói, lời ca, tiếng hát, trong khi lên rẫy,
làm nƣơng, quay xa, dệt vải, đánh bắt cá hoặc trong những lời tỏ tình của nam
thanh, nữ tú, trong những trò chơi hoặc giao lƣu ở sân chơi “Hạn khuống”....
Dọc suốt chiều dài của đất nƣớc, ở các bản, làng, buôn, sóc...đều đã từng diễn
ra mọi hình thái văn học dân gian “khi thì kín đáo ẩn nấp dƣới các mái nhà, tỉ
tê bên bếp lửa gia đình, khi thì ào ạt lôi cuốn hàng mấy trăm ngƣời vào
những ngày hội, ngày lễ nhộn nhịp sôi nổi” [11, tr.63].
Có thể nói, văn học dân gian các dân tộc thiểu số cũng rất đa dạng và
phong phú không kém gì nền văn học dân gian của ngƣời Kinh, những đỉnh
cao của nền văn học dân gian Việt Nam cũng có sự góp mặt của văn học dân
gian các dân tộc thiểu số, có thể kể đến: Dân tộc Mƣờng có sử thi Đẻ đất, Đẻ
nƣớc, có dân ca Thƣờng- Rang, Bọ- Mạng, có truyện thơ Út Lót - Hồ Liêu,
Huỳ Nga - Hai Mới; Hai dân tộc Tày-Nùng có trƣờng ca Khảm Hải- Vƣợt
Biển, truyện thơ Nam Kim - Thi Đan, Đính Quân; Dân tộc Dao có trƣờng ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Bàn Hộ; Dân tộc Mông có Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Nàng Dơ -
Chà Tăng, ngƣời Chăm có Ariya Bini - Cam, Bini - Chăm; Các dân tộc ở Tây
Nguyên có trƣờng ca Đam San, Sinh Nhã, Kinh Dú, dân tộc Khơme có Sĩ
Thạch, Tum Tiêu, đồng bằng Sông Cửu Long có truyện cổ, dân ca…
Trong đó, dân tộc Thái cũng có những tác phẩm văn học dân gian phong
phú, đa dạng, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của văn học dân gian các

dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn học dân gian Việt Nam nói chung. Ngôn
ngữ dân tộc Thái thuộc ngữ hệ Tày - Thái, sớm có chữ viết và có sự ghi chép
những sáng tác văn học dân gian trên lá, thân cây, viết bằng bút hoặc bằng
mũi gai, điều đó cho thấy ngƣời Thái sớm có ý thức lƣu truyền vốn văn hoá
dân gian và có nền văn học dân gian khá phát triển. Tuy nhiên, cũng giống
nhƣ các dân tộc thiểu số khác, văn học dân gian của dân tộc Thái trƣớc cách
mạng tháng 8/1945 đƣợc lƣu truyền chủ yếu bằng phƣơng thức diễn xƣớng,
truyền miệng.

Trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, ngoài ca dao, dân
ca, tục ngữ, dân tộc Thái nổi tiếng với truyện thơ, sử thi. Đây là hai loại hình
tiêu biểu của văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Thái
nói riêng. Nếu nhƣ sử thi có âm hƣởng anh hùng ca, thể hiện khát khao xây
dựng cuộc sống thái bình, thịnh trị của cộng đồng dân tộc Thái trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ bản, mƣờng thì truyện thơ mang giọng điệu trữ tình
đằm thắm, thể hiện khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống và tình yêu lứa đôi
của ngƣời dân tộc Thái.
Cùng với một số sử thi tiêu biểu nhƣ Đam San, Xinh Nhã, Đăm Đơ roăn
của dân tộc Êđê, Đẻ đất đẻ nƣớc của dân tộc Mƣờng, Đăm roi của dân tộc
Bana..., dân tộc Thái có hai sử thi nổi tiếng là Táy pú xấc” và Chƣơng Han.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Táy pú xấc là tác phẩm sử thi lớn của dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc. Tác
phẩm có độ dài hàng ngàn câu thơ, kể chuyện “ông cha chinh chiến”, khai
phá, mở mang, xây dựng bản, mƣờng. Táy pú xấc diễn tả dòng chảy lịch sử,
khắc sâu những sự kiện hào hùng nên vừa mang chất sử liệu vừa mang chất
anh hùng ca. Táy pú xấc thể hiện “tƣ tƣởng, tình cảm, tâm tƣ, tâm hồn của
cộng đồng dân tộc Thái đối với lịch sử” [97, tr. 24].
Sử thi Chƣơng Han còn đƣợc gọi là Khun Chƣởng gồm 2940 câu, chia

thành 11 chƣơng đƣợc lƣu truyền ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Giá trị và ý
nghĩa của tác phẩm tập trung ở nhân vật Chƣơng Han- nhân vật anh hùng
chiến đấu.
Với sức mạnh vô song, Chƣơng Han đã dẹp tan các bộ lạc, thống nhất
toàn bộ địa bàn cƣ trú và đem lại cuộc sống đời thái bình, thịnh trị cho ngƣời
Thái:
Từ đó Chƣơng Han đƣợc ung dung ngự trị cõi đời
Mãi mãi là chúa tể đỉnh trời bao la bát ngát ...
Chẳng còn bầy giặc lớn nào dám về đánh phá
Cả trần gian yên ổn, đẹp dạ thoả lòng
(Sử thi Chƣơng Han)
Sử thi Chƣơng Han không đề cập đến bi kịch của từng số phận cá nhân
mà nó đã đề cập một vấn đề của cả dân tộc, của cộng đồng. Mặc dù lịch sử
đƣơng thời chƣa hoàn toàn đúng với hiện thực đƣợc miêu tả trong sử thi
nhƣng với tính chất lãng mạn lịch sử, sử thi Chƣơng Han đã khái quát một
vấn đề có tính chất lớn lao, đó là “Ngƣời Thái phải đoàn kết và tập hợp lại
dƣới ngọn cờ của một anh hùng trong gia đình các dân tộc Việt Nam” [11,
tr.145]. Chƣơng Han là sử thi tiêu biểu, thể hiện khát khao về một cuộc sống
thái bình, thịnh trị của dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc- Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Một bản anh hùng ca nổi tiếng khác của dân tộc Thái là Khun Chƣởng.
Đây là một trong bộ ba anh hùng ca của ngƣời Thái ở Thái Lan, Lào và Việt
Nam. Bộ ba đó là Thạo Hùng- Thạo Chƣơng đƣợc lƣu truyền ở Thái Lan,
Lào; Chƣơng Han lƣu truyền ở vùng Tây Bắc Việt Nam và Khun Chƣởng lƣu
truyền ở vùng Nghệ An.
Nếu nhƣ Thạo Hùng-Thạo Chƣơng đƣợc đánh giá là “có tầm cỡ có thể
xếp vào trong hàng những kiệt tác văn chƣơng thế giới, tƣơng đƣơng với anh
hùng ca của Hy Lạp ...” [59, tr.2] thì Khun Chƣởng cũng đƣợc đánh giá nhƣ

“một di sản quý báu” của dân tộc Thái ở Việt Nam mà tác giả cuốn sách
“Khun Chƣởng-Anh hùng ca Thái” - PGS.TS Phan Đăng Nhật đã dùng thuật
ngữ anh hùng ca để chỉ tác phẩm Khun Chƣởng cũng với dụng ý đánh giá
Khun Chƣởng là một kiệt tác, có thể sánh ngang với anh hùng ca nổi tiếng
của Hy Lạp.
Bên cạnh sử thi- anh hùng ca, văn học dân gian Thái có những đóng góp
không nhỏ cho nền văn học dân gian Việt Nam nhờ những truyện thơ đạt đến
độ mẫu mực nhƣ Tản chụ xống xƣơng (Tâm tình tiễn thƣơng) và Khun Lú-
nàng Ủa (Chàng Lú-Nàng Ủa) và đặc biệt là Xống chụ xôn xao (Tiễn dặn
ngƣời yêu).
Xống chụ xôn xao gồm 1846 câu thơ, kể về hai nhân vật “Anh yêu” và
“Em yêu” từ khi còn trong bụng mẹ. Họ đƣợc sinh ra gần nhƣ cùng một giờ,
một ngày và ở một bản. Từ thủa bé thơ, họ cùng chơi bên nhau, đến tuổi hoa
niên, đôi trẻ cùng ở sàn hoa. Nhƣng vì tục lệ hà khắc của lễ giáo phong kiến,
tình yêu của họ bị ngăn cản, “Em yêu” bị gả bán và phải sống những chuỗi
ngày sóng gió. Giá của “Em yêu” ngày nào đáng “vàng thoi, bạc nén”, bây
giờ chỉ bằng một “cuộn lá dong”. Họ gặp lại nhau trong hoàn cảnh hết sức éo
le: “Anh yêu” đã có gia đình, còn “Em yêu” trở thành món hàng bị rao bán ở
chợ. Nhờ tiếng “đàn môi” quen thuộc, họ đã nhận ra nhau và cuối cùng họ
cũng đến đƣợc với nhau, đƣợc đoàn tụ và hạnh phúc:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
...Đôi ta lấy nhau không hề chi phận lỡ,
Không quản chi tình ế, duyên ôi
Em của anh đây vẫn mãi đẹp tƣơi!
(Tiễn dặn ngƣời yêu)
Có thể nói Xống chụ xôn xao là truyện thơ tiêu biểu của dân tộc Thái, đã
chắt lọc đƣợc những tinh hoa của dân ca dân tộc Thái:“Bao nhiêu lời thƣơng
nhớ, lời tự tình trai gái, đến cả lời vè, lời văn trôi cửa miệng của nhân dân

dân tộc Thái đều hợp nhất vào đây” [11, tr.3]. Xống chụ xôn xao là bản tình
ca ca ngợi tình yêu thuỷ chung, bất diệt của con ngƣời, là tiếng nói tâm hồn,
mang cách cảm, cách nghĩ và khát vọng của ngƣời dân tộc Thái về tình yêu
đôi lứa, về hạnh phúc cá nhân của con ngƣời.
Với kết cấu độc đáo, tràn đầy kịch tính, ngôn ngữ kể chuyện đƣợc gọt
giũa thành lời thơ, những câu thơ gợi cảm, nhiều hình ảnh Xống chụ xôn xao
xứng đáng là “một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong kho tàng thơ ca
trữ tình cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam” [11, tr.169]. Sức sống và sự
truyền cảm của Xống chụ xôn xao còn ảnh hƣởng lớn đến các nhà thơ dân tộc
thiểu số hiện đại mà ở chƣơng tiếp theo chúng tôi sẽ có điều kiện để nói đến.
Nhƣ vậy, dân tộc Thái vốn có một kho tàng văn học dân gian phong
phú, phát triển trong đó truyện thơ, sử thi là hai loại hình tiêu biểu và có nhiều
tác phẩm đạt đến đỉnh cao. Cũng có kết cấu (gặp gỡ – ly tan - đoàn tụ) của
truyện thơ hay âm hƣởng ngợi ca, thủ pháp phóng đại của sử thi trong văn học
dân gian Việt Nam, nhƣng sử thi, truyện thơ dân tộc Thái còn có những đặc
điểm mang những nét đặc trƣng tiêu biểu cho tƣ duy, cách diễn đạt của ngƣời
Thái.
Ngoài việc thể hiện khát khao xây dựng một cuộc sống thanh bình, giàu
mạnh (sử thi Chƣơng Han, Táy pú xấc...) và khát vọng tự do trong tình yêu,
hôn nhân gia đình (truyện thơ Tản chụ xống xƣơng, Xống chụ xôn xao...) thì
sử thi và truyện thơ dân tộc Thái còn phản ánh rất rõ những phong tục, tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
quán, lễ nghi của ngƣời Thái, đó là nét sinh hoạt văn hoá đời thƣờng (ma
chay, cƣới xin, lễ hội...) hay những phong tục, lễ nghi, tín ngƣỡng (cúng phúc
thọ, cúng Mƣờng, cúng xên cha... ) của tộc ngƣời Thái.
Các loại hình văn học dân gian nhƣ sử thi, truyện thơ, ca dao, tục ngữ
của ngƣời dân tộc Thái không tách rời với những sinh hoạt văn hoá của cộng
đồng ngƣời Thái. Nếu nhƣ trong lao động thƣờng nhật: trồng lúa, dệt vải, đan

chài, bắt cá... bà con nông dân Thái giao lƣu với nhau bằng lời hát vè, ca dao,
tục ngữ..., thì những bản anh hùng ca nhƣ Khun Chƣởng, Chƣơng Han hay
Táy pú xấc... đƣợc sử dụng rộng rãi trong lễ nghi lớn nhƣ cúng cầu thọ, cúng
“xên bản”, “xên mƣờng”, còn những truyện thơ nhƣ Tản chụ xống xƣơng,
Tản chụ xiết xƣơng, Xống chụ xôn xao đƣợc nam thanh, nữ tú thi tài, hát giao
duyên trong sân chơi “Hạn khuống”... Nhƣ vậy, có thể thấy rằng văn học dân
gian dân tộc Thái đã phản ánh đời sống sinh hoạt và đời sống tâm hồn phong
phú, đa dạng của cộng đồng dân tộc Thái với những phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Thái.
Sử thi Thái đã thu hút cả tri thức và các sáng tạo nghệ thuật ngôn từ của
dân tộc Thái: Từ những lời tục ngữ, vần, vè ngắn gọn đến các bài ca nghi lễ
cúng thần; từ những bài ca tục lệ trong cộng đồng đến những bài dân ca đối
đáp nam, nữ. Ngôn ngữ sử thi sinh động về hình tƣợng, hài hoà về nhạc điệu,
đối lập và kịch tính tạo nên sử thi anh hùng. Đó là phong cách kỳ vĩ hoá của
phƣơng pháp lãng mạn, thông qua các biện pháp cƣờng điệu, phóng đại, ngoa
dụ rất phổ biến trong cách xây dựng tính cách nhân vật, miêu tả thiên nhiên.
Truyện thơ đƣợc phô diễn bằng những lời thơ mang sắc thái ngôn ngữ
độc đáo của dân ca, những lời thơ giàu nhạc điệu của điệu “khắp”. Cách giải
quyết thiên về phong cách lãng mạn trong kết thúc của truyện thơ không lấn
át đƣợc không khí hiện thực mang nặng tâm tƣ buồn tủi của lứa đôi bị trắc trở
trong tình duyên dƣới chế độ cũ nhƣng chính không khí hiện thực mang nặng
tâm tƣ đó đã tạo nên phong cách trữ tình đậm đà, sâu lắng cho truyện thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Truyện thơ, sử thi dân tộc Thái đã góp phần đánh dấu một bƣớc phát
triển cao và khẳng định vị trí của văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Hai
thể loại này đã đạt đƣợc những thành tựu xuất sắc về số lƣợng cũng nhƣ về
chất lƣợng. Truyện thơ, sử thi đã tập hợp đƣợc những tinh hoa các thể loại
văn học dân gian, đồng thời cũng có những ảnh hƣởng sâu sắc đến các thể

loại phát triển sau nó. Sức lôi cuốn mạnh mẽ của truyện thơ đƣợc ngƣời Thái
diễn đạt trong câu ví “Hát tiễn dặn lên, gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau,
chàng trai quên cày ruộng” [11, tr.168]. Và đối với sử thi, với cách nói phóng
đại, cách diễn tả “vƣợt xa hơn cái mẫu” cùng với sự tổng hợp các hình thức
nghệ thuật dân gian (giống nhƣ ở truyện thơ) đã tạo nên bề bộn, rộng
lớn...góp phần kích thích trí tƣởng tƣợng phong phú của ngƣời nghe mà theo
nhƣ Gorki đã đúc kết: “Cái đẹp đƣợc nhận thức là sự kết hợp nhiều chất liệu
khác nhau, kể cả những âm thanh, màu sắc, từ ngữ, nhờ đó mà con ngƣời,
nhà thiện nghệ chế tạo nên một hình thái tác động vào cảm xúc và lý trí nhƣ
một sức mạnh, khiến cho mọi ngƣời ngạc nhiên, tự hào và vui sƣớng với khả
năng sáng tạo của mình” [ 32, tr.79].

Nối tiếp kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng, đến thế kỷ XIX,
nghệ nhân ngƣời dân tộc Thái là Ngần Văn Hoan đã có những đóng góp rất
lớn vào việc ra đời và hình thành thơ dân tộc Thái hiện đại.
Ngần Văn Hoan tên thật là Ngần Văn Hậu, quê ở Chiềng Hạ, xã Mai Hạ
huyện Mai Châu-Hoà Bình, ông là một hiện tƣợng độc đáo của văn học Thái.
Ông đƣợc nhân dân thêu dệt nhƣ một nhân vật “truyền thuyết” gắn với sự tích
đá Cang Lạn: Sự tích nói về cuộc thi tài hát đối giữa nàng Cang Lạn và Văn
Hoan, 3 ngày 3 đêm không phân thắng bại, cuộc thi tài chỉ kết thúc và nàng
Cang Lạn chịu thua Văn Hoan khi chàng đƣa ra vế đố:
Trên trời có bao ngôi sao sáng nhất
Dƣới trần gian có bao ngọn núi cao hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Nàng Cang Lạn thua và chết hoá thành vách đá. Câu chuyện trên có thể
là hƣ cấu, tƣởng tƣợng của ngƣời dân nhƣng dù có thật hay không có thật thì
đó cũng là sự ca ngợi, khẳng định sự thông minh, tài giỏi của Ngần Văn
Hoan- một đỉnh cao trí tuệ của tri thức dân gian.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông chính là Lời hát nền Văn Hoan (Khoam
khắp pƣn Văn Hoan) dài 2.300 câu thơ, kể về mối tình nên thơ của chàng trai
Sy Ly Nâm Ơi và cô gái Liêng Khăm. Mối tình đó đƣợc lồng trong khung
cảnh thiên nhiên êm đềm ít nhiều đƣợc đƣợc “thần tiên hoá” dƣới cảm hứng
trữ tình lãng mạn của nghệ nhân Văn Hoan. Lời hát nền Văn Hoan gần gũi và
thân thuộc với đời sống tình cảm, tâm hồn của ngƣời Thái nên đƣợc lƣu
truyền rộng rãi trong đời sống cộng đồng dân tộc Thái.
Vì thuộc thể loại “khắp xƣ” (tức là hát thơ) nên có những đoạn dài trong
tác phẩm, nhân vật Sy Ly và Liêng Khăm chuyện trò với nhau để bày tỏ tâm
sự bằng hình thức của dân ca trữ tình đối đáp nhƣ “khắp báo xao” (hát trai
gái)- một loại hình văn nghệ tiêu biểu của đồng bào Thái... Trong toàn bộ tác
phẩm, ta thấy dáng dấp trữ tình đằm thắm của các bản tình ca Thái nhƣ Xống
chụ xôn xao, Tản chụ xiết xƣơng…
Nhƣ vậy, tác phẩm Lời hát nền Văn Hoan đã kết tinh đƣợc những tinh
hoa của kho tàng văn học dân gian đồ sộ của dân tộc Thái nhƣ truyện cổ tích,
truyện thơ, truyện sử thi và sử dụng khéo léo các thể loại ca dao, tục ngữ, dân
ca...nhƣng trên tinh thần mở rộng và phát triển hơn. Cảm xúc, tâm trạng và ý
nghĩ của nhân vật đã đƣợc thể hiện sinh động, phong phú, tinh tế và sâu sắc.
Có thể thấy “Tác phẩm biểu hiện tri thức dân gian khá sâu sắc nhƣng có đoạn
thơ đã mang tính bác học khá cao, đó là cách sử dụng khái quát các vấn đề
văn học Thái” [29, tr.186].
Với Lời hát nền Văn Hoan của nghệ nhân Văn Hoan, dân tộc Thái ghi
tên mình vào chặng đƣờng hình thành, phát triển đầu tiên của văn học viết các
dân tộc thiểu số Việt Nam và đóng vai trò là bƣớc chuyển tiếp giữa văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
dân gian và văn học thành văn dân tộc Thái, chuẩn bị những tiền đề quan
trọng để hình thành và phát triển văn học dân tộc Thái hiện đại nói riêng và
văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.


Nói về sự phát triển của thơ ca dân tộc Thái, ngoài nền tảng vững chắc là
kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng và những tác phẩm thơ hát của
nghệ nhân Ngần Văn Hoan thì không thể không nói đến những bài thơ đƣợc
sáng tác từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, những bài thơ đã phản ánh thực trạng xã
hội và sự vận động tinh thần tích cực cách mạng của quần chúng nhân dân từ
những năm 1940-1945 nhƣ: Hua Chaƣ khanh cánh ngan nha bản (Trái tim
anh dũng chớ run sợ) của Chu Văn Thịnh, Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy) của
Cầm Biêu, Nộc cốc kăm (Chim phƣợng hoàng) và Xiêng chang năn (Đầy
tiếng than) của Cầm Ninh... Đây có thể coi là bƣớc “tiền trạm” sơ khai nhƣng
vô cùng quan trọng để góp phần hình thành một đội ngũ những nhà thơ chiến
sĩ- nghệ sĩ dân tộc Thái.
Đầu thế kỷ XX đến những năm 1944, nhiều dân tộc thiểu số ở phía Bắc
Việt Nam nói riêng và cả nƣớc nói chung chịu nhiều tầng áp bức của thực dân
và phong kiến (miền núi). Thực dân Pháp với chính sách ngu dân đã kìm hãm
sự phát triển của kinh tế, xã hội miền núi bằng cách duy trì chế độ tù trƣởng,
thổ ty, phìa tạo đã hết sức lỗi thời và vô cùng dã man, tàn bạo. Các dân tộc
thiểu số đã không can tâm làm kiếp trâu ngựa, đã vùng lên chống lại. Cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9/ 1940) đã mở đầu cho phong trào cách mạng ở
vùng miền núi phía Bắc, nhân dân các dân tộc thiểu số nô nức đi theo cách
mạng, tuyên truyền và vận động bà con theo Đảng, cách mạng...Đi cùng với
phong trào đấu tranh đó là cả một phong trào thơ ca cách mạng xuất hiện và
mau chóng phát triển. Đó là những sáng tác “Có vần, có điệu, dễ đọc, dễ hiểu,
đọc êm tai, dễ nghe. Bất kỳ già trẻ ai cũng đọc đƣợc. Nó lại dễ ngẫm nghĩ,
làm cho ngƣời ta cảm động...” [80, tr.87] . Trong không khí cách mạng “nhƣ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
một dòng thác mạnh” tràn lên vùng các dân tộc thiểu số và từ chính
sách“kháng chiến văn hoá, văn hoá kháng chiến” những ngƣời có năng khiếu

văn chƣơng đã viết những bài vè, bài thơ, bài ca, soạn bài hát…không chỉ có
tính cổ động thời sự mà có một số đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật
đích thực. Và một đội ngũ cán bộ văn hoá thông tin văn nghệ sĩ các dân tộc
thiểu số có điều kiện phát triển năng khiếu trở thành một đội ngũ chiến sĩ-
nghệ sĩ nhƣ: Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao), Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Lò
Văn Mƣời (dân tộc Thái), Đinh Sơn (dân tộc Mƣờng)…Chính những nhà văn,
nhà thơ ấy đã đặt những viên gạch đầu tiên hình thành nền thơ ca các dân tộc
thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại.
Với tác phẩm Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy) của Cầm Biêu, Cán bộ với dân
của Lƣơng Quy Nhân, Tội ác giặc Pháp ở đồn Pom Nghê của Hoàng Nó...
Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó... là những nhà thơ đầu tiên ghi tên
mình vào sự hình thành của văn học dân tộc Thái hiện đại.
Là một tác phẩm tiêu biểu của văn học cách mạng các dân tộc thiểu số,
Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy-1940) đƣợc Cầm Biêu viết trong không khí hồ hởi
theo cách mạng. Bài thơ là một cảm xúc rất thật của chàng thanh niên 20 tuổi
Cầm Biêu vì căm tức thói hống hách, dâm ô của một tên chánh tổng con quan
luôn giở trò cƣớp bóc của dân bản, trêu chòng con gái nhà lành, ông đã
“chửi” bọn chúng là lũ “vện” chuyên tranh nhau để “rình đớp xôi thơm” của
mọi ngƣời. Vì vậy, tác phẩm đã đƣợc các đồng chí hoạt động cách mạng lúc
đó ở địa phƣơng dùng làm thơ tuyên truyền, phát động lòng căm thù giặc
trong quần chúng.
Khiến lũ vện phƣơng xa nhỏ rãi, hắt hơi
Đứng phắt dậy, cong đuôi trở nghề ăn cƣớp
Kéo nhau về rình đớp xôi thơm..
(Lúa chó dậy-Cầm Biêu)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
Có thể nói, dƣới ánh sáng của Đảng, cách mạng, những ngƣời dân tộc

thiểu số yêu nƣớc đã tin tƣởng và một lòng đi theo cách mạng. Họ dùng văn
chƣơng để làm công cụ tuyên truyền đấu tranh và nói lên tiếng nói, tình cảm
của những ngƣời dân tộc miền núi với Đảng, Bác. Mặc dù những sáng tác ấy
còn gần với dân ca, truyện cổ, với lời thoại sinh hoạt, “thơ chƣa mấy chất
thơ” (Cầm Biêu) nhƣng đó là sự khởi đầu rất đáng quý để các nhà nghệ sĩ-
chiến sĩ khai phá con đƣờng bứt lên thành tác giả- góp phần hình thành, phát
triển đội ngũ của nền thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Dù số lƣợng tác phẩm chƣa nhiều nhƣng “Thơ cách mạng đã khơi sâu....
nỗi đau mất nƣớc, hiểu rõ cảnh ngộ dân tộc bị chìm đắm trong vòng nô lệ,
nung nấu lòng căm thù, rèn đúc chí khí cách mạng kiên cƣờng. Thơ ca đã gợi
nhiều tình cảm, nhiều suy nghĩ và lên đƣờng tìm cách mạng” [86, tr.83] và
góp phần khẳng định vị trí của thơ cách mạng các dân tộc thiểu số với với thơ
văn cách mạng cả nƣớc.

Nhƣ vậy, cũng nhƣ các dân tộc thiểu số khác, trƣớc năm 1945, thơ ca dân
tộc Thái chủ yếu là thơ ca dân gian với thành tựu nổi bật là sử thi và truyện
thơ trữ tình. Tiếp đó, nghệ nhân Ngần Văn Hoan đã đánh dấu bƣớc chuyển
tiếp từ thơ dân gian đến thơ thành văn của dân tộc Thái với những lời thơ
trong các tác phẩm “hát thơ”. Đặc biệt sự xuất hiện của một số bài thơ cách
mạng của các nhà thơ Thái nhƣ Cầm Biêu, Cầm Ninh hay Chu Văn Thịnh...
(thời kỳ từ năm 1940-1944) đã đánh dấu một bƣớc phát triển mới cho thơ ca
Thái. Dù những bài thơ cách mạng ấy còn mang đậm dấu vết của kiểu thơ dân
gian nhƣng ít nhiều đã có những yếu tố hiện đại, đây chính là nền tảng quan
trọng dẫn tới sự hình thành và phát triển của thơ ca dân tộc Thái hiện đại từ
sau cách mạng tháng 8/ 1945.

1. 2. Thơ ca dân tộc Thái từ năm 1945 đến nay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25

Nhƣ đã biết, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ra đời, phát
triển từ sau năm 1945. Sau hơn nửa thế kỷ, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại chập chững bƣớc đi, mạnh dạn khám phá và tự tin khẳng định
vị trí cũng nhƣ vai trò của mình trong sự phát triển chung của nền thơ ca Việt
Nam hiện đại.
Sau hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đất nƣớc đƣợc độc lập
và thống nhất. Sự nghiệp đổi mới (từ năm 1986) đã làm thay đổi diện mạo của
đất nƣớc, ảnh hƣởng trực tiếp đến tƣ tƣởng, tình cảm và tƣ duy sáng tạo nghệ
thuật của các nhà thơ dân tộc thiểu số nói riêng cũng nhƣ các văn nghệ sĩ nói
chung. Đây là giai đoạn các tác giả ngƣời dân tộc thiểu số có điều kiện để
thoả sức tìm tòi, đổi mới tƣ tƣởng nghệ thuật. Thơ dân tộc Thái hiện đại cũng
nằm trong dòng chảy chung ấy. Việc tìm hiểu thơ dân tộc Thái hiện đại từ khi
ra đời đến trƣớc và sau thời kỳ đất nƣớc thống nhất, độc lập và đổi mới sẽ làm
nổi bật sự vận động và phát triển của thơ ca dân tộc Thái từ sau cách mạng
tháng 8/1945 đến nay.

1. 2.1. Thơ ca dân tộc Thái từ năm 1945 đến năm 1975
Sau thắng lợi của cách mạng tháng 8/ 1945, thơ ca Việt Nam phát triển
với một tốc độ mau lẹ. Trong không khí chung ấy, phong trào sáng tác thơ ca
ở miền núi phía Bắc cũng phát triển mạnh với nhiều tác giả tiêu biểu nhƣ
Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Bàn Tài Đoàn, Cầm Biêu, Lƣơng Quy
Nhân, Hoàng Nó... Họ dùng thơ để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, đấu
tranh chống lại những đè nén, áp bức của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn
tay sai.
Đội ngũ và tác phẩm các nhà thơ Thái giai đoạn này bắt đầu có những
khởi sắc. Sau sáng tác đầu tay Lúa chó dậy (1940) Cầm Biêu hăng hái và tự
tin mạnh dạn ở thể loại này với hàng loạt các tác phẩm mang tính cổ vũ cách
mạng, vận động quần chúng theo cách mạng nhƣ: Vợ lính nguỵ mong chồng

×