Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Báo cáo KH :"PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH VÀ HỘI NHẬP"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.22 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------o0o---------




CÔNG TRÌNH THAM DỰ CUỘC THI


Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 2010




Tên công trình: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH VÀ HỘI NHẬP



Thuộc nhóm ngành: XH1b



Họ và tên sinh viên: Ngô Hoàng Quỳnh Anh. Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 16 Khoá: 47 Khoa: Kinh tế và kinh doanh quốc tế Năm thứ : 2/4
Ngành học : KTĐN

Họ và tên sinh viên: Thái Ngọc Anh Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 16 Khoá: 47 Khoa: Kinh tế và kinh doanh quốc tế Năm thứ : 2/4
Ngành học : TMQT



Người hướng dẫn : ThS Hoàng Xuân Bình



Hà Nội - 2010


2

LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngành dịch vụ bán lẻ là một trong những ngành có đóng góp lớn vào nền
kinh tế quốc gia Việt Nam với trên 15% vào GDP hàng năm, sử dụng trên 5,4
triệu lao động, tức gần 12% lực lượng lao động xã hội (Số liệu năm 2009),
doanh số bán lẻ đạt trên 50 tỉ USD năm 2009. Không chỉ vậy, thị trường bán lẻ
Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn định hình và phát triển khi mà các kênh
bán lẻ truyền thống vẫn chiếm trên 70% thị phần của cả ngành bán lẻ, các kênh
phân phối hiện đại chỉ chiếm 22% doanh thu cả ngành. Trong khi đó, con số
này ở các nước khác là 51% tại Trung Quốc, 34% tại Thái Lan, 60% tại
Malaysia và 90% tại Singapore cho kênh bán lẻ hiện đại. Điều đó cho thấy,
ngành dịch vụ bán lẻ đặc biệt là kênh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam vẫn còn phải
phát triển nhiều hơn nữa, và sẽ còn tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào nền kinh tế
quốc gia.
Kể từ ngày 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam chính thức mở cửa cho
các doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài. Trước đó, rất nhiều nhà bán
lẻ nước ngoài đã có mặt ở Việt Nam như Metro Cash & Carry, Big C... Cho tới
nay thì đã có trên 10 nhà phân phối lớn trên thế giới có mặt tại Việt Nam. Hơn

thế nữa, các nhà bán lẻ nước ngoài đều đã và đang rất thành công trong việc
chinh phục thị trường bán lẻ nước ta. Điều đó đã tạo ra sức ép cạnh tranh rất
lớn cho các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại. Nhất là khi đã số nhà bán lẻ nội địa
chỉ có quy mô nhỏ, và rất nhỏ, chỉ một số ít có khả năng cạnh tranh với doanh

3

nghiệp ngoại như Sài Gòn Co.op Mart, Phú Thái, Hapro, Sài Gòn Nguyễn Kim,
Trần Anh ... nhưng vẫn ở thế yếu hơn.
Một ngành dịch vụ có tầm quan trọng như vậy đối với nền kinh tế quốc
gia mà lại có nguy cơ rơi vào tai của các doanh nghiệp nước ngoài, đó là điều
mà không ai mong muốn. Làm sao để các doanh nghiệp nội có thể đủ sức cạnh
tranh với doanh nghiệp ngoại, làm sao để thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ do
doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh? Đó là một câu hỏi đã và đang làm nhức
nhối nhiều nhà kinh tế nước ta. Nhận biết được tình hình đó, nhóm chúng tôi đã
quyết định lấy đề tài "Phát triển doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện
cạnh tranh và hội nhập" làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, do thời gian có hạn, cùng với đó năng lực
nghiên cứu còn nhiều yếu kém, bài nghiên cứu của chúng tôi khó tránh khỏi
những sai sót cả về hình thức lẫn nội dung. Bởi vậy rất mong nhận được sự
thông cảm và các ý kiến đóng góp và giúp đỡ của mọi người, để chúng tôi có
thể tiếp tục hoàn thiện hơn nữa mong muốn góp sức cho doanh nghiệp bán lẻ
nội địa Việt Nam trong thời hội nhập.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Sau hơn 6 tháng tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm đã nắm được khá rõ
những đặc điểm của thị trường bán lẻ cũng như thực trạng của các doanh
nghiệp bán lẻ ở Việt Nam. Từ đó, nhóm đã tiếp tục nghiên cứu những hướng đi
cần thiết cho các nhà bán lẻ nội địa và đề ra các giải pháp cụ thể để giúp các
doanh nghiệp đạt được các mục tiêu, hướng đi đó. Tuy nhiên, do thời gian có
hạn, nhóm không thể kịp hoàn thiện mọi giải pháp đã nghiên cứu, cho nên

trong khuôn khổ bài viết, nhóm chỉ đề ra những giải pháp đã được nghiên cứu
cụ thể và khả thi nhất.
3. Đối tƣợng, mục đích nghiên cứu

4

Đối tượng nghiên cứu: các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu rõ về thực trạng các của nhà bán lẻ nội
địa, đưa ra những nhận xét và từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu tài liệu, tổng hợp phân
tích lý thuyết, xây dựng giả thuyết, phương pháp phân tích SWOT.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, thực nghiệm, phỏng vấn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu chính của nhóm thị trường bán
lẻ Việt Nam, tập trung vào hệ thống bán lẻ hiện đại Việt Nam.
Về mặt thời gian, nhóm nghiên cứu chủ yếu trong khoảng thời gian 10
năm trở lại đây.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Trình bày được cụ thể đặc điểm thị trường bán lẻ Việt Nam, thực trạng
hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong hội nhập
Đưa ra các nhận xét, đánh giả của các chuyên gia cũng như ý kiến đánh
giá của nhóm về các thực trạng đã nghiên cứu.
Thành công trong việc xây dựng định hướng phát triển cho các nhà bán
lẻ nội địa, đưa ra được một số giải pháp cụ thể để giúp các doanh nghiệp đạt
được các định hướng đã nêu.





5





CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BÁN LẺ VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ NỘI ĐỊA

1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
1.1 Thị trƣờng bán lẻ Việt Nam là một môi trƣờng đầy tiềm năng
Kể từ khi đất nước ta thực hiện chính sách mở cửa thị trường, nền kinh tế
đã từng bước tăng trưởng và phát triển. Sản xuất phát triển, thu nhập của người
dân ngày một tăng, nhu cầu tiêu dùng cũng vì thế trở nên đa dạng. Hàng hóa trên
thị trường luôn được thay đổi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Lĩnh vực
phân phối bán lẻ của Việt Nam cũng đang trên đà tăng trưởng mạnh. Trong vòng
10 năm từ 1996 tới 2006, doanh thu bán lẻ đã tăng 3 lần, đạt 36.3 tỷ USD vào
năm 2006. Tốc độ tăng trưởng trong những năm qua cũng khá cao, từ năm 2002
đến nay luôn đạt trên 10%/năm:
Biều đồ 1: Doanh thu và tốc độ tăng trƣởng trong lĩnh vực phân phối bán lẻ

6

0
5
10
15

20
25
30
35
40
Tỷ USD
0
5
10
15
20
25
%
Doanh thu bán lẻ
13 13 13.2 14.2 15.2 16.3 18.2 21.3 25.3 30.2 36.3
Tỷ lệ tăng trưởng hàng
năm
19 0.3 1.8 7.5 7 7 12.2 17 18.5 19.5 20.2
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006

Nguồn: Viện Nghiên cứu kinh tế TP Hồ Chí Minh
Tiến sỹ Đinh Thị Mỹ Loan, Phó Chủ tịch thường trực, Tổng thư ký Hiệp
hội các nhà bán lẻ Việt Nam AVR cho biết, năm 2009, doanh số bán lẻ hàng hóa
và dịch vụ đạt gần 1.200 tỷ đồng, tăng 18,6% so với năm 2008. 5 tháng đầu năm
2010, doanh số đạt 621.416 tỷ đồng, tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước. Trên
đà khởi sắc của thị trường tiêu dùng nội địa, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán
lẻ và dịch vụ nhận định sẽ còn tiếp tục tăng trong năm 2010, ước tính đạt khoảng
1.440 nghìn tỷ đồng. Dựa vào triển vọng này, Công ty nghiên cứu thị trường toàn
cầu RNCOS (Mỹ) dự báo thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ đạt doanh số 85 tỷ USD
vào năm 2012.

“Năm 2010 là năm có rất nhiều triển vọng với thị trường bán lẻ Việt Nam,
thể hiện qua việc Việt Nam ngày càng trở thành một điểm kinh doanh hấp dẫn
tại châu Á với tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững và nhu cầu tiêu dùng ổn định
trong thời gian dài”. Đây là khẳng định của Tiến sỹ Matthias Duehn – Giám đốc

7

EuroCham Hà Nội. Thật vậy, sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam ngày
càng tăng nhanh trong những năm gần đây. Theo xếp hạng của Công ty tư vấn
Mỹ A.T.Kearney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu GRDI, Việt
Nam đang là một trong những nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới.
Bảng 1: Bảng tổng hợp xếp hạng chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu của
Việt Nam giai đoạn 2004-2009
Năm Tổng điểm Xếp hạng
2004 76 7
2005 79 8
2006 84 3
2007 74 4
2008 88 1
2009 55 6
Nguồn: A.T.Kearney, Windows of Hope for Global Retailers, 2009
Không những thế, chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam cũng ở
mức cao kỷ lục là 118 điểm và đứng thứ 5 thế giới, trong khi mức trung bình của
thế giới chỉ là 97 điểm. Kết quả nghiên cứu của Công ty Điều tra thị trường
Cimigo mới đây cho biết, trong khoảng vài tháng đầu năm 2010, chỉ số niềm tin
của người tiêu dùng Việt Nam tăng khoảng 15% so với thời điểm trước đó. Khi
niềm tin của người tiêu dùng tăng thì mức tiêu dùng trong nước sẽ tăng theo, và
thị trường bán lẻ sẽ sôi động và hứa hẹn những khởi sắc.
Sở dĩ có những kết quả ấn tượng như vậy là vì Việt Nam có mức tăng
trưởng GDP cao và ổn định trong nhiều năm liên tiếp. Thực tế là Việt Nam là đất

nước duy nhất trên thế giới có GDP/người tăng gấp đôi trong vòng 6 năm. Bên
cạnh đó, Việt Nam có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và đặc biệt là dân số
đông, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng cao và đa dạng. Việt Nam sở

8

hữu một thị trường tiêu thụ với quy mô rộng lớn, khoảng 86 triệu dân, dân số trẻ
với hơn một nửa dân số có độ tuổi dưới 30 và thu nhập của người dân ngày càng
cao. Sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam còn do áp lực cạnh tranh giữa
các hệ thống bán lẻ chưa nhiều và Việt Nam có đến 65% dân số là người tiêu
dùng trẻ, chi tiêu mạnh tay. Tầng lớp trung lưu với thu nhập 250USD/tháng trở
lên đang tăng nhanh. Riêng tầng lớp trung lưu thu nhập trên 500USD/tháng
chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở thành thị. Trong các xu hướng phát triển thị
trường bán lẻ, việc nhà phân phối thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa nhà sản xuất
và người tiêu dùng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Điều đó có nghĩa phải đặc
biệt chú trọng yếu tố người tiêu dùng. Theo khảo sát, 70% thu nhập của người
Việt Nam dành cho mua sắm, do đó người tiêu dùng với tố chất phong phú, nhạy
bén, thông thái sẽ là nhân tố quan trọng định hướng cho ngành công nghiệp bán
lẻ và sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam. [29]
Tiềm năng đầy hứa hẹn đó sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của lĩnh vực
phân phối bán lẻ Việt Nam, đặc biệt khi nó kết hợp với việc mở cửa thị trường
bán lẻ sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
1.2 Sự mở cửa của thị trƣờng bán lẻ Việt Nam theo lộ trình cam kết với
WTO
1.2.1 Cơ hội đã mở ra cho bán lẻ nước ngoài
Tính đến cuối năm 2008, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 160
nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã kí kết hiệp định thương mại với 90 quốc gia
và vùng lãnh thổ, 51 hiệp định bảo hộ đầu tư và 41 hiệp định tránh đánh thuế hai
lần với nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, đối với ngành dịch
vụ phân phối, chúng ta mới chỉ có cam kết cụ thể với Mỹ trong Hiệp định

Thương mại Việt – Mỹ (BTA), với Nhật Bản trong Hiệp định Bảo hộ và Xúc
tiến đầu tư Việt Nam – Nhật Bản, cùng một số dự án thí điểm, thử nghiệm trong

9

khuôn khổ hợp tác song phương, đa phương. Cam kết của Việt Nam khi đàm
phán gia nhập WTO cuối năm 2006 đối với dịch vụ phân phối, trong đó có hoạt
động bán lẻ là một bước tiến lớn để chúng ta hội nhập sâu rộng hơn nữa thị
trường thương mại quốc tế, đồng thời mở ra cơ hội đầu tư vào thị trường đầy
tiềm năng của chúng ta cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. [20]
1.2.1.1 Cam kết mở cửa dịch vụ phân phối bán lẻ của Việt Nam với WTO
Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO được xây dựng theo Hiệp định
Thương mại Việt – Mỹ (BTA). Trong thỏa thuận, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành
và 110 phân ngành dịch vụ. Đối với dịch vụ phân phối, cam kết cụ thể như sau:
[1]
Về hình thức hiện diện:
Kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (ngày 11/01/2007) đến trước
ngày 01/01/2008, Việt Nam cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài
được liên doanh với đối tác Việt Nam nhưng tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài
không được vượt quá 49%.
Từ 01/01/2009, doanh nghiệp phân phối nước ngoài được thành lập doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, riêng ngành dịch vụ phân phối bán lẻ, Việt Nam đưa ra hạn chế
khá chặt chẽ về việc mở thêm điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thông qua kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT - Economic Needs Test). Việc
xem xét mở cửa điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ thứ nhất phải tuân theo một quy
trình xét duyệt và cấp phép công khai dựa trên các tiêu chí khách quan như: số
lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện trong một khu vực địa lý, sự ổn
định của thị trường và mật độ dân cư, sự phù hợp với quy hoạch.
Về mức độ mở cửa thị trường


10

Việt Nam cam kết tất cả các phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại
của WTO, bao gồm: dịch vụ bán lẻ, dịch vụ bán buôn, dịch vụ đại lý hoa hồng và
dịch vụ nhượng quyền thương mại. Về diện mặt hàng:
Danh mục hàng hóa loại trừ vĩnh viễn: những mặt hàng mà nhà đầu tư
nước ngoài sẽ không bao giờ được quyền tham gia phân phối trên lãnh thổ Việt
Nam như: lúa, gạo, đường, thuốc lá và xì gà, dầu thô và dầu qua chế biến, dược
phẩm, thuốc nổ, sách - báo - tạp chí, kim loại quý và đá quý, vật phẩm đã ghi
hình trên mọi chất liệu (băng, đĩa...).
Danh mục hàng hóa loại trừ có thời hạn: nhà đầu tư nước ngoài được
quyền phân phối theo lộ trình mà Việt Nam đã cam kết như: máy kéo - phương
tiện cơ giới - ô tô con và xe máy (từ 01/01/2009); rượu, xi măng và clinke, phân
bón, sắt thép, giấy, lốp xe (trừ lốp máy bay), thiết bị nghe nhìn (từ 01/01/2010).
Ngoài ra, Việt Nam cũng cho phép hình thức bán hàng qua mạng từ nước
ngoài theo phương thức 1 (cung cấp qua biên giới) bao gồm mua bán hàng hóa
qua mạng hoặc đặt hàng qua thư và chỉ cam kết cho các nhà phân phối nước
ngoài được bán các loại hàng hóa: các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân, các
chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì
mục đích thương mại.
Có thể nói, những cam kết về mở cửa dịch vụ phân phối bán lẻ là một
trong những nỗ lực và quyết tâm lớn nhất của nước ta, bởi lẽ dịch vụ bán lẻ là
một ngành hàng khá nhạy cảm và có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trên thực tế, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cho phép các tập đoàn phân
phối nước ngoài thành lập liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,
nhưng mới chỉ mang tính chất thí điểm. Lộ trình cam kết mở cửa dịch vụ bán lẻ
của Việt Nam mở ra môi trường kinh doanh thông thoáng và minh bạch hơn cho
các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó, đem lại nhiều lựa chọn hơn cho người tiêu


11

dùng, và là động lực các cho doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vươn lên cạnh tranh
với các doanh nghiệp nước ngoài.
1.2.1.2 Sự thâm nhập của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài vào thị trường
bán lẻ Việt Nam
Nhà cung cấp dịch vụ phân phối nước ngoài đầu tiên bước chân vào thị
trường bán lẻ Việt Nam là Cora (sau đó bán cho thương hiệu Big C của tập đoàn
Casino Pháp) với trung tâm phân phối tại Đồng Nai năm 1998. Đến nay, Big C
đã có 10 trung tâm tại 4 thành phố lớn của Việt Nam. Tiếp bước là Metro với mô
hình Cash & Carry (khách hàng trả bằng tiền mặt và tự vận chuyển) nổi tiếng.
Ngày 28/2/2002, Metro Bình Phú tại thành phố Hồ Chí Minh khai trương. Cho
đến nay, Metro đã có đến 8 trung tâm tại 5 thành phố lớn. Parkson của tập đoàn
Lion, Malaysia cũng gia nhập vào năm 2004 với Parkson Saigon Tourist Plaza ở
thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 lần lượt thêm 2 trung tâm nữa ở Hải Phòng
và thành phố Hồ Chí Minh và năm 2008 với Parkson Việt Tower (Hà Nội).
Ngoài ra, còn rất nhiều đại gia bán lẻ khác của nước ngoài như Zen Plaza, Best
Denki của Nhật Bản, Diamond Plaza của Hàn Quốc... cũng tham gia vào thị
trường bán lẻ cao cấp. Mới đây nhất, ngày 01/07/2010, Lotte Mart - công ty con
của tập đoàn Lotte (Hàn Quốc) cũng đã chính thức công bố khai trương Trung
tâm thương mại Lotte thứ 2 tại Việt Nam, tại đường Lê Đại Hành, thành phố Hồ
Chí Minh. Như vậy, có thể thấy rằng các nhà bán lẻ nước ngoài đều bước đầu rất
thành công khi họ đặt chân vào thị trường bán lẻ Việt Nam. [30]
1.2.2 Thời gian ngắn cho các doanh nghiệp bán lẻ nội địa trước sự đổ bộ của
các đại gia bán lẻ thế giới
Sau hơn một năm mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp bán lẻ 100%
vốn nước ngoài, đến thời điểm này các tập đoàn bán lẻ quốc tế đã không “ồ ạt”
xâm nhập thị trường Việt Nam như dự đoán. Tính đến hết năm 2006, tức là năm

12


cuối cùng trước khi Việt Nam chính thức là thành viên WTO, cả nước có 21 dự
án có vốn đầu tư nước ngoài và ngành dịch vụ phân phối bán lẻ với tổng số
473.095.206 USD, quy mô bình quân 22.528.343 USD/dự án. Riêng năm 2006
có đến 7 dự án được phê duyệt với tổng số vốn đầu tư lên tới 106.450.000 USD.
Tuy nhiên, sau hơn 2 năm Việt Nam gia nhập WTO, nhìn chung quy mô của các
dự án lại tương đối nhỏ và chưa thực sự như mong đợi. Số vốn FDI đầu tư vào
phân phối bán lẻ còn rất khiêm tốn:
Bảng 2: FDI đăng ký vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam giai đoạn 1996-
2009
Năm
Tổng số vốn đầu tư
(USD)
Số dự án
Trung bình vốn đầu
tư/dự án (USD/dự
án)
1996 59.000.000 2 29.500.000
1997 65.975.000 1 65.975.000
1998 12.800.700 2 6.400.350
1999 35.000.000 2 17.500.000
2000 0 0 0
2001 121.200.000 3 40.400.000
2002 0 0 0
2003 300.000 1 300.000
2004 72.369.506 3 24.123.168,67
2005 0 0 0
2006 106.450.000 7 15.207143
2007* 13.900.000 4 3.475.000
2008 34.218.000 6 5.703.000


13

3/2009 8.553.450 2 4.276.725
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư
* Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
Theo bảng 2, năm 2008 là năm có số vốn đầu tư cũng như số dự án nhiều
nhất sau khi gia nhập WTO. Sở dĩ như vậy là vì 2008 là năm mà một số văn bản
pháp lý của Việt Nam về vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thị trường bán lẻ
tương đối hoàn thiện hơn so với năm đầu tiên gia nhập WTO (2007). Hơn thế, sự
phát triển kinh tế trong những năm trước đó, cộng với tiềm năng phát triển ngành
bán lẻ tại Việt Nam cũng là những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài
quyết định đầu tư nhiều hơn vào thị trường phân phối bán lẻ còn non trẻ của Việt
Nam.
Tuy nhiên, trong 3 tháng đầu năm 2009, sau khi Việt Nam thực hiện cam
kết WTO mở cửa toàn bộ thị trường bán lẻ và không hạn chế tỷ lệ vốn góp đối
với các doanh nghiệp nước ngoài thì số dự án đầu tư cũng như số vốn đầu tư thu
được lại khá nhỏ. Điều này có thể lý giải do tình hình suy thoái kinh tế thế giới
khiến các doanh nghiệp e ngại khi đầu tư vào thị trường mới. Bên cạnh đó, cũng
do tâm lý thăm dò của các nhà đầu tư nước ngoài khi thị trường Việt Nam bắt
đầu mở cửa. Họ xem xét tình hình, nghiên cứu thị trường tiêu dùng và chờ đợi cơ
hội thích hợp nhất để thâm nhập vào thị trường bán lẻ nước ta một cách mạnh
mẽ. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất cản bước các tập đoàn bán lẻ nước
ngoài là do Việt Nam áp dụng công cụ Kiểm tra nhu cầu kinh tế ENT, một công
cụ đặc biệt để hạn chế tiếp cận thị trường trong khuôn khổ WTO. Theo đó, việc
thành lập các điểm bán lẻ ngoài điểm đầu tiên sẽ được xem xét theo từng trường
hợp cụ thể và cơ quan cấp phép địa phương có quyền từ chối cấp phép nếu cho
rằng chưa cần. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất nước Mỹ Wal-mart khẳng định rằng họ
chỉ có thể vào Việt Nam khi chắc chắn có thể mở nhiều hơn một cơ sở phân


14

phối. Hiện nay, theo thống kê của WTO, có hơn 90 quốc gia áp dụng ENT nhưng
các nước chỉ sử dụng ENT cho một số mặt hàng hoặc địa phương nhất định chứ
không phủ khắp toàn bộ lĩnh vực bán lẻ như Việt Nam. Ví dụ điển hình là Hàn
Quốc chỉ yêu cầu ENT với các cửa hàng bán lẻ thịt động vật. Bên cạnh đó, danh
mục hàng hóa loại trừ của Việt Nam cam kết với WTO cũng là một rào cản lớn
cho các nhà bán lẻ nước ngoài. Họ chỉ được phân phối một số mặt hàng nhất
định, lại thường xuyên được giám sát bởi Chính phủ Việt Nam. Quy định này
cùng với một số giới hạn hàng hóa trong cam kết của Việt Nam khi gia nhập
WTO đã phần nào cản trở các tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài thâm nhập
mạnh mẽ vào thị trường bán lẻ Việt Nam trong ít nhất 10 năm nữa.
Như vậy, đây chính là cơ hội và khoảng trống về thời gian mà các doanh
nghiệp Việt Nam có thể tận dụng để xây dựng khả năng cạnh tranh và chiếm thị
phần. Nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại, trưởng đoàn đàm phán WTO Lương
Văn Tự cho biết: “Trong lĩnh vực phân phối, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mới đầu tư vào Việt Nam khoảng 300 triệu USD. Con số đó chưa phải là
lớn lắm. Cơ hội cho doanh nghiệp trong nước vẫn còn”. Tuy nhiên, khoảng thời
gian này cũng không phải là dài, vì việc đầu tư thêm các cơ sở bán lẻ tại những
nước đang phát triển và có thị trường hấp dẫn luôn là mong muốn hàng đầu của
các nhà đầu tư nước ngoài tên tuổi. Vì thế, các doanh nghiệp bán lẻ nội địa cần
tận dụng tốt cơ hội này và đưa ra những chiến lược thích hợp và đúng đắn để
phát triển quy mô cũng như chuẩn bị bước vào cuộc chiến gay gắt.

2 TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỊCH VỤ BÁN LẺ Ở VIỆT NAM
2.1 Tầm quan trọng của dịch vụ bán lẻ với nền kinh tế quốc gia
Nếu như sản xuất là gốc rễ, cung cấp hàng hóa vật phẩm cho nền kinh tế
thì hệ thống phân phối chính là huyết mạch của nền kinh tế ấy. Phân phối bán lẻ

15


đứng vị trí cuối cùng trong chuỗi giá trị hàng hóa từ nhà sản xuất (nhà nhập
khẩu) đến người tiêu dùng. Vì thế, nó đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình
phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa với
cơ cấu kinh tế chuyển đổi.
Thứ nhất, dịch vụ phân phối bán lẻ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Các nhà bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích tiêu thụ và
truyền bá thông tin về hàng hóa cho nhà sản xuất. Điều này có được do họ tiếp
xúc trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng, am hiểu nhất nhu cầu người tiêu
dùng, đồng thời họ cũng chính là người nắm bắt sát thực nhất những thay đổi
trong xu hướng tiêu dùng của khách hàng. Bên cạnh đó, nhà bán lẻ có chức năng
thiết lập mối liên hệ, tạo dựng và duy trì mối liên hệ với người mua tiềm ẩn. Các
doanh nghiệp sản xuất có thị phần lớn hay không cũng một phần phụ thuộc vào
nhà bán lẻ. Như vậy, phân phối bán lẻ kích thích sản xuất mở rộng và phát triền.
Thứ hai, phân phối bán lẻ đóng góp vào GDP quốc gia
Theo điều tra của Tổng cục thống kê, ngành công nghiệp bán lẻ đóng
góp trên 15% vào GDP hàng năm. Doanh thu từ phân phối bán lẻ ảnh hưởng lớn
đến tăng trưởng GDP của cả nước. Điển hình là của năm 2009 tình hình bán lẻ
Việt Nam sụt giảm nhiều so với năm 2008, làm cho tăng trưởng GDP 2009 giảm
3,1% so với cùng kì năm 2008, đạt 7,4%. Như vậy, phân phối bán lẻ là một trong
những ngành quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế của cả
nước. [24]
Thứ ba, phân phối bán lẻ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho ngƣời
lao động
Thống kê từ năm 2000 trở lại đây cho thấy, tỉ trọng lao động trong ngành
dịch vụ phân phối hàng hóa ngày càng gia tăng, từ 10,4% (năm 2000) lên 12%
(năm 2006). Nếu so sánh với ngành nông nghiệp thì đóng góp của dịch vụ phân

16


phối trong GDP không thấp hơn đáng kể so với ngành nông nghiệp, nhưng lao
động của lĩnh vực phân phối bán lẻ chỉ bằng 1/6 so với ngành nông nghiệp. Theo
thống kê của Bộ công thương, ngành bán lẻ Việt Nam đóng góp trên 5,4 triệu lao
động, gần 12% lực lượng lao động xã hội. Như vậy, phân phối bán lẻ sử dụng
lượng lao động tương đương với ngành công nghiệp chế biến, con số cao nhất
trong tất cả các ngành dịch vụ nước nhà.
Nhìn chung, ngành dịch vụ bán lẻ đóng vai trò quan trọng cần thiết trong
ngành dịch vụ phân phối nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Nhận thức
được điều này, các doanh nghiệp sẽ đưa ra nhiều chiến lược phát triển cũng như
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình; Nhà nước và hiệp hội các ngành hàng
cũng có cơ sở để đưa ra những chính sách hiệu quả, giúp ủng hộ và quản lý sự
phát triển của các doanh nghiệp trong nước. Từ đó giúp cho nền kinh tế quốc dân
tăng trưởng mạnh, đời sống nhân dân cải thiện, đất nước phát triển hơn, đặc biệt
là trong tiến trình cạnh tranh và hội nhập hiện nay.
2.2 Sự phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ bán lẻ trong thời gian gần đây
2.2.1 Sự phát triển về số lượng các doanh nghiệp bán lẻ ở Việt Nam
Khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên, thị trường hàng hóa trở nên sôi
động, các hệ thống bán lẻ cũng vì thế mà có những chuyển biến tích cực đáp ứng
nhu cầu đó. Từ hệ thống bán lẻ truyền thống đến hệ thống bán lẻ hiện đại đều
tăng số lượng đáng kể.
2.2.1.1 Hệ thống chợ truyền thống
Tính đến 31/12/2009, trên địa bàn cả nước có 8.495 chợ các loại (không
tính các chợ hình thành tự phát). Như vậy con số đã tăng đáng kể, so với năm
2006, cả nước chỉ có 7.676 chợ các loại:
Bảng 3: Tổng hợp số liệu về mạng lƣới chợ trên cả nƣớc tính đến 31/12/2009

17

Địa phương Hạng I Hạng II Hạng III Tổng
Hà Nội 19 77 314 410

Huế 3 17 131 151
Thành phố Hồ
Chí Minh
17 52 180 249
Các địa phương
khác
180 808 6.697 7.685
Tổng 219 954 7.322 8.495
Nguồn: Vụ kế hoạch và đầu tư – Bộ công thương
Khối lượng hàng hóa lưu thông qua chợ ở các thành phố lớn chiếm tỷ
trọng khoảng 40-50% tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên địa bàn. Ở khu vực
nông thông, hàng hóa giao dịch trên chợ chiếm khoảng 60-70%. Lực lượng tham
gia kinh doanh trên các chợ chủ yếu là thương mại tư nhân, thương mại Nhà
nước, Hợp tác xã thương mại và người sản xuất trực tiếp bán hàng. Trong đó,
thành phần thương mại tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng.
2.2.1.2 Hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống, kinh doanh nhỏ lẻ
Hiện tại ở Việt Nam, ước tính có khoảng 900.000 cửa hàng bán lẻ kinh
doanh theo kiểu hộ cá thể. Hàng hóa kinh doanh của những cửa hàng này thông
thường là những mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của dân cư. Tuy
nhiên, do khả năng về tài chính cũng như mặt bằng kinh doanh còn hạn chế nên
hầu như các cửa hàng này chỉ cung cấp một số ít hàng hóa có giá trị không cao.
Mặc dù vậy, đây vẫn đang là một trong những kênh phân phối hàng hóa quan
trọng có tỷ lệ tăng trưởng tham gia vào thị trường bán lẻ Việt Nam thời gian qua.
2.2.1.3 Hệ thống các chuỗi cửa hàng bán lẻ
Các loại hình cửa hàng bán lẻ, bán buôn tự chọn cũng tăng về số lượng,
quy mô và phương thức hoạt động theo hướng chuyên nghiệp hơn. Mô hình

18

“chuỗi” cửa hàng cũng đã xuất hiện. Ở các đô thị, xu hướng liên kết, sáp nhập,

mở rộng các cửa hàng nhỏ, lẻ diễn ra khá mạnh. Đáng chú ý là các cửa hàng bán
lẻ tự chọn và các cửa hàng phân phối, bán lẻ theo hình thức nhượng quyền
thương mại đã xuất hiện hơn 10 năm nay ở Việt Nam và ngày càng được giới
thương nhân trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả nước đã có
khoảng 70 hợp đồng nhượng quyền thương mại, trong đó Công ty Cà phê Trung
Nguyên rất thành công với hơn 1.000 cửa hàng nhượng quyền trong và ngoài
nước; Công ty An Nam mới triển khai hoạt động vài năm trở lại đây cũng đã
phát triển được 12 cửa hàng Phở 24 theo hình thức nhượng quyền. Nhiều công ty
trong và ngoài nước cũng đang có kế hoạch phát triển mạnh phương thức này
trong thời gian tới. Trong đó, đáng kể đến nhất là kế hoạch phát triển hệ thống
phân phối của Công ty trách nhiệm hữu hạn G7 (G7 Mart). Theo đó, trong năm
2006 đưa 3.500 cửa hàng tiện lợi vào hoạt động và đến hết năm 2010 sẽ có tổng
cộng 10.000 cửa hàng tiện lợi ra đời theo phương thức nhượng quyền.
2.2.1.4 Hệ thống siêu thị, các trung tâm thương mại
Cùng với sự phát triển của hệ thống chợ, trong thời gian qua, hệ thống
siêu thị đã phát triển với một tốc độ khá nhanh ở nước ta. Nếu như trước năm
2000, sự xuất hiện của các siêu thị, trung tâm thương mại chỉ là “lác đác” ở hai
thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì hiên nay nó trở nên phổ
biến và được đầu tư chuyên sâu. Số liệu của Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam
cho thấy, nếu như trong năm 2007 có 66% người tiêu dùng thỉnh thoảng mua
sắm tại siêu thị thì cuối năm 2008, con số này đã lên tới 96%. Theo số liệu thống
kê, đến hết năm 1995, cả nước chỉ có 10 siêu thị và 2 trung tâm thương mại; đến
hết năm 2006, cả nước có 265 siêu thị, phân bố trên 32 tỉnh thành thì đến hết
năm 2009, cả nước đã có 524 siêu thị, phân bố trên 59 tỉnh thành:

19

Bảng 4: Tổng hợp số liệu về siêu thị và trung tâm thƣơng mại trên cả nƣớc tính
đến 31/12/2009
Địa phương Siêu thị

Trung tâm thương
mại
Tổng số
Hà Nội 78 13 91
Đà Nẵng 24 2 26
Thành phố Hồ Chí
Minh
87 16 103
Các địa phương khác 256 47 304
Tổng số 445 78 524
Nguồn: Vụ kế hoạch và đầu tư – Bộ công thương

Về tính chất của hoạt động kinh doanh, có thể chia các siêu thị ở Việt
Nam hiện nay thành hai loại chủ yếu là: siêu thị kinh doanh tổng hợp (Liên hiệp
Hợp tác xã Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh Saigon Co.op Mart, siêu thị
Intimex, Big C...) và các siêu thị chuyên doanh (các siêu thị dệt may, siêu thị
điện máy, siêu thị điện lạnh...)
Về nguồn vốn và chủ thể đầu tư các siêu thị ở Việt Nam thời gian qua
cũng rất đa dạng, từ các doanh nghiệp nội địa có thương hiệu lâu năm như Tổng
công ty Thương mại Hà Nội Hapro, công ty TNHH Phú Thái... cho đến các tập
đoàn bán lẻ lớn nhất của các nước phát triển như Bourbon của Pháp, Metro Cash
& Carry của Đức, SeiYu của Nhật Bản...

2.2.2 Sự dịch chuyển cơ cấu thị phần giữa các doanh nghiệp bán lẻ
Trong tiến trình cạnh tranh và hội nhập, cơ cấu ngành bán lẻ Việt Nam
biến đổi sâu sắc: Từ chỗ chủ yếu do doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã, đơn

20

loại hình cho đến đa loại hình với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế: tư

nhân, Nhà nước, Hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nổi bật lên
là xu hướng chuyển dần về phía các kênh bán lẻ hiện đại và các doanh nghiệp
bán lẻ nước ngoài đang chiếm ưu thế.
2.2.2.1 Cán cân bán lẻ dịch chuyển dần về phía các kênh bán lẻ hiện đại
Bán lẻ hiện đại tại Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ và dần trở thành
một kênh tiêu dùng quan trọng. Kết quả điều tra của Công ty nghiên cứu thị
trường Taylor Nielsen Sofres TNS cho thấy, đến nay, thương mại hiện đại ở Việt
Nam đã chiếm 22% trên cả nước, riêng tỷ trọng này tại Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh lên đến 37 – 38%. Các cửa hàng trên phố chiếm 61%, hình thức chợ
chiếm 13%, các hình thức còn lại chiếm 7%. “Hình thức chợ và bán hàng truyền
thống sẽ gặp khó khăn trong vòng 10-20 năm tới”, ông Ralf Mattheas, Giám đốc
điều hành Công ty nghiên cứu thị trường Taylor Nielsen Sofres (TNS) Việt Nam
khẳng định. [31]
Bảng 5: Tổng hợp tỷ trọng kênh bán lẻ hiện đại trong tổng cơ cấu thị trƣờng bán
lẻ Việt Nam qua các năm
Năm Cả nước (%) Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (%)
2005 9 15
2006 11 19
2007 14 24
2008 17 27
2009 21 32
2010 (Dự kiến) 24 37
Nguồn: Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsen Việt Nam
Người Việt Nam đang dần chuyển đổi thói quen mua sắm tại các chợ
sang các hình thức thương mại hiện đại như siêu thị và cửa hàng tự chọn. Trong

21

vòng 4 năm từ 2003 đến 2007 số lượng người đi mua sắm theo hình thức thương
mại hiện đại tăng từ 41,7% lên 50,8%. Trong số đó có 30% đi mua sắm ở siêu

thị, 12% dùng hình thức siêu thị bán sỉ, 8% ở trung tâm thương mại, 2% ở siêu
thị nhỏ. Chi tiêu ở thương mại hiện đại đã gia tăng thường xuyên 17%/năm và
chi tiêu/lần là 87 nghìn đồng/lần. Khi thương mại hiện đại phát triển, người tiêu
dùng sẽ có nhiều hình thức mua sắm hơn để lựa chọn. Cùng với việc có nhiều
lựa chọn thì tính cạnh tranh sẽ cao hơn và như vậy giá cả có thể giảm đi hoặc
phải đưa ra nhiều tiện ích hơn cho khách hàng. Thương mại hiện đại sẽ phát triển
không chỉ vì sẽ có nhiều khách hàng hơn mà chính nhu cầu của khách hàng sẽ
tăng hơn. [31]
Tuy nhiên, theo Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, so với mức 33% tại
Philippines, 51% tại Trung Quốc, 34% tại Thái Lan, 60% tại Malaysia và 90%
tại Singapore, tỷ trọng kênh bán lẻ hiện đại của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp.
Mặc dù vậy, tiềm năng phát triển của bán lẻ hiện đại vẫn rất mạnh mẽ. Đó là nhờ
thu nhập và tiêu dùng của người dân ngày càng được cải thiện, phong cách sống
mới của con người hiện đại, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế và
đa dạng hóa các loại hình bán lẻ. Do tác động của khoa học công nghệ và thương
mại điện tử, người tiêu dùng Việt Nam bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến các
phương thức bán lẻ mới như bán hàng qua mạng Internet (online shopping), TV
shopping, qua điện thoại di động, qua catalogue, cửa hàng giá rẻ/giảm giá, bán
hàng đa cấp... Như vậy, trong tương lai gần, cùng sự hỗ trợ của thị trường trong
nước và nước ngoài, bán lẻ hiện đại Việt Nam sẽ trở thành kênh tiêu dùng quan
trọng nhất của người dân, đồng thời là nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của
ngành bán lẻ Việt Nam.
2.2.2.2 Doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đang dần chiếm ưu thế
Từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, bán lẻ có vốn nước ngoài tăng

22

trưởng rất nhanh, đặc biệt là Quí I năm 2010 tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng bình
quân chung. Kể từ 1994, một xu thế chung là các nhà phân phối nước ngoài ngày
càng có tỉ trọng cao hơn trước. Chỉ xét riêng năm 2009 và quý I năm 2010, cơ

cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đã tăng từ 2,6 lên
2,9%:
Bảng 6: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Thời
gian
Khu vực
Tổng số (Triệu
đồng)
Cơ cấu
(%)
So với 2008
(%)
Năm
2009
Nhà nước 116.244 9,7 101,4
Tập thể 11.840 1,0 118,8
Tư nhân 374.870 31,3 122,9
Cá thể 663.234 55,4 120,3
Có vốn đầu tư nước
ngoài
31.292 2,6 109,5
Tổng cộng 1.197.480 100 118,6
Quý I
năm
2010
Nhà nước 48.279 9,9 140,4
Tập thể 5.060 1,0 134,1
Tư nhân 257.563 52,8 137,3
Cá thể 162.603 33,4 115,7
Có vốn đầu tư nước

ngoài
14.012 2,9 130,3
Tổng cộng 487.517 100 125,0
Nguồn: Tổng cục thống kê

Có thể nhận thấy, từ trước khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều tập đoàn
phân phối lớn đã có mặt tại Việt Nam như: Metro Cash & Carry, Bourbon, Zen

23

Plaza... Nhiều thương hiệu nổi tiếng đã có mạng lưới hoạt động tương đối tốt với
số lượng các trung tâm thương mại đáng nể. Năm 2009, dù khủng hoảng kinh tế
toàn cầu nhưng trên thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn xuất hiện thêm nhiều thương
hiệu quốc tế mới như Naf Naf, Morgan de Toi, Mexx, Aldo, Hard Rock Café,
Debenhams... Khi “đặt chân” vào Việt Nam, các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đều
nuôi tham vọng bành trướng quy mô hoạt động, vì vậy ngoài các thành phố có
sức mua lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các nhà bán lẻ này còn đang
mở rộng phạm vi hoạt động đến các tỉnh thành tại miền Trung, miền Tây... Điển
hình là trong tháng 4/2010, Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang đã bàn giao mặt
bằng khu bến xe Long Xuyên cho Metro để xây dựng siêu thị phân phối hàng
hóa tại tỉnh này, nâng mạng lưới Metro tại Việt Nam thành 9 điểm trong thời
gian tới. Tương tự, Lotte Mart cũng đang đầu tư thêm những dự án xây dựng
Trung tâm thương mại Lotte góp phần thực tiễn hóa chiến lược và phát triển hệ
thống với mục tiêu 15 trung tâm trong vòng 10 năm tới. [28]
Sự xuất hiện của các nhà bán lẻ nước ngoài đã tạo nên một luồng gió mới,
thay đổi diện mạo của ngành dịch vụ bán lẻ Việt Nam, tạo thêm nhiều lựa chọn
hơn cho người tiêu dùng, đồng thời đưa các doanh nghiệp bán lẻ nội địa vươn
lên, chấp nhận cạnh tranh lành mạnh.

3 SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN CÁC NHÀ BÁN LẺ NỘI ĐỊA

3.1 Phát triển để phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của ngƣời dân
Mức sống của người dân Việt Nam đang được nâng cao đáng kể cùng
với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tỷ lệ quỹ tiêu dùng cuối cùng so với
GDP của nước ta thuộc loại cao so với các nước trong khu vực (trên 70%) trong
khi của Singapore là 55,9%, Malaysia là 58,2% và Thái Lan là 67,7%. Tỷ lệ tổng
mức bán lẻ hàng hóa so với quỹ tiêu dùng cuối cùng ngày càng tăng lên nhanh

24

chóng, từ năm 65,5% năm 1998 lên tới 82,1% năm 2005 và chỉ giảm nhẹ xuống
mức 81% năm 2008:
Bảng 7: So sánh tổng mức bán lẻ hàng hóa với quỹ tiêu dùng cuối cùng thời kỳ
1998-2008
Năm
Quỹ tiêu dùng cuối
cùng (Tỷ đồng)
Tổng mức bán lẻ
hàng hóa (Tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
1998 283.444 185.598,1 65,5
1999 301.690 200.923,7 66,6
2000 321.853 220.410,6 68,5
2001 342.607 245.315 71,6
2002 382.137 280.884 73,5
2003 445.221 333.809,3 75,0
2004 511.221 398.500 77,9
2005 584.800 480.300 82,1
2006 650.300 530.340 81,6
2007 720.410 580.200 80,5
2008 800.260 642.010 81,0

Nguồn: Tổng cục thống kê
Trước thực trạng xu hướng chung của tiêu dùng Việt Nam và đầu tư của
các nhà bán lẻ nước ngoài ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp nội địa càng cần
phải đẩy mạnh quy mô, năng lực kinh doanh cũng như cạnh tranh của mình để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Khi thu nhập tăng thì nhu cầu
mua sắm tại các kênh phân phối bán lẻ hiện đại cũng tăng. Thông thường cứ 100
nghìn dân cần có một trung tâm thương mại lớn, cứ 10 nghìn dân cần có một siêu
thị và cứ 1000 dân cần ít nhất từ 1-3 cửa hàng tiện ích. Nhưng tại hai thành phố
lớn nhất của nước ta là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, con số này đang là 30

25

Tỷ lệ lựa chọn các kênh phân phối của người tiêu dùng
Việt Nam
39%
25%
15%
11%
8%
2%
Cửa hàng chuyên nghiệp
Đại lý
Siêu thị
Tạp hóa
Chợ
Nơi khác
nghìn dân mới chỉ có một cửa tiệm bán lẻ hiện đại. Đo lường bán lẻ của Công ty
Nghiên cứu thị trường Nielsen cho biết: “Nếu so sánh số lượng 400 của hiệu tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với khoảng 16 triệu người sinh sống thì con
số này là quá thấp”. Trong khi đó, nghiên cứu của Công ty tư vấn Mỹ Nielsen

cũng đã chỉ ra: Ở Việt Nam, số lượng người thỉnh thoảng đi mua sắm ở các siêu
thị đã tăng thêm 40% từ mức 66% trong năm 2007 lên 96% vào năm 2008. Số
người dân sử dụng các kênh siêu thị là kênh mua sắm chủ yếu của mình đã tăng
từ 11% (năm 2007) lên 21% trong 2008. Tần suất mua sắm tại các cửa hàng tiện
ích, siêu thị cũng ngày càng tăng, từ 2 lần/tháng trong giai đoạn 2005 – 2007, lên
3 lần/tháng trong năm 2008, và nâng lên 4 – 5 lần/tháng trong năm 2009. [33]
Biểu đồ 2: Tỷ lệ lựa chọn các kênh phân phối của ngƣời tiêu dùng Việt Nam








Nguồn: Tạp chí Sài Gòn tiếp thị, số 235, Tỷ lệ lựa chọn các kênh phân phối của người
tiêu dùng Việt Nam, ra ngày 24/3/2006
Nhìn chung, tỷ lệ mua sắm tại các kênh phân phối hiện đại như siêu thị,
cửa hàng chuyên nghiệp ở mức khá cao. Yêu cầu của người tiêu dùng cũng ngày
càng khắt khe hơn. Vì thế, việc các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tập trung phát
triển kênh bán lẻ hiện đại sẽ làm cho việc cung cấp hàng hóa trên thị trường ngày
càng đa dạng và phong phú, các phương thức kinh doanh cũng được mở rộng,

×