Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Báo cáo KH: "KIẾN TRÚC CỔ HÀ NỘI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.17 KB, 83 trang )








CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƢỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”

NĂM 2009






Tên công trình:
KIẾN TRÖC CỔ HÀ NỘI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH

BỀN VỮNG


Thuộc nhóm ngành
: XH2b















Hà Nội, tháng 8 năm 2009



TÓM TẮT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu gồm có ba phần chính:
Chƣơng I: Khái quát chung
Chƣơng II: Thực trạng hoạt động và bảo tồn của các công trình kiến trúc cổ
Hà Nội
Chƣơng III: Phát huy vai trò kiến trúc cổ Hà Nội trong phát triển du lịch bền
vững
Trong chương I, nhóm đi sâu vào nghiên c ứu các khái niệm cơ bản có liên
quan đến đề tài nghiên cứu như: kiến trúc, kiến trúc cổ, phát triển du lịch bền vững...
Trong khi nghiên cứu các khái niệm, phạm trù này, nhóm đã phân loại các công trình
kiến trúc cổ theo các thời kỳ lịch sử nối tiếp nhau và làm rõ ý nghĩa lịch sử- văn hóa
của các công trình kiến trúc cổ, cũng như vai trò của các công trình này đối với phát
triển du lịch bền vững.
Chương II là những phân tích, đánh giá sát thực về thực trạng hoạt động và
bảo tồn các công trình kiến trúc cổ ở Hà Nội hiện nay. Thực trạng hoạt động của các
công trình kiến trúc cổ Hà Nội được phân loại và nghiên cứu theo giá trị sử dụng
chính của công trình. Thực trạng công tác bảo tồn các công trình kiến trúc cổ Hà Nội
được nhìn nhận dưới góc độ những mặt tích cực đã làm được và những điểm còn hạn

chế. Qua chương II, người đọc sẽ hình dung được một cách rõ ràng rằng mặc dù các
công trình kiến trúc cổ Hà Nội có vai trò quan trọng không chỉ trong đời sống hằng
ngày của người dân mà còn trong việc phát triển du lịch, nhưng việc khai thác và sử
dụng cũng như quá trình bảo tồn, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp các công trình này còn
nhiều bất cập.
Trong chương III, nhóm nghiên cứu đưa ra những giải pháp cho công tác bảo
tồn cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các công trình kiến trúc cổ Hà Nội.
Các nhóm giải pháp bảo tồn được đề ra trên cơ sở khắc phục những tồn tại trong
công tác bảo tồn, tiếp tục đẩy mạnh những giải pháp hữu hiệu đã được thực hiện
cũng như đưa ra các giải pháp mang tính đột phá. Các nhóm giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của các công trình kiến trúc cổ trong phát triển du lịch bền
vững được đề ra trong ngắn hạn và dài hạn, với những giải pháp từ tổng quan đến chi
tiết, có tính khả thi cao.
Công trình nghiên cứu “Kiến trúc cổ Hà Nội với phát triển du lịch bền vững”,
với
kết cấu ba chương rõ ràng, đã làm rõ những khái niệm có liên quan, đưa ra
những
phân tích, nhận định xuất phát từ thực tế hoạt động và bảo tồn các công trình kiến trúc cổ
Hà Nội, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp có tính khả thi cao cho công tác bảo tồn và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các công trình này.




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nội dung hoàn chỉnh

United Nations Educational Scientific and Cultural
UNESCO

Organization

UBND Uỷ ban nhân dân

GDP Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)

USD United States dollar (đô la Mỹ)

GS.TS Giáo sư. Tiến sĩ

ATM Automatic Teller Machine (máy rút tiền tự động)

Asia-Pacific Economic Cooperation (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
APEC
Châu Á - Thái Bình Dương)

ASEM The Asia-Europe Meeting (Diễn đàn hợp tác Á - Âu)

VN Việt Nam









MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƢƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG 2
I. Kiến trúc cổ 2
1. Khái niệm Kiến trúc cổ và phân loại Kiến trúc cổ Hà Nội 2
2. Ý nghĩa lịch sử, văn hoá của các công trình kiến trúc cổ ở Hà Nội 7
II. Du lịch bền vững 11
1. Khái niệm du lịch bền vững và nhân tố để phát triển du lịch bền vững 11
2. Vai trò của kiến trúc cổ Hà Nội trong phát triển du lịch bền vững 13
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ BẢO TỒN CÁC CÔNG TRÌNH
KIẾN TRÖC CỔ HÀ NỘI 17
I. Thực trạng hoạt động của các công trình kiến trúc cổ Hà Nội 17
1. Thực trạng hoạt động của các công trình kiến trúc cổ phục vụ mục đích tâm linh 17

2. Thực trạng hoạt động của các công trình kiến trúc cổ được dùng làm nhà ở và nơi
làm việc 21
3. Thực trạng hoạt động du lịch tại các công trình kiến trúc cổ Hà Nội 26
II. Thực trạng việc bảo tồn các công trình kiến trúc cổ ở Hà Nội 31
1. Những mặt tích cực trong quá trình bảo tồn kiến trúc cổ 31
2. Những mặt hạn chế trong công tác bảo tồn kiến trúc cổ Hà Nội 35
CHƢƠNG III. PHÁT HUY VAI TRÕ KIẾN TRÖC CỔ HÀ NỘI TRONG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 43
I. Giải pháp để bảo tồn các công trình kiến trúc cổ ở Hà Nội 43
1. Nhóm giải pháp bắt nguồn từ thực trạng bất cập 43
2. Nhóm giải pháp phát huy những nhân tố tích cực đã được hình thành 53
II. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công trình kiến trúc cổ
trong phát triển du lịch bền vững 60
1. Những giải pháp trong ngắn hạn 60
2. Những giải pháp trong dài hạn 63
KẾT LUẬN CHUNG 76




-1-

LỜI NÓI ĐẦU
Hà Nội- thủ đô ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ anh tài nhân kiệt, nơi chắt lọc
văn hóa Việt xưa cũng như nay. Vẻ đẹp tinh tế của Hà Nội được ghi nhận trong từng
góc khuất phố cổ, những biệt thự thời Pháp thuộc, trong nét cổ kính mà thâm nghiêm
của đình chùa miếu mạo thời Lý, Trần... Cùng với tốc độ đô thị hoá, hiện đại hoá, Hà
Nội đang ngày càng hiện đại hơn, ồn ào hơn nhưng vẻ đẹp kiến trúc cổ Hà Nội vốn
từ lâu hấp dẫn du khách nước ngoài đang ít nhiều bị xâm hại. Hiện nay, bảo tồn kiến
trúc cổ là một trong những vấn đề mà nhân loại quan tâm, điển hình là tổ chức
UNESCO của Liên hợp quốc với các hoạt động như Diễn đàn UNESCO về “Bảo tồn
các di tích lịch sử tại đô thị”, hay diễn đàn toàn cầu “Trường đại học và di sản”, v.v...
Nhiều nước trên thế giới cũng coi việc bảo tồn các kiến trúc cổ cũng là một nội dung
quan trọng trong chiến lược phát triển văn hoá dân tộc của mình.
Vậy nên, để hướng tới lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, việc gìn giữ vẻ đẹp
cho các công trình kiến trúc cổ Hà Nội là vô cùng cần thiết và là trách nhiệm của
mọi người dân để Hà Nội thực sự ghi dấu ấn trong những trái tim Việt Nam và bạn
bè quốc tế.
Trước những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, các cơ quan chức năng, các
chuyên gia trong và ngoài nước, người dân Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng,
đã và đang có những hành động tích cực nhằm bảo tồn, tôn tạo và phát huy vẻ đẹp
kiến trúc, giá trị lịch sử- văn hóa của những công trình kiến trúc cổ Hà Nội. Bên
cạnh đó, công tác bảo tồn di sản cũng còn tồn tại nhiều hạn chế do gặp phải những
khó khăn, thách thức cả khách quan lẫn chủ quan. Vì vậy, nhóm chọn đề tài “Kiến
trúc cổ Hà Nội với phát triển du lịch bền vững” cho công trình nghiên cứu khoa
học của mình với mong muốn đem lại một cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng bảo
tồn và sử dụng các công trình kiến trúc cổ ở Hà Nội, trên cơ sở đó tìm ra những giải
pháp để bảo tồn và phát huy giá trị của những công trình đó.




-2-

CHƢƠNG I.
KHÁI QUÁT CHUNG


I. Kiến trúc cổ
1. Khái niệm Kiến trúc cổ và phân loại Kiến trúc cổ Hà Nội
1.1. Khái niệm Kiến trúc cổ
Thuật ngữ kiến trúc (trong xây dựng) thường được sử dụng một cách truyền
thống để chỉ những thiết kế và cấu trúc thật sự mang ý nghĩa quan trọng về mặt văn
hóa. Ngày nay, nhiều người cho rằng một công trình xây dựng tốt phải thỏa mãn ít
nhất ba điều kiện: đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng đã định, có kết cấu kỹ thuật tốt, và
phải truyền tải được những giá trị thẩm mỹ. Nhưng, những công trình xây dựng tốt
nhất thường được thi công một cách hoàn hảo đến mức chúng tồn tại lâu hơn rất
nhiều so với giá trị sử dụng ban đầu của chúng. Những công trình đó trường tồn
cùng thời gian, nó vừa mang giá trị thẩm mĩ, vừa là những tư liệu về lịch sử phát
triển của các nền văn hóa, là những thành tựu trong lĩnh vực kiến trúc đại diện cho
xã hội đương thời đã sản sinh ra chúng. Những công trình kiến trúc ấy không bao giờ
là thành quả lao động của một cá nhân đơn lẻ. Kiến trúc là một loại hình nghệ thuật
mang tính xã hội. Kiến trúc phải được sinh ra từ tình yêu nghệ thuật và đam mê
hướng tới cái đẹp.
Kiến trúc cổ là những nét kiến trúc lâu đời, được gìn giữ qua những di tích lịch
sử còn sót lại. Kiến trúc cổ phản ánh trình độ văn hoá, những phong tục tập quán sinh hoạt
và cả những truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước. Như vậy, không phải bất cứ
công trình xây dựng nào có tuổi đời lâu năm cũng được gọi là công trình kiến trúc cổ- bên
cạnh giá trị lịch sử, công trình đó phải mang giá trị văn hóa- kiến trúc đặc trưng và độc

đáo của xã hội đương thời.



-3-

1.2. Các loại hình kiến trúc cổ cơ bản ở Hà Nội
Từ những khi chưa là thủ đô, Thăng Long - Hà Nội cổ xưa đã là một vùng
dân cư đông đúc. Kiến trúc được hình thành từ những thời vua Hùng dựng nước.
Dưới thời An Dương Vương, người Việt cổ đã biết tổ chức đắp những thành đất to
cao lớp trong lớp ngoài, và dấu tích còn lại ngày nay của thành Cổ Loa vẫn khiến
nhiều người kinh ngạc. Từ năm 1010, khi Thăng Long được chọn làm kinh thành,
việc xây dựng các công trình kiến trúc và điêu khắc mới thực sự được chú ý và phát
triển. Trải qua 1000 năm, nhắc đến Thăng Long Hà Nội là gợi đến trung tâm văn hoá
lịch sử của đất nước với nét cổ kính ẩn trong những ngôi nhà, những đền chùa mang
dáng dấp kiến trúc đặc sắc. Trải qua chiến tranh, nhiều di tích lịch sử đã bị tàn phá
nhưng vẫn còn lại không ít công trình kiến trúc cổ có giá trị. Căn cứ vào thời điểm
xây dựng cũng như phong cách kiến trúc, có thể chia các công trình kiến trúc cổ ở
Hà Nội làm hai nhóm cơ bản: Nhóm kiến trúc thời kỳ phong kiến và nhóm kiến trúc
thời kỳ Pháp thuộc.
a. Kiến trúc thời kỳ phong kiến (1009- 1873)

Kiến trúc thời Lý (1009- 1225)
Kiến trúc thời nhà Lý được hình thành
và phát triển vào khoảng thế kỷ XI và XII. Có
thể nói những di tích kiến trúc thời Lý là nét
kiến trúc lâu đời nhất còn sót lại của Thăng
Long - Hà Nội. Các công trình kiến trúc thời
Lý có lâu đài, cung điện, thành luỹ, đền miếu
thờ các anh hùng dân tộc, và phổ biến hơn cả là

các chùa tháp.
Kiến trúc thời Lý mang những đặc điểm cơ
bản như:
- Kiến trúc thời Lý thiên về kiến trúc chùa tháp cũng do chịu ảnh hưởng nhiều của
Phật giáo thể hiện qua việc xây dựng và trùng tu hàng loạt chùa như Chùa Một Cột,
Chùa Trấn Quốc, Chùa Keo, Chùa Thầy…



-4-
- Kiến trúc thời Lý có đặc điểm là thể hiện phong cách chắc khoẻ và hài hoà với
cảnh trí thiên nhiên. Chùa chiền thời Lý có quy mô rộng lớn, bố cục vuông vức, tiền thân
của kiểu kiến trúc chữ “quốc” sau này, kiểu dáng chùa chiền mềm mại, mái cong vút và
thon thả.
- Về hình thức, kiến trúc thời Lý mang tính quần thể cao; hình thức kiến trúc
và chi tiết kiến trúc giàu sức biểu hiện. Hoa văn hoạ tiết trong kiến trúc thời Lý gắn
bó với thiên nhiên và cuộc sống đời thường nhưng mang tính nghệ thuật cao. Hoa
văn trang trí thường là hình ảnh hiên nhiên, động vật hoặc hình ảnh con người và
mang nét mềm mại, thanh thoát, đặc trưng nhất là hình tượng con rồng. Phường phố,
chợ quán, nhà đất và nhà sàn trong mảng kiến trúc dân gian phát triển song song với
kiến trúc cung đình.
Một số công trình mang nét kiến trúc thời Lý ở Hà Nội là đền Quán Thánh
(Trấn Vũ Quán), Chùa Một Cột, đền Bạch Mã, hoàng thành Thăng Long và một số di
tích trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Kiến trúc thời Trần (1226- 1400)

Kiến trúc thời nhà Trần
hình thành và phát triển từ
khoảng những năm 1230 sau khi

nhà Trần ra đời thay thế nhà Lý,
và bị thay thế cùng với sự suy tàn
của triều đại Trần vào cuối thế kỷ
XIV. Kiến trúc chủ yếu của thời
nhà Trần là cung điện, chùa tháp,
nhà ở, một số đền và thành
quách.
Kiến trúc thời Trần mang những đặc điểm như:
- Kiến trúc mang nặng phong cách Phật giáo, đền chùa được chú trọng phát triển
trong thời kỳ này.



-5-
- Được phát triển trên cơ sở kế thừa những nét tiêu biểu của kiến trúc thời Lý
thể hiện ở việc xây dựng cung điện đồ sộ, nhiều tầng và có thêm những dãy hành
lang rộng, lan can bao quanh. Kiến trúc bề thế nhằm chứng tỏ uy quyền phong kiến.
- Hoa văn trong kiến trúc thời Trần vẫn kế tiếp những giá trị thời Lý nhưng giản
dị hơn, mang tính phóng khoáng của đường nét dân gian, đời thường và chắc
khoẻ hơn
chứ không bay bổng và uốn lượn nhiều như hoa văn thời Lý. Nếu hình
tượng con rồng
thời Lý gần gũi với hình tượng con rắn, uốn lượn mềm mại thì hình tượng con rồng thời
Trần có thân hình chắc nịch. Hình các con thú chạm khắc thời Trần thường là hình khối
rắn chắc.
Một số công trình mang nét kiến trúc thời Trần tiêu biểu ở Hà Nội là những
công trình kiến trúc Phật giáo như: Chùa Ngọc Hồi, chùa Kim Liên (chùa Đống
Long)…

Kiến trúc thời Lê sơ (1428- 1527)

Nhà Lê lên nắm quyền vào đầu thế kỷ XV. Nhà nước phong kiến Lê Sơ được
thành lập trong bối cảnh nền văn hóa bị
hủy hoại nghiêm trọng, xã hội đầy rẫy
những khó khăn. Hai mươi năm giặc
Minh đô hộ, những công trình Phật giáo
nổi tiếng một thời như chùa Long Đọi,
tháp Chương Sơn… đều bị phá hủy. Hệ
tư tưởng thống trị của triều đình thời Lê
Sơ là Nho giáo, Phật giáo cùng các tôn
giáo khác lâm vào cảnh tưởng chừng
như suy tàn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kiến trúc thời Lê.
Kiến trúc thời Lê mang những đặc điểm cơ bản như:
- Kiến trúc ghi nhận hai loại hình chủ yếu là cung điện và lăng tẩm (ra đời và
phát triển rầm rộ theo thiết chế Khổng giáo). Do ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc và
Phật giáo suy tàn trong thời kỳ này nên chùa chiền không được chú trọng phát triển.
- Kiến trúc thời Lê về cơ bản kế tục kiến trúc dân gian thời Lý, Trần với
phong cách hồn nhiên tươi mát nhưng đã phần nào thể hiện uy quyền phong kiến qua



-6-
những hình tượng trang trí trong kiến trúc. Ví dụ hình tượng con rồng trong hoa văn
trang trí của các công trình kiến trúc thời Lê không mềm mại và gần gũi với đời
thường như con rồng thời Lý, Trần mà chuyển thành con vật dữ tợn, mình mập, đầu to,
bờm như sư tử, chân năm móng quặp vào như chân diều hâu, tượng trưng cho uy quyền
của giai cấp thống trị.
Những công trình kiến trúc thời Lê tiêu biểu ở Hà Nội gồm Chùa Quán Sứ,
điện
Kính thiên (nằm trong thành Hà Nội cũ, phía Bắc Cột cờ, quận Ba Đình, Hà
Nội, dựng

vào năm 1428), đàn Nam Giao (khu vực Đống Đa, Hà Nội).
 Kiến trúc thời kỳ Lê- Trịnh, Tây Sơn và đầu triều Nguyễn (1593- 1865)
Nhìn chung bối cảnh thời kỳ này, quyền lực của giai cấp phong kiến đã phần
nào suy yếu cùng với sự liên tục thay đổi các triều đại cầm quyền trong thời gian
ngắn. Do đó, đây là thời kỳ nghệ thuật dân gian phát triển mạnh mẽ. Kiến trúc mang
tính hiện thực cao, giản dị, bớt đi nét tỉ mỉ mà thay vào đó là cảm hứng từ cuộc sống
đời thường bình dị của người lao động phản ánh trong những đường nét hoa văn ,
hoạ tiết dân dã, chắc khoẻ. Về cơ bản, kiến trúc thời kỳ này kế tục kiến trúc thời
Trần nhưng thể hiện nhiều ở việc xây dựng các đình, chùa, đền mang phong cách
dân gian. Kiến trúc thể hiện uy quyền của giai cấp thống trị như lăng mộ mang tính
chất khô khan thiếu sức sống không được chú trọng trong thời kỳ này.
Một số công trình kiến trúc tiêu biểu trong thời gian từ thế kỷ XVI đến đầu thế
kỷ XIX còn được lưu giữ ở Hà Nội gồm Khuê Văn Các (trong Văn Miếu - Quốc Tử
Giám), đền Ngọc Sơn (thế kỷ XIX), chùa Liên Phái...
b. Các công trình kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc (1858- 1945)
Không thể phủ nhận một điều rằng kiến trúc thời Pháp thuộc là một phần đặc
sắc của kiến trúc Hà Nội, mang nét sang trọng, kiêu kỳ và lãng mạn. Khác với kiến
trúc thời kỳ phong kiến, kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc mang quy mô lớn, đồ sộ với
một phong cách hoàn toàn khác cả về hình dáng cũng như hoạ tiết trang trí lẫn bố
cục bên trong. Do được xây dựng khá kiên cố và còn tương đối mới (đa phần vào
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), các công trình kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc còn lại
tương đối nhiều và vẫn giữ nguyên những giá trị vốn có của nó. Kiến trúc Pháp có
thể chia làm hai thể loại:



-7-

 Những công trình kiến trúc thời kỳ đầu của công cuộc khai thác thuộc địa
Kiến trúc thời kỳ này mang đậm nét châu Âu, đường nét kiến trúc cầu kỳ, tinh xảo.

Nét nổi bật của kiến trúc là kiến trúc độc đáo của mái vòm, cột và những đường nét hoa
văn trang trí tinh tế ở những thành bậc cửa sổ, mái, ban công mang đậm hơi
hướng của
tôn giáo phương Tây. Các công trình xây dựng thời kỳ này thường có
hình khối đồ sộ
và mang vẻ đẹp của kiến trúc cổ điển thuần tuý, mang tính đối xứng cao. Tiêu biểu cho
kiến trúc thời kỳ này có Nhà hát lớn Hà Nội, Phủ Chủ tịch, Nhà khách Chính phủ, Toà án
tối cao...
 Những công trình kiến trúc được xây dựng trong giai đoạn 1920-1945
Thời kỳ này, các công trình kiến trúc do Pháp xây dựng đã hài hoà hơn với điều
kiện tự nhiên của thuộc địa. Kiến trúc về cơ bản vẫn phóng khoáng, đồ sộ, cao ráo và
mang màu sắc sáng sủa nhưng đã bớt đi những hoạ tiết kết cấu cầu kỳ. Nhìn chung kiến
trúc giai đoạn này mang phong cách sang trọng, đơn giản và xen lẫn một số nét Á Đông
như sự xuất hiện của mái ngói, cửa sổ vuông rộng. Kiến trúc không nhấn mạnh vào sự
đối xứng mà biến tấu hài hoà, chan hoà với tự nhiên.Tiêu biểu cho kiến trúc thời kỳ này là
Đại học tổng hợp Hà Nội, toà nhà Bộ Ngoại giao, Bảo tàng lịch sử, Viện Pasteur, nhà thờ
Cửa Bắc...
Ngoài ra, kiến trúc cổ thời kỳ Pháp thuộc còn ghi nhận khoảng hơn 900 biệt thự
cổ ở Hà Nội, hiện nay một phần bị cắt xẻ ra thành những khu nhà đông dân cư, một
phần được sử dụng làm tư dinh của những lãnh đạo cao cấp hoặc các trụ sở, cơ quan nhà
nước và các đại sứ quán.
2. Ý nghĩa lịch sử, văn hoá của các công trình kiến trúc cổ ở Hà Nội
Trước hết phải khẳng định rằng kiến trúc và văn hoá lịch sử có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Khách du lịch không bị hấp dẫn bởi một công trình kiến trúc
chỉ vì vẻ bề ngoài của nó. Cái làm nên sự lôi cuốn cho kiến trúc cổ chính là chiều sâu
văn hoá lịch sử. Điều gì khiến cho những viên gạch đã phủ kín rêu và xỉn màu lại có
thể được coi là đẹp? Điều gì khiến cho nhà nước phải tiêu tốn hàng trăm tỉ đồng để
bảo tồn những khu di tích đã nứt rạn theo thời gian? Có nhiều câu hỏi được đặt ra
như vậy và chỉ có thể tìm câu trả lời bằng những dày công nghiên cứu nhằm mục
đích giải mã sự hấp dẫn của kiến trúc cổ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.




-8-

2.1. Kiến trúc cổ là hiện thân của lịch sử
Con người Việt Nam, những thế hệ đi sau, lúc nào và bao giờ cũng luôn mong
muốn tìm hiểu về lịch sử của cha ông. Đã từng có nhận định rằng: lịch sử chính là
tương lai của bản thân. Nghiên cứu lịch sử không phải là để thẩm định lại quá khứ,
mà là tìm định hướng cho sự phát triển của chính bản thân và xã hội. Những dấu tích
còn sót lại của lịch sử, dù là nhỏ nhất, cũng rất đáng quý và được coi là tài sản lớn
của quốc gia.
Có nhiều minh chứng của lịch sử còn sót lại cho đến ngày nay. Lịch sử tái
hiện qua những tài liệu, những di sản văn hoá, cổ vật, kiến trúc…Trong đó, kiến trúc
cổ có một vai trò hết sức quan trọng. Cùng với thời gian, nhiều tài liệu cổ để lại đã bị
hư hỏng nặng hoặc bị biến tấu mất gốc. Di sản văn hoá như nhã nhạc cung đình, các
món ăn dân tộc… qua nhiều thế hệ cũng mai một dần và biến đổi nhiều. Kiến trúc cổ
có lẽ là một trong những thành phần hiếm hoi của lịch sử tồn tại xuyên thời gian và
là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. Trải qua nhiều năm tháng với
chiến tranh tàn phá và nhiều lần trùng tu, tôn tạo, nhiều công trình kiến trúc cổ đã
không còn giữ được vẻ nguyên bản như thời được xây dựng, nhưng những gì còn lại
như mảnh gạch, hoa văn, thềm đá, mái ngói…vẫn là những bằng chứng vô cùng quý
giá tái hiện một giai đoạn lịch sử nhất định.
Kiến trúc cổ gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Nhiều công trình kiến trúc cổ được các triều đại vua chúa xây dựng để kỷ niệm các
sự
kiện trọng đại, những trận đánh lớn hoặc để thờ những người có công với đất
nước…Ví dụ như chùa Trấn Quốc cổ nhất Hà Nội được xây dựng dưới thời Lý Nam Đế
và được gọi là chùa Khai Quốc để kỷ niệm sự kiện Vua Lý Bí đánh thắng nhà
Lương

đô hộ khai sinh ra nước Vạn Xuân năm 544. Chùa Lý Quốc Sư được xây
dựng dưới
thời Lý để thờ Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không…
Kiến trúc cổ còn phản ánh đặc điểm kinh tế- xã hội của từng thời kỳ khác
nhau. Nước ta đã trải qua nhiều thời kỳ chiến tranh, sự hưng thịnh rồi suy vong của
các triều đại phong kiến. Điều này khiến cho các công trình kiến trúc còn tồn tại có
đặc điểm nổi bật là trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Chính vì thế, các công trình
kiến trúc cổ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng mang trên mình dấu ấn của



-9-
nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Kiến trúc còn là bức tranh toàn cảnh cho sự phát
triển
của đất nước qua các thời kỳ. Ví dụ như dưới thời Lý, Trần, đất nước phát triển
hưng
thịnh nên các công trình kiến trúc có quy mô bề thế, hoa văn hoạ tiết mang màu sắc
thiên nhiên vui tươi sống động hoặc lấy cảm hứng từ cảnh sinh hoạt yên
bình của
người dân. Sang đến thời Lê, đất nước vừa trải qua ách đô hộ của nhà
Minh, Lê Lợi
đã đấu khởi nghĩa giải phóng đất nước, kiến trúc mang nặng uy quyền phong kiến. Đến
những thời kỳ sau, giai cấp phong kiến yếu thế, kiến trúc nổi lên là kiến trúc mang phong
cách dân gian, đơn gi ản.
2.2. Kiến trúc cổ là di sản văn hóa to lớn
Không chỉ là minh chứng cho từng thời kỳ lịch sử, các công trình kiến trúc cổ còn
là hiện thân của những giá trị văn hoá truyền thống.
Trước hết, kiến trúc cổ phản ánh đặc điểm địa lý và điều kiện sinh hoạt của
người Việt từ ngàn đời nay. Tại sao kiến trúc phong kiến Việt Nam lại khác kiến trúc
phong kiến ở Campuchia, Ấn Độ hay Châu Âu? Đó là vì kiến trúc mang những đặc

thù phù hợp với điều kiện sinh sống và trình độ dân trí của xã hội sản sinh ra nó. Việt
Nam thuộc miền khí hậu nhiệt đới, địa hình trải dài, phức tạp và hẹp với nhiều kênh
rạch, sông suối, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Hồng. Đặc điểm địa lý như vậy
cũng tác động đến kiến trúc. Kiến trúc cổ Việt Nam xây dựng có xu hướng chan hoà
với thiên nhiên, nhà cổ hay chùa chiền, đình tháp thường được bao bọc với không
gian cây cối xanh mát. Kiến trúc cổ phổ biến với vật liệu tự nhiên thể hiện ở những
cột kèo, xà nhà bằng gỗ, sân gạch, mái ngói và bậc thềm cao. Kiểu xây dựng như vậy
giúp giảm bớt cái nóng về mùa hè và chống lại nguy cơ ngập úng mùa mưa. Thử so
sánh với lối kiến trúc cổ Châu Âu, cửa sổ thường dài và hẹp, thường là cửa kính để
đón ánh nắng vào sưởi ấm và ngăn bớt gió lạnh.
Kiến trúc cổ còn phản ánh những phong tục tập quán và nếp sinh hoạt truyền
thống của người Việt xưa. Kiến trúc cổ phong kiến Việt Nam qua nhiều đời thường
chan hoà gần gũi với thiên nhiên và con người. Hoa văn hoạ tiết trang trí thường lấy
bối cảnh từ thiên nhiên như hoa lá, chim muông ho ặc lấy cảm hứng từ sinh hoạt đời
thường của những người dân lao động. Những lễ hội truyền thống cũng được thể



-10-
hiện phần nào qua những bức vẽ, hoạ tiết trang trí hay những bức điêu khắc để lại.
Đó là những tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu nét văn hoá cổ xưa của cha ông.
Kiến trúc là sự thể hiện của tôn giáo và tín ngưỡng. Người Việt thường tâm
niệm “lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng đông”, đó là minh chứng lý giải vì sao đa
phần các công trình kiến trúc cổ đều đón hướng mặt trời mọc. Ngày nay, trong kiến
trúc nhà ở thông thường, một phần vì dân cư đông đúc, điều kiện bị hạn chế, một
phần những quan niệm khi xưa bị nhạt dần nên kiến trúc “quay 4 phương 8 hướng”,
không còn theo truyền thống nữa, nhưng những công trình kiến trúc cổ để lại từ xưa
thì vẫn giữ nguyên những nếp sinh hoạt như vậy. Các công trình kiến trúc cổ, dù nhỏ
nhất, đều được thiết kế xây dựng theo một quan niệm, tín ngưỡng, ý nghĩa nào đó.
Thử ví dụ đơn giản nhất: vì sao cầu Thê Húc (xây dựng vào năm 1865) lại được sơn

màu đỏ? Đứng ở góc độ thẩm mỹ mà xem xét không gian xung quanh thì có vè đó
là màu tất yếu để làm nổi bật cây cầu. Nhưng trên thực tế, màu sắc này mang nhiều
ý nghĩa hơn thế. Theo nghĩa xưa, Thê Húc có nghĩa là đón ánh sáng ban mai về miền
đất thánh thiện từ Đông sang Tây. Vì nghĩa ấy nên cầu được xây về hướng đông và
được sơn màu đỏ thể hiện màu của sự sống, của mọi nguồn hạnh phúc. Cầu Thê Húc
được xây dựng với ý nghĩa: “biểu tượng của mặt trời”. Sự hoà quyện của tôn giáo
vào kiến trúc cũng có thể thấy rõ qua các triều đại Việt Nam. Ví dụ như thời Lý-
Trần, Phật giáo phát triển nên kiến trúc phổ biến là kiến trúc chùa chiền, đình tháp
mang hơi hướng phật giáo. Đến thời kỳ Nho giáo thịnh hành, kiến trúc lại ảnh hưởng
sâu sắc đặc điểm kiến trúc Nho giáo, tuân theo những học thuyết của Khổng Tử từ
những cách bài trí đến hoa văn hoạ tiết, kết cấu xây dựng…Hay như thời kỳ thuộc
địa nửa phong kiến, kiến trúc ghi nhận một loại hình mới: kiến trúc theo lối kiến trúc
cổ châu Âu và mang nặng hơi hướng thiên chúa giáo thể hiện ở hoạ tiết trang trí, kết
cấu mái vòm…
Kiến trúc cổ ở Việt Nam và Hà Nội là sự hoà trộn của các nền văn hoá đa
dạng, phong phú. Đây là đặc điểm tạo nên sự độc đáo của kiến trúc cổ Hà Nội nói
riêng và Việt Nam nói chung. Quần thể kiến trúc Hà Nội có thể coi là độc đáo với sự
đan xen kiến trúc nhiều thời kỳ, của kiến trúc Phương Đông và kiến trúc Phương
Tây. Đã có thời kỳ, kiến trúc cổ thời Pháp thuộc để lại không được nhìn nhận với
đúng giá trị của nó vì bị xem là minh chứng của thời kỳ đô hộ. Nhiều nơi, nhân dân



-11-
phá bỏ các lô cốt, pháo đài… Nhưng nhìn chung, kiến trúc cổ để lại, dù trong hoàn cảnh
nào, cũng là những tài sản quý giá và đáng trân trọng.
2.3. Kiến trúc cổ mang ý nghĩa định hƣớng cho tƣơng lai
Kiến trúc cổ không chỉ có giá trị lưu giữ văn hoá lịch sử mà còn có tính định
hướng cho kiến trúc tương lai. Kiến trúc mỗi thời kỳ không phải là sản phẩm hoàn
toàn mới của con người thời kỳ đó. Kiến trúc, cũng như nhiều mặt khác của tự nhiên

và xã hội, phải dựa trên sự kế thừa những tinh hoa đã có của sự phát triển ngàn đời
và từ đó nâng lên cho phù hợp với từng hình thái kinh tế xã hội và sự tiến bộ của
nhân loại. Kiến trúc ngày nay có sự du nhập mạnh mẽ lối kiến trúc phương Tây với
những toà nhà hiện đại. Bên cạnh đó cũng có nhiều loại hình kiến trúc mới lạ không
theo phong cách nào. Tuy nhiên, kiến trúc cổ Việt Nam vốn hình thành qua nhiều
thời kỳ, triều đại phong kiến vẫn giữ nguyên giá trị định hướng của nó và phù hợp
với điều kiện khí hậu thời tiết và tập quán sinh hoạt. Kiến trúc cũng như mốt quần
áo, có sự quay vòng. Trong tương lai, kiến trúc hiện đại như hiện nay nhiều khả năng
sẽ kém thịnh hành và có xu hướng quay trở lại với nét kiến trúc truyền thống của
dân tộc.


II. Du lịch bền vững
1. Khái niệm du lịch bền vững và nhân tố để phát triển du lịch bền vững
1.1 Khái niệm du lịch bền vững
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới, nhu cầu đi lại giao lưu giữa các
quốc gia, giữa các nền văn hoá cũng ngày càng gia tăng. Đời sống vật chất được
nâng lên, con người có xu hướng tìm đến những giá trị văn hoá tinh thần để cân đối
giữa lao động và hưởng thụ. Tâm lý chung đó đã khiến cho ngành du lịch phát triển
nhanh chóng trong vài thập kỷ trở lại đây và trở thành ngành kinh tế quan trọng với
những đóng góp đáng kể trong GDP của nhiều quốc gia. Do đó, vấn đề phát triển du
lịch ngày càng được quan tâm nhiều và trở thành một trong những chính sách hàng
đầu. Tuy nhiên, thu hút du lịch trong thời gian ngắn hòng đạt được sự tăng trưởng
đáng nể là điều không khó. Phát triển du lịch bền vững mới là điều đáng lưu tâm.



-12-
Phát triển hiểu đơn giản là sự gia tăng, lớn lên về mọi mặt của một lĩnh vực
nào đó. Phát triển bao hàm tăng trưởng nhưng không phải cứ tăng trưởng thì có

nghĩa là phát triển. Tăng trưởng phải tạo ra sự biến đổi về mặt cơ cấu, nội hàm theo
chiều hướng tích cực mới được gọi là phát triển. Tuy nhiên, vấn đề chúng ta quan
tâm không đơn thuần là phát triển mà là phát triển bền vững. Vậy phát triển bền
vững là gì? Xin được trích dẫn nguyên văn khái niệm “Phát triển bền vững” trong
wikipedia. Theo đó, “ phát triển bền vững là một khái niệm nhằm định nghĩa một sự
phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải đảm bảo sự tiếp tục phát triển trong
tương lai xa.” Từ đó có thể hiểu rằng Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu
hiện tại của du khách và khai thác các vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng
đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ trong tương lai. Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản
lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng những nhu
cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá
trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống.
1.2. Những nhân tố để phát triển du lịch bền vững
Có nhiều nhân tố để phát triển du lịch nói chung, nhưng để phát triển du lịch bền
vững thì cần những nhân tố cơ bản sau:
- Tiềm năng của đất nước và con người: Du lịch để phát triển được thì trước hết
cần có tiềm năng phát triển du lịch. Tiềm năng này có thể là cảnh quan tự nhiên hoặc
chiều sâu văn hoá, lịch sử. Du lịch phát triển mà không dựa trên việc khai thác những
tiềm năng về con người, cảnh quan và văn hoá của đất nước mà mang tính nhân tạo
nhiều thì sẽ không thể phát triển bền vững trong tương lai.
- Chính sách khai thác và phát triển du lịch đúng đắn: Tiềm năng du lịch là
quan trọng nhưng chỉ là tiền đề cơ bản. Du lịch có phát triển hay không và phát triển
như thế nào, ồ ạt hay bền vững là phụ thuộc vào chính sách khai thác du lịch của mỗi
quốc gia. Trong số du khách đi tham quan có rất nhiều người mong muốn tìm hiểu
những khác biệt về thiên nhiên, văn hóa.. mà ở đất nước hay vùng sinh sống của họ
không có. Vấn đề là phải phát hiện ra bản sắc của đất nước con người, sự khác biệt
làm nên nét độc đáo cho nền văn hoá, lựa chọn đầu tư vào khía cạnh nào và đầu tư
như thế nào cho thích hợp thì mới có thể phát triển du lịch một cách bền vững.




-13-
- Nhận thức của chính người dân bản địa: Chính sách thu hút du lịch thuộc về chủ
trương của nhà nước nhưng du lịch chắc chắn sẽ kém hấp dẫn đi rất nhiều nếu thiếu đi
sự đón nhận nhiệt tình của chính người dân địa phương đó, đất nước đó. Du lịch bền
vững phụ thuộc rất nhiều vào môi trường du lịch. Muốn nâng cao vai trò và phát huy giá
trị của các công trình kiến trúc cổ Hà Nội trong con mắt của du khách
quốc tế thì trước
hết bản thân người dân phải cảm nhận được những giá trị đó.
Quảng bá du lịch
thông qua môi trường du lịch thuận lợi sẽ hiệu quả hơn việc tuyên truyền qua các phương
tiện thông tin đại chúng.
2. Vai trò của kiến trúc cổ Hà Nội trong phát triển du lịch bền vững
Hà Nội là trung tâm văn hoá của cả nước. Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà
Nội
đang đến rất gần, ai trong chúng ta cũng mong muốn tận dụng cơ hội này để
quảng bá
hình ảnh thủ đô ngàn năm văn hiến đến đông đảo bạn bè trên thế giới. Do
đó, phát triển
du lịch Hà Nội đang là vấn đề nhận được sự quan tâm sâu sắc của
chính quyền và
người dân trong nhiều năm trở lại đây. Tuy nhiên, du lịch Hà Nội nên và chỉ có thể
phát triển ở khía cạnh du lịch văn hoá. Chúng ta hãy thử lược qua một số lý do chính cho
nhận định trên.
Xét về tiềm năng phát triển du lịch văn hoá, Hà Nội có một bề dày lịch sử
cùng nhiều nét truyền thống đáng quý đã ăn sâu vào nếp sinh hoạt của dân cư. Hà Nội
cùng với Hội An là hai thành phố còn lưu giữ được những nếp nhà cổ, đặc biệt Hà Nội
độc đáo với sự đan xen của nhiều nền văn hoá, nhiều triều đại phong kiến, là nơi lý tưởng
đối với những ai có ham muốn tìm tòi, khám phá.
Bên cạnh đó, nếu không phát triển du lịch văn hoá, Hà Nội cũng không phải

nơi thích hợp để phát triển những loại hình du lịch khác. Thứ nhất, địa hình nhỏ hẹp,
dân cư đông đúc, nếp sinh hoạt mang tính cộng đồng với nhiều nếp nhà nhỏ, phố xá
nhà cửa san sát nên những loại hình du lịch với nhu cầu tìm đến một nơi an dưỡng
nghỉ ngơi sau khi làm việc căng thẳng như du lịch MICE hay du lịch sinh thái là
không thích hợp. Khu vực ngoài nội thành Hà Nội cũng đã phát triển du lịch sinh
thái trong nhiều năm gần đây nhưng chỉ thu hút đại bộ phận giới trẻ trong nước, còn
du khách nước ngoài hầu như không có. Như vậy, việc phát triển du lịch ở những
khu vực này chưa đáp ứng được nhu cầu du lịch sinh thái thực sự, chất lượng chưa



-14-
cao và không cạnh tranh được với nhiều địa phương khác trong cả nước và các quốc
gia trong khu vực. Thứ hai, Hà Nội là một thủ đô có bề dày văn hiến, mặc dù trong
thời kỳ hội nhập và phát triển nhanh chóng nhưng thói quen sinh ho ạt ồn ào, xô bồ
vẫn không phải là thích hợp trong thời đại hiện nay. Hà Nội chưa và không thể lại trở
thành một kinh đô thời trang hay một trung tâm mua sắm như Hồng Kông hay
Paris…với sự khác biệt văn hoá sâu sắc. Lối sống khẩn trương, ồn ào náo nhiệt
không phù hợp với những đặc thù, cảnh quan vốn có của Hà Nội. Nếu phát triển du
lịch theo hướng như trên thì Hà Nội cũng không có tính cạnh tranh với nhiều thành
phố trong khu vực và trên thế giới, và có nguy cơ dẫn đến sự suy tàn những truyền
thống văn hoá tốt đẹp gìn giữ được.
Do vậy, phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội là thích hợp nhất. Việc chọn lựa
những nét văn hóa đặc trưng để quảng bá, cũng như việc quảng bá văn hoá Hà Nội như
thế nào, là những vấn đề cơ bản cần bàn luận hiện nay để tạo ra hình ảnh một thủ đô
ngàn năm văn hiến, một cái nôi của nền văn hoá Việt.
Trong phát triển bền vững du lịch Hà Nội theo hƣớng phát triển du lịch
văn hóa nói trên, các công trình kiến trúc cổ giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Xét ở phương diện mỹ quan thủ đô, thì kiến trúc cổ tạo nên diện mạo và sức
thuyết phục của một thủ đô giàu truyền thống văn hoá. Hà Nội chắc chắn sẽ kém sức

hấp dẫn đi rất nhiều nếu thiếu đi những công trình kiến trúc cổ xen giữa những toà
nhà hiện đại. Nếu những công trình kiến trúc thời phong kiến tạo nên cái đẹp trầm
lắng, uy nghiêm, mộc mạc khiến người ta phải chú ý quan sát kỹ mới nhận ra từng
đường nét hoa văn thì những công trình kiến trúc Pháp đồ sộ và mang vẻ đẹp rực rỡ.
Cái hay là chúng hoà quyện đan xen vào nhau khiến Hà Nội vừa mang chiều sâu nội
tâm, cổ kính vừa đẹp một cách tinh tế, thu hút khách du lịch thập phương. Bận rộn
với công việc ở những thành phố hiện đại, với nhịp sống ngày càng khẩn trương gấp
gáp, con người luôn có xu hướng tìm về những thành phố văn hiến như một hành
động tìm về nguồn cội.
Xét ở góc độ văn hoá lịch sử, Hà Nội có nhiều nét văn hoá truyền thống khác
hấp dẫn du khách như múa rối nước, văn hoá ẩm thực, những làng nghề…và việc
bảo tồn kiến trúc cổ tạo tiền đề để phát triển những loại hình văn hoá đó. Du lịch



-15-
mang ba mục đích chính: xem, tìm và hiểu. Quần thể kiến trúc cổ nếu được bảo tồn
tốt sẽ tạo ra không gian văn hoá cổ kính, phù hợp và gây hứng thú tìm hiểu về những
nét văn hoá cổ truyền Thăng Long. Không gian và môi trường du lịch thuận lợi là
một trong những nhân tố cơ bản để thu hút du và phát triển du lịch bền vững. Chắc
chắn sẽ không thể có được một không gian văn hoá ẩm thực hay nghệ thuật truyền
thống Hà Nội nếu xung quanh bao bọc bởi những toà nhà cao tầng mang phong cách
hiện đại.
Về mặt thị trường, muốn tiến đến thị trường quốc tế, phải chú ý đến cảm nhận
của du khách. Khách du lịch thế giới đến từ nhiều nơi có tri thức dân trí cao, thị hiếu
du lịch của họ thiên về tìm và hiểu hơn là xem đơn thuần. Du khách sang thăm Việt
Nam và dành thời gian du lịch Hà Nội thường có nhu cầu khám phá văn hoá, bản
chất thật của di tích, tìm hiểu lịch sử, nếp sống (sinh hoạt, buôn bán, cách thờ cúng,
lễ hội truyền thống, cách tổ chức không gian sống…) đã từng diễn ra trong quá khứ
mà vẫn được duy trì và thể hiện trong cuộc sống hiện đại ở địa phương hay trong các

di tích kiến trúc cổ. Bản thân người Việt sinh sống và làm việc tại Hà Nội, do quen
thuộc với các công trình kiến trúc cổ nên chưa có nhận thức đúng hoặc nhận thức sai
về những giá trị văn hoá quý giá. Có nhiều nét độc đáo của di tích hấp dẫn du khách
nước ngoài hơn là du khách người Việt Nam. Do đó, phải nhận thức đúng và chú
trọng phát huy vai trò của kiến trúc cổ Hà Nội mới hy vọng thuyết phục được du
khách nước ngoài về du lịch văn hoá Hà Nội.
Về mặt ngoại giao, gìn giữ được các di tích kiến trúc cổ góp phần nâng cao vị
thế của Hà Nội trong con mắt bạn bè quốc tế. Trên thế giới, các quốc gia, thành phố
được coi trọng thường là những vùng có kinh tế phát triển cao hoặc những cái nôi
của văn minh nhân loại. Quần thể kiến trúc cổ phong phú và độc đáo của Hà Nội góp
phần không nhỏ vào việc tạo dựng bộ mặt của thủ đô và đất nước với rất nhiều di
tích lâu năm như Văn Miếu- Quốc Từ Giám, chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc…Muốn
phát triển du lịch bền vững, trước tiên phải tạo dựng được chỗ đứng trong lòng bạn
bè quốc tế và các công trình kiến trúc cổ Hà Nội phải có vị trí chủ đạo.
Du lịch bền vững gắn liền với lợi ích kinh tế lâu dài. Trong phát triển bền
vững du lịch Hà Nội thì bảo tồn di tích kiến trúc cổ có thể được coi là một loại hình



-16-
kinh doanh bền vững. Đầu tư bảo tồn đáp ứng tiêu chuẩn chính là mở ra cơ hội lớn
về du lịch. Thu nhập từ du lịch văn hoá không mạnh mẽ bằng một số loại hình khác
nhưng nếu có những biện pháp thích hợp phát huy vai trò kiến trúc cổ Hà Nội trong
phát triển du lịch thì du lịch văn hoá Hà Nội hứa hẹn sẽ là ngành có sự tăng trưởng
bền vững.
Qua phân tích từng khía cạnh như trên, có thể thấy vai trò của kiến trúc cổ Hà Nội
trong phát triển du lịch bền vững là hết sức quan trọng. Du lịch Hà Nội nói riêng và Việt
Nam nói chung muốn phát triển theo hướng bền vững cần thiết phải nhận thức đúng
vai trò của kiến trúc cổ, từ đó có những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các
công trình này.




-17-

CHƢƠNG II.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ BẢO TỒN
CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÖC CỔ HÀ NỘI


I. Thực trạng hoạt động của các công trình kiến trúc cổ Hà Nội
Như đã nhận định từ đầu, những công trình kiến trúc cổ không chỉ tồn tại như
những vật trang trí đẹp đẽ, chúng còn mang giá trị sử dụng vượt thời gian bởi sự
thiết
kế tài ba của các kiến trúc sư sáng tạo ra công trình đó. Quá trình phân tích và tổng hợp
cho thấy chúng ta có thể xếp những giá trị sử dụng khác nhau của các công trình kiến trúc
cổ ở Hà Nội hiện nay vào ba nhóm chính như sau:
- Nhóm thứ nhất: giá trị sử dụng chính nằm ở việc phục vụ nhu cầu tâm linh của
con người. Tiêu biểu cho các công trình kiến trúc cổ mang trong mình nhóm giá trị sử
dụng này là những đền chùa, miếu mạo cổ kính- những tác phẩm kiến trúc đặc sắc và
đồng thời mang giá trị tín ngưỡng sâu sắc.
- Nhóm thứ hai: giá trị sử dụng chính nằm ở việc cung cấp không gian sống và
làm việc cho người dân thủ đô. Hiện nay, phần lớn các biệt thự Pháp cổ v à các ngôi nhà
cổ thuộc khu phố cổ thực hiện chức năng n ày.
- Nhóm thứ ba: giá trị sử dụng nằm ở việc phục vụ cho phát triển du lịch.
Việc khai thác giá trị lịch sử- văn hóa của các công trình kiến trúc cổ để phát triển du
lịch đã được tiến hành từ lâu, mang lại thu nhập cho các bộ phận dân c ư đồng thời
cũng là cơ hội để Hà Nội quảng bá vẻ đẹp của mình đến du khách thập phương.
Giá trị sử dụng quyết định thực trạng họat động của các công trình kiến trúc
cổ và trong thực trạng hoạt động đó đều có những mặt đ ã làm được và những mặt

còn hạn chế. Ngoài ra, do có sự liên hệ mật thiết giữa các loại giá trị sử dụng tr ên-
mỗi công trình kiến trúc cổ có thể cùng lúc mang trong mình những giá trị sử dụng
khác nhau- nên trong nghiên cứu cũng không tránh khỏi trộn lẫn và đan xen giữa ba
nhóm giá trị sử dụng trên. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu sẽ cố hết sức để phân tách
các cụm giá trị này, giúp việc nhận biết thực trạng hoạt động các công trình kiến trúc



-18-
cổ được dễ dàng. Xin lưu ý việc phân chia các công trình kiến trúc cổ vào ba nhóm trên
được căn cứ vào giá trị sử dụng chính của các công trình đó.
1. Thực trạng hoạt động của các công trình kiến trúc cổ phục vụ mục đích tâm
linh
1.1. Giá trị của các công trình kiến trúc cổ phục vụ mục đích tâm linh chƣa
đƣợc hiểu biết rộng rãi.
Các công trình kiến trúc cổ phục vụ mục đích tâm linh gồm phần lớn l à các
công trình kiến trúc cổ phong kiến như đình, đền, chùa. Ngoài ra còn có nhà thờ
Thiên chúa giáo nhưng hoạt động lắng hơn và chủ yếu dành cho giáo dân. Đình-đền-
chùa là những chốn tôn nghiêm, mang những dấu ấn đặc trưng của văn hóa Việt
Nam. Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn một số đình chùa được xây
dựng từ xa xưa như chùa Bát Tháp, đình Kim Liên, đền Bạch Mã, v.v.. Không chỉ có
cảnh quan đẹp mà các đình chùa này còn lưu giữ được những hiện vật có giá trị lịch
sử, nghệ thuật, kiến trúc. Cùng với sự gia tăng mức thu nhập, nhu cầu h ướng tới
những giá trị tín ngưỡng của con người cũng ngày càng lớn hơn. Tại những ngôi
chùa cổ nổi tiếng như chùa Một Cột, đền Bạch Mã, hay chùa Hà, không chỉ vào
những dịp lễ lớn như lễ hội chính của chùa hay Tết Nguyên Đán mà ngày rằm, mồng
Một, hay cả ngày thường, đều rất đông du khách đến thăm quan và cúng bái. Có thể
nói, hoạt động tín ngưỡng ở Hà Nội tương đối sôi nổi so với các địa phương khác
trên toàn quốc. Chùa chiền cũng vì thế mà được quan tâm đóng góp sửa sang và xây
dựng mới nhiều. Điều này cho thấy vai trò của các công trình kiến trúc phục vụ mục

đích tâm linh chiếm vị trí khá cao trong đời sống văn hoá tinh thần của ng ười Việt.
Bên cạnh sự ra tăng nhu cầu đời sống tâm linh của nhân dân, có một điều
đáng buồn là trong những người lui tới đây có rất ít người biết đến những giá trị lịch
sử- văn hóa và nét đẹp trong kiến trúc của chùa. Phần lớn trong số họ đến chỉ để cầu
danh, cầu tài vì nghe nói những ngôi chùa cổ này “rất thiêng”. Nhóm nghiên cứu có
dịp đến Chùa Bát Tháp (số nhà 203 phố Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình,
Hà Nội) một ngày đầu tháng 7/2009. Chùa được xây dựng trên đoạn ngọn núi Vạn
Bảo, một ngọn núi thấp ở kinh thành Thăng Long vào thời Lý Trần. Sau chùa đã
khai quật được nhiều di vật thời Lý, Trần. Chùa mang tên Bát Tháp do trong chùa có



-19-
những ngọn tháp hình bát vốn là những ngôi mộ của các vị sư tổ của chùa. Trong
chùa còn giữ được nhiều pho tượng, di vật, chạm khắc mang phong cách thế kỷ 19,
trong đó có quả chuông đúc năm Gia Long thứ 2 (1803). Chùa đã được bộ Văn hóa-
Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc - nghệ thuật ngày 05/09/1989. Theo lời sư cụ trụ
trì chùa thì mỗi dịp lễ tết, ngày rằm hay đầu tháng người đến lễ bái chùa rất đông.
Phỏng vấn một số người đến cúng lễ ở đây thì có tới 5 người trên tổng số 8 người
được hỏi không biết về lịch sử và văn hóa của ngôi chùa. Lý do được đưa ra là vì
trong chùa chỉ có tấm bia Hán ngữ ghi lại lịch sử và các lần trùng tu chùa mà không
có tấm bia bằng chữ Quốc ngữ nào, khiến cho việc hiểu biết trở nên khó khăn. Điều
này cho thấy thực tế đáng buồn là giá trị văn hóa- lịch sử- kiến trúc của các công
trình kiến trúc cổ phục vụ mục đích tâm linh không đ ược chính những đối tượng sử
dụng chúng hiểu biết một cách đầy đủ. Nếu bản chất của đền chùa miếu mạo chỉ đơn
thuần là những nhà chứa tượng, có chỗ thắp hương và bày mâm đồ cúng thì ý nghĩa
của việc bảo tồn, tôn tạo những công tr ình kiến trúc cổ mang trong mình giá trị tín
ngưỡng sâu sắc đang bị giảm sút nghiêm trọng.
1.2. Nhiều công trình bị sử dụng sai mục đích.
Ngoài mục đích tâm linh, tín ngưỡng, các công trình kiến trúc cổ như đình chùa

còn bị sử dụng vào những hoạt động khác và đa phần là theo nghĩa không mấy tích cực.
Nhẹ nhàng thì là việc chiếm dụng khuôn viên chùa chiền, di tích kiến trúc cổ làm nơi
kinh doanh bày bán hàng tạp phẩm, nặng hơn thì tận dụng khuôn viên di tích làm bãi để
xe, nhà ở. Theo nhận định chung, ngoài những đình chùa có tường bao kiên cố tách
bạch khuôn viên với khu dân cư bên ngoài hoặc những di tích ở vị trí đặc biệt như chùa
Trấn Quốc ít có khả năng bị lạm dụng ra , còn lại đa phần các chùa chiền hiện nay bị xâm
lấn ít nhiều.
Đối với những chùa cổ chưa được khai thác cho mục đích du lịch và do đó
chưa thu hút được sự chú ý của đông đảo dư luận như chùa Bát Tháp hay chùa Am
Cây Đề (số 2 phố Lê Trực, phường Điện Biên Phủ, quận Ba Đình) thì tình trạng phổ
biến nhất đang diễn ra với các công trình kiến trúc cổ này là việc bị các hộ dân xung
quanh lấn đất, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mỹ quan cũng như đến các bộ phận
của quần thể kiến trúc. Với chùa Am Cây Đề- một di tích được xếp hạng di tích kiến



-20-
trúc nghệ thuật - ngay cổng chùa đã được những hộ dân xung quanh tận dụng l àm
lối đi
và bãi dựng xe máy miễn phí, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc ra vào
chùa và
đến mỹ quan chùa. Phía trong chùa với sự tiết kiệm từng milimet khối không gian của các
hộ dân bên cạnh, người ta khó có thể tưởng tượng đây là một công trình mang giá trị văn
hóa và nghệ thuật kiến trúc sâu sắc.
Những ngôi chùa cổ khác nằm ở khu đông dân cư hơn việc lấn chiếm không gian
di tích còn diễn ra mạnh mẽ hơn. Chùa Vĩnh
Trù (59 phố Hàng Lược, quận Hoàn Kiếm) đã được
Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao
và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử-văn hóa, là
một điểm đến trong tuyến tham quan du lịch khu

phố cổ Hà Nội. Hiện nay, chùa vẫn còn lưu giữ được
rất nhiều di vật như: sắc phong, ngai thờ bài vị, câu
đối, tượng phật… và những đồ đồng có giá trị nghệ
thuật cao. Thế nhưng, khuôn viên của chùa đang bị
người dân chiếm dụng làm bãi giữ xe, bán hoa giả,
thậm chí là kinh doanh thịt chó hay mở quán cơm.
Hoạt động bày bán giải khát, quà lưu niệm không thuộc quy hoạch cũng diễn ra
thường xuyên và ngang nhiên trong khuôn viên di tích cổ, chủ yếu là những di tích nổi
tiếng thường xuyên thu hút khách du lịch tới thăm quan.
Bên cạnh đó, mặc dù không phải là hiện tượng phổ biến nhưng các hành vi bói
toán, mang màu sắc mê tín dị đoan vẫn diễn ra ở một số các đình chùa trên Hà Nội nhất
là vào những dịp lễ tết, điển hình phải kể đến những địa điểm nổi tiếng như phủ Tây Hồ,
chùa Trấn Quốc, đền Ngọc Sơn…
Việc sử dụng sai mục đích như vậy ảnh hưởng nghiêm trọng đến mỹ quan, đến
giá trị văn hóa- kiến trúc của đình- đền- chùa cổ cũng như làm giảm cơ hội khai thác tiềm
năng du lịch của các di tích này.



-21-
2. Thực trạng hoạt động của các công trình kiến trúc cổ đƣợc dùng làm nhà
ở và nơi làm việc
Có thể nói, hai khu vực làm nên niềm tự hào của Hà Nội mà không phải bất
cứ thành phố nào ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác có được chính là khu phổ
cổ và khu phố cũ (hay còn gọi là khu phố Pháp- nằm ở phía Nam của hồ Hoàn
Kiếm). Ngoại trừ một số di tích trọng điểm đã được thu hồi và cải tạo nhằm phục vụ
khách du lịch, phần lớn các công trình kiến trúc cổ thuộc hai khu vực này hiện là nơi
sinh sống và làm việc của không nhỏ bộ phận dân cư thủ đô. Như vậy, cái cổ ở đây
không phải là cái cổ “tĩnh”, mà nó mang tính “động” của một thực thể đang sinh sôi,
đang phát triển, đang đổi khác từng ngày. Đây là điểm làm cho kiến trúc cổ Hà Nội

khác biệt với những di sản thiên nhiên như vịnh Hạ Long hay khu di tích cũ thánh
địa Mỹ Sơn. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đô thị hóa nhanh chóng của Hà Nội
những năm qua đã tác động mạnh mẽ đến các di sản này cả theo chiều hướng tích
cực và tiêu cực. Ngoài một số điểm nhấn trong công tác bảo tồn v à sử dụng các công
trình kiến trúc cổ thuộc hai khu vực này, phần lớn các công trình còn lại chưa được
quan tâm chú ý đúng mức.
2.1. Thực trạng hoạt động của các công trình kiến trúc thuộc khu phố cổ
Khu phố cổ Hà Nội, thường được gọi là “Hà Nội 36 phố phường”, hình thành từ
đầu thế kỷ 15, giới hạn bởi phía Bắc l à đường Hàng Đậu, phía Nam là các đường phố
Hàng Bông-Hàng Gai - Cầu Gỗ và Hàng Thùng, phía Đông là đường Trần Nhật Duật -
Trần Quang Khải và phía Tây là đường Phùng Hưng, được khoanh lại trong một diện
tích khoảng 105 ha. Khu Phố cổ H à nội là một quần thể kiến trúc độc đáo, mang nặng
bản sắc dân tộc Việt với những mái ngói r êu phong cổ kính, những ngôi nhà nhỏ hình
ống xen kẽ, hòa quyện vào nhau, tạo nên không gian kiến trúc cổ sinh động, đa dạng.
Trải qua hàng trăm năm lịch sử, dưới tác động của thời gian, chiến tranh tàn phá, và con
người, những công trình kiến trúc cổ thuộc phạm vi khu phố cổ đang biến đổi sâu sắc và
phần lớn theo hướng tiêu cực.
Trong các căn nhà thuộc khu phố cổ có nhiều nhà tuổi đời tới hàng trăm năm,
do điều kiện kinh tế và công nghệ lúc xây dựng không có những vật liệu siêu bền,
siêu cứng như sắt, thép, xi măng... mà chỉ có gạch thô mái ngói, bền nhất mới chỉ có

×