Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Báo cáo KH: " Cơ sở khoa học để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm vùng núi phía Bắc"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 125 trang )

BỘ VĂN HÓA-DU LỊCH VÀ THỂ THAO

VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN
CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO
MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Chủ nhiệm đề tài: PHẠM TRUNG LƯƠNG
Viện Nghiên cứu phát triển du lịch

7030
18/11/2008

HÀ NỘI - 2008


BÁO CÁO TỔNG HỢP

PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 .

Đặt vấn đề

Vùng núi phía Bắc bao gồm các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai,
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang, Thái Nguyên Lạng Sơn, Phú
Thọ, Bắc Giang và Quảng Ninh thuộc tiểu vùng du lịch Đông Bắc, tiểu vùng du lịch
Tây Bắc và một phần tiểu vùng du lịch duyên hải Đông Bắc, nơi phân bố chủ yếu địa
hình karst ở Việt Nam với nhiều hang động và các ngọn núi cao mà tiêu biểu là đỉnh


Phan Xi Phăng cao 3.143m được mệnh danh là “mái nhà Đơng Dương”. Đây cũng là
lãnh thổ có địa hình chia cắt với hệ thống sông suối khá phát triển mà tiêu biểu là hệ
thống sơng Hồng – sơng Thái Bình và sông Kỳ Cùng - Bằng Giang. Đây là những điều
kiện và tiềm năng to lớn để phát triển loại hình du lịch thể thao - mao hiểm vốn đang
rất được khách du lịch ưa chuộng. Minh chứng cho tính hấp dẫn của loại hình du lịch
này là việc tổ chức thành cơng chương trình du lịch thể thao - mạo hiểm “Raid
Gouloises” năm 2002 trên một lãnh thổ trải dài từ Lào Cai đến Hải Phòng. Mức độ hấp
dẫn của các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở khu vực này sẽ được tăng lên khi
du khách cịn được khám phá những giá trị văn hố bản địa đặc sắc của nhiều dân tộc
thiểu số như Tày, Dao, H’Mơng, v.v. sinh sống ở đây.
Mặc dù có tiềm năng lớn về du lịch thể thao - mạo hiểm, tuy nhiên thời gian
qua loại hình du lịch này còn chưa phát triển, các sản phẩm du lịch thể thao - mạo
hiểm chưa rõ nét, đơn điệu và thiếu hấp dẫn. Khách du lịch hiện nay đến với vùng núi
phía Bắc chủ yếu là để tham quan, tìm hiểu các giá trị văn hoá của một số dân tộc
thiểu số, tham quan cảnh quan ở một số vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên như
Ba Bể, Hoàng Liên, v.v. Tiềm năng du lịch đặc sắc của khu vực này cho đến nay còn
để ngỏ. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là cho đến nay chưa
có được cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn) làm cơ sở cho việc đẩy mạnh sự phát
triển các sản phẩm du lịch đặc sắc này.
Nhằm đẩy mạnh sự phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch thể thao
- mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc, góp phần tích cực khắc phục một trong những hạn
chế cơ bản của du lịch Việt Nam và thực hiện chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, việc tiến hành nghiên cứu đề tài “Cơ sở
học để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc” là rất
cần thiết và mang tính cấp thiết. Kết quả nghiên cứu khơng chỉ có ý nghĩa lý luận mà
sẽ cịn có giá trị thực tiễn, góp phần đẩy mạnh sự phát triển loại hình du lịch đặc thù
và hấp dẫn của vùng núi phía Bắc Việt Nam.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC


1


BÁO CÁO TỔNG HỢP

1.2

Mục tiêu, nội dung, quan điểm, phạm vi và phương pháp nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu
* Mục tiêu tổng quan: Góp phần làm phong phú và nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm du lịch Việt Nam, thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam; gắn
phát triển du lịch với xố đói giảm nghèo vùng nơng thơn, vùng sâu, vùng xa nơi có
tiềm năng du lịch song cịn nhiều khó khăn.
* Mục tiêu cụ thể: Xác lập cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn) để phát triển
sản phẩm du lịch mạo hiểm - thế mạnh đặc thù của vùng núi phía Bắc, góp phần nâng
cao sức hấp dẫn du lịch của lãnh thổ.
1.2.2. Các nội dung nghiên cứu chính
Tổng quan những vấn đề lý luận về du lịch thể thao - mạo hiểm, về sản phẩm
du lịch thể thao - mạo hiểm, bao gồm cả việc xây dựng một số tiêu chí cơ bản
của sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm.
Tổng quan kinh nghiệm về phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm
Tiềm năng tài nguyên du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng trung du miền núi
phía Bắc
Đánh giá thực trạng phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm chủ yếu ở
vùng trung du miền núi phía Bắc
Xác định các nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự phát triển của các sản phẩm du
lịch thể thao - mạo hiểm
Xác lập những định hướng chính phát triển các sản phẩm du lịch thể thao – mạo
hiểm chủ yếu ở vùng trung du miền núi phía Bắc

Kiến nghị một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch vùng
núi phía Bắc để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm, góp phần
tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Bộ nói riêng, du lịch
Việt Nam nói chung.
1.2.3 Các quan điểm nghiên cứu chính
* Quan điểm hệ thống lãnh thổ
Hoạt động phát triển nói chung, du lịch thể thao mạo hiểm nói riêng, ở bất kỳ
cấp phân vùng lãnh thổ nào cũng không tách rời trong hệ thống lãnh thổ chung ở cấp
cao hơn. Hơn nữa, do đặc tính của hoạt động du lịch là có tính liên vùng và xã hội hố
cao nên nghiên cứu các yếu tố liên quan đến hoạt động du lịch không thể tách rời khỏi

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

2


BÁO CÁO TỔNG HỢP

quan điểm hệ thống lãnh thổ. Quan điểm hệ thống cịn đặc biệt có ý nghĩa trong q
trình nghiên cứu các yếu tố tài ngun và mơi trường do mối liên hệ liên vùng trong
quản lý và đánh giá các tác động ảnh hưởng.
* Quan điểm tổng hợp
Quan điểm tổng hợp là quan điểm truyền thống của nghiên cứu tự nhiên nói
chung và nghiên cứu về tài ngun, mơi trường nói riêng. Các vấn đề được xét dưới
những góc độ khác nhau:
- Nghiên cứu đồng bộ tồn diện về tiềm năng du lịch vùng núi phía Bắc nói
chung, du lịch thể thao mạo hiểm nói riêng, các yếu tố kinh tế - xã hội, quy luật phân
bố và biến động của chúng, những mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố hợp
phần.
- Sự kết hợp, phối hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng bộ và

tồn diện các yếu tố hợp phần, phát hiện và xác định những đặc điểm đặc thù của vùng
lãnh thổ nghiên cứu.
- Nghiên cứu toàn diện mối quan hệ tương tác giữa phát triển du lịch nói chung,
du lịch thể thao mạo hiểm nói riêng với sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung trong
vùng lãnh thổ nghiên cứu.
* Quan điểm mơi trường - sinh thái
Du lịch là một ngành kinh tế, vì vậy trong hoạt động phát triển phải tính đến lợi
ích và chi phí. Những lợi ích thu về trong hoạt động du lịch khơng chỉ có ý nghĩa kinh
tế và văn hố mà cịn phải tính đến lợi ích về mơi trường sinh thái. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt đối với phát triển du lịch bởi sự tồn tại của du lịch phụ thuộc vào chất
lượng của sản phẩm du lịch, trong đó điều gây cảm nhận rõ nhất cho du khách là tình
trạng của các hệ sinh thái và môi trường.
1.2.4 Phạm vi nghiên cứu
Về lãnh thổ : Nghiên cứu được tiến hành trên lãnh thổ đất liền vùng trung du
miền núi Bắc Bộ bao gồm các tiểu vùng du lịch Đông Bắc, tiểu vùng du lịch
Tây Bắc và một phần tiểu vùng du lịch duyên hải Đông Bắc (địa bàn các địa
phương : Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Lao Cai, Yên
Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Sơn La, Hịa
Bình và Quảng Ninh ).
Về thời gian: các số liệu, tài liệu chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu là
những tư liệu đã cơng bố trong vịng 5 năm trở lại đây (2000 - 2005).
Đối tượng: tài nguyên du lịch, sản phẩm và điều kiện trực tiếp ảnh hưởng đến
phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

3


BÁO CÁO TỔNG HỢP


1.2.5 Các phương pháp và quy trình nghiên cứu
1.2.5.1. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
* Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống
Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng phổ biến trong hầu hết các nghiên
cứu khoa học. Nghiên cứu về phát triển du lịch có quan hệ chặt chẽ tới các điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, vì vậy phương pháp này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
nghiên cứu của đề tài này.
* Phương pháp điều tra thực địa
Cơng tác thực địa có mục đích cơ bản là kiểm tra chỉnh lý và bổ sung những tư
liệu; đối chiếu và lên danh mục cụ thể từng đối tượng nghiên cứu; sơ bộ đánh giá các
yếu tố cần thiết cho việc định hướng phát triển du lịch thể thao mạo hiểm ở những
điểm được lựa chọn
* Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu về định lượng
trong mối quan hệ chặt chẽ về mặt định tính của các hiện tượng và quá trình, đối chiếu
biến động tự nhiên, kinh tế - xã hội với quá trình phát triển du lịch. Phương pháp toán
thống kê được vận dụng nghiên cứu trong đề tài này để xác định hiện trạng hoạt động
du lịch thông qua các chỉ tiêu phát triển ngành cơ bản.
* Phương pháp chuyên gia
Ngoài các phương pháp tự thân thì phương pháp chun gia cũng đóng vai trị
hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Bản thân du lịch là một ngành
kinh tế tổng hợp, do vậy muốn đảm bảo cho các đánh giá tổng hợp có cơ sở và mang
tính hiệu quả địi hỏi có sự tham gia của các chuyên gia về nhiều lĩnh vực liên quan.
* Phương pháp sơ đồ, bản đồ và GIS
Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu bất kỳ có liên quan
đến tổ chức lãnh thổ nào. Bản đồ được sử dụng chủ yếu theo hướng chuyên ngành để
phân tích đánh giá tiềm năng phát triển du lịch và điều kiện có liên quan. Ngồi mục
đích minh hoạ về vị trí địa lý, phương pháp này cịn giúp cho các nhận định, đánh giá
trong q trình nghiên cứu được thể hiện một cách tổng quát.

Trong khuôn khổ nghiên cứu này, phương pháp hệ thông tin địa lý (GIS) sẽ
được sử dụng để đánh giá mức độ thuận lợi của hoạt động phát triển du lịch thể thao
mạo hiểm đứng trên cơ sở tổng hợp các điều kiện và tài nguyên du lịch có liên quan.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

4


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Khái quát về Hệ thông tin địa lý - GIS:
Ngày nay, khái niệm về hệ thông tin địa lý (Geographic Information System - GIS)
cịn chưa được hồn tồn thống nhất từ những góc độ nghiên cứu và ứng dụng khác
nhau. Có thể nêu ra một số thí dụ:
GIS là một hệ thống thông tin bao gồm một số phụ hệ (subsystem) có khả năng
đổi dữ liệu địa lý thành các thơng tin có ích (Calkins and Tomlinson 1977;
Marble 1984; Star and Estes 1990).
GIS là một hệ thống có chức năng xử lý các thơng tin địa lý nhằm phục vụ
quy hoạch, trợ giúp quyết định trong một lãnh vực chuyên môn nhất định.
(Pavlidis 1982).
GIS là một hệ thống chứa hàng loạt chức năng phức tạp dựa vào khả năng máy
tính và các bài tốn xử lý thơng tin không gian. (Tomlinson and Boy 1981).
GIS là một hệ thống sử dụng cơ sở dữ liệu để trả lời các câu hỏi về bản chất địa
lý của các thực thể địa lý. (Goodchild 1985; Peuquet 1985).
GIS là một hệ thống cơ sở dữ liệu bằng máy tính để thu thập, lưu trữ, phân tích
và hiển thị dữ liệu khơng gian. (National Centrer for Geographic Information
and Analysis 1988).
GIS là một hệ thống bao gồm bốn khả năng xử lý dữ liệu là: 1) Nhập dữ liệu;
2) Quản lý dữ liệu (lưu trữ và truy xuất); 3) Hiệu chỉnh và phân tích dữ liệu; 4)

Xuất dữ liệu. (Stan Aronoff 1993).
Mặc dù cịn có sự chưa thống nhất về “chữ nghĩa”, song đa số ý kiến đều cho rằng:
“Hệ thông tin địa lý (GIS) là tập hợp phần cứng và phần mềm máy tính để lưu trữ,
phân tích, xử lý và hiển thị các thông tin không gian (Spatial Data) cho mục đích nào
đó”.
GIS khác với hệ thống đồ hoạ máy tính đơn thuần. Hệ thống đồ hoạ máy tính
khơng quan tâm nhiều tới thuộc tính khơng đồ hoạ, cái mà một thực thể nhận thấy
được có thể có hoặc khơng, trong khi đó các thuộc tính này rất có ích trong việc phân
tích dữ liệu cho một mục tiêu nghiên cứu cụ thể nào đó. Một hệ thống đồ hoạ tốt là cấu
phần cơ bản quan trọng của GIS, tuy nhiên chỉ với hệ thống đó vẫn chưa đủ vì hệ
thống này mới chỉ là một phần cơ sở tốt cho việc phát triển GIS.
GIS cũng khác với hệ thống trợ giúp thiết kế bằng máy vi tính (CAD Computer Aided Design) dùng để vẽ các đối tượng kỹ thuật. Sự khác nhau chủ yếu
giữa GIS và CAD là dung lượng và tính đa dạng của GIS lớn hơn nhiều và cách thức
phân tích dữ liệu của GIS là tự nhiên hơn.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

5


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Hệ GIS coi mơ hình tiếp cận lãnh thổ như một loại các lớp bản đồ trùng phủ
(Overlay) lên nhau mà mỗi lớp bản đồ riêng rẽ là một biến số. Thông tin thể hiện trên
các bản đồ này có thể được tổ chức theo một trong hai cách : raster hoặc vector. Mơ
hình Raster sử dụng lưới điểm để thực hiện và lưu trữ thông tin, thể hiện trực tiếp cho
phần bên trong của vùng và gián tiếp cho đường bao. Mơ hình Vector thể hiện toàn bộ
thụng tin thành điểm, đường hoặc vùng, thể hiện trực tiếp cho đường bao và gián tiếp
cho phần bên trong của vùng.
Năng lực của một hệ GIS dù theo cấu trúc Raster hay Vector thể hiện ở các chức

năng xử lý và hiển thị các thông tin không gian của hệ ấy, bao gồm :
Truy nhập dữ liệu;
Tạo và biến đổi các bản đồ;
Tạo, chồng xếp, gộp các vùng;
Các phép đo, biến đổi toán học;
Chồng xếp (overlay) và gộp (combine) các vùng;
Xử lý Raster;
Phân tích khơng gian 3 chiều (3D analysis)
Các mơ hình xử lý chủ yếu có thể được mơ tả như sau :
+ Mơ hình quản lý dữ liệu bản đồ nhiều cấp: Mụ hỡnh này nhằm đáp ứng nhu cầu
quản lý một số lượng lớn các đối tượng phân bố trên một phạm vi lónh thổ rộng mà
mỗi đối tượng lại là một cơ sở dữ liệu - bản đồ hoàn chỉnh với nhiều lớp bản đồ cùng
với các dữ liệu đi kèm.
+ Mơ hình tạo bản đồ hệ thống các vùng (polygon) từ thuộc tính dữ liệu đã có, tạo
bản đồ hệ thống các điểm (point) từ tập dữ liệu có gắn tọa độ quốc gia: mơ hình này
đáp ứng thuận tiện cho nhu cầu xây dựng bản đồ chủ đề vùng, điểm rất phổ biến trong
công tác nghiên cứu, tổ chức lãnh thổ. Mô hình này được thực hiện rất thuận tiện nhờ
kỹ thuật GIS.
+ Mơ hình thống kê diện tích, chu vi cũng như khoảng cách của các đối tượng trên
một hoặc nhiều lớp bản đồ: đây là một khâu cơ bản trong GIS, trong hệ này, việc
thống kê diện tích, chu vi và khoảng cách được đề xuất theo 2 cách : thống kê qua việc
phân tích đường bao và thống kê qua việc đếm số pixel trong cấu trúc raster.
+ Mô hình chồng xếp và xây dựng một bản đồ chủ đề mới từ các lớp bản đồ đã có
theo qui tắc bảng tra xếp cấp (area cross tabulation) hoặc theo mơ hình tốn học
(Model): Hệ GIS giải quyết bài tốn hay thơng qua mơ hình chồng xếp raster (matrix
template) và kỹ thuật phân tích lớp (class analysis).

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

6



BÁO CÁO TỔNG HỢP

+ Mơ hình phân tích địa hình, tính độ dốc, mật độ chia cắt: Hệ GIS giải quyết bài
toán này một cách tự động và đưa ra các bản đồ tương ứng. Trong ứng dụng GIS để
giải quyết các bài toán quản lý, đánh giá tài nguyên, xác định khơng gian thuận lợi cho
một mục đích nào đó, v.v., có nhiều phương pháp (thuật tốn) khác nhau như phương
pháp phân tích lớp (class analysis); phương pháp nội suy khơng gian (spatial
interpolation); phương pháp mơ hình hóa 3 chiều (3-dimension model); v.v.. Tuy
nhiên phương pháp đơn giản song khá hiệu quả thường được ứng dụng rộng rãi nhất
trong thực tế là phương pháp phân tích chồng xếp (Overlay Analysis) . Trong khuôn
khổ phương pháp này, các số liệu không bị biến đổi mà chỉ phối hợp với nhau theo các
phương pháp chồng xếp, tách chọn hoặc gộp nhóm. Cơng cụ tốn học cơ bản được sử
dụng nhiều nhất là đại số tập hợp (Boolean Algebra). Các phép toán cơ bản của đại số
tập hợp là AND, OR, XOR NOT. Khi các số liệu thông tin địa lý đã được lưu trữ và có
thể được truy nhập bằng các phương thức khác nhau, việc tái phân loại, ghép nhóm là
những thao tác đầu tiên hay được thực hiện. Tư liệu được ghép nhóm theo các yêu cầu
cho trước và sau đó được thể hiện trên màn hình.
Các thuật tốn chồng xếp chủ yếu áp dụng cho cấu trúc dữ liệu raster. Tuy
nhiên, cũng có thể áp dụng cho các bản đồ vector. Đương nhiên khi chồng xếp các bản
đồ vectơ với nhau, rất nhiều các vùng đa giác được tạo thành. Có những vùng thực sự
có ý nghĩa và có những vùng hồn tồn xuất hiện do sự khơng nhất quán giữa các bản
đồ chuyên đề tạo thành. Đương nhiên với kiến thức chuyên ngành người ta có thể hiệu
đính hoặc loại bỏ hoặc gộp các vùng lại với nhau.
Kỹ thuật chồng xếp thường được đề xuất theo 2 cách : Qua bảng tra xếp cấp và
qua mơ hình tốn học.
+ Qua bảng tra xếp cấp, ví dụ từ bản đồ nham và bản đồ kiểu địa hình có thể
đưa ra bản đồ dạng đất (Land Form) qua bảng tra: Loại nham + Kiểu địa hình =>
Dạng đất

+ Qua mơ hình tốn học, ví dụ như : XM=A*Dt1*Lt2*pt3*Tt4 trong đó XM là
bản đồ tiềm năng xói mịn, “A“ là bản đồ nhóm đất, “D“ là bản đồ độ dốc, “L“ là bản
đồ chiều dài sườn, “p” là bản đồ cường độ mưa và “T“ là bản đồ thời gian mưa. Các
yếu tố ở từng bản đồ thành phần nêu trên đều thể hiện qua trị số, định lượng tương ứng
cho từng điểm của bản đồ raster. Bản đồ thành quả có thể xây dựng theo hai cách :
Từ bản đồ raster kết quả, trực tiếp đưa ra bản đồ chính thức;
Từ bản đồ raster thống kê phối hợp với một bản đồ đơn vị tự nhiên cơ sở, tiến
hành phân loại các đơn vị tự nhiên cơ sở. Bản đồ thành quả chính thức sẽ được
tạo ra từ bản đồ phân loại các đơn vị tự nhiên cơ sở.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

7


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Như vậy, việc nghiên cứu phân vùng lãnh thổ có thể đưa về việc phân loại các
đơn vị lãnh thổ cơ sở. Và cũng do vậy, kỹ thuật phân loại lãnh thổ là một trong các
phương pháp rất thường dùng.
Trong trường hợp cụ thể của nghiên cứu này, phương pháp GIS được ứng dụng
để xác định không gian thuận lợi phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc trên cơ
sở mơ hình „chồng ghép“ các bản đồ đánh giá các yếu tố thành phần chính bao gồm:
địa hình (độ dốc, sự tập trung các đỉnh núi cao, các hang động); hệ thống thuỷ văn (các
dòng sông, con suối và hồ nước) – kết hợp sự tập trung các làng/bản dân tộc nơi còn
lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống và các giá trị sinh học (các vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên) – kết hợp các giá trị cảnh quan.
1.2.5.2 Quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu của đề tài được bao gồm các bước cơ bản sau:
* Xác lập mục tiêu và nội dung nghiên cứu

Đây là bước khởi đầu quan trọng đối với việc thực hiện đề tài. Các mục tiêu,
nội dung cũng như giới hạn nghiên cứu của đề tài sẽ được điều chỉnh phù hợp với điều
kiện thực hiện trong những hoàn cảnh cụ thể căn cứ vào ý kiến đóng góp của hội đồng
khoa học và các chuyên gia trong và ngoài ngành .
* Thu thập tư liệu và tiến hành phân tích sơ bộ trong phịng
Các nội dung cần thu thập phân tích xử lý tư liệu bao gồm:
Về hiện trạng tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch nói chung, phát triển du
lịch thể thao mạo hiểm nói riêng ở vùng núi phía Bắc;
Về hiện trạng phát triển du lịch nói chung, phát triển du lịch thể thao mạo hiểm,
bao gồm lượng khách du lịch, doanh thu, đầu tư, lực lượng lao động... ở vùng
núi phía Bắc;
Về các điều kiện có liên quan khác đến phát triển du lịch thể thao mạo hiểm
như các vấn đề về kinh tế - xã hội, hệ thống hạ tầng cơ sở, hệ thống các chính
sách có liên quan,...
Về hiện trạng công tác quản lý và bảo vệ tài ngun mơi trường cho phát triển
du lịch nói chung, trong đó có du lịch thể thao mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc.
Tham khảo, lựa chọn các vấn đề cần quan tâm về phát triển du lịch thể thao
mạo hiểm.
* Thực địa nhằm bổ sung chỉnh lý các tư liệu
Các số liệu, tư liệu sau khi được thu thập và phân tích sơ bộ được đối chiếu để
chỉnh lý và bổ sung bằng công tác thực địa .

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

8


BÁO CÁO TỔNG HỢP

* Phân tích xử lý tư liệu

Từ cơ sở dữ liệu, các tư liệu cần thiết sẽ được sử dụng để phân tích xử lý bằng
các chuyên gia. Kết quả của quá trình này sẽ là những yếu tố cấu thành hợp phần làm
cơ sở để xây dựng định hướng phát triển du lịch thể thao mạo hiểm trong mối quan hệ
với phát triển du lịch nói chung và phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi phía Bắc.
Dự thảo báo cáo của đề tài sẽ được hình thành trên cơ sở những kết quả nghiên
cứu ở giai đoạn này.
* Xây dựng báo cáo cuối cùng
Căn cứ vào kết quả hội thảo với những ý kiến đóng góp của các chuyên gia, báo
cáo dự thảo sẽ được chỉnh sửa bổ sung và hoàn thiện để trở thành báo cáo cuối cùng
chính thức của đề tài trình Hội đồng khoa học đánh giá nghiệm thu.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

9


BÁO CÁO TỔNG HỢP

PHẦN NỘI DUNG
1.

Tổng quan những vấn đề lý luận về phát triển du lịch thể thao mạo hiểm

1.1.

Những khái niệm cơ bản

1.1.1. Loại hình và sản phẩm du lịch
Loại hình du lịch
Du lịch phát triển dựa vào việc khai thác các giá trị tài nguyên du lịch với việc

hình thành các loại hình du lịch
Loại hình du lịch là các hình thức du lịch được tổ chức nhằm thoả mãn mục
đích đi du lịch của khách du lịch.
Hoạt động du lịch được thực hiện thông qua việc tổ chức các loại hình du lịch
cụ thể. Các loại hình du lịch được hình thành và phát triển chủ yếu dựa vào đặc điểm
tài nguyên du lịch. Ví dụ, du lịch nghỉ dưỡng chỉ có thể phát triển thuận lợi ở những
nơi có khí hậu mát mẻ trong lành và cảnh quan đẹp; du lịch thăm quan không thể phát
triển nếu khơng có những địa điểm có cảnh quan đẹp, những cơng trình kiến trúc-lịch
sử-văn hố; du lịch sinh thái sẽ chỉ phát triển ở những nơi tự nhiên cịn tương đối
hoang sơ, ít bị tác động của con người với các giá trị đa dạng sinh học cao; v.v.
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã phân loại các loại hình du lịch chính
theo các mục đích cơ bản của thị trường khách bao gồm: du lịch tham quan, du lịch
nghỉ mát, du lịch chữa bệnh, du lịch vui chơi giải trí; du lịch thăm thân; du lịch cơng
vụ; du lịch tín ngưỡng, v.v.. Tất cả những mục đích đi du lịch đều xuất phát từ ý thích
cá nhân của khách du lịch (tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, ...) hoặc là nghĩa
vụ mà khách du lịch có trách nhiệm thực hiện đối với xã hội hoặc với chính bản thân
mình (cơng vụ, chữa bệnh,...). Nội dung phân loại được thể hiện trên Sơ đồ 1.
Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển của một loại hình du lịch nào đó
bao gồm :
- Điều kiện tự nhiên : đây là nhóm yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của những loại hình du lịch dựa vào tự nhiên như du lịch nghỉ dưỡng,
du lịch thể thao (ngoài trời), du lịch sinh thái, v.v. Những biến đổi về điều kiện tự
nhiên, đặc biệt là điều kiện khí hậu, thuỷ văn trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói
riêng trong thời gian gần đây đã và đang có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát
triển của những loại hình du lịch này. Tuy nhiên ảnh hưởng của nhóm yếu tố này
thường chỉ làm thay đổi phạm vi, mức độ, quy mơ của những loại hình du lịch dựa vào
tự nhiên mà không làm thay đổi bản chất của loại hình du lịch.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC


10


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Sơ đồ 1 : Phân loại các loại hình du lịch chính
LOẠI HÌNH DU LỊCH

DU LỊCH THEO SỞ THÍCH, Ý MUỐN

DL theo ý muốn chung
Thăm quan

DL theo sở thích đặc biệt
Du lịch sinh thái

Nghỉ dưỡng

Du lịch mạo hiểm

Vui chơi giải trí

DU LỊCH THEO NGHĨA VỤ, TRÁCH NHIỆM

Du lịch chữa bệnh
Thương mại, công vụ
Hội nghị, hội thảo

Du lịch thể thao
Tìm hiểu cộng đồng

Du lịch lễ hội
Du lịch mua sắm

- Sự biến đổi (về số lượng và chất lượng) của tài nguyên du lịch : đây cũng là
nhóm yếu tố khách quan (một cách tương đối) có ảnh hưởng đến sự phát triển của
phần lớn các loại hình du lịch hiện nay. Ví dụ, sự mất đi của một loài sinh vật đặc hữu
ở một khu bảo tồn thiên nhiên/vườn quốc gia nào đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển
của loại hình du lịch sinh thái ở khu vực đó nói riêng, ở quốc gia nơi có lồi sinh vật
đó nói chung. Tuy nhiên yếu tố ảnh hưởng này có thể được kiểm sốt bởi pháp luật
nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên. Ở Việt Nam, các văn bản luật về tài nguyên nói
chung và các luật tài nguyên chuyên ngành nói riêng như Luật Bảo vệ rừng, Luật Tài
nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật Di sản Văn hố, v.v. đã và đang
góp phần điều chỉnh các tác động đến tài nguyên thiên nhiên, di sản văn hố nói
chung, tài ngun du lịch nói riêng.
Đứng từ góc độ du lịch, do phần lớn các dạng tài nguyên du lịch hiện đang
được khai thác sử dụng cũng như được quy hoạch để đưa vào sử dụng để phát triển các
loại hình du lịch đều được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành khác, vì vậy ngành du
lịch không thể chủ động để quản lý, hạn chế sự ảnh hưởng của nhóm yếu tố này đến sự
phát triển du lịch nói chung, phát triển các loại hình du lịch nói riêng. Đây là vấn đề
cần được đặt ra giải quyết trong Luật Du lịch sẽ được ban hành trong thời gian tới đây.
- Sự biến đổi về chất lượng môi trường du lịch : Môi trường luôn song hành
cùng sự phát triển du lịch và tất nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các
loại hình du lịch. Nếu hiểu mơi trường theo nghĩa rộng bao gồm cả tài nguyên tự
nhiên, đa dạng sinh học thì vai trị của mơi trường đối với hoạt động du lịch nói chung

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

11



BÁO CÁO TỔNG HỢP

và sự phát triển của các loại hình du lịch nói riêng, càng trở nên có ý nghĩa. Đây được
xem là nhóm yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại hình du lịch.
Cùng với sự phát triển về kinh tế – xã hội, chất lượng mơi trường nói chung, mơi
trường du lịch nói riêng, có những biến đổi theo chiều hướng suy giảm chất lượng.
Bản thân hoạt động phát triển du lịch cũng có những tác động tiêu cực đến chất lượng
mơi trường. Cơ chế tác động của các hoạt động phát triển trên đối với môi trường được
thể hiện trên Sơ đồ 2.
Sự suy giảm chất lượng môi trường sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại
hình du lịch, đặc biệt những loại hình du lịch dựa vào tự nhiên như du lịch sinh thái,
du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tham quan, v.v. Như vậy để góp phần phát triển các loại
hình du lịch cần có những điều chỉnh về hành vi (quản lý, hoạt động, sử dụng, v.v.)
nhằm hạn chế các tác động tiêu cực đến môi trường.
Sơ đồ 2 : Cơ chế suy thối mơi trường dưới tác động
của quá trình phát triển KT - XH
Các hoạt động phát triển KT-XH chính
Phát triển
cơng
nghiệp

Phát triển
CSHT và
ĐT

Gia tăng khí
thải, bụi,
tiếng ồn

Gia tăng

nước thải

Khai thác
tài nguyên
khoáng sản

Phát triển
GTVT

Phát
triển du
lịch

Các hoạt
động phát
triển khác

Thay đổi hình
thức sử dụng
đất

Gia tăng
chất thải
rắn

Mất thảm
thực vật tự
nhiên

Gia tăng

xói mịn

Thay đổi cấu
trúc địa mạo

Suy giảm đa
dạng SH

Thiếu các giải pháp/biện pháp quản lý mơi trường

Ơ nhiễm
MT khơng
khí

Ơ nhiễm
MT nước

Ơ nhiễm
và suy
thối MT
đất

Suy thối
MT sinh

Thay
đổi
cảnh
quan


Gia tăng
sự cố MT

Ơ nhiễm và suy thoái MT du lịch TN
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

12


BÁO CÁO TỔNG HỢP

- Điều kiện hạ tầng kỹ thuật : đối với phát triển hoạt động du lịch nói chung,
phát triển các loại hình du lịch nói riêng, yếu tố hạ tầng kỹ thuật là yếu tố chủ quan có
ý nghã rất quan trọng. Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh
hưởng đến sự phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam là hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đặc
biệt là hệ thống giao thơng, các cơng trình đầu mối, chưa phát triển đáp ứng được yêu
cầu tiếp cận đưa khách du lịch đến những khu vực có tiềm năng du lịch sinh thái điển
hình ở vùng núi phía Bắc, vùng núi phía Tây miền Trung, hệ thống các đảo ven bờ,
v.v. Đối với việc phát triển một số loại hình du lịch mới như du lịch hội nghị, hội thảo;
du lịch mua sắm; v.v. cũng địi hỏi cần có điều kiện hạ tầng đảm bảo.
- Công nghệ: đây là yếu tố chủ quan có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của những loại hình du lịch vui chơi giải trí hiện đại cần đến các thiết bị kỹ thuật có
hàm lượng công nghệ cao. Đối với các nước đang phát triển việc ứng dụng cơng nghệ
để phát triển loại hình du lịch vui chơi giải trí hiện đại và hấp dẫn thường gặp trở ngại
chủ yếu là vốn đầu tư và khả năng chi trả của thị trường, đặc biệt là thị trường nội địa.
Như vậy để giải quyết được vấn đề này đối với những nước còn nghèo như Việt Nam
thì việc điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm thu hút được sự quan tâm của các nhà
đầu tư nước ngồi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Chính sách : Đây là yếu tố chủ quan có tác động trực tiếp tạo môi trường
thuận lợi (thu hút đầu tư, vốn, công nghệ, con người) cho phát triển du lịch nói chung

và các loại hình du lịch nói riêng. Bên cạnh đó chính sách cũng sẽ có những tác tác
động tồn diện lên nhóm các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan tương đối có
tác động đến phát triển các loại hình du lịch như đã nêu trên. Ở đây có thể nêu nhiều ví
dụ về vai trị của yếu tố chính sách đối với phát triển du lịch nói chung và các loại hình
du lịch nói riêng. Ví dụ, du lịch sinh thái hiện là loại hình du lịch được ưu tiên trong
Chiến lược phát triển du lịch ở Việt Nam bởi du lịch sinh thái khơng chỉ được xem là
một loại hình du lịch hấp dẫn phù hợp với nhu cầu của các thị trường mà du lịch sinh
thái cịn được xem như một cơng cụ bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học. Tuy nhiên
thực tế hiện nay cho thấy các nhà đầu tư vẫn còn chưa sẵn sàng để đầu tư phát triển
loại hình du lịch này. Các lý do của tình trạng trên bao gồm :
- Theo nguyên tắc của loại hình du lịch sinh thái, một phần lợi ích kinh tế thu
được trong hoạt động kinh doanh phải được “quay lại” để hỗ trợ cho hoạt động bảo
tồn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhà đầu tư.
- Việc đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên du lịch địi hỏi có đầu tư lớn hơn và vì
vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhà đầu tư.
- Trong quá trình hoạt động, việc điều hành phải tuân thủ nguyên tắc “sức
chứa”, tức lượng khách du lịch phải được quản lý sao cho không vượt quá khả năng
chịu tải của hệ sinh thái ở những địa điểm diễn ra hoạt động du lịch. Điều này trái với
mong muốn thông thường của nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh.
- Trong hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư phải chăm lo đến lợi ích của cộng
đồng bản địa, dành một phần vị trí trong dây truyền kinh doanh của mình tạo cơ hội

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

13


BÁO CÁO TỔNG HỢP

tham gia tích cực cho cộng đồng vào hoạt động du lịch. Điều này cũng sẽ có những

ảnh hưởng nhất định đến lợi ích của nhà đầu tư trong giai đoạn đầu.
Tóm lại nếu khơng có một chính sách phù hợp điều chỉnh và tạo mơi trường
đầu tư hấp dẫn thì du lịch sinh thái đích thực vẫn chưa phát triển được. Kinh nghiệm ở
nhiều nước có hoạt động du lịch sinh thái phát triển cũng cho thấy những bài học
tương tự. Điều này đòi hỏi cần có những chính sách cụ thể, phù hợp với đặc điểm của
từng loại hình du lịch và điều kiện từng nơi, được thể hiện trong các quy định có tính
pháp lý như luật, nghị định, quy chế, v.v. để tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình
du lịch phát triển.
Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp, các chính sách phù hợp cũng sẽ hạn chế
được tác động tiêu cực của các yếu tố chủ quan khác đến sự phát triển của các loại
hình du lịch. Trong nhiều trường hợp yếu tố chính sách cịn quyết định sự ra đời hoặc
mức độ phát triển của một loại hình du lịch nào đó, đặc biệt khi hoạt động của loại
hình du lịch đó được xem là “nhạy cảm”. Ví dụ loại hình du lịch vui chơi giải trí cao
cấp mang tính cờ bạc như casino, cá cược thể thao rất phát triển ở Mỹ và các nước
phương Tây cũng như ở một số quốc gia phát triển khác, tuy nhiên loại hình du lịch
này lại khơng được phát triển hoặc chỉ phát triển ở quy mơ nhỏ hoặc có tính thử
nghiệm ở một số nước, trong đó có Việt Nam. Ở đây cần có cơ chế quản lý, kiểm sốt
có hiệu quả những tác động tiêu cực có thể nảy sinh từ hoạt động du lịch đến mơi
trường, văn hố xã hội hoặc an ninh quốc phòng. Ở Tây Ban Nha, nhờ có chính sách
phù hợp nên loại hình “du lịch làng quê” phát triển nhanh chóng trong khoảng 10 năm
trở lại đây, tạo được sức hấp dẫn riêng của du lịch Tây Ban Nha, đồng thời phát huy
được hiệu quả xã hội của hoạt động du lịch.
Như vây việc điều chỉnh chỉ có thể tác động vào nhóm các yếu tố chủ quan, đặc
biệt là yếu tố về chính sách, vì thơng qua nhóm yếu tố này sẽ có những ảnh hưởng tích
cực đến điều chỉnh các yếu tố khách quan (đảm bảo tài nguyên, môi trường du lịch)
nhằm tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch nói chung, các
loại hình du lịch đặc thù, trong đó có du lịch TTMH nói riêng.
Sản phẩm du lịch
Khái niệm về sản phẩm du lịch đã được đưa ra trong Luật Du lịch (2005), theo
đó “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách

du lịch”
Một số tài liệu khác cho rằng “Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm đặc biệt
có tính dịch vụ cao và được tạo thành bởi nhiều yếu tố nhằm đáp ứng nhu cầu của du
khách” và như vậy sản phẩm du lịch chỉ bao gồm dịch vụ tổng thể của nhà cung cấp
dựa vào các yếu tố thu hút du lịch khác như kết cấu hạ tầng du lịch, tài nguyên du lịch,
cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, lao động (con người) và các yếu tố “tiền” du lịch như

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

14


BÁO CÁO TỔNG HỢP

nghiên cứu thị trường du lịch, chiến lược kinh doanh du lịch, chiến lược marketing du
lịch, xây dựng sản phẩm và cung cấp (bán) sản phẩm cho du khách để thỏa mãn nhu
cầu của du khách
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới WTO, “Sản phẩm du lịch là sự tổng hợp của 3
yếu tố cấu thành : (i) kết cấu hạ tầng du lịch; (ii) tài nguyên du lịch; và (iii) cơ sở vật
chất kỹ thuật, dịch vụ, lao động và quản lý du lịch”. Thực tế cho thấy khái niệm này
của WTO là “bao trùm” và thể hiện đầy đủ những gì chứa đựng trong một sản phẩm
du lịch. Trong mối quan hệ với khách du lịch, sản phẩm du lịch có thể được thể hiện
theo Sơ đồ 3 sau:
Sơ đồ 3 : Các lớp cấu thành sản phẩm du lịch hoàn hảo

Giá trị
sản phẩm
du lịch

I:


“i” Lõi
core
J: DV bổ trợ
K: DV gia tăng

H: hour

Nhu cầu về thời gian

Thời gian
du lịch

Trong đó :
(i) : phần dịch vụ cốt lõi hay dịch vụ cơ bản (core service) của sản phẩm du
lịch, điều mà du khách kỳ vọng nhất trong chuyến đi du lịch. Đây được xem là nhu cầu
của khách đối với một tour du lịch;
(j) : phần dịch vụ “trang sức” (jewelry) hay dịch vụ bổ trợ là cơ sở vật chất du
lịch bao gồm hệ thống vui chơi giải trí, kiến trúc cảnh quan, quầy hàng bán hàng lưu
niệm, v.v.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

15


BÁO CÁO TỔNG HỢP

(k) : phần dịch vụ có tính “sáng tạo” (know-how) có tính khác biệt, hấp dẫn
làm tăng giá trị (feature value) của sản phẩm du lịch. Đây sẽ là yếu tố quan trọng để du

khách, đặc biệt là khách du lịch “khó tính”, lựa chọn. Trước hết đó là tài nguyên du
lịch, dịch vụ quảng cáo, quan hệ cơng chung PR, uy tín, thương hiệu, sự sang trọng,
v.v.
(h) : khoảng thời gian (hour) nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của du khách. Đây là
khoảng thời gian phải cung cấp kịp thời , đúng lúc nhu cầu của khách.
Thông qua i, j, k, h là hoạt động sáng tạo, sự định vị thông minh, sự khác biệt và
đúng lúc mà du khách cần để tạo nên “đẳng cấp” sản phẩm :
sản phẩm du lịch rẻ tiền (đẳng cấp thấp)

: khi Si >> Di

sản phẩm du lịch có chất lượng (đẳng cấp trung bình) : khi Sij = Dij
sản phẩm du lịch chất lượng cao, hợp “gu”, đúng lúc
(đẳng cấp cao)

: khi Sijkh < Dijkh

Trong đó : S (supply) – Cung ; D (demand) – Cầu
Những đặc điểm cơ bản của “sản phẩm du lịch” bao gồm :
Tính tổng hợp, đa dạng, nhiều cấp độ;
Tính khơng dự trữ, lưu kho được;
Tính khơng thể chuyển dịch, phân chia được
Tính đồng thời của hoạt động sản xuất và tiêu thụ;
Tính vơ hình, dễ thay đổi, khơng đồng nhất;
Tính khơng chuyển giao quyền sở hữu;
Tính mới cho cả chủ thể (khách du lịch), khách thể (môi trường, cảnh quan, tài
nguyên) và môi giới du lịch (ngành kinh doanh du lịch)
Như vậy khi nghiên cứu “sản phẩm du lịch” ngoài việc chú trọng đến các yếu tố
hình thành lên “sản phẩm”, cần thiết phải lưu ý đến những đặc điểm cơ bản của sản
phẩm du lịch

Giống như mọi “sản phẩm”, sản phẩm du lịch cũng có “vịng đời” của mình, bắt
đầu từ việc tư duy nghiên cứu, đến xây dựng và phát triển và rồi sẽ suy thoái nếu thiếu
sự đầu tư nâng cấp, tạo ra những hấp dẫn mới. Tính chất này của sản phẩm du lịch
được thể hiện trên Sơ đồ 4

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

16


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Sơ đồ 4 : Vòng đời sản phẩm du lịch

Tính phổ biến về sự hấp dẫn của sản phẩm du lịch
(các giai đoạn phát triển)

Đầu tư làm “trẻ hóa” sản
phẩm

Giai đoạn phát triển đình trệ
Giai đoạn phát triển
bão hòa

Dấu hiệu suy giảm

Giai đoạn phát triển hưng thịnh

Giai đoạn phát triển tăng trưởng


Giai đoạn phát triển ban đầu (xây dựng)

Thời gian

Đặc điểm về “vòng đời” sản phẩm du lịch cần được hết sức lưu ý trong hoạt
động du lịch nói chung và hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng nhằm nâng cao sức
hấp dẫn và tính cạnh tranh của sản phẩm du lịch.
1.1.2. Du lịch thể thao-mạo hiểm
Khái niệm
Khái niệm về du lịch thể thao đã được đưa ra dưới nhiều góc độ, tuy nhiên đa
số các nhà nghiên cứu đều cho rằng du lịch thể thao là loại hình du lịch mà trong đó du
khách sẽ được tham gia trực tiếp vào một số hình thức thể thao nhằm tăng cường sức
khỏe kết hợp với thăm quan khu vực nơi diễn ra hoạt động du lịch thể thao. Các hình
thức thể thao truyền thống gắn với loại hình du lịch này thường bao gồm: leo núi;
thuyền (thuyền chèo, thuyền buồm); lướt ván; xe đạp, mô tô, ô tô; tàu lượn, v.v.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

17


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Sự khác nhau giữa thể thao thuần túy và du lịch thể thao thể hiện ở “tính
chuyên nghiệp” của các cuộc đua trong thể thao. Trong du lịch thể thao, tính “tranh
đua” khơng được đề ra như một mục tiêu của những người tham dự. Du khách tham
dự loại hình du lịch này thường là những người yêu thích thể thao và mong muốn được
phục hồi sức khỏe sau các chuyến du lịch đặc biệt này.
Theo Tổ chức “Quỹ Hoang dã” (Mỹ) du lịch mạo hiểm là hình thức du lịch bao
gồm các hoạt động khám phá hoặc tới những vùng xa xôi hoang dã, nơi khách du lịch

có thể được thỏa mãn bởi những điều khơng ngờ.
Theo Hiệp hội Thương mại Du lịch Mạo hiểm Toàn cầu (Mỹ) “du lịch mạo
hiểm” là hoạt động du lịch bao gồm ít nhất 2 trong số 3 yếu tố thành phần sau : hoạt
động/vận động “cơ bắp”, sự trải nghiệm/giao tiếp với thiên nhiên, và trao đổi/tiếp xúc
với văn hóa bản địa.
Mặc dù cịn có những ý kiến xung quanh khái niệm về du lịch mạo hiểm, tuy
nhiên đa số ý kiến khá thống nhất ở khái niệm cho rằng du lịch mạo hiểm là loại hình
du lịch ở những khu vực tự nhiên còn tương đối hoang sơ, nơi du khách sẽ được thỏa
mãn nhu cầu khám phá những điều không ngờ tới cùng với những cảm xúc bị “đe
dọa” bởi những hoạt động “mạo hiểm” mà trước đó họ có thể chưa hình dung được
song đã tự nguyện chấp nhận tham gia. Du khách tham gia loại hình du lịch này
thường là những người u thích khám phá và ưa cảm giác “mạnh”.
Phụ thuộc vào mức độ mạo hiểm, du lịch mạo hiểm có thể là rất mạo hiểm
(Extreme adventure tourism) hoặc ít mạo hiểm (Soft adventure tourism)
Du lịch rất mạo hiểm (hay du lịch “dữ dội” Shock) là hình thức du lịch đi tới
những khu vực nguy hiểm (núi cao, các khu rừng nguyên sinh, hoang mạc, hang động,
v.v.) hoặc tham gia vào các hoạt động nguy hiểm. Du lịch rất mạo hiểm thường có
phần trùng hợp với thể thao mang tính mạo hiểm.
Khái niệm về du lịch thể thao - mạo hiểm (TTMH) được xem là sự kết hợp về
khai niệm của 2 loại hình du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm, ở đó “nội hàm” khái
niệm về du lịch thể thao đóng vai trị chủ đạo. Mặc dù cịn có những điểm chưa thống
nhất trong thuật ngữ, tuy nhiên đa số các nhà nghiên cứu du lịch cho rằng “Du lịch
TTMH là loại hình du lịch mang tính thể thao dựa vào việc khai thác các giá trị tự
nhiên có kết hợp với văn hóa bản địa ở những khu vực cịn tương đối hoang sơ, nhằm
thỏa mãn nhu cầu tăng cường sức khỏe và và khám phá những điều không ngờ tới với
những cảm giác mạo hiểm”.
Du lịch TTMH có thể bao gồm :
Du lịch leo núi

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC


18


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Du lịch khám phá các vùng hoang sơ (đi bộ hoặc kết hợp nhiều phương tiện như
xe đạp, mô tô, ô tô)
Du lịch thám hiểm hang động
Du lịch vượt thác ghềnh
Du lịch thả bè/mảng trôi sông
Du lịch lặn biển
Du lịch đua thuyền
Du lịch lướt ván
Du lịch tàu lượn
v.v.

Du lịch vượt thác ghềnh trên sông

Du lịch leo vách núi

Du lịch leo núi

Du lịch vượt rừng

Như vậy có thể nói các hình thức du lịch thể thao mạo hiểm là rất phong phú và
đa dạng, phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên nơi phát triển loại hình du lịch này.
Với sự đa dạng trên về các hình thức du lịch, các sản phẩm du lịch TTMH cũng
sẽ rất phong phú bởi ngồi sản phẩm “đơn” (trong cùng một hình thức du lịch) thì có
thể xây dựng các sản phẩm “đa” hình thức trong cùng một tour (chương trình) du lịch

cụ thể. Ví dụ, có thể kết hợp du lịch leo núi, du lịch đi bộ (trekking), du lịch vượt thác

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

19


BÁO CÁO TỔNG HỢP

ghềnh/thả bè, du lịch khám phá bằng xe đạp, v.v trong một tour du lịch tổng hợp để
khám phá các giá trị tự nhiên, văn hóa bản địa một vùng đất hoang sơ nào đó.
Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển sản phẩm du lịch TTMH
Khác với các sản phẩm du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, v.v. nơi hạ tầng cơ sở,
đặc biệt là hệ thống giao thông và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trị quan
trọng, trong cấu thành sản phẩm du lịchTTMH, những yếu tố trên ít có ảnh hưởng.
Trong nhiều trường hợp, sự khó khăn về hạ tầng (giao thông, điện, nước) và yếu kém
về cơ sở vật chất kỹ thuật (khách sạn, nhà hàng) lại là những yếu tố góp phần làm gia
tăng tính “mạo hiểm” của sản phẩm du lịch TTMH mà du khách sẽ được trải nghiệm.
Như vậy, đứng từ góc độ khái niệm về sản phẩm du lịch, có thể thấy các yếu tố
chủ yếu sẽ có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển các sản phẩm TTMH bao gồm :
Tài nguyên du lịch : được xem là yếu tố nền tảng tạo nên sản phẩm du lịch. Đối
với các sản phẩm du lịch TTMH, tài nguyên du lịch tự nhiên, đặc biệt là địa
hình (độ dốc, hệ thống hang động, v.v.); hệ thống sơng, hồ; cảnh quan, các giá
trị sinh thái, khí hậu và các điều kiện tự nhiên như thời tiết, tốc độ dịng chảy
trên sơng, v.v.có vai trị đặc biệt quan trọng. Các giá trị về văn hóa bản địa (sinh
hoạt truyền thống của người dân địa phương, đặc biệt của các dân tộc ít người;
kiến trúc làng bản; các nghề thủ công; ca nhạc, lễ hội truyền thống; v.v.) cũng
góp phần tạo nên sự ảnh hưởng của tài nguyên du lịch đến việc hình thành các
sản phẩm du lịch TTMH. Tuy nhiên vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn
không quyết định mà chỉ là yếu tố bổ trợ quan trọng.

Một số dịch vụ cơ bản bao gồm bảo hiểm, hướng dẫn, thiết bị và phương tiện,
v.v. được xem là yếu tố góp phần tạo nên nội dung và tính hấp dẫn riêng của
các sản phẩm du lịch TTMH. Tùy thuộc vào sản phẩm du lịch TTMH thuộc
nhóm hình thức du lịch TTMH nào (TTMH trên vùng núi, TTMH trên vùng
sông nước, TTMH trên vùng biển) mà mức độ cần thiết đối với các loại dịch vụ
cơ bản sẽ có sự khác nhau. Ví đối với tour du lịch leo núi thì mức độ cần thiết
của dịch vụ thiết bị định vị hay phương tiên vận chuyển sẽ thấp hơn so với du
lịch tour du lịch khám phá tổng hợp với các hình thức di chuyển bằng đi bộ
(trekking), xe đạp, mô tô, bè mảng, v.v.
Lao động, chủ yếu là hướng dẫn viên và người “huấn luyện” viên, có vai trị
quan trọng đối với việc hình thành một sản phẩm du lịch TTMH. Khác với
những loại hình du lịch khác, du khách thường phải trải qua một “lớp” huấn
luyện bắt buộc với mức độ khác nhau phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm có thể
nảy sinh trong quá trình tham gia chương trình du lịch trước khi sử dụng sản
phẩm du lịch theo nhu cầu. Điều này đòi hỏi cần có những người hướng dẫn
viên và huấn luyện viên có trình độ kỹ năng để hạn chế xác xuất “rủi ro” vốn

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

20


BÁO CÁO TỔNG HỢP

cao hơn so với những loại hình du lịch khác có ảnh hưởng đến tính mạng và sức
khỏe của khách du lịch.
Hoạt động quản lí liên quan đến việc tổ chức và thực hiện chương trình du lịch
TTMH có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng sản phẩm cũng như sự đảm
bảo an toàn cho du khách khi tham gia loại hình du lịch này. Điều này địi hỏi
một quy trình quản lí thích hợp với những nhà quản lí có ngun tắc.

Các ngun tắc cơ bản phát triển sản phẩm du lịch TTMH
Do tính đặc thù của du lịch TTMH có liên quan đến tính “mạo hiểm”, hay nói
một cách khác là mức độ rủi ro ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe của khách du
lịch cao hơn so với các sản phẩm du lịch khác, ngoài những nguyên tắc cơ bản chung
khi phát triển các sản phẩm du lịch như nguyên tắc cung – cầu; nguyên tắc hiệu quả;
v.v., một số nguyên tắc có tính riêng biệt (đặc thù) cần được lưu í khi phát triển sản
phẩm du lịch TTMH bao gồm :
Tăng cường các dịch vụ đảm bảo an toàn cho khách, theo đó ngồi các dịch vụ
như “huấn luyện”, “hướng dẫn”, v.v., các dịch vụ hỗ trợ an toàn trong trường
hợp khẩn cấp (như cấp cứu bằng đường hàng không, theo dõi định vị tồn cầu,
v.v.) phải được đưa vào trong “gói” dịch vụ chung của sản phẩm du lịch
TTMH.
Ngoài các giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên như “độ cao”, “sự hoang sơ”, v.v.
mà du khách kỳ vọng sẽ khám phá và chinh phục được xem như một thành
phần quan trọng của sản phẩm du lịch TTMH, cần chú trọng khai thác các giá
trị văn hóa bản địa ở những khu vực được lựa chọn để phát triển sản phẩm du
lịch TTMH như sinh hoạt truyền thống cộng đồng, kiến trúc làng bản, văn nghệ
dân gian, lễ hội truyền thống nhằm bổ sung, tạo sự khác biệt và tăng tính hấp
dẫn của sản phẩm.
Đây cần được xem là một nguyên tắc quan trọng khơng chỉ có ý nghĩa đối với
việc phát triển sản phẩm du lịch mà cịn có ý nghĩa bảo tồn phát huy các giá trị
văn hóa, tạo điều kiện để cộng đồng tham gia hoạt động du lịch và qua đó góp
phần đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững.
Do đặc điểm là các sản phẩm du lịch TTMH thường được phát triển ở những
khu vực cịn tương đối hoang sơ, vì vậy để giảm thiểu tác động của hoạt động
du lịch đến môi trường sinh thái, sản phẩm du lịch TTMH cần được xây dựng
trên nguyên tắc chỉ thỏa mãn nhu cầu của một nhóm nhỏ khách du lịch tại một
thời điểm phù hợp với “sức chứa” của tài nguyên. Nguyên tắc này là rất quan
trọng đối với việc phát triển các sản phẩm du lịch dựa vào tự nhiên ở những khu


CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

21


BÁO CÁO TỔNG HỢP

vực còn tương đối hoang sơ, nhạy cảm với những tác động. Du lịch sinh thái là
một loại hình du lịch có ngun tắc phát triển tương tự.
Đối với các tour du lịch TTMH tổng hợp (kết hợp một số hình thức du lịch
TTMH trong một chương trình trọn gói), bên cạnh các điều kiện cơ bản để hình
thành sản phẩm, các khu vực (khơng gian) hoặc “lát cắt” (tuyến) được lựa
chọn cần chứa được nhiều nhất các giá trị tự nhiên (cảnh quan, sinh thái) và
văn hóa bản địa. Đây là nguyên tắc quan trọng trong phát triển sản phẩm du
lịch TTMH nhằm tạo được các sản phẩm hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao, đáp
ứng tốt nhất kỳ vọng của du khách.
Trên đây là một số ngun tắc cơ bản có tính đặc thù cần phải tuân thủ trong quá
trình xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH.
Phát triển các sản phẩm du lịch TTMH vùng núi phía Bắc khơng nằm ngồi những
nguyên tắc trên.
1.2.

Đặc điểm tài nguyên du lịch được sử dụng để phát triển các sản phẩm du
lịch thể thao - mạo hiểm

Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên một cách rõ rệt hay nói một
cách khác du lịch không thể phát triển nếu thiếu tài nguyên du lịch.
Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn ngun liệu, năng
lượng và thơng tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà con người
có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.

Tài nguyên được phân loại theo tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố
tự nhiên, và tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố về con người và xã hội.
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài ngun nói chung.
Khái niệm tài ngun du lịch ln gắn liền với khái niệm du lịch.
“Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng,
giá trị nhân văn, cơng trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng
nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu
du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch” (Luật Du lịch, 2005).
Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề để phát triển du lịch. Thực tế
cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn
và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

22


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố liên quan đến các điều kiện tự nhiên,
điều kiện lịch sử - văn hoá, kinh tế - xã hội vốn có trong tự nhiên hoặc do con người
tạo dựng nên. Các yếu tố này luôn luôn tồn tại và gắn liền với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội đặc thù của mỗi địa phương, mỗi quốc gia tạo nên những điểm đặc
sắc cho mỗi địa phương, mỗi quốc gia đó. Khi các yếu tố này được phát hiện, được
khai thác và sử dụng cho mục đích phát triển du lịch thì chúng sẽ trở thành tài nguyên
du lịch. Cách đây hơn 30 năm khu rừng nguyên sinh Cúc Phương đã được phát hiện.
Năm 1962 Chính phủ ra quyết định cho phép xây dựng thành vườn quốc gia và đến
năm 1966, Cúc Phương đã chính thức trở thành vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam.
Cũng từ thời điểm này khi tính đa dạng sinh học của vườn quốc gia được khai thác
phục vụ mục đích du lịch, khu rừng nguyên sinh này trở thành một điểm tài nguyên du

lịch đặc sắc, một điểm du lịch có sức hấp dẫn cao đối với khách du lịch trong nước và
quốc tế. Tương tự như vậy, cũng chỉ mới cách đây hơn 5 năm, năm 1993, động Thiên
Cung, một động đá vôi nguyên sơ, kỳ ảo ở vịnh Hạ Long được phát hiện, khai thá sử
dụng để trở thành một điểm du lịch mới hấp dẫn đã làm phong phú và tăng thêm giá trị
của tài nguyên du lịch của khu du lịch nổi tiếng này.
Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch đang khai thác, tài nguyên du lịch
chưa khai thác.
Mức độ khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch phụ thuộc vào:
Khả năng nghiên cứu phát hiện và đánh giá các tiềm năng tài nguyên vốn còn
tiềm ẩn;
Yêu cầu phát triển các sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du
lịch. Các nhu cầu này ngày một lớn và đa dạng phụ thuộc vào mức sống và
trình độ dân trí. Ví dụ, vào những năm 60, du lịch biển ở Việt Nam chủ yếu là
tắm và nghỉ dưỡng biển thì ngày nay các sản phẩm du lịch biển đã đa dạng hơn
bao gồm cả lặn biển, lướt ván, tham quan nghiên cứu các hệ sinh thái biển v.v...
Trình độ phát triển khoa học công nghệ nhằm tạo ra các phương tiện để khai
thác các tiềm năng tài nguyên. Ví dụ nếu như trước đây du lịch thám hiểm đáy
biển chỉ là ước mơ thì ngày nay với các tàu ngầm chuyên dụng khách du lịch có
thể thăm quan khám phá những điều kỳ diệu của đại dương một cách dễ dàng.
Trong tương lai, với sự phát triển nhanh chóng về khoa học và cơng nghệ, du
khách sẽ có cơ hội đi du lịch ở những hành tinh xa xơi ngồi trái đất.
Như vậy cũng giống như các dạng tài nguyên khác, tài nguyên du lịch có phạm
trù lịch sử và có xu hướng ngày càng được mở rộng. Sự mở rộng của tài nguyên du
lịch thường tuỳ thuộc rất nhiều vào yêu cầu phát triển du lịch, vào những tiến bộ khoa
học kỹ thuật, vào sự đầu tư, vào các sáng kiến và sở thích của con người. Bên cạnh
những tài nguyên đã và đang được khai thác, nhiều tài nguyên du lịch còn tồn tại dưới
dạng tiềm năng do:

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC


23


BÁO CÁO TỔNG HỢP

Chưa được nghiên cứu điều tra và đánh giá đầy đủ.
Chưa có nhu cầu khai thác do khả năng "cầu" cịn thấp.
Tính đặc sắc của tài ngun thấp hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cần thiết để khai thác
hình thành các sản phẩm du lịch.
Các điều kiện để tiếp cận hoặc các phương tiện để khai thác hạn chế do đó chưa
có khả năng hoặc gặp nhiều khó khăn trong khai thác.
Chưa đủ khả năng đầu tư để khai thác.
Trong thực tế, ở Việt Nam, nhiều di tích lịch sử văn hoá, lịch sử cách mạng mặc
dù đã được xếp hạng song chưa được khai thác phục vụ du lịch; nhiều khu rừng
nguyên sinh với tính đa dạng sinh học cao, nhiều bãi biển đep ở miền Trung, nhiều lễ
hội v.v... vẫn còn tồn tại ở dạng tiềm năng du lịch do chưa hội đủ các điều kiện để khai
thác đưa vào sử dụng.
Để có thể khai thác và sử dụng tốt nhất các tài nguyên du lịch việc tìm hiểu và
nghiên cứu các đặc điểm tài nguyên du lịch là hết sức quan trọng. Tài nguyên du lịch
có các đặc điểm chính sau đây:
- Tài ngun du lịch phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc
và độc đáo có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch.
Khác với nhiều loại tài nguyên khác, tài nguyên du lịch rất phong phú và đa
dạng. Đặc điểm này của tài nguyên du lịch là cơ sở để tạo nên sự phong phú của các
sản phẩm du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
Ví dụ, đối với loại hình tham quan, nghiên cứu phục vụ cho mục đích nâng cao
nhận thức của khách du lịch thì tài nguyên du lịch có thể là các lễ hội, những giá trị
của sinh hoạt truyền thống của một vùng quê, các di tích lịch sử - văn hố, các bản
làng dân tộc ít người ở miền núi, các viện bảo tàng, các thành phố, các thác nước, hang
động hay các cánh rừng nguyên sinh có tính đa dạng sinh học cao... Đối với loại hình

du lịch nghỉ mát, chữa bệnh nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ thì tài nguyên du lịch
cần khai thác lại là các bãi biển, các vùng núi cao khí hậu trong lành, có phong cảnh
đẹp, các suối khống... Đặc biệt, nhiều tài nguyên du lịch đặc sắc và độc đáo có sức
hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch. Ví dụ Kim tự tháp ở Ai Cập, Vạn lý Trường
thành ở Trung Quốc, Thủ đô Pari của Pháp, vùng núi Anpơ ở Châu Âu, các vườn quốc
gia ở Châu Phi, vùng biển Caribê ở Trung Mỹ... là những địa danh du lịch lý tưởng
hàng năm thu hút hàng chục triệu khách du lịch. Ở Việt Nam, vịnh Hạ Long, các di
tích cố đơ Huế, vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ bàng, v.v. là những tài nguyên du lịch
đặc sắc song càng trở nên hấp dẫn hơn đối với khách du lịch khi được UNESCO công
nhận là di sản thiên nhiên và di sản văn hoá thế giới. Chắc chắn đây sẽ là những địa
danh thu hút ngày càng đông khách du lịch tới thăm.

CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC

24


×