Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

QUAN NIỆM về LUÂN lý và đạo đức của KHỔNG tử; GIÁ TRỊ TRONG VIỆC GIÁO dục đạo đức CON NGƯỜI ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.66 KB, 18 trang )

QUAN NIM về luân lý và Đạo đức của Khổng tử; GI TR trong
việc giáo dục đạo đức con ngời ở nớc ta hiện nay
Nghiờn cu lch s trit hc chỳng ta thy rng: s ra i, phỏt
trin ca bt c mt t tng, khuynh hng, hay h thng trit hc no
trong lch s nhõn loi cng u tuõn theo nhng quy lut chung, ó c
khỏi quỏt mt cỏch c bn nht l: s ra i, phỏt trin ca trit bao gi
cng ph thuc vo iu kin kinh t, chớnh tr - xó hi, nhu cu thc tin
phỏt ca xó hi; ph thuc vo s phỏt trin ca khoa hc t nhiờn v khoa
hc xó hi; ph thuc vo cuc u tranh gia ch ngha duy vt v ch
ngha duy tõm; phng phỏp bin chng v phng phỏp siờu hỡnh; ph
thuc vo s k tha ln nhau gia cỏc t tng trit hc trong lch s v
ph thuc vo s liờn h, nh hng, k tha ln nhau gia cỏc t tng
trit hc trong mi quan h gia cỏc quc gia, dõn tc vi quc t
Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc là một xã hội đầy
hỗn loạn và có nhiều biến động. Nhà Tây Chu có nhiều biến động lớn lao,
toàn diện và kéo dài. Lực lợng sản xuất đã có bớc phát triển rõ nét. Kết quả
của sự biến động về kinh tế dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu giai tầng xã hội.
Nhiều giai tầng mới xuất hiện, mới cũ đan xen và mâu thuẫn ngày càng gay
gắt. Nổi lên trong xã hội là các mâu thuẫn: giữa tầng lớp t hữu tài sản (hiển
tộc) không đợc tham gia chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc của nhà Chu;
mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thơng nhân với giai cấp
quý tộc thị tộc nhà Chu; mâu thuẫn trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc nhà
Chu; mâu thuẫn giữa tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc với tầng lớp đại quý tộc thị
tộc; giữa nông dân công xã với tầng lớp mới lên. Đồng thời, xã hội chuyển
mình dữ dội, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do phồn vinh và những
thành quả đạt đợc trên lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Trong giai đoạn này, cùng với việc tranh quyền, đoạt lợi là các cuộc chiến
tranh diễn ra liên miên, bất chấp đạo lý. Đây là thời kỳ mà các mối quan hệ giữa
ngời với ngời cũng nh các nguyên tắc luân lý, đạo đức tốt đẹp của thời nhà Chu
đã bị đảo lộn Trong nớc cũng đã xuất hiện những trung tâm, nh Tắc Hạ của nớc
Tề, những tụ điểm nh những mạnh thờng quân mà ở đó có những "kẻ xử sỹ bàn


ngang" hay "bàn việc nớc". Lịch sử gọi thời kỳ này là "Bách gia ch tử" (trăm nhà
trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình đó
đã xuất hiện nhiều nhà t tởng vĩ đại, hình thành nên hệ thống triết học, mở đầu
cho lịch sử t tởng Trung Quốc có ngôn ngữ và ý nghĩa chặt chẽ.
Một trong những nhà triết học tiêu biểu của Trung Quốc cổ đại là
Khổng Tử (551 - 479 TCN). Thời đại của Khổng Tử là thời kỳ "Vơng đạo suy
vi", "Bá đạo trị vì", nh ông đã từng than rằng "vua không phải đạo vua, tôi
không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con". Đứng
trên lập trờng của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông chủ trơng
lập lại kỷ cơng của nhà Chu với nội dung mới cho phù hợp. Khổng Tử lập ra
học thuyết, mở trờng dạy học, đi chu du khắp nơi, tranh luận với các phái khác
để tuyên truyền lý tởng của mình. Ông xây dựng học thuyết chính trị xã hội.
Từ đó, Nho giáo đã ra đời mang đậm tính chính trị, đạo đức. Với khát vọng đ-
a xã hội trở lại thời kỳ thanh bình và thịnh trị của thời đại Nghiêu, Thuấn; Nho
giáo chứng tỏ xu hớng biện luận về xã hội, đạo đức. Một trong những vấn đề
cốt lõi của triết học Nho giaó mà khởi đầu từ Khổng Tử là học thuyết về luân
lý và đạo đức. Đây là vấn đề bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của con ngời và
các vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội.
Học thuyết luân lý và đạo đức của Khổng Tử nhằm mục đích để đổi
loạn thành trị, vì vậy thông qua ba phạm trù chủ yếu: "Nhân", "Lễ", "Chính
danh", Nho giáo muốn cải tạo con ngời, trong đó tập trung lấy lấy "tu thân"
làm gốc. Bởi lẽ, "tu thân" nhằm thực hiện đạo làm ngời. Chỉ có thực hiện đạo
2
làm ngời mới có thể khắc phục đợc thực trạng: bề tôi giết vua, con giết cha,
em giết anh, bạn bè lấn át nhau đang diễn ra nh cơm bữa trong xã hội.
Luân lý đạo đức theo t tởng Nho giáo đợc thể hiện trớc hết thông qua
thuyết "Chính danh". "Chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng", "Chính
danh" thì ngời nào có địa vị, bổn phận chính đáng của ngời ấy, trên dới, vua
tôi, cha con trật tự phân minh thông qua chủ trơng thực hiện theo ngũ luân,
ngũ thờng. Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì

việc không thành, việc không thành thì mọi điều lễ nhạc không gây lại đợc,
không gây lại đợc lễ nhạc thì hình phạt sẽ sai trật tự cả, hình phạt không đúng
thì dân sẽ bị bó buộc tay chân. Cho nên ngời quân tử có danh rồi tất phải nói,
nói rồi tất phải làm". Nh vậy, đối với Nho giáo, chính danh là điểm then chốt
để gây dựng lại luân lý đạo đức nhằm đa xã hội trở lại trật tự, nề nếp.
Để thực hiện luân lý đạo đức theo "Chính danh', Nho giáo chủ trơng
thực hiện "tu thân" theo ngũ luân, ngũ thờng. Ngũ luân là năm mối quan hệ
phổ biến trong xã hội: Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ, Huynh - Đệ, Bằng -
Hữu, trong đó có ba mối quan hệ rờng cột (Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ)
gọi là tam cơng. Ngũ thờng là năm phẩm chất của con ngời (nhân, lễ, nghĩa,
trí, tín) trong tu thân cần rèn luyện. Vấn đề luân lý đạo đức của Nho giáo, thực
chất là giải năm mối quan hệ trong xã hội.
Với việc Nho giáo tồn tại đợc hơn hai nghìn năm qua đáng để chúng ta
xem xét và kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của nó. Xem Nho giáo
giải quyết các mối quan hệ trong xã hội sẽ giúp chúng ta có có cái nhìn đúng
đắn về xã hội phong kiến và giá trị của nó đối với xây dựng các mối quan hệ
xã hội hiện nay.
Trong mối quan hệ Vua- Tôi, Nho giáo đòi hỏi phải có mối quan hệ,
ứng xử qua lại của hai bên. Là vua phải biết đối xử với bề tôi, tôn trọng và quý
mến bề tôi; còn bề tôi phải biết giữ đạo trung khi thờ vua. Nếu không làm đợc
3
điều đó thì hậu quả tất yếu là bề tôi giết vua. " Trung", theo Nho giáo, đó là
phải biết giúp cho vua đi vào con đờng đạo đức, dồn hết tâm trí để làm việc
nhân. "Trung" là không đợc dối gạt vua và cũng không sợ làm mất lòng vua.
"Trung" cũng tức là phải biết đặt lợi ích của đất nớc (còn có nghĩa là của nhà
vua) lên trên hết, phải biết đem đạo lý để thờ vua, việc gì có ích cho nớc, có
lợi cho dân thì giúp cho vua làm. " Trung" còn có nghĩa một mặt là phải biết
can gián vua khi vua làm những việc trái với đạo lý; mặt khác không đợc vào
hùa theo vua khi vua lầm lỗi, không đợc đón trớc ý xấu của vua rồi khêu gợi
cho vua lầm lỗi. Nếu nh vậy thì bất trung. "Trung" còn có nghĩa là cung và

kính, "ngời nào nhắc nhở những việc khó để vua làm, thì ngời ấy có nết cung;
ngời nào bầy tỏ điều thiện đức, ngăn cản việc tà khuất, thì đối với vua, ngời ấy
có đức kính. Còn kẻ nào nói vua ta chẳng có sức làm thiện làm nhân, kẻ ấy
làm hại vua vậy". Nh vậy, để vua - tôi thuận hoà, bề tôi cần phải có đức trung
trong mọi công việc đợc vua giao.
Tuy vậy, vua cần phải giữ Lễ trong việc sai xử bề tôi, nghĩa là không đ-
ợc dựa vào quyền hành và thân thế mà đối xử với bề tôi. "Lễ" ở đây còn có
nghĩa là vua phải biết tôn trọng ngời hiền tài, phải biết lắng nghe lời can dán
của bề tôi. "Bề tôi can dán thì vua theo, nói phải thì vua nghe, ơn huệ thấm
xuống dân. Bề tôi vì một lẽ gì đó mà phải bỏ nớc ra đi, ắt vua sai ngời hộ tống
đến miền cơng giới. Trớc đó vua còn có lời gửi gắm ngời quen cũ của mình tới
vị vua trong nớc mà ngời sắp đến. Quá ba năm mà ngời chẳng trở về, chừng
đó vua mới lấy lại ruộng đất và dinh thự của ngời. Đó gọi là ba việc có lễ của
vua đối với bề tôi".
Đối với mối quan hệ Cha - Con, Nho giáo đòi hỏi ngời làm cha phải có
đức tính nhân từ, ngời làm con phải có đức hiếu đễ. "Hiếu" là để thờ cha mẹ,
là gốc của đức "Nhân". Nói tới đức nhân tức là nói đến lòng yêu thơng ngời,
mà muốn yêu thơng ngời thì trớc hết phải yêu thơng cha mẹ, anh em mình.
4
Nho giáo cho rằng, ngời mà không biết yêu thơng cha mẹ lại có thể đem lòng
yêu thơng ngời khác là điều không thể có đợc. Vì thế, suy đến cùng, đạo của
vua cũng là đức hiếu đễ. "Trong những ngời có nết hiếu, nết đễ, ít ai a trái
nghịch với bề trên. Đã không a trái nghịch với bề trên, lại thích gây ra những
cuộc phản loạn, ngòi nh vậy ta cha từng thấy. Cho nên bậc quân tử chuyên chú
vào việc gốc. Cái gốc đợc vững tốt, tự nhiên đạo lý bắt đầu từ đó mà sinh ra.
Vậy làm ngời mà biết giữ gìn nết hiếu, nết đễ, tức là biết nắm lấy cái gốc đó".
Đối với Nho giáo, "Hiếu" là cái đạo phải làm của mỗi con ngời sống trong xã
hội. Trong xã hội, việc phải làm đầu tiên của mỗi ngời là cần chịu khó học
tập, rèn luyện bản thân để có thể "lập thân, hành đạo, nêu cao thanh danh
đến đời sau để làm vinh hiển cho cha mẹ". Nh vậy, "Hiếu" đòi hỏi ngời làm

con phải có trách nhiệm với cha mẹ mình đợc xã hội tôn trọng, không gì bằng
đem cả thiên hạ phụng dỡng cha mẹ; giữ đợc địa vị, làm theo lễ của ông cha,
kính những ngời mà ông cha trọng, mến những ngời mà ông cha yêu, thờ ngời
thác nh thờ ngời sống, trọng ngời đã qua nh trọng ngời đang tồn tại. Để làm đ-
ợc nh vậy, theo Khổng Tử, khi "cha còn sống phải xem xét chí của cha; cha
chết rồi xem việc làm của cha, ba năm không thay đổi những lời cha đã dạy,
nh thế có thể gọi là hiếu vậy". "Hiếu" còn đòi hỏi ngời con phải biết phụng d-
ỡng cha mẹ khi cha mẹ còn sống. Điều đó có nghĩa là khi phụng dỡng cha mẹ
thì phải có sự kính cẩn, phải có lễ. Khổng Tử chỉ rõ: "Đời nay hễ thấy ai nuôi
đợc cha mẹ thì ngời ta khen là ngời có hiếu. Nhng những con thú nh chó ngựa
thì ngời ta cũng nuôi. Vì thế, việc phụng dỡng cha mẹ là phải biết kính cẩn,
chăm sóc cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống thì không đợc đi chơi xa và có đi đâu
cũng phải có phơng hớng nhất định; phải biết giữ gìn thân thể mình để báo
đáp công ơn sinh thành, dỡng dục của cha mẹ. Khi cha mẹ đã mất phải chôn
cất cho có lễ, cúng tế cũng phải giữ cho đủ lễ. Theo Mạnh Tử, "Phụng dỡng
cha mẹ khi sinh tồn, đó cha kể là việc lớn lao hơn hết của kẻ làm con. Tống
táng cha mẹ cơn tử biệt, đó mới là việc trọng đại hơn hết của ngời hiếu tử".
5
Mặt khác Nho giáo cũng chỉ rõ những việc làm đợc coi là sự bất hiếu và
đáng bị cả xã hội lên án. Những điều đợc Nho giáo xem là bất hiếu gồm: một
là, làm những chuyện bậy bạ, khiến cho cha mẹ mang nhục. Hai là, nhà
nghèo mà cha mẹ lại già yếu nhng chẳng chịu ra làm quan để nuôi cha mẹ. Ba
là, không có con nối dõi, khiến cho cha mẹ không có ngời hơng khói. Trong
ba điều bất hiếu ấy, Nho giáo coi việc không có con nối dõi là điều bất hiếu
lớn nhất.
Đồng thời, Nho giáo còn khẳng định chiều ngợc lại trong quan hệ cha
con là cha mẹ cũng phải có nghĩa vụ đối với con cái. Ngoài tình yêu thơng con
cái, Nho giáo đòi hỏi cha mẹ phải: có nghĩa vụ dạy dỗ con cái mình nên ngời,
khi con cái còn nhỏ phải lo lắng, chăm sóc cho con khôn lớn, khi con cái trởng
thành, phải dạy dỗ, uốn nắn và làm gơng cho con cái để con cái biết đạo ứng

xử làm ngời trong xã hội: biết trung với vua, biết hiếu với cha mẹ, biết kính với
ngời trên, biết đễ với anh em, biết tín với bạn bè, biết thấy việc nghĩa thì phải
làm. Cha mẹ còn phải biết che chở, bảo vệ con cái, sẵn sàng bao che cho con
cái khỏi phải tội lỗi.
Trong mối quan hệ vợ - chồng, Nho giáo đòi hỏi phải có sự hoà thuận.
Trong gia đình, ngời chồng phải biết yêu thơng vợ, chăm lo cho vợ con và là
chỗ dựa của vợ con. Ngợc lại, ngời vợ phải biết chăm lo, vun vén cho gia đình
mình và gia đình nhà chồng, phải biết nghe theo chồng một cách vô điều kiện.
Nho giáo đề cao gia đình hoà thuận, coi thuận vợ, thuận chồng là cái gốc của
xã hội thái bình. Nho giáo lại phản đối sự dân chủ trong gia đình. Theo Nho
giáo, gia đình là cái nớc nhỏ, trong đó ngời chồng là chúa tể của ngời vợ,
chồng nói thì vợ phải theo, trong gia đình ngời vợ không có một chút quyền
hành nào, chỉ là ngời chịu sự sai bảo, sai khiến của chồng và con. Để đợc khen
là tiết hạnh, là thục nữ, họ phải tự ép mình tuân theo những quy định khắt khe
trong tứ đức (công, dung, ngôn hạnh), tam tòng của Nho giáo: khi còn ở nhà
6
thì chịu sự sai khiến của cha; khi đi lấy chồng chịu sự sai khiến của chồng;
chồng chết chịu sự sai khiến của con.
Đối với mối quan hệ huynh - đệ, Nho giáo đòi hỏi anh em trong nhà
phải có tình thân mật. Là anh thì phải biết bao bọc, chở che cho em, phải biết
nhờng nhịn em; là em phải biết kính trọng anh, nghe lời anh. Thực chất, quan
hệ anh em trong Nho giáo cũng giống nh quan hệ cha con. Bởi lẽ, xã hội của
Nho giáo là xã hội của quyền huynh thế phụ. Trong xã hội đó, anh là ngời có
quyền thay cha giải quyết mọi công việc đối nội cũng nh đối ngoại của gia
đình.
Đối với mối quan hệ bạn bè, Nho giáo đề cao đức tín và đòi hỏi mọi ng-
ời phải giữ chữ tín trong giao tiếp. Nho giáo quan niệm đức tin là nền tảng của
trật tự xã hội. Bạn bè mà không có lòng tin thì cũng không còn tình bạn, chính
quyền mà không đợc dân chúng tin thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ đổ.
Theo Khổng Tử cho rằng muốn cai trị tốt Nhà cầm quyền cần phải có ba điều

kiện: lơng thực phải có đủ để nuôi dân, binh lực phải có đủ để bảo vệ dân,
phải có đợc lòng tin cậy của dân.
Nh vậy, học thuyết luân lý, đạo đức của Khổng Tử tuy nói là phản ánh
năm mối quan hệ phổ biến trong xã hội, nhng về thực chất và suy đến cùng,
nó chỉ phản ánh hai mối quan hệ. Đó là ba mối quan hệ trong gia đình (cha -
con, vợ - chồng, anh - em) và hai mối quan hệ xã hội (vua - tôi, bạn - bè).
Trong quan hệ gia đình thì mối quan hệ cha - con, trong quan hệ xã hội thì
mối quan hệ vua - tôi giữ vị trí quan trọng nhất. Thực chất, học thuyết luân lý
và đạo đức của Khổng Tử chính là sự thể hiện đờng lối chính trị phong kiến
đẳng cấp và gia trởng. Dựa vào học thuyết này, Khổng Tử hy vọng có thể giúp
cho xã hội ổn định, trật tự đợc khôi phục.
Cùng với ngũ luân, ngũ thờng cũng có vai trò quan trọng. Ngũ thờng là
năm phẩm chất của con ngời (Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), trong tu thân cần phải
7
rèn luyện. Trong việc trị nớc, tu thân, Khổng Tử đặc biệt quan tâm đến đức
"nhân" và "lễ", hai yếu tố này cũng là những phẩm chất cốt lõi của luân lý, đạo
đức.
"Nhân" là đức tính toàn thiện, là cái gốc đạo đức của con ngời. Chữ
"nhân" theo Nho gia bao hàm một nội dung hết sức rộng rãi. Theo Khổng Tử:
"thơng ngời là nhân", "điều gì mà mình không muốn thì đừng đem áp dụng
cho ngời khác" là nhân; "mình muốn lập thân thì cũng giúp ngời lập thân,
mình muốn thành đạt thì cũng giúp ngời thành đạt" là nhân. Có chỗ Khổng Tử
lại nói: "nhân là thơng yêu ngời", nhân là "tôn trọng ngời hiền, nhân là lòng
ngời, tình ngời, là quan hệ giữa ngời với ngời" Quan niệm nh vậy, nhân có
nghĩa là gốc rễ của luân lý, đạo đức con ngời.
Lễ là cái để phân định ngời thân với kẻ sơ, làm rõ phải trái và phân biệt
với dị đồng. Khác với pháp luật, lễ có tác dụng ngăn cấm những hành vi sai
trái trớc khi nó sảy ra còn pháp luật thì dùng để ngăn cấm những cái mà nó đã
sảy ra rồi. Ngời quân tử: "trái với lễ thì không nhìn, trái với lễ thì không nghe,
trái với lễ thì không nói, trái với lễ thì không làm". Những điều cụ thể của lễ

chính là những quy tắc ứng xử giữa ngời với ngời trong xã hội, nó chính là
những nghi thức, những quy tắc trong đời sống của con ngời.
"Nhân", "Lễ" có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhân là chất, là nội dung,
Lễ là hình thức biểu hiện của Nhân. Theo Nho gia, ngời muốn đạt đức nhân
còn phải là ngời có "trí", "dũng" và "tín". "Trí", "Dũng", "Tín" cũng là những
đức tính mà con ngời cần phải có để đạt đợc những phẩm chất cần thiết của
việc "tu thân".
Quan niệm về luân lý, đạo đức của Khổng Tử, "Nhân", "Lễ", "Chính
danh" có quan hệ chặt chẽ. Mối quan hệ đó phản ánh tính chất danh phận
đẳng cấp đồng thời danh phận đẳng cấp lại là sự thể hiện của nhân, lễ. Những
điều cụ thể của nhân, lễ là những quy tắc ứng xử giữa ngời với ngời trong đời
8
sống xã hội, nó chính là những nghi thức, những quy tắc trong đời sống. Đồng
thời đó cúng chính là những điều cốt lõi của luân lý, đạo đức nhằm đa xã hội
quay trở về những trật tự cũ của nhà Chu.
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết về luân lý đạo đức đợc học trò của
ông trong các triều đại về sau tiếp tục. Trong số họ, nổi bật là nhà triết học,
nhà chính khách nổi tiếng Mạnh Kha (371 - 289 TCN). Đến Mạnh Tử thì các
khái niệm, pham trù về nhân, lễ, chính danh đã rõ ràng hơn. Tuy nhiên cũng
có những yếu tố đã bị Mạnh Tử thần bí hoá nh quan niệm về "thiên mệnh", về
đạo đức. Bàn về con ngời, Ông cho rằng con ngời mới sinh ra trời phú cho đủ
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; đủ đức hiếu với cha, mẹ, ngời thân; trung với vua, kính
với bề trên, nhng chỉ có ngời quân tử là có khả năng giữ đợc đủ mà thôi. Ông
xuyên tạc tính duy vật thô sơ của t tởng ngũ hành, gắn nó vào học thuyết về
đạo đức của mình, thần bí hoá nó. Mạnh Tử cho rằng: thần mộc là nhân, thần
kim là nghĩa, thần hoả là lễ, thần thuỷ là trí, thần thổ là tín. Bốn đức: nhân,
nghĩa, lễ, trí là do tín mà ra.
Đến thời kỳ Tây Hán, xuất hiện nhà triết học duy tâm Đổng Trọng Th
(180 - 105 TCN). Về luân lý, đạo đức, Đổng Trọng Th tiếp tục đề cập đến các
mối quan hệ của con ngời, nhng thực ra đã tớc đi những yếu tố có tính nhân

đạo, tiến bộ của học thuyết Khổng - Mạnh mà đa vào đó nhiều quan niệm khắt
khe. Đặc biệt, với "Tam cơng", ông đa ra thứ quy tắc đạo đức phi lý, phi nhân
bản: vua xử tội chết thì thần phải chết, nếu không là mắc tội bất trung (quân
xử thần tử thần bất tử bất trung), cha bảo con chết con phải chết, nếu không là
mắc tội bất hiếu (Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu), chồng bảo vợ phải
tuyệt đối tuân theo (Phu xớng phụ tuỳ). Ông cũng dùng thuyết âm dơng (đã bị
tớc bỏ phần duy vật), quy luật của tự nhiên và viện đến ý trời để biện minh
cho học thuyết đạo đức của mình: Vua là tợng của trời nên có đức che chở, h-
ớng dẫn "thiên vi quân nhi tán chi", bề tôi là tợng của đất nên có đức chuyên
9
chở, tuân theo (địa vi thần nhi trì tải chi), chồng là thuộc khí dơng nên có đức
sinh, dẫn đầu (dơng vi phu nhi sinh chi), vợ là thuộc khí âm nên có đức phụ
trợ, tuân theo (âm vi phụ nhi trợ chi), cha là thuộc "mùa xuân" nên có đức sinh
(xuân vi phụ nhi xuân chi), con là thuộc mùa hạ nên có đức dỡng, tuân theo
(hạ vi tử nhi dỡng chi) và tất cả là do trời định đoạt (khả cầu vi thiên). Thuyết
về ngũ thờng, về mặt tên gọi và nội dung của nó thì đây chỉ là một sự chép lại
của Khổng Tử, Mạnh Tử chứ không có gì mới. Nhng ở đây Đổng Trọng Th đã
giải thích và vận dụng nó theo mục đích của mình. Ông cho rằng con ngời
phải đủ "ngũ luân" để thực hiện "tam cơng" và con ngời mới có đạo cơng th-
ờng. Suy cho cùng, những vấn đề về luân lý, đạo đức của Đổng Trọng Th
nhằm phục vụ mục đích cao nhất là "trung quân", trung thành tuyệt đối với
nhà vua.
Nh vậy, học thuyết về luân lý đạo đức của Khổng Tử trong các triều đại
về sau đã qua nhiều bàn tay nhào nặn. Có những yếu tố phát triển tích cực,
song cũng có nhiều yếu tố làm cho nó thụt lùi. Tuy vậy, ngày nay những vấn
đề cơ bản về luân lý đạo đức bản nguyên từ thời Khổng Tử vẫn đợc giữ
nguyên nghĩa.
Học thuyết về luân lý, đạo đức của Khổng Tử đã để lại nhiều t tởng tích
cực, tiến bộ.T tởng tích cực và tiến bộ nhất là Nho giáo đã đề cập đến các mối
quan hệ của con ngời xã hội, khi nói đến các quan hệ xã hội, thì mối quan hệ

đầu tiên cần phải kể đến là mối quan hệ gia đình. Một xã hội hoà thuận trớc
hết cần có những gia đình hoà thuận. Gia đình hoà thuận là gia đình mà mọi
thành viên trong đó luôn quan tâm chăm lo đến nhau. Một gia đình hoà thuận
chính là một gia đình mà xã hội hiện nay đang đòi hỏi. Một xã hội ổn định và
phát triển, trớc hết phải dựa trên mỗi gia đình cụ thể. Gia đình là nơi nuôi d-
ỡng, cung cấp cho xã hội những con ngời có đức, có tài để xây dựng đất nớc.
Gia đình cũng chính là thành trì bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc, "một nhà nhân hậu thì cả nớc nhân hậu. Một nhà lễ
10
nhợng thì cả nớc ăn ở đều có lễ nhợng. Một ngời tham lam thì cả nớc bị rối
loạn. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dỡng cả đời ngời,
là môi trờng quan trọng trong giáo dục nếp sống hình thành nhân cách, và do
vậy, các chính sách của nhà nớc phải chú ý đến xây dựng gia đình no ấm, hoà
thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp ngời. Gia
đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia đình hoà thuận, dựa trên cơ sở dân
chủ: vợ chồng, cha con, anh em tôn trọng nhau, cùng nhau bàn bạc và quyết
định các vấn đề lớn của gia đình; trong gia đình đó không có chỗ cho t tởng
gia trởng, độc đoán, chuyên quyền.
Bên cạnh quan hệ quan hệ gia đình là quan hệ xã hội. Trong quan hệ xã
hội, đạo đức, luân lý Nho giáo đề cao trung và tín. Nho giáo đòi hỏi mọi ngời
đều phải có tấm lòng trung và có đức tín. Lòng trung và đức tín là nền tảng để
bảo đảm sự ổn định và vững bền của chế độ. Một tình bạn sẽ tan vỡ, một chính
quyền sẽ sụp đổ nếu không đợc xây dựng trên cơ sở của lòng trung và đức tín.
Theo nho giáo, trong mối quan hệ giữa ngời với ngời, không thể có một xã hội
ổn định và có trật tự khi mà mọi ngời luôn tìm cách lừa lọc nhau để vơ lấy cái lợi
về mình. Trung, Tín là cơ sở của một xã hội ổn định và là động lực cho nền kinh
tế phát triển lành mạnh. Mất lòng trung, đức tín là mất tất cả. Trong mối quan hệ
giữa trung và tín, Trung là cơ sở để giữ vững sự ổn định xã hội, tín tạo sự bền
vững của mối quan hệ. Mất Trung và Tín chính quyền sẽ sụp đổ, xã hội sẽ hỗn
loạn. Vì lẽ đó, Nho giáo quan niệm trong quan hệ xã hội thì trung và tín là quan

trọng nhất.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, Nho giáo còn có nhiều hạn
chế do điều kiện lịch sử đem lại.Trong hệ thống t tởng về luân lý đạo đức thì
quan niệm của Khổng Tử chỉ thấy con ngời xã hội mà không thấy con ngời tự
nhiên. Nho giáo đã quy tất cả mọi quan hệ tự nhiên vốn có của con ngời trong
xã hội thành các quan hệ luân thờng: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh -
em, bạn bè. Con ngời của Nho giáo không còn là con ngời của tự nhiên, mà
11
chỉ là con ngời của chức năng: hoặc là vua hoặc là tôi, hoặc là cha hoặc là con,
hoặc là chồng hoặc là vợ.
Đạo đức, luân lý Nho giáo là thứ đạo đức, luân lý phong kiến bảo thủ và
lạc hậu, ở một mức độ nhất định, nó đã làm cản bớc tiến của lịch sử. Nho giáo
phân biệt đẳng cấp, ràng buộc con ngời trong trật tự xã hội có lợi cho giai cấp
thống trị, mặt nào đó nó kìm hãm sự phát triển cá nhân, con ngời trở nên cam
chịu, không dám đứng lên đấu tranh. Tự do của cá nhân là cái không đợc phép
tồn tại; con ngời không có cá tính, không có quyền tự do ăn nói, tự do đi đứng
cũng nh tự do mu cầu hạnh phúc riêng t, mà tất cả đều bị trói buộc bởi những
quy định của Lễ.
Nho giáo tuy có những hạn chế, nhng bằng những giá trị tích cực về
luân lý đạo đức, ít nhiều phù hợp với tính cách của ngời phơng Đông, nên nó
đã ăn sâu vào đời sống xã hội. Nó đã trở thành một tập quán đạo đức và lối
sống của nhiều nớc phơng Đông trong đó có Việt Nam. Việt Nam vốn là một
nớc nông nghiệp, chủ yếu là canh tác lúa nớc, sản xuất mang tính tự cung tự
cấp, kinh tế hàng hoá chậm phát triển, phơng thức sản xuất mang những nét
đặc trng của phơng thức sản xuất châu á, c dân sống phân tán, khoa học tự
nhiên chậm phát triển. Là một nớc nhỏ nằm giữa hai nớc lớn là ấn Độ và
Trung Hoa, bị các tập đoàn phong kiến phơng Bắc đô hộ hơn một ngàn năm.
Cùng với việc thực hiện mu đồ xâm lợc, các tập đoàn phong kiến phơng Bắc
đã truyền vào Việt Nam các học thuyết chính trị xã hội, triết học và tôn giáo.
Cùng với đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho cũng vì vậy mà đợc truyền bá vào Việt

nam, hình thành nên ở Việt Nam "Tam giáo đồng nguyên". Theo "Đại Việt sử
ký toàn th", Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Tây Hán, vào khoảng
những năm 110 TCN. Cùng với đạo Phật và đạo Lão - Trang, đạo Nho đã có
ảnh hởng lớn đến sự tồn tại, phát triển con ngời Việt Nam. Sự xâm nhập của
Nho giáo cùng với hệ thống các quan điểm về luân lý đạo đức đã có ảnh hởng
12
không nhỏ đến t tởng, phong tục, tập quán của con ngời Việt Nam, nhng nó
không làm biến dạng ngời Việt Nam qua quá trình đồng hoá, vì quy luật phát
triển của dân tộc ta là chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, chống đồng hoá để
dị biệt hoá, tiếp nhận ảnh hởng và chống lại ảnh hởng văn hoá ngoại lai để xây
dựng văn hoá dân tộc.
Những vấn đề về lối sống đạo đức của Nho giáo đã có ảnh hởng lớn đến
lối sống, đạo đức của con ngời Việt Nam, ít nhiều nó đã ngấm sâu, bám rễ
trong tâm lý và t tởng của một bộ phận quần chúng. Nho giáo tạo cho con ng-
ời Việt Nam tinh thần ham học hỏi, ham hiểu biết, cần cù học tập, rèn luyện,
dấn thân; ứng xử đa dạng, phù hợp trong xã hội. Do đó, mặc dù t tởng về luân
lý đạo đức còn có nhiều hạn chế do lịch sử để lại là không thấy con ngời trớc
hết là con ngời tự nhiên rồi mới là con ngời xã hội, song nếu tạm gác lại con
ngời tự nhiên, thì trong điều kiện xã hội chúng ta ngày nay, luân lý đạo đức
với vai trò ổn định trật tự xã hội vẫn còn có ý nghĩa nhất định. Bởi vì, một xã
hội trật tự, ổn định có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc thực hiện các nội
dung về kinh tế, chính trị, xã hội.
Ngày nay, nhiều khái niệm về luân lý đạo đức của Nho giáo vẫn còn
chứa đựng những yếu tố hợp lý, có giá trị và có thể vận dụng vào sự nghiệp
xây dựng, giáo dục con ngời Việt Nam.
Thứ nhất, việc xác định con ngời là trung tâm của xã hội, muốn nhận
thức, cải tạo xã hội, con ngời cần phải tu thân. Vấn đề khác nhau ở chỗ, tu
thân để làm gì? Nếu trong xã hội phong kiến, tu thân là để mong có ngày đợc
làm quan theo tam cơng, ngũ thờng; thì trái lại, trong chủ nghĩa xã hội, tu thân
là rèn luyện đạo đức cách mạng, là học tập, tiếp thu và nắm vững những thành

tựu, tri thức khoa học của nhân loại, phấn đấu trở thành những con ngời mới
vừa hồng, vừa chuyên. Tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành TW khoá VIII,
Đảng ta đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của việc giáo dục con ngời
13
Việt Nam mới nh sau: "Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm
xây dựng con ngời và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng , có ý thức cộng đồng và phát huy
tính tích cực của cá nhân , là những ngời thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa "hồng" vừa "chuyên" nh lời căn dặn của Bác Hồ". Việc đặt vấn đề đạo
đức, vấn đề "hồng" lên trớc "chuyên" phần nào đã phản ánh rõ tầm quan trọng
của Lễ đối với sự phát triển của xã hội. Ngày nay, kế thừa nét đẹp của con ng-
ời và gia đình, Đảng ta cũng đánh giá cao vai trò của con ngời, gia đình đối
với sự tiến bộ của xã hội. Chúng ta chỉ có thể xây dựng dợc xã hội mới khi có
những con ngời mới vừa hồng, vừa chuyên.
Thứ hai, chúng ta cần phải tiếp thu, kế thừa cách nhìn tích cực về con
ngời xã hội của Nho giáo, tiến hành chuẩn mực hoá các hành vi ứng xử trong
quan hệ xã hội phù hợp với định hớng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã vạch
ra. Một lối sống lành mạnh cùng với những chuẩn mực mới về luân lý đạo đức
là cái đích hớng tới của xã hội ta hiện nay. Các quan hệ đạo đức, các cách ứng
xử giữa ngời với ngời chính là nền tảng của trật tự xã hội. Lẽ sống, nguyên tắc
ứng xử của chúng ta chính là "mỗi ngời vì mọi ngời, mọi ngời vì mỗi ngời", là
"yêu nớc, yêu nhà, thơng ngời, thơng mình", là kính già yêu trẻ, tôn s trọng đạo.
Do vậy, chúng ta phải giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nớc, tinh thần thơng ng-
ời nh thể thơng thân; biết nhớ ơn công lao dỡng dục sinh thành của cha mẹ; biết
kính trọng ông bà, thơng yêu con cháu, đùm bọc anh em; biết hoà thuận tôn
trọng lẫn nhau trong cuộc sống vợ chồng. Về thực chất, tất cả các yêu cầu kể
trên đều xuất phát từ các yêu cầu của luân lý đạo đức: là sống đúng bổn phận
của ngời cha, ngời mẹ,ngời anh, ngời chị, ngời con trong gia đình. Gia đình là
một tế bào của xã hội. Vì vậy, Đảng đã yêu cầu các chính sách của nhà nớc
phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về

nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp ngời rtrong xã hội
14
Thứ ba, trên cơ sở t tởng về con ngời xã hội, đó là các khái niệm Trung,
Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng Nho giáo đã xây dựng nên hệ thống
các khái niệm để chuẩn mực hoá các hành vi ứng xử trong mối quan hệ giữa
ngời với ngời. Những khái niệm trên của Nho giáo hầu nh vẫn giữ nguyên
những giá trị của chúng với t cách là các nấc thang của quá trình nhận thức.
Nhng chúng ta cần phải kế thừa có chọn lọc nội dung của các khái niệm đó để
phù hợp với các trào lu t tởng hiện đại. Trớc tác động tiêu cực của nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, muốn giữ vững đợc định hớng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta rất cần những con ngời có phẩm chất Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Dũng. Đây là những nội dung luân lý, đạo đức của Nho giáo mà chúng ta
cần phải kế thừa và phát huy, nhất là khi chúng ta đang tiến hành xây dựng
một nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, mà ở đó, lòng trung và
đức tín là những cái hết sức cần thiết. Bởi lẽ muốn bảo vệ và giữ vững đợc chủ
quyền của đất nớc thì cần phải có lòng trung thành với Tổ quốc.
Trớc kia, ở nho giáo trung là trung với vua, thì ngày nay, trung là trung
với nớc, với dân. Lòng trung thành đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết đặt lợi ích
của đất nớc, của nhân dân lên trên lợi ích của mình. "Trung" đòi hỏi cán bộ
cấp dới tuyệt đối không đợc dối gạt cấp trên; không vào hùa với những sai
phạm của cấp trên, không đợc khêu gợi cho cấp trên mắc sai phạm. Trung
cũng đòi hỏi các cán bộ cấp trên phải biết tôn trọng cấp dới; không đợc dựa
vào quyền hành mà trù úm, đè nén cấp dới; cán bộ cấp dới đề đạt và góp ý
đúng thì phải nghe, không đợc vì động cơ cá nhân hay cậy quyền mà phớt lờ
đi. Cấp trên phải biết quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất của cấp dới,
biết hoà đồng cùng cấp dới. "Trung" cũng đòi hỏi các cán bộ phải là "ngời đầy
tớ của nhân dân", phải biết lo trớc cái lo của dân, vui sau cái vui của dân.
Hiếu là hiếu với nhân dân, cha mẹ. Nhân là có lòng bác ái, thành thật
thơng yêu và hết lòng giúp đỡ bạn bè, đồng chí. Trí là sáng suốt, biết ngời,
biết ta. Tín là nói gì phải cho tin, nói và làm phải thống nhất với nhau. Dũng là

15
phải quả quyết, gặp việc khó cũng quyết tâm làm song, không làm liều Để
làm đợc điều đó, chúng ta cần phải chuẩn mực hoá chúng bằng việc tạo ra d
luận xã hội, biến chúng thành tập quán, thói quen trong giao tiếp, ứng xử. Mặt
khác, cần kết hợp việc làm đó với việc thực thi pháp luật, nhằm tạo cho d luận
xã hội có sức mạnh vật chất.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng mà sự phân hoá giàu nghèo và sự
phân tầng xã hội đang diễn ra hàng ngày, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực
dụng đang trỗi dậy, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, nhất là những
ngời có chức, có quyền suy thoái về đạo đức, lối sống, phai nhạt mục tiêu, lý
tởng nh: cơ hội chính trị, hữu khuynh, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, thực dụng,
cục bộ địa phơng, quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, bệnh thành tích , thì
vấn đề kế thừa, tiếp thu những yêú tố hợp lý, tích cực của luân lý đạo đức có
một tầm quan trọng đặc biệt. Có lẽ vì vậy mà trong những năm gần đây, việc
giáo dục Nhân, Lễ luôn luôn đơc đề cao. Đúng nh nhận định của Đảng ta tại
Đại hội lần thứ IX: "Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống
chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn
của chế độ ta". Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng cao đạo đức cách mạng,
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống. Một trong những giá trị đạo đức
truyền thống đạo đức đó chính là luân lý, đạo đức của Nho giáo về gia đình,
về xã hội. Đó là: t tởng về lòng hiếu thảo và kính trọng với ông bà, cha mẹ
cũng nh những ngời lớn tuổi; t tởng về anh chị em phải biết thơng yêu, đùm
bọc lẫn nhau, bảo ban nhau cùng tiến bộ; t tởng về bạn bè phải biết tin nhau,
biết thơng ngời nh thể thơng thân, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong hoạn nạn; t t-
ởng về lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, luôn đặt lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân lên trên hết
Thứ t, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trớc hết phải có những con ngời xã hội chủ nghĩa. Con ngời mới xã hội
16
chủ nghĩa không tự nhiên mà có, mà phải trải qua quá trình rèn luyện học tập.

kế thừa truyền thống ham học, tinh thần học không biết chán, dạy không biết
mỏi của Nho giáo là một việc làm hết sức cần thiết. việc học tập ở đây không
phải là học tập những sách vở thánh hiền, mà trớc hết là học tập những tri thức
khoa học tiên tiến của thời đại. Có nắm vững đợc những thành tựu mới nhất
của khoa học hiện đại, có kế thừa đợc những di sản văn hoá của dân tộc và
nhân loại, chúng ta mới có khả năng hội nhập đợc với xu thế phát triển chung
của thế giới, tránh đợc nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đồng thời không bị hoà tan,
đánh mất bản sắc dân tộc và xa rời định hớng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
chúng ta còn phải biết kế thừa tinh thần tôn s trọng đạo của Nho giáo. "Không
thầy đố mày làm nên", đó là một chân lý. Là cây phải có gốc, là sông phải có
nguồn. Để trở thành một con ngời đúng nghĩa phải có thầy. Nhớ công ơn thầy
là đạo lý làm ngời, đồng thời cũng là nét đẹp truyền thống "Uống nớc nhớ
nguồn" của dân tộc.
Tóm lại, những quan điểm tích cực về luân lý và đạo đức của Nho giáo
là những cái cần thiết đối với việc duy trì kỷ cơng trật tự xã hội. Tiếc rằng,
trong xã hội có giai cấp nói chung và trong xã hội phong kiến nói riêng, các t
tởng đó chỉ là không tởng. Đúng nh Hồ Chủ Tịch đã từng nhận xét: "Đạo lý
ngày xa của các cụ nêu lên không phải ai cũng làm đợc, vì con ngời sống
trong xã hội cũ luôn bị áp bức, bóc lột. Bây giờ xã hội mới, không có áp bức
bóc lột, ai cũng có thể vơn tới đỉnh cao của đạo đức cách mạng. Luân lý và
đạo đức ngày nay chính là và là những chuẩn mực mới, hợp lý của đạo đức xã
hội. Để đạo đức cách mạng có thể đi vào cuộc sống, chúng ta cần phải tăng c-
ờng công tác giáo dục, tạo ra và xây dựng cho đợc một hệ thống chuẩn mực xã
hội mới về Nhân, Lễ và Danh. Ví dụ: nếu trớc kia là trung quân thì ngày nay
là trung với nớc, với lý tởng xã hội chủ nghĩa. Nếu trớc kia hiếu chỉ có nghĩa
hẹp là hiếu với cha mẹ, mà còn là hiếu với tất cả các bậc cha mẹ trong cả nớc;
biết ghi nhớ công lao của những ngời có công với Tổ quốc; biết kính trọng
17
những nguời già cả, tôn trọng phụ nữ Nếu trớc kia làm quan là đem vinh
thân phì gia, thì ngày nay làm cán bộ cách mạng là làm ngời đầy tớ trung

thành của nhân dân, là để lo cái lo trớc thiên hạ, vui cái vui sau thiên hạ. Nh
vậy có thể nói, việc kế thừa t tởng luân lý đạo đức của nho giáo, và đa vào đó
những nội dung, chuẩn mực mới là việc làm hết sức cần thiết, nhất là trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay. Việc cấp bách là
cần phải giáo dục rèn luyện cho thế hệ trẻ có đợc đạo đức cách mạng, sống có
lễ phép, biết kính già, yêu trẻ, nhớ công ơn cha mẹ, làm tròn bổn phận của ng-
ời công dân.
Nh vậy, kể từ khi ra đời và phát triển cho đến nay, Nho giáo đã có
những đóng góp không nhỏ vào kho tàng t tởng triết học của thế giới. Tuy có
những hạn chế nhất định, nhng nếu biết chắt lọc, tiếp thu và phát triển những
t tởng tích cực, tiến bộ của Nho giáo thì chúng ta có thể có đợc những hạt
ngọc quý giá, góp vào việc định hớng, xây dựng, phát triển những nhân cách
mới và những mối quan hệ xã hội lành mạnh, nhằm thực hiện một thế giới hoà
bình, phát triển. Trong đó, tiếp thu những hạt nhân tích cực của Nho giáo, triệt
tiêu những điểm tiêu cực, đa vào đó những nội dung mới, chúng ta hoàn toàn
có thể có những nội dung, biện pháp tích cực trong giáo dục con ngời mới xã
hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

18

×