Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

CÁC HÌNH THỨC BẢO HỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.63 KB, 5 trang )

CHƯƠNG IV: CÁC HÌNH THỨC BẢO HỘ
I) Bảo hộ bằng mậu dịch:
1) Khái niệm:
Bảo hộ mậu dịch là thuật ngữ trong kinh tế học quốc tế chỉ việc áp dụng nâng cao một số
tiêu chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất
xứ, v.v… hay việc áp đặt thuế suất nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu nào
đó để bảo vệ ngành sản xuất các mặt hàng tương tự (hay dịch vụ) trong một quốc gia nào
đó.
2) Lý thuyết và thực tế:
a) Về lý thuyết:
Việc áp đặt các tiêu chuẩn nói trên thuộc về lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, được các chính
phủ áp dụng khi các báo cáo thống kê và các phân tích kinh tế-xã hội cho thấy ảnh
hưởng tiêu cực của việc nhập khẩu đối với sản xuất trong nước dường như lớn hơn so
với lợi ích mà việc này đem lại.
+ Đối với các quốc gia đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc áp đặt
này chỉ được phép đối với một hay nhiều thành viên khác của WTO khi và chỉ khi phán
quyết của WTO cho phép quốc gia này làm điều đó (với các chứng cứ cho thấy các
thành viên kia đang thực hiện việc bán phá giá hay hỗ trợ bất hợp pháp cho ngành sản
xuất của mình v.v).
+Đối với các quốc gia chưa gia nhập WTO hoặc quốc gia là thành viên của WTO áp đặt
đối với các quốc gia chưa là thành viên WTO hay ngược lại: Việc áp đặt này hoàn toàn
nằm trong ý chí chủ quan của từng quốc gia hoặc sau khi nhận được đơn kiện của các
(nhóm, hiệp hội) công ty tại quốc gia đó về việc bán phá giá. Các vụ kiện tôm hay cá tra,
cá ba sa tại Mỹ vừa qua đối với các quốc gia xuất khẩu các mặt hàng này là một ví dụ cho
thấy việc áp đặt bảo hộ mậu dịch.
Ngân hàng Thế giới ước tính nếu các rào cản thương mại hoàn toàn được dỡ bỏ thì sẽ có thêm
hàng chục triệu người nữa được thoát nghèo... Thương mại và tự do hóa thương mại thậm chí có
thể còn là những công cụ hữu hiệu hơn để xóa đói, giảm nghèo và giúp cho các quốc gia có nguồn
lực kinh tế để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết nhất của họ. Cũng theo Ngân hàng Thế giới, chỉ riêng
việc xóa bỏ các rào cản thương mại đối với hàng hóa, mỗi năm các quốc gia đang phát triển cũng
có thể tăng thêm thu nhập 142 tỷ USD. Con số đó có thể sẽ cao hơn 80 tỷ USD viện trợ kinh tế của


các nước công nghiệp phát triển trong năm 2005 và cao hơn 42,5 tỷ USD tổng các khoản nợ dự
kiến được giảm cho các nước đang pdfjhát triển.
b) Trên thực tế: các yếu tố chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của một chính
phủ trong bảo hộ mậu dịch. Còn một thực tế khác là điều trái ngược xảy ra ngay tại
quốc gia kêu gọi chủ trương tự do thương mại toàn cầu. Các nhà sản xuất Hoa Kỳ -
thay vì tăng cường hiệu năng sản xuất để nâng cao tính cạnh tranh, lại sẵn sàng chi tiền
để vận động những nhà lập pháp và hành pháp nhằm đưa ra những luật lệ bất bình
đẳng. Việc làm đó bị coi là cổ vũ cho chủ nghĩa bảo hộ chứ không phải là tự do mậu
dịch.
3) Ý nghĩa:
Về lý thuyết, việc bảo hộ mậu dịch đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong
nước, đảm bảo được mục tiêu xã hội là đảm bảo được công ăn việc làm cho một số nhóm
người lao động nào đó. Mặt trái của nó là làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội
đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ hoặc không có
các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Điều này đem lại thiệt hại
cho người tiêu dùng xét theo mục tiêu dài hạn.
4) Chính sách bảo hộ mậu dịch ở Việt Nam:
Xét về các nhóm ngành, có thể thấy nhóm ngành công nghiệp chế tạo có tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu
giảm nhanh nhất từ 40% trong năm 2005 xuống còn 2,1% trong năm 2009. Nhóm ngành này
dường như không có sức cạnh tranh nên việc hệ số bảo hộ cao hay thấp hầu như không có ý nghĩa.
Với nhóm ngành nông lâm thủy sản, tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu giảm từ 7,4% trong năm 2005 xuống
0,52% trong năm 2009. Có lẽ ở Việt Nam chỉ có duy nhất nhóm ngành này là có thể cạnh tranh,
mà tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu giảm là một thiệt thòi cho Việt Nam.
Do tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa không hợp lý đối với sản phẩm đầu vào lẫn đầu ra, cụ thể là thuế nhập
nguyên liệu cao hơn nhập sản phẩm hoàn chỉnh, nên khả năng cạnh tranh của nhóm này trên thị
trường thế giới là thua kém.
ERP và NRP của nhóm ngành nông lâm thủy sản.
Điều quan trọng hơn cả là một số ngành có hệ số lan tỏa cao đến nền kinh tế nhưng tỷ lệ bảo hộ
hữu hiệu lại âm (tức là không được bảo hộ gì về mặt sản xuất), dẫn đến những ngành này không
thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Mặt khác, vì hệ số lan tỏa của những ngành này cao hơn mức

bình quân nên đó cũng là một nguyên nhân khiến nhập siêu gia tăng.
Để hạn chế tình trạng này, Chính phủ cần xây dựng chính sách thuế nhập khẩu phù hợp để bảo hộ
sản xuất trong nước, hạn chế nhập siêu, nhất là với nhóm ngành chăn nuôi và những ngành có hệ
số lan tỏa lớn. Ngoài ra, việc nhanh chóng tái cấu trúc kinh tế để làm tăng phần giá trị gia tăng
trong nước cũng là một trong những cách thức hữu hiệu để việc bảo hộ sản xuất trong nước đạt
hiệu quả nhưng vẫn không vi phạm các cam kết với WTO.
5) Ưu điểm:
a) Kinh tế
• Bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ
• Tạo nên nguồn tài chính công cộng
• Khắc phục một phần tình trạng thất nghiệp
• Thực hiện phân phối lại thu nhập
b) Chính trị
• Bảo vệ việc làm và ngành công nghiệp.
• Bảo vệ an ninh quốc gia.
• Trả đũa.
c) Xã hội
• Chống phá giá
• Trợ cấp
• Rào cản thuế quan
• Rào cản kỹ thuật
• Tổ chức thương mại thế giới
II) Bảo hộ bằng thuế:
Thuế xuất nhập khẩu hay thuế xuất-nhập khẩu hoặc thuế quan là tên gọi chung để gọi hai loại thuế
trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Đó là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu là
thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch:
• Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có
trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.
• Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên

tới mức giá chung của thị trường.
• Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối với
hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương mại.
• Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các chính
sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp
chung của họ.
• Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh
tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.
Thuế xuất khẩu có thể được dùng để:
• Giảm xuất khẩu do nhà nước không khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các
nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của
nó đối với sự an toàn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trên hết.
Thuế xuất nhập khẩu có thể được dùng để tăng thu ngân sách cho nhà nước.
Tùy từng nhu cầu mà một hay vài mục đích nói trên được đề cao. Khi bị xác định là có mục đích
bảo hộ mậu dịch, thuế nhập khẩu có thể trở thành đối tượng bị nước ngoài đòi cắt giảm.
Tác động của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế
Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi nhưng người tiêu dùng bị thiệt
hại vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức giá thế giới lên bằng với giá thế giới cộng với
thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động của thuế nhập khẩu:
• Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng muốn mua
một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới trong khi những nhà sản xuất trong nước chỉ
sản xuất một số lượng Qs ở mức giá thế giới. Bằng cách nhập khẩu phần thiếu hụt (chênh
lệch giữa Qd và Qs) ở mức giá thế giới, người tiêu dùng có thể thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở
mức giá này.
• Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước bị tăng lên
đến mức bằng giá thế giới công với thuế nhập khẩu kích thích những nhà sản xuất trong
nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất trong nước từ Qs lên Qs'. Tuy nhiên do giá
tăng nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống Qd'. Rõ ràng việc giá bị đẩy lên cao
đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm một khoản tiền bằng diện tích của hình chữ nhật
CEGH để mua số lượng hàng Qd'. Khoản trả thêm này một phần (bằng diện tích hình

BCEF) được chuyển cho chính phủ dưới dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng
diện tích hình AFGH) được chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai
phần này không làm thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên phần diện tích hình
ABF đã bị mất trắng, đây chính là tổn thất của xã hội để chi phí cho sự yếu kém của những
nhà sản xuất trong nước. Diện tích hình ECD lại là một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của
người tiêu dùng bị giảm sút: thay vì có thể tiêu thụ Qd hàng hoá, do có thuế nhập khẩu họ
chỉ có thể tiêu dùng Qd' mà thôi.
Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng sang chính phủ và
nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của toàn xã hội. Do những tác động ấy,
nó khuyến khích sản xuất phi hiệu quả trong nước, làm cho người tiêu dùng giảm sút độ thoả dụng
do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra nguồn thu cho chính phủ.
Thuế quan bảo hộ: Được đưa ra với mục đích làm tăng giá một cách nhân tạo đối với hàng hóa
nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ nước ngoài (Xem, thêm
các bài Suất hiệu quả của bảo hộ và Thuế chống phá giá). Chẳng hạn, một thuế suất 20% trên giá
trị máy móc nhập khẩu với giá nhập khẩu của chiếc máy là 2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị của nó
sau thuế là 2.400.000 VNĐ. Giả sử không có khoản thuế nào khác nữa thì các nhà nhập khẩu phải
bán chiếc máy này ít nhất phải ở mức giá trên 2.400.000 VNĐ để đảm bảo có lãi. Khi không có
thuế nhập khẩu thì các nhà sản xuất trong nước nếu muốn bán được mặt hàng tương tự chỉ có thể
tính giá ở mức khoảng 2.000.000 VNĐ cộng với một lợi nhuận hợp lý; nhưng do nhà nước đã áp
thuế nhập khẩu đối với máy móc nhập khẩu nên họ hiện nay có thể tính giá ở mức cao hơn, có thể
ở ngưỡng như giá bán ra của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế) và như vậy họ sẽ có khả năng thu
được nhiều lợi nhuận hơn cũng như ổn định hơn về mặt tài chính. Nói chung thuế quan bảo hộ
được tính toán và đưa ra khi người ta cho rằng ở mức thuế suất thấp hơn thì sản xuất trong nước sẽ
gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt từ hàng nhập khẩu và thị phần về cơ bản sẽ nằm trong tay các
nhà nhập khẩu.
Ý nghĩa: Nếu ngành sản xuất trong nước bị thua thiệt trong cạnh tranh với hàng ngoại nhập thì tỷ
lệ thất nghiệp do mất việc làm sẽ tăng lên cũng như sự suy giảm thu nhập từ các loại thuế khác có
thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới một bộ phận kinh tế nào đó của quốc gia. Các thuế suất thuế nhập
khẩu bảo hộ được sử dụng như là biện pháp để chống lại khả năng này. Tuy nhiên, thuế quan bảo
hộ cũng có các điểm yếu. Đáng chú ý nhất trong số các điểm yếu này là nó làm tăng giá của hàng

hóa phải chịu thuế, gây bất lợi cho người tiêu dùng mặt hàng này hay cho các nhà sản xuất sử
dụng mặt hàng đó vào việc sản xuất các mặt hàng khác. Chẳng hạn, việc đánh thuế nhập khẩu đối
với lương thực, thực phẩm có thể gia tăng đói nghèo, trong khi việc đánh thuế lên thép có thể làm
ngành sản xuất ô tô kém cạnh tranh hơn. Nó cũng có thể phản tác dụng nếu (các) quốc gia mà
thương mại của họ bị thua sút do việc một quốc gia X nào đó áp thuế cao đối với hàng xuất khẩu
của họ cũng áp thuế cao ngược trở lại đối với các mặt hàng xuất khẩu của quốc gia X, kết quả là
một cuộc chiến thương mại và nó làm cho cả hai bên đều thua thiệt.
Các phê phán về tự do thương mại cho rằng thuế nhập khẩu là đặc biệt quan trọng cho các quốc
gia đang phát triển như là một nguồn thu nhập chủ yếu. Các quốc gia đang phát triển thường chưa
xây dựng được các thiết chế đủ mạnh để có thể đánh và thu đầy đủ các loại thuế như thuế thu nhập
cá nhân cũng như thuế doanh thu hay thuế VAT. Trong so sánh với các dạng đánh thuế khác, thuế
xuất-nhập khẩu thường là dễ thu hơn. Xu hướng dỡ bỏ thuế quan và xúc tiến tự do thương mại
cũng bị cho là có ảnh hưởng tiêu cực tới các quốc gia đang phát triển do các quốc gia này gặp
nhiều khó khăn hơn trong việc thay thế thuế quan bằng các nguồn thu khác, khi so với các quốc
gia đã phát triển.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×