Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.1 KB, 29 trang )

Trường DHKTQD Đề án môn học
A .Lời nói đầu
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm
bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong
thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông nghiệp vùng Đồng
bằng Sông Hồng vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và thiếu tính hợp lý.
Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất phù hợp hơn, mà
trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng để đáp ứng yêu
cầu này.
Đã manh nha từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây,
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm
chú ý, đặc biệt là sau khi nghị quyết số 03/2000 - CP của Chính phủ ngày
02/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời, thì kinh tế trang trại ở Việt Nam mới có
được một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho
các doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về
số lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô
đất đai lớn như ở vùng trung du miền núi phía Bắc hay vùng đồng bằng phía
Nam, nhưng đồng bằng sông Hồng vốn là vùng có truyền thống sản xuất nông
nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh cao nhất cả nước. Nhưng để ngành nông
nghiệp của vùng đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kì mới thì phải
hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác một cách triệt
để tiềm năng về đất đai cũng như khả năng lao động của con người vùng châu


thổ này, và mô hình kinh tế trang trại là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
1
Trường DHKTQD Đề án môn học
tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đã có nhiều thành tích đáng khích lệ,
nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Câu hỏi
đặt ra là: khả năng phát triển kinh tế trang trại của vùng đến đâu? Làm sao để
mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất? Trả lời cho
câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát
triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng”.
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
2
Trường DHKTQD Đề án môn học
B. Nội Dung
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển
kinh tế trang trại
I. Khái niệm, đặc trưng và phân loại
1. Khái niệm về kinh tế trang trại 1
1.1. Trang trại
Gần với khái niệm trang trại, người ta hay sử dụng khái niệm điền trang
hay nông trang. Nhưng về bản chất, chúng là các cách gọi khác nhau của một
đơn vị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với quy mô lớn theo hướng sản xuất
hàng hoá.
1.2. Kinh tế trang trại
Về kinh tế trang trại, có nhiều quan điểm, nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Có quan điểm cho rằng: “Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở sản xuất
nông nghiệp, hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường từ khi
phương thức này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại được

hình thành từ các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp tự túc khép kín,
vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng bước
thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh”
(1)
Trong nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang
trại. Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: “Kinh
tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông
thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu
quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng
rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông - lâm - thuỷ sản”.
Như vậy có thể tóm lại: Kinh tế trang trại là một trong những hình thức
tổ chức sản xuất cơ sở trong nông - lâm - ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là
sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hay thuộc quyền sử
(1)
Báo cáo chuyên đề: “Chính sách phát triển trang trại và tác động của nó đến việc làm và thu nhập của lao
động nông thôn”, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002.
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
3
Trường DHKTQD Đề án môn học
dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô đất đai và
các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách tổ chức quản lý tiến bộ và
trình độ kĩ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
2. Đặc trưng của kinh tế trang trại
2.1. Mục đích sản xuất của kinh tế trang trại là sản xuất nông - lâm - thuỷ
sản hàng hoá với quy mô lớn
Knh tế trang trại là kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hóa, khác với kinh
tế tiểu nông tự cấp tự túc. K.Marx đã phân biệt chủ trang trại với người tiểu
nông như sau:
- Chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra

- Người tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít
càng tốt.
Đây là điểm khác biệt lớn nhất của kinh tế trang trại so với kinh tế cá thể
sản xuất nông nghiệp trước đây. Sản xuất hàng hoá đòi hỏi các trang trại phải
có quy mô lớn để giảm chi phí đầu vào, tạo ra sản phẩm hàng hoá với giá
thành cạnh tranh, chất lượng cao. Đến lượt nó, sản xuất quy mô lớn lại càng
đòi hỏi phải làm ra sản phẩm hàng hoá để trao đổi trên thị trường vì rõ ràng
người chủ trang trại không thể tiêu dùng hết được.
Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu
tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị
sản lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỉ suất hàng hoá của trang trại.
2.2. Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư dẫn đến chuyên môn hoá
và hình thành các vùng chuyên canh
Bất kì một hình thức sản xuất nông nghiệp nào cũng cần có sự tập trung
đất đai và vốn ở mức độ nhất định. Do tính chất sản xuất hàng hoá quy mô
lớn, quá trình phát triển kinh tế trang trại sẽ dần tạo ra những vùng, tiểu vùng
sản xuất nông nghiệp với cơ cấu sản xuất khác nhau:
- Cơ cấu sản xuất độc canh: là mức phát triển thấp của kinh tế trang trại.
Trang trại chỉ sản xuất kinh doanh một loại cây (con) nhất định, tính chuyên
nghiệp, chuyên môn và tính chất hàng hoá chưa cao.
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
4
Trường DHKTQD Đề án môn học
- Cơ cấu sản xuất đa dạng: trang trại kết hợp nhiều loại cây trồng vật
nuôi để tận dụng mọi năng lực sản xuất của mình.
-Cơ cấu sản xuất chuyên môn hoá: đây là giai đoạn trang trại đã tích luỹ
đủ về đất đai, vốn, năng lực và kinh nghiệm quản lý để tham gia vào hệ thống
phân công lao động xã hội. Khác với cơ cấu độc canh, sản xuất chuyên môn
hoá đòi hỏi ứng dụng rộng rãi những tiến bộ khoa học kĩ thuật và đạt đến

trình độ, tính chất sản xuất hàng hoá cao. Dần dần, nhiều trang trại cùng
chuyên môn hoá một loại cây trồng, vật nuôi có thể hình thành nên những
vùng chuyên canh rộng lớn.
2.3. Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ
Dựa trên cơ sở thâm canh, chuyên môn hoá sản xuất, các trang trại phải
có cơ chế tổ chức và quản lý sản xuất như là các đơn vị kinh doanh khác, tức
là phải hạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận với thị
trường, khác với lối sản xuất “làm tới đâu thì tới” của kinh tế tiểu nông. Ở
đây hiệu quả kinh tế được đặt lên hàng đầu nên tất cả các hoạt động sản xuất
đều phải tính toán lợi ích - chi phí bỏ ra.
Lao động trong trang trại có hai bộ phận: lao động quản lý (thường là
chủ trang trại) và lao động trực tiếp (lao động gia đình và lao động làm thuê).
Số lượng lao động thuê mướn thay đổi tuỳ loại hình trang trại và quy mô
trang trại khác nhau.
Chủ trang trại là người có kiến thức và kinh nghiệm, trực tiếp điều hành
sản xuất, biết áp dụng khoa học công nghệ. Thu nhập của trang trại vượt trội
so với kinh tế hộ.
3. Phân loại kinh tế trang trại
3.1. Theo quy mô đất sử dụng, có thể chia 4 loại:
- trại nhỏ: dưới 2 ha
- Trang trại vừa: 2 - 5 ha
- Trang khá lớn: 5 - 10 ha
-Trang trại lớn: trên 10 ha
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
5
Trường DHKTQD Đề án môn học
3.2. Phân loại theo cơ cấu sản xuất, chia thành:
* Trang trại trồng trọt:
- Trang trại trồng rừng: thường có quy mô lớn và được phát triển ở các

vùng núi phía Bắc.
- Trang trại trồng cây ăn quả: Đây là loại hình trang trại phổ biến không
chỉ ở miền núi mà còn rất thích hợp với vùng đồng bằng, đặc biệt là Đồng
bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Nam Bộ.
- Trang trại trồng cây lương thực, thực phẩm: quy mô đất nhỏ. Rất phù
hợp với điều kiện đất đai và khí hậu vùng đồng bằng.
*Trang trại chăn nuôi: Loại hình trang trại này cũng rất đa dạng.
*Trang trại thuỷ sản: loại hình trang trại này rất đặc thù, nhất thiết phải
có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản với một diện tích nhất định.
*Trang trại kinh doanh tổng hợp: chủ trang trại có thể kết hợp trồng trọt
với chăn nuôi, trồng trọt với nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất với dịch vụ, tiểu
thủ công nghiệp hoặc thậm chí tất cả các hình thức miễn sao có lợi.
3.3. Phân loại trang trại theo chủ thể kinh doanh
Theo chủ thể kinh doanh, có thể chia kinh tế trang trại thành:
- Trang trại nhà nước: như nông trường quốc doanh, công ty nông nghiệp
nhà nước, có quy mô lớn nên hình thành nên nhiều cấp trung gian.
- Trang trại của công ty hợp doanh: Là loại hình kinh doanh nông nghiệp
quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá của các công ty hợp doanh.
- Trang trại gia đình: Đây là loại hình phổ biến nhất của kinh tế trang trại
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Loại hình này thực chất là
các hộ nông dân từ kinh tế tiểu nông sản xuất tự túc, tiến lên kinh tế trang trại
sản xuất hàng hoá với các mức độ khác nhau.
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
6
Trường DHKTQD Đề án môn học
II. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế -xã hội vùng
Đồng bằng Sông Hồng
1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển sản
xuất nông nghiệp - nông thôn

Các ngành sản xuất đều có xu hướng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản
xuất khác: tư liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông
nghiệp cũng vậy. Lúc đầu Marx cũng cho rằng đây là điều tất yếu trong qúa
trình công nghiệp hoá nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nhưng trong tác
phẩm cuối cùng của mình, ông đã viết: “Ngay ở nước Anh nền công nghiệp
phát triển, hình thức sản xuất có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông
nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm
thuê”.
(2)
Sở dĩ như vậy là vì sản xuất nông nghiệp có đặc trưng khác với công
nghiệp ở chỗ là phải tác động vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên
không phù hợp với hình thức tổ chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn.
Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới
bắt đầu cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trường không chỉ tác động
mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành công nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay
đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức sản xuất trong nông
nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm
phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo hơn.
Khi nông nghiệp đã có một bước chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông
dân đã giàu lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kĩ thuật ngày càng sâu
sắc, kinh nghiệm và khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng
cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức độ nhất định, thì cũng là lúc người kinh
doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp
mới, có quy mô lớn hơn, tỉ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là họ bỏ vốn, lập nên
các trang trại, thuê nhân công và hoạt động như một nhà kinh doanh .
Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển
kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp - nông thôn nói riêng, Chính phủ đã
có khá nhiều văn bản quan trọng về các vấn đề: đất đai cho trang trại, vốn sản
xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu cung ứng đầu vào, đầu ra..., bắt đầu từ “khoán
(2)

K.Marx, Toàn tập, tập 25, phần 2.
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
7
Trường DHKTQD Đề án môn học
100” thực hiện sản lượng khoán, tránh đồng ruộng bị chia cắt manh mún, đến
Nghị quyết Trung ương 5 Khoá VII (6/1993) sau đó là Luật đất đai (9/1993),
rồi Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII (12/1997) cũng khẳng định: “kinh tế
trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau (nhà nước, tập thể, tư nhân)
được phát triển chủ yếu trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những nơi
có nhiều ruộng đất, khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích này”.
Và gần đây nhất, một văn bản quan trọng đã được ban hành. Đó là Nghị quyết
số 03/2000/NQ – CP, trong đó có nêu rõ: “Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học
– công nghệ chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều
kiện cho các trang trại phát triển bền vững”, “chủ trang trại được thuê lao
động không hạn chế về số lượng, trả công lao động trên cơ sở thoả thuận với
người lao động theo quy định của pháp luật ”.
2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản xuất
nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng
2.1. Góp phần chuyên môn hoá sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp - nông thôn, phát triển kinh tế hàng hoá của vùng
Như đã nói, đặc trưng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về
đất đai và tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vượt trội so với
sản xuất của hộ gia đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn
thiếu vốn và khả năng sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý, họ thường kết
hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó, do sự tích luỹ về
các yếu tố trên, trang trại sẽ hướng theo một vài loại sản phẩm do đó quy mô
của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp,
chất lượng cao và đồng đều. Vì mục đích của kinh tế trang trại là thị trường:

sản xuất cái gì, khối lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào,... đều phải
bắt kịp các tín hiệu của thị trường. Và vì xu hướng của trang trại là ngày càng
đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao hơn, nên cơ cấu sản xuất của trang trại
cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kĩ thuật trong sản phẩm nông nghiệp thậm
chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại sẽ tăng tỉ lệ chăn nuôi, giảm tỉ lệ
trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất thực phẩm cao cấp, hoa kiểng...
ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn.
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
8
Trường DHKTQD Đề án môn học
Biểu 1: Cơ cấu GDP ngành nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng
(giá cố định 1994), Đơn vị: %
HẠNG MỤC 1990 1995 2000 2001
Tổng số 100 100 100 100
Nông nghiệp 94,7 94,2 92,8 92,5
- Trồng trọt 75,3 74,9 71,7 70,0
- Chăn nuôi 19,4 19,3 21,1 22,5
Lâm nghiệp 2,4 1,6 1,1 1,0
Thuỷ sản 2,9 4,2 6,0 6,5
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
2.2. Góp phần làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng có vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế của vùng, và đối với cả nước trong việc cung cấp lương
thực, thực phẩm cho các tỉnh, thành phố trong vùng cũng như đáp ứng một
phần nhu cầu của các vùng khác. Trong thời kì 1991 – 2001, sản lượng lương
thực của vùng tăng hơn 2, 7 triệu tấn; giá trị sản xuất nông – lâm – ngư
nghiệp (theo giá cố định 1994) tăng lên từ 13.402 tỉ đồng (năm 1990) lên
24.103 tỉ đồng (năm 2001), bằng 23,8% giá trị sản lượng nông – lâm – nghiệp
của cả nước, tốc độ phát triển bình quân mỗi năm là 6,02%. Sự phát triển của

ngành nông nghiệp có đóng góp quan trọng của kinh tế trang trại.
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...)
giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều
kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong
quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ
khoa học kĩ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động
sản xuất.
2.3. Góp phần vào sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ, đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn
Sản phẩm nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng,
giá cả nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
9
Trường DHKTQD Đề án môn học
quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản
phẩm của trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công
nghiệp năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra
sản phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần
được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang
trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này
cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm...
Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: sự phát triển của ngành này là động lực
phát triển của ngành kia.
Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một
bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp - nông thôn tăng lên
kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị
trường.
3. Tác động về mặt xã hội và môi trường

3.1. Góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Theo số liệu năm 2001, dân số nông thôn vùng Đồng bằng Sông Hồng
vào khoảng 13, 77 triệu người, tổng số lao động là 10, 47 triệu trong đó lao
động trong độ tuổi ở nông thôn là gần 8, 2 triệu, chiếm tới 78,17% tổng lao
động của vùng. Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng
với việc mở rộng dần phạm vi ứng dụng của máy móc hiện đại càng làm tăng
tỉ lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu vực nông thôn mới
chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông nghiệp. Một phần lao
động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại
không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà
của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê.
3.2. Phát triển lựclượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất
xét ở 3 khía cạnh:
Một là, nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn
thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế rất
nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế,
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
10
Trường DHKTQD Đề án môn học
những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước
đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần.
Hai là dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ
khoa học kĩ thuật mà trình độ kĩ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá
nông nghiệp của vùng nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này,
máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp,
và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối

quan hệ giữa nông dân - nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê
nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất -
chế biến - tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá.
3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại
cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại.
Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp
với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề
chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...),
các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở
rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại.
3.4. Những lợi ích về môi trường:
Đối với vùng Đồng bằng Sông Hồng, các trang trại trồng rừng gần như
không đáng kể, nhưng số lượng số lượng các trang trại còn lại đã góp phần
đáng kể vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, sinh thái, bền
vững.
----------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Quang Tiệp
11

×