Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn qua tiền gửi thanh toán tại sở giao dịch ngân hàng hàng hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.91 KB, 62 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam ta hiện nay đang tiếp tục trong tiến trình thực hiện công cuộc
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong đó, ngành Ngân hàng là kênh
huy động vốn cho nền kinh tế, có tầm quan trọng đặc biệt góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế đất nước. Hiện nay hệ thống các ngân hàng thương mại ngày
càng lớn mạnh kéo theo sự cạnh tranh trong ngành diễn ra ngày càng gay gắt
hơn. Để phát triển đòi hỏi các ngân hàng phải đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng dịch vụ, huy động nguồn vốn hiệu quả phục vụ nhu cầu phát triển của nền
kinh tế. Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn được xem
như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội
của hệ thống tín dụng.
Mặt khác, để đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế, ngày
nay các ngân hàng hiện đại đang ngày một gia tăng dịch vụ trên những sản phẩm
huy động vốn truyền thống. Tiền gửi thanh toán là một loại sản phẩm nền tảng
nổi bật. Thông qua loại hình sản phẩm này cùng với những giá trị gia tăng của
nó, rất nhiều nhu cầu của các thành phần kinh tế khác nhau được đáp ứng. Là
một mảng huy động vốn quan trọng, các NHTM đều đang có những biện pháp
cạnh tranh tích cực để duy trì và phát triển thị trường này.
Trên cơ sở đó cùng với việc thực tiễn nghiên cứu được tại Ngân hàng
Hàng hải Việt Nam (MSB), em lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn qua tiền gửi thanh toán tại Sở giao
dịch Ngân hàng Hàng Hải” với hy vọng cung cấp một cái nhìn tổng quan về tài
khoản thanh toán trong lĩnh vực huy động vốn nói chung của ngân hàng, từ đó
đưa ra những đánh giá về hiệu quả huy động, đồng thời xây dựng một hệ thống
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Luận giải những vấn đề lý luận về hoạt động huy động vốn qua tiền gửi
thanh toán, thấy được vị trí và vai trò của bộ phận vốn huy động này.


Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
- Phân tích đánh giá, tổng hợp thực trạng hiệu quả huy động vốn qua tiền
gửi thanh toán tại Sở giao dịch MSB.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các hoạt động huy động vốn thông qua tiền
gửi thanh toán áp dụng tại Sở giao dịch MSB.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng hiệu quả huy động của các sản phẩm
huy động tiền gửi thanh toán, và các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động này tại Sở giao dịch MSB.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận Mác – Lênin, bao gồm
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Phép biện chứng
duy vật. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng gồm: Phương pháp
quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh…, kết hợp với
việc minh họa bằng sơ đồ, bảng biểu, đồ thị nhằm làm cho vấn đề nghiên cứu
trực quan hơn.
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, nội dung chính của chuyên đề bao gồm
3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về huy động vốn qua tiền gửi thanh toán
của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn qua tiền gửi thanh toán tại
Sở giao dịch MSB.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn qua tiền gửi thanh
toán tại Sở giao dịch MSB.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2

2
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
QUA TIỀN GỬI THANH TOÁN CỦA NHTM
1.1. Hoạt động huy động vốn của NHTM
1.1.1. Khái niệm nguồn vốn huy động
1.1.1.1. Khái niệm về nguồn vốn
Nguồn vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập được thông
qua việc đi vạy để cho vạy, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm:
 Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sử hữu là điều kiện đầu tiên để ngân hàng được luật pháp cho
phép hoạt động và đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa. Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm nguồn
hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, nguồn vay nợ
có khả năng chuyển đổi thành cổ phần và các quỹ.
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng, do đặc trưng trong ngân hàng là huy động để cho vay. Tuy nhiên, vốn chủ
sở hữu có vai trò rất quan trọng: là “chiếc đệm” chống đỡ ngân hàng khỏi các
nguy cơ thanh khoản và vỡ nợ; là nguồn tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì
hoạt động cho ngân hàng; là cơ sở để điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng.
 Vốn huy động:
Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn huy động của NHTM
chiếm tỉ trọng lớn hơn nhiều so với vốn chủ sở hữu và đây là loại vốn cơ bản để
tài trợ cho các danh mục tài sản của NHTM. Vốn huy động là những giá trị tiền
tệ mà ngân hàng huy động được trên thị trường từ vốn tiền gửi, vốn vay, vốn tiếp
nhận, vốn ủy thác đầu tư. Trên cơ sở tạo lập vốn huy động, ngân hàng sử dụng
để cho vay, đầu tư, mua sắm tài sản cố định, kinh doanh, dự trữ…từ đó tạo lập

lợi nhuận, tiếp tục tái đầu tư, mở rộng và phát triển.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
1.1.1.2. Đặc điểm của nguồn vốn huy động:
- Quy mô của nguồn vốn huy động rất lớn so với nguồn vốn khác. Thông
thường vốn huy động chiếm từ 70-80% tổng nguồn vốn là mục tiêu tăng trưởng
hàng năm của NHTM.
- Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, và phải có trách nhiệm
hoàn trả cả gốc lẫn lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn để
chi trả trước hạn. Vì vậy mà ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó
vào hoạt động kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả
năng thanh khoản
- Đây là nguồn vốn phải dự trữ bắt buộc nên chi phí cho nguồn vốn này
thường cao hơn so với các nguồn vốn khác. Các ngân hàng cũng phải mua bảo
hiểm tiền gửi, làm cho chi phí huy động cao hơn.
- Nguồn vốn này thường nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế
như lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kì tiêu dùng và nhiều nhân tố khác.
- Đặc biệt, sự thay đổi của nguồn vốn huy động ngắn hạn sẽ làm thay đổi
cầu thanh khoản của ngân hàng
Việc nhận thức đúng đắn vai trò của hoạt động huy động vốn sẽ giúp các
nhà quản trị đưa ra được các biện pháp, chiến lược mở rộng hay thu hẹp để phù
hợp với mục tiêu hoạt động của ngân hàng trrong thời kỳ đó như thế nào, mang
lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, các nhà quản trị ngân hàng
cũng phải cân nhắc sao cho hoạt động đó đưa lại hiệu quả cao nhất, tránh tình
trạng ứ đọng không cần thiết.
1.1.1.3. Khái niệm về Huy động vốn của NHTM
Theo cách nói truyền thống, một ngân hàng có hai lĩnh vực hoạt động

nòng cốt: huy động vốn và lựa chọn các tài sản sinh lời để đầu tư các nguồn vốn
huy động được. Các ngân hàng luôn nỗ lực để tạo ra lợi nhuận từ hai lĩnh vực
kinh doanh này.
Huy động vốn là hoạt động thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
thông qua các hình thức tiết kiệm định kỳ, phát hành giấy tờ có giá và các hình
thức khác để tạo nguồn vốn cho vay của NHTM.
Hoạt động huy động vốn là một hoạt động cơ bản nhằm tạo ra tiền đề cho
các hoạt động còn lại khác của Ngân hàng. Nó quyết định quy mô, phạm vi hoạt
động và quy mô mở rộng tín dụng của ngân hàng; quyết định đến khả năng thanh
toán, chi trả và đảm bảo hoạt động cho ngân hàng trên thị trường; và đặc biệt
quyết định đến năng lực cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế mở như hiện
nay. Ngiệp vụ huy động vốn được phản ánh trên phần tài sản nợ của Bảng cân
đối tài sản của NHTM, nên còn được gọi là nghiệp vụ tài sản nợ.
 Các đối tượng huy động vốn của NHTM:
• Dân cư:
Đây là đối tượng có nhiều tiềm năng nhất,cung cấp cho ngân hàng một
nguồn vốn có quy mô lớn và tính ổn định cao. Người dân có thu nhập nhưng lại
không có nhu cầu đầu tư trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh,nhưng
vẫn muốn sinh lời,vì vậy họ đã đầu tư gián tiếp bằng cách gửi tiền vào ngân
hàng,uỷ thác vốn cho ngân hàng.
• Các tổ chức kinh tế:
Ngày nay hầu hết các tổ chức kinh tế đều mở tài khoản tại ngân hàng
nhằm phục vụ cho các hoạt động của mình. Nhìn chung các tài khoản này đem
lại cho các ngân hàng một lượng vốn khá ổn định.Phát triển và quản lý tốt các tài
khoản này sẽ cho phép ngân hàng có một nguồn vốn đáng kể với chi phí thấp.
• Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác:

Đây là đối tượng không thường xuyên của các ngân hàng thương mại cổ phần,
chỉ nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh toán hay bù đắp thiếu hụt tạm thời.
• Ngân hàng Trung Ương:
Chỉ khi không còn huy động từ nguồn nào được nữa, các ngân hàng
thương mại sẽ tìm đến ngân hàng Trung ương nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời
hay đảm bảo khả năng thanh toán. Khi đó ngân hnàg Trung ương sẽ cho các
ngân hàng thương mại cổ phần vay chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu hoặc
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
cầm cố các thương phiếu mà ngân hàng Trung ương nắm giữ.
1.1.2. Vai trò của hoạt động huy động vốn.
Đại bộ phận nguồn vốn của NHTM là vốn huy động. Vốn huy động là tài
sản mà ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu, nhưng là
nguồn vốn được sử dụng vào các hoạt động kinh doanh sinh lời của một ngân hàng.
Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng
nhưng nó là một nghiệp vụ quyết định đến hoạt động của NHTM. Khi một
NHTM được cấp phép thành lập, vốn điều lệ theo quy định đa phần chỉ đáp ứng
được cho tài sản cố định, chứ chưa đủ cho các hoạt động kinh doanh như cấp tín
dụng và các dịch vụ ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động này,
ngân hàng phải huy động vốn từ khách hàng. Nghiệp vụ huy động vốn, do vậy
có ý nghĩa rất quan trọng với các đối tượng sau:
Đối với nền kinh tế, huy động vốn có vai trò khuyến khích tiết kiệm bằng
các biện pháp thu hút và huy động vốn thông qua các dạng tài khoản khác nhau
trên một mạng lưới chi nhánh rộng khắp. Huy động vốn còn giúp cho nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội tập trung về một mối, thuận tiện cho việc phân phối lại
chúng. Đặc biệt là đối với nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, huy động vốn
giúp nó hoạt động liên tục, nhịp nhàng, và hiệu quả hơn
Đối với Ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn mang lại nguồn vốn cần

thiết cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Huy động được
vốn, ngân hàng sẽ có khả năng cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế, từ đó thúc
đẩy sự tăng trưởng, cũng như gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Mặt khác, thông
qua nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng có thể đo lường uy tín cũng như sự tín
nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng, từ đó có những biện pháp không
ngừng cải thiện để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói,
nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ giải quyết “đầu vào” cho NHTM.
Đối với khách hàng, nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng
một giải pháp tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời, tạo cơ hội
gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Mặt khác, thông qua hoạt động huy động vốn
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
của ngân hàng, khách hàng còn có được một nơi tương đối an toàn để cất giữ và
tích trữ vốn tạm thời nhàn rỗi. Cuối cùng, là giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp
cận các dịch vụ hiện đại khác, làm thông suốt quá trình sử dụng tiền, tiêu dùng
hay sản xuất kinh doanh.
Đối với nhà nước, huy động vốn là một công cụ để NHNH thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia, thông qua các quy đinh về lãi suất, tỷ giá… qua các
thời kỳ. Vì vậy, hoàn thiện công tác huy động vốn ở NHTM có ý nghĩa to lớn
đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn.
Để đảm bảo đủ vốn cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả, cùng với đáp
ứng nhu cầu của thị trường, NHTM phải mở rộng các hình thức huy động để
tăng nguồn vốn này. Theo nghị định 59/2010/NĐ-CP ngày 16/7/2010 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM nhằm cụ thể hóa việc thi hành luật các
TCTD, NHTM được huy động vốn bằng các hình thức dưới đây:
• Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới các hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.

• Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác khi được
thống đốc NHNN chấp thuận
1.1.3.1. Huy động vốn tiền gửi
 Tiền gửi không kì hạn:
Các khoản gửi với thời gian không xác định. Người gửi có thể rút bất cứ lúc
nào cần sử dụng đến. Xét trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kì hạn là khoản nợ
mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tiền gửi
không kì hạn có lãi suất thấp hoặc không trả lãi, chia thành 2 loại sau:
• Tiền gửi thanh toán: loại tiền gửi nhằm mục đích tiến hành thanh toán, chi
trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khoản phát sinh khác trong
quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện.
• Tiền gửi không kì hạn thuần túy: là các khoản tiền gửi với mục đích an
toàn, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Ngân hàng phải thỏa mãn
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử
dụng tồn khoản khi đã đảm bảo khả năng chi trả.
 Tiền gửi có kì hạn:
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng
về thời gian rút tiền. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá
nhân, có nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục
đích hưởng lãi.
Các NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn và tiền
gửi báo rút (tức là khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền
gửi có kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi
trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai nên không thể phát séc. Thông thường, tiền
gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền

gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vây, các NHTM luôn tìm cách đa
dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
 Tiền gửi tiết kiệm:
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số 1160/2004/QĐ-
NHNN của thống đốc ngân hàng Nhà nước đã quy định rõ “Tiền gửi tiết kiệm là
khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận
trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết
kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.
Đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho tiêu
dùng. Do đó, họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và
hưởng lãi. Vì thế, tài khoản tiền gửi không thể phát séc hay thực hiện các khoản
thanh toán khác ngoại trừ người gửi tiền đề nghị trích tài khoản tiền gửi tiết kiệm để
trả nợ vay hay chuyển sang một tài khoản khác của chính chủ tài khoản.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền
có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc
nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể
rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi
tiết kiệm.
Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn và quan trọng nhất trong tổng
nguồn vốn huy động, nhất là đối với các ngân hàng bán lẻ. Do đó, việc tăng cường
huy động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của

NHTM.
1.1.3.2. Huy động vốn phi tiền gửi
 Vay trên thị trường liên ngân hàng:
Vay của các tổ chức tín dụng khác nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả
cấp bách. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất
ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các
ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại,các ngân hàng đang
thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy
nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả
cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay
mượn từ NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên
hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý(hoặc
NHNN). Khoản vay có thể không cần đảm bảo,hoặc được đảm bảo bằng các
chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và
của ngân hàng đi vay tăng lên.
 Vay từ ngân hàng nhà nước:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ(thiếu hụt dự trữ bắt buộc,dự trữ thanh
toán),NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương
mại chiết khấu(hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền,ngân
hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này
làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ(tiền mặt hoặc tiền gửi tại
NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; NHTM
phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường
NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo

hạn ngắn,khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng
thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu,NHNN cho NHTM vay dưới hình
thức tái cấp vốn theo hạn mức tin dụng nhất định.
 Phát hành giấy tờ có giá:
Thương phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng. Trong
huy động vốn dưới hình thức này, NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất
huy động. Do vậy, vốn này chỉ được huy động trong thời gian nhất định.
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng
cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM thiếu nguồn
tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và
dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn
tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây
là khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao
sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực
tiếp bằng cách này, họ thường phải thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được
bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ
phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ
dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần
nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô,mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay
mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ…
cũng được ngân hàng quan tâm.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
1.2. Huy động vốn qua tiền gửi thanh toán
1.2.1. Khái niệm và vai trò của Tiền gửi thanh toán
1.2.1.1. Khái niệm
Tiền gửi thanh toán (TGTT) là loại hình tiền gửi không kỳ hạn được sử
dụng với mục đích chủ yếu là thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng

bằng các phương tiện thanh toán như: séc lĩnh tiền mặt, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm
thu, chuyển tiền điện tử nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán nhanh nhất của
khách hàng. Ngoài ra, hiện nay khách hàng có thể sử dụng kèm các dịch vụ gia
tăng như thấu chi trên tài khoản tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài
khoản: Tài khoản tiền gửi thanh toán và Tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền
gửi thanh toán việc rút tiền hay chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng
séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích thanh toán và
sử dụng dễ dàng, thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc
dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp
ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định và trong một giới hạn
nhất định được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là một cách kết hợp tài khoản tiền gửi
thanh toán với tài khoản cho vay(thấu chi-chi trội trên số dư có của tài khoản tiền
gửi thanh toán). Một số ngân hàng cũng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của
tài khoản tiền gửi thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm canh tranh với
các tổ chức tín dụng khác.
Tiền gửi thanh toán cũng là một bộ phận của Tiền gửi không kỳ hạn, loại
tiền gửi mà khách hàng gửi và ngân hàng không có thoả thuận trước về thời gian
rút tiền. Bởi vì, tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng rất biến động, khách hàng
có thể rút ra bất kỳ lúc nào, do đó ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn
này, ngân hàng phải dự trữ một số tiền để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi
khách hàng có nhu cầu.
1.2.1.2. Vai trò
Bản thân vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
nguồn vốn của NHTM, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thực hiện các hoạt
động kinh doanh. Cũng chính vì vậy mà người ta còn gọi NHTM là Ngân hàng

kí thác hay Ngân hàng tiền gửi. Trong đó, tiền gửi thanh toán lại là một bộ phận
không thể thiếu và đóng góp phần quan trọng vào tổng số nguồn vốn ngắn hạn
huy động được.
Đối với NHTM, thì TGTT là một khoản vốn huy động với mức chi phí
thấp nhất trong tất cả các khoản vốn huy động được khác. Ngân hàng chỉ phải bỏ
ra những khoản chi phí nhỏ về quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì cũng rất
nhỏ) bù lại là được sử dụng một phần lớn làm vốn kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, TGTT càng đóng vai trò quan trọng
đối với các NHTM bởi nhiều lý do. Một mặt bởi nền kinh tế không ngừng phát
triển, các hoạt động thanh toán, luân chuyển tiền ngày một sôi động hơn. Mặt
khác, tiền mặt trong lưu thông đang được hạn chế dần, những tiện ích ngân hàng
ngày càng trở nên phổ biến và hữu ích. Khi đó, TGTT cùng với những dịch vụ đi
kèm như: thanh toán, chuyển tiền, thấu chi… trở nên hết sức có tiềm năng phát
triển, đóng góp một phần không nhỏ trong việc cung ứng dịch vụ và tạo lợi
nhuận, cũng như danh tiếng cho ngân hàng.
1.2.2. Những đặc trưng Tiền gửi thanh toán
 Đối với khách hàng, việc gửi tiền vào tài khoản này với mục đích chủ yếu
là thanh toán và chi trả cho các hoạt động kinh doanh, các hoạt động dịch vụ
phát sinh một cách thường xuyên. Nên việc dễ dàng chuyển nhượng, dễ dàng
thanh toán được xem là yếu tố rất quan trọng, còn việc hưởng lãi với khoản tiền
gửi này chỉ là thứ yếu. Do đó, loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi theo yêu
cầu, nó không đem lại lợi tức cao cho người gửi.
 Vốn tiền gửi không kỳ hạn là khoản vốn có sự biến động nhiều nhất, số dư
của khoản vốn này tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của
người gửi tiền. Do vậy, NHTM chỉ có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn này khi
và chỉ khi đưa ra được các dự đoán về sự biến động số dư trên tài khoản tiền gửi
này một cách chính xác.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
12
Chuyên đề tốt nghiệp

Học viện ngân hàng
 Trên cơ sở tiền gửi thanh toán, rất nhiều các dịch vụ ngân hàng có thể được
triển khai. Khi có một tài khoản thanh toán tại ngân hàng, khách hàng có thể:
• Gửi tiền, rút tiền, chuyển khoản, thanh toán
• Nhận tiền lương hàng tháng
• Thấu chi tài khoản
• Phát hành thẻ
• Phát hành séc
• Đăng ký dịch vụ ngân hàng điện tử
• Chuyển tiền tự động đối với những khoản thanh toán định kỳ
• Thực hiện các giao dịch nộp, rút, chuyển tiền mua bán chứng khoán, tham
gia đấu giá, nhận cổ tức, v.v… trực tuyến với các công ty chứng khoán có
liên kết với ngân hàng
Đây là những giá trị gia tăng mà ít loại tài khoản ngân hàng có được, cũng
là một trong những đặc trưng cơ bản và tiện ích của tiền gửi thanh toán. Từ đây
NHTM có được một danh mục sản phẩm đa dạng, linh hoạt, dễ điều chỉnh với
thị hiếu của thị trường
 Tiền gửi thanh toán mặt khác đem lại những lợi ích: An toàn vì khách hàng
không phải giữ tiền mặt, kiểm đếm tiền khi chuyển tiền, thanh toán và nhận thanh
toán, nhờ đó tránh được các rủi ro về tiền giả. Mọi thông tin cá nhân được bảo mật
cao nhất. Các khoản tiền gửi đều được mua bảo hiểm tại tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Tiền trong tài khoản cũng được hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
 Tài khoản thanh toán có thể áp dụng triệt để kênh phân phối hiện đại.
Dịch vụ ngân hàng điện tử có thể coi là kênh phân phối chủ yếu của loại sản
phẩm này. Trước tiên là thông qua ngân hàng tự động như ATMs, POS, là lĩnh
vực gần như đã bão hòa về số lượng và đang đi vào phát triển sâu về chất lượng.
Thêm nữa, hầu hết các NHTM trên thị trường hiện nay cũng đều áp dụng ngân
hàng điện tử cho tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Thông qua
internet, điện thoại, và các ứng dụng cài cho thiết bị di động, khách hàng hoàn
toàn có thể sử dụng dịch vụ ngân hàng bất cứ khi nào và ở đâu. Trong xu hướng

hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, các NHTM đang tập trung đầu tư cho kênh
phân phối này nhằm tăng vị thế cạnh tranh trên thị trường của mình.
 Đối tượng khách hàng của tài khoản TGTT khá rộng, và thủ tục để mở
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
một tài khoản cũng hết sức đơn giản. Tất cả cá nhân người Việt nam và người
nước ngoài đang cư trú và hoạt động tại Việt Nam có nhu cầu đều có thể mở và
sử dụng tài khoản thanh toán. Thủ tục mở tài khoản nhanh gọn (chỉ trong vòng 5
phút) và hoàn toàn miễn phí. Khách hàng chỉ cần có CMND hoặc Hộ chiếu và
Đơn đề nghị mở tài khoản cá nhân theo mẫu của ngân hàng.
1.2.3. Những nhân tố tác động đến huy động Tiền gửi thanh toán
Là một bộ phận của nguồn vốn huy động, tiền gửi thanh toán cũng chịu
tác động của nhiều nhân tố khách quan cũng như chủ quan chung. Mặt khác, do
có những đặc trưng riêng như: phục vụ mục đích thanh toán, thường xuyên biến
động, chịu lãi suất thấp…, các nhân tố tác động đến loại vốn huy động này cũng
có điểm riêng biệt.
1.2.3.1. Các nhân tố khách quan
 Môi trường kinh tế - xã hội:
Môi trường kinh tế - xã hội cũng như luật pháp là những nhân tố vĩ mô có
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng. Nền kinh tế có
ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người cao, trình độ dân trí
của dân cư cao, thì khả năng huy động vốn của ngân hàng mới có thể điều kiện
phát triển tốt. Ngược lại, nếu một nền kinh tế mà không ổn định, thu nhập, cũng
như dân trí thấp thì tất yếu là tiết kiệm của xã hội cũng sẽ thấp, thêm vào đó là
tâm lý ưa dùng tiền mặt, người dân chưa thấy hết được các tiện ích mà ngân
hàng cung cấp, và điều này sẽ gây rất nhiều những khó khăn cho hoạt động huy
động vốn của ngân hàng. Mặt khác, đối với một nền kinh tế phát triển ở trình độ
cao, các dịch vụ ngân hàng hiện đại liên quan đến TGTT càng có cơ hội mở rộng

thị trường nhiều hơn.
 Môi trường pháp lý:
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt
chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng. Hoạt động ngân hàng được điều
chỉnh rất chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. Môi trường pháp lý đem lại
cho ngân hàng hàng loạt cơ hội nhưng cũng rất nhiều thách thức. Ví dụ như việc
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
dỡ bỏ các hạn chế về huy động tiền gửi nội tệ giúp ngân hàng có cơ hội huy
động tốt hơn, nhưng cũng sẽ mở đường cho các ngân hàng nước ngoài phát triển
các sản phẩm để huy động nguồn nội tệ trong nước.
Ngoài ra, hoạt động ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều bộ
luật: Luật dân sự, luật các tổ chức tín dụng, luật thương mại và rất nhiều các
quyết định, thông tư của chính phủ và của NHNN. Do đó hoạt động huy động
vốn của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng bởi các chính sách của nhà nước, chính
phủ và NHTW như chính sách lãi suất, tỷ giá, tín dụng… Sự thay đổi này sẽ ảnh
hưởng đến khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn vốn của ngân hàng.
 Môi trường cạnh tranh:
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập mạnh mẽ như hiện nay thì vấn đề
cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại ngày càng trở nên khốc liệt hơn bao
giờ hết. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng trong nước với nhau
mà còn diễn ra giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là
với các ngân hàng lớn, có uy tín thương hiệu trên thế giới, có trình độ công nghệ
cao, quy mô vốn lớn và một đội ngũ nhân lực dồi dào cả về trình độ lẫn kinh
nghiệm. Điều đó sẽ tạo ra một thách thức rất lớn đối với các ngân hàng thương
mại trong nước khi mà quy mô vốn còn nhỏ, trình độ công nghệ còn lạc hậu.
 Môi trường công nghệ:
Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và xã hội.

Hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động chịu tác động mạnh mẽ của
sự thay đổi của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của ngân hàng. Công
nghệ mới cho phép ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp vụ, cách thức phân phối
sản phẩm, phát triển sản phẩm mới. Nhờ có công nghệ mà hoạt động huy động
TGTT được cải tiến, phát triển, rút ngắn thời gian giao dịch và thực hiện nghiệp
vụ chính xác… giúp ngân hàng có khả năng huy động được nguồn vốn một cách
nhanh nhất, chính xác và hiệu quả, tăng uy tín của ngân hàng.
 Thu nhập dân cư:
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
Khi thu nhập của người dân tăng lên, tiêu dùng tăng, tức nhu cầu thanh
toán ngân hàng cũng tăng lên. Ngược lại khi thu nhập của dân cư giảm thì tiền
gửi ngân hàng cũng giảm đi. Như vậy thu nhập của dân cư là yếu tố hết sức quan
trọng ảnh hưởng tới quy mô vốn tiền gửi huy động của ngân hàng thương mại.
Thêm vào đó, tập quán dân cư cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn
của ngân hàng. Tâm lý tập quán dân cư thường rất khác nhau giữa các vùng địa
lý. Đó là thói quen chi tiêu, thói quen thanh toán, mức độ tiếp cận hiểu biết về
các dịch vụ ngân hàng. Thông thường ở các nước phát triển, người dân thường
sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng hơn là dùng tiền mặt, do vậy lượng
tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm xuống, điều này tạo thuận lợi cho hoạt động
huy động vốn của ngân hàng thương mại. Nhưng ở các nước đang phát triển thì
lại khác, người dân vẫn giữ thói quen tiêu dùng tiền mặt trong thanh toán, vì vậy
hoạt động huy động TGTT sẽ gặp khó khăn.
1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan
 Uy tín, thương hiệu của ngân hàng:
Các yếu tố này đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động
TGTT nói riêng, và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung, bởi vì nó

thể hiện uy tín, lòng tin vào ngân hàng của khách hàng, là sức mạnh trong cạnh
tranh của ngân hàng. Đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, khi vấn đề
cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Chỉ có những ngân hàng
nào khẳng định đuợc uy tín, thương hiệu của mình, chiếm được lòng tin của
khách hàng thì ngân hàng đó mới có thể tồn tại và phát triển vững mạnh được.
Thực tế cho thấy rằng, uy tín – thương hiệu của một ngân hàng là yếu tố vô cũng
quan trọng tác động đến quyết định tiêu dùng dịch vụ của khách hàng. Một
khách hàng có thể tìm đến ngân hàng mà mình tin tưởng trước khi có những nhu
cầu chính xác về một sản phẩm ngân hàng nào trước đó.
 Chính sách lãi suất:
Chính sách lãi suất bao gồm cả chính sách cạnh tranh trong huy động vốn
và cả trong cho vay, là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
mức lãi suất cạnh tranh trong huy động là đặc biệt quan trọng khi nguồn vốn thị
trường khan hiếm. Các ngân hàng không chỉ cạnh tranh trong lãi suất niêm yết
mà còn có các chính sách lãi suất thưởng, các chương trình thỏa thuận và tri ân
khách hàng. Các NHTM không chỉ cạnh tranh về vốn với nhau mà còn cạnh
tranh với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ nợ khác trên thị
trường vốn.
 Chính sách khách hàng:
Trong công tác khách hàng, ngân hàng thường chia khách hàng ra làm
nhiều nhóm để có cách thức phục vụ phù hợp. Với những khách hàng lâu năm,
giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, gây được tín nhiệm với ngân hàng
thì ngân hàng sẽ có những chính sách và chương trình tri ân phù hợp để giữ chân
khách hàng. Còn đối với các khách hàng mới lại cần có cách tiếp cận, tung ra các
sản phẩm mới để đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng.
 Các sản phẩm huy động của ngân hàng:

Đây cũng là một yếu tố có ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động huy động
vốn của ngân hàng. Chỉ với nền tảng TGTT, nhưng hình thức huy động của ngân
hàng càng đa dạng, phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ
nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu
và tâm lý của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng của các sản phẩm càng cao
thì càng đáp ứng được nhiều nhất nhu cầu của dân cư, để họ tìm thấy cho mình
một hình thức gửi tiền phù hợp và an toàn. Do vậy các ngân hàng thường cân
nhắc rất kỹ trước khi đưa vào các sản phầm huy động mới.
 Chiến lược marketing:
Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như ngày nay khó có thể duy trì sự
khác biệt về sản phẩm, giá cả nên chiến lược phục vụ và quảng cáo trở thành yếu tố
vô cùng quan trọng để thu hút khách hàng. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo là
điều kiện để giữ chân khách hàng, còn chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp ngân
hàng thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Chiến lược marketing hiểu rộng còn bao
gồm cả chiến lược về lãi suất và sản phẩm huy động, cộng thêm các chương trình
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
quảng bá cho các chính sách, hình ảnh của ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay,
marketing ngân hàng đã trở thành một môn khoa học, được nghiên cứu và phát triển
nhanh chóng trong hệ thống NHTM.
 Công nghệ ngân hàng:
Việc hiện đại hóa ngân hàng sẽ giúp cho việc giao dịch của khách hàng
trở nên tiện lợi, nhanh chóng hơn. Từ đó sẽ tạo được sự tin cậy của khách hàng
đối với ngân hàng. Mặt khác, công nghệ hiện đại cho phép ngân hàng có thể phát
triển thêm các loại dịch vụ thanh toán, tăng cường huy động tiền gửi thanh toán.
Bên cạnh đó, công nghệ còn đóng vai trò then chốt trong năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng thương mại hiện nay.
 Đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng:

Đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc
thu hút khách hàng. Có thể nói nhân viên ngân hàng, đặc biệt là giao dịch viên
và bảo vệ chính là bộ mặt của ngân hàng bởi họ là những người tiếp xúc trực tiếp
với khách hàng. Một ngân hàng có đội ngũ nhân viên trẻ trung, nhiệt tình, lịch
sự, có trình độ nghiệp vụ cao sẽ tạo cho khách hàng tâm lý tin cậy, từ đó ảnh
hưởng tới quyết định gửi tiền của họ. Đối với riêng TGTT, là loại dịch vụ mà
kênh phân phối truyền thống tuy có phần lạc hậu so với những công nghệ hiện
đại, nhưng việc duy trì quan hệ với khách hàng vẫn là điều tối quan trọng, và
điều này phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng. 80% thành công
thương vụ là phụ thuộc vào nhân viên bán hàng, vì thế đây luôn là một yếu tố có
sức ảnh hưởng lớn và cần không ngừng được đầu tư.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động của các ngân hàng chịu sự tác
động của rất nhiều yếu tố khác nhau bao gồm cả yếu tố khách quan lẫn yếu tố
chủ quan. Mỗi một yếu tố đều tác động nhất định tới hoạt động huy động vốn
của ngân hàng nói chung, hoạt động huy động TGTT nói riêng. Do đó, đòi hỏi
các ngân hàng phải có các chính sách cũng như các biện pháp huy động vốn cho
phù hợp với tình hình cụ thể của thị trường trong từng thời kì, cũng như với
những lợi thế mà ngân hàng có được.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN QUA TIỀN GỬI
THANH TOÁN TẠI SỞ GIAO DỊCH MSB
2.1. Khái quát về Sở giao dịch MSB
2.1.1. Sơ lược về Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam – MSB
Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng hải Việt Nam (viết tắt: Ngân hàng
TMCP Hàng hải). Tên giao dịch quốc tế là Vietnam Maritime Commercial Stock
Bank (viết tắt: Maritime Bank hoặc MSB). Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt

Nam (MSB) chính thức thành lập theo giấy phép số 0001/NH-GP ngày
08/06/1991 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngày 12/07/1991,
MSB chính thức khai trương và đi vào hoạt động tại Thành phố Cảng Hải
Phòng, ngay sau khi Pháp lệnh về Ngân hàng Thương mại, Hợp tác xã Tín dụng
và Công ty Tài chính có hiệu lực. Khi đó, những cuộc tranh luận về mô hình
ngân hàng cổ phần còn chưa ngã ngũ và MSB đã trở thành một trong những
ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên tại Việt Nam. Đó là kết quả có được từ
sức mạnh tập thể và ý thức đổi mới của các cổ đông sáng lập: Cục Hàng Hải Việt
Nam, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Cục Hàng không Dân
dụng Việt Nam… Ban đầu, MSB chỉ có 24 cổ đông, vốn điều lệ 40 tỷ đồng và
một vài chi nhánh tại các tỉnh thành lớn như Hải Phòng, Hà Nội, Quảng Ninh,
TP HCM. Có thể nói, sự ra đời của MSB tại thời điểm đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX đã góp phần tạo nên bước đột phá quan trọng trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường phát triển thì năm 1997 - 2000 là giai đoạn thử
thách, cam go nhất của MSB. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ châu Á, Ngân hàng đã gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, bằng nội lực và bản
lĩnh của mình, MSB đã dần lấy lại trạng thái cân bằng và phát triển mạnh mẽ từ
năm 2005.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
Đến nay, MSB đã trở thành một ngân hàng thương mại cổ phần phát triển
mạnh, bền vững và tạo được niềm tin đối với khách hàng. Đến cuối năm 2012,
vốn điều lệ của MSB ở mức 8.000 tỷ đồng và tổng tài sản đạt hơn 114.000 tỷ
đồng. Mạng lưới hoạt động không ngừng được mở rộng từ 16 điểm giao dịch
năm 2005, hiện nay là gần 150 điểm và trong tương lai gần, con số này sẽ nâng
lên 200 điểm vào cuối năm 2012 tại những đầu mối kinh tế quan trọng của cả
nước như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Vũng Tàu, TP HCM,

Cần Thơ… MSB đã thiết lập quan hệ đại lý với hơn 400 Ngân hàng và chi nhánh
Ngân hàng ở nhiều nước trên Thế giới, nhằm thúc đẩy tốc độ của hoạt động
Thanh toán quốc tế. Trở thành thành viên của nhiều tổ chức liên Ngân hàng
trong nước và Thế giới như Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng
Châu Á, Tổ chức Thanh toán toàn cầu SWIFT, Đại lý chuyển tiền nhanh toàn
cầu Money Gram… với mục đích nâng cao vị thế của MSB trong thị trường Tài
chính Việt Nam và hội nhập kinh tế thế giới.
Cùng với quyết định thay đổi toàn diện, từ định hướng kinh doanh, hình
ảnh thương hiệu, thiết kế không gian giao dịch tới phương thức tiếp cận khách
hàng… đến nay, MSB đang được nhận định là một Ngân hàng có sắc diện mới
mẻ, đường hướng hoạt động táo bạo và mô hình giao dịch chuyên nghiệp, hiện
đại nhất Việt Nam.
 Tầm nhìn chiến lược:
MSB phấn đấu trở thành Ngân hàng TMCP dẫn đầu thị trường về cung ứng
các dịch vụ tài chính chuyên nghiệp đa năng, trọn gói theo tiêu chuẩn quốc tế.
Với cam kết vì sự phát triển bền vững, MSB phấn đấu trở thành Ngân
hàng TMCP hàng đầu cả nước về hiện đại hóa, năng động, chuyên nghiệp và lấy
chữ Tín trong mọi hoạt động kinh doanh.
 Sứ mệnh:
• Thiết lập quan hệ toàn diện với các tập đoàn kinh tế thuộc các ngành Hàng
hải, Bưu chính viễn thông, Hàng không, Đầu tư, Bảo hiểm…
• Phát triển bền vững, tin cậy với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
• Cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng với chất lượng cao cho mọi đối
tượng khách hàng.
• Xây dựng quan hệ đối tác hiệu quả với các định chế tài chính
trong nước và quốc tế.

 Giá trị cốt lõi:
• Chú trọng đáp ứng khách hàng bằng chất lượng dịch vụ.
• Hiệu quả là mục tiêu của mọi công việc.
• Học hỏi, sáng tạo để vươn tới sự hoàn thiện.
• Hợp tác, tin cậy là động lực của thành công.
 Cam kết hành động:
Hướng tới mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng cổ phần lớn
nhất Việt Nam, MSB luôn kiên trì thực hiện theo những tiêu chí mà Ngân hàng
đã cam kết.
- Với khách hàng: Cung cấp các dịch vụ chất lượng cao, linh hoạt và nhanh
chóng. Không ngừng đa dạng hóa nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp nhất
với các đối tượng khách hàng. Đảm bảo tuyệt đối an toàn và bảo mật.
- Với nhân viên: Thiết lập môi trường làm việc tin tưởng và tôn trọng lẫn
nhau. Phát triển văn hoá hiệu quả tương xứng với quyền lợi. Tạo cơ hội cho sự
phát triển của mọi thành viên MSB.
- Với cổ đông: Giá trị đầu tư tăng trưởng ngày càng cao cho các cổ đông.
Đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của Ngân hàng.
- Với toàn xã hội: Bằng việc đảm bảo sự tăng trưởng không ngừng của
Ngân hàng đồng thời thường xuyên tham gia các hoạt động văn hóa, từ thiện,
MSB cam kết đóng góp các giá trị văn hóa, kinh tế cho cộng đồng và sự phát
triển chung của toàn xã hội.
2.1.2. Khái quát chung về Sở giao dịch MSB
2.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Năm 2005, do hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có nhu cầu cần mở
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
rộng và cần có một trụ sở chính tại Hà Nội để thuận tiện hơn cho hoạt động của
Ngân hàng, MSB đã trình hồ sơ lên Giám đốc NHNN xin chuyển trụ sở chính từ

Thành phố Hải Phòng về Thành phố Hà Nội tại số nhà 44 Nguyễn Du, Hai Bà
Trưng. Đồng thời ngày 1/6/2005, HĐQT Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam
cũng có quyết định thành lập SGD Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam tại số
nhà 44, Nguyễn Du, Hai Bà Trưng, Hà Nội. SGD Ngân hàng TMCP Hàng hải
Việt Nam có con dấu, là đơn vị phụ thuộc, có nhiệm vụ thực hiện kinh doanh
tiền tệ đúng theo các quy định của pháp luật, của NHNN và của MSB.
Quá trình hình thành Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Hàng Hải được chia
làm các giai đoạn sau:
• Từ năm 2005 trở về trước: trụ sở chính ( gồm trung tâm điều hành và sở
giao dịch) có địa điểm tại số nhà 5A Nguyễn Tri Phương, Quận Hồng
Bàng, Thành Phố Hải Phòng
• Từ năm 2005 tới nay địa điểm trụ sở đặt tại số nhà 44 Nguyễn Du, Quận
Hai Bà Trưng, Thành Phố Hà Nội.
Sau khi chuyển trụ sở Sở lên Hà Nội, Sở đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ được tăng cường.
- Sản phẩm và dịch vụ ngân hàng phong phú và đa dạng, nhờ đó nguồn vốn
huy động của sở đã tăng đáng kể.
- Kinh doanh ngoại hối phát triển.
- Đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình, có trình độ, nghiệp
vụ chuyên môn cao.
- Đưa văn hóa bán hàng vào môi trường kinh doanh, thúc đẩy các phòng tín
dụng của Sở chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguồn khách hàng mới,
song song với việc chăm sóc khách hàng hiện có.
- Số lượng phòng giao dịch tăng, tính đến nay, trừ trụ sở của Sở đặt tại số
nhà 44 Nguyễn Du, thì số phòng giao dịch của sở đã tăng lên là 5 phòng ,
được phân bố tại Quận Đống Đa, Quận Hoàn Kiếm, Quận Hoàn Kiếm, và
Quận Hai Bà Trưng, nhằm phát triển hoạt động thanh toán đồng thời cung
cấp các tiện ích ngân hàng cho người dân trên địa bàn các quận, đồng thời
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2

22
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
nhằm phục vụ tốt hơn những khách hàng sẵn có của SGD.
- Quy mô hoạt động tăng mạnh qua các năm.
2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức.
Sở Giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam có cơ
cấu tổ chức bộ máy, nhân sự như sau:
 Ban giám đốc: Gồm có 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
Cụ thể chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng chức vụ, vị trí như sau:
Giám đốc: là người chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước cấp trên cơ
quan chủ quản là Hội sở Ngân hàng TMCP Hàng Hải về mọi hoạt động kinh
doanh của sở theo luật doanh nghiệp mà nhà nước đã ban hành. Đồng thời giám
đốc sở giao dịch cũng là người được giao trách nhiệm quản trị sở giao dịch, chịu
trách nhiệm về mọi mặt hoạt động kinh doanh, kỹ thuật của SGD.
Phó giám đốc: là người hỗ trợ giám đốc trong quá trình quản lý sở, giúp
cho giám đốc sở có thể tập trung vào các vấn đề lớn, có tính chất chiến lược. Bên
cạnh đó, phó giám đốc còn chịu trách nhiệm về mảng sản xuất kinh doanh hàng
ngày và về mảng đối ngoại của doanh nghiệp. Ngoài ra phó giám đốc còn có
nhiệm vụ làm thay công việc của Giám đốc trong trường hợp được ủy quyền.
Hiện tại ở Sở giao dịch đang có 2 phó giám đốc.
 Các phòng nghiệp vụ: Hiện nay Sở giao dịch MSB gồm có 4 phòng
nghiệp vụ:
Phòng tín dụng: được chia làm 2 phòng là phòng khách hàng doanh
nghiệp và phòng khách hàng cá nhân. Mỗi phòng gồm trưởng phòng, phó trưởng
phòng và các nhân viên nghiệp vụ.
+ Phòng Khách hàng doanh nghiệp: gồm 1 trưởng phòng, 2 nhân viên tín
dụng, 7 nhân viên hỗ trợ và kiểm soát tín dụng, 3 nhân viên tín dụng mới tuyển dụng.
+ Phòng khách hàng cá nhân: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 9
chuyên viên tín dụng và hỗ trợ tín dụng.

Phòng kế toán- tài chính: gồm 1 trưởng phòng, 1phó trưởng phòng và 4
nhân viên nghiệp vụ.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
Phòng nguồn vốn và thanh toán: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó trưởng
phòng và 4 các nhân viên nghiệp vụ.
Phòng dịch vụ khách hàng: gồm trưởng phòng, phó trưởng phòng và các
nhân viên nghiệp vụ.
Trong đó, quyền hạn của mỗi vị trí trong ban giám đốc và các phòng ban
trong sở giao dịch được quy định cụ thể như sau:
• Giám đốc được quyền thay mặt trung tâm kí kết các hợp đồng, tham gia
các giao dịch kinh tế có giá trị hợp đồng dưới 800 triệu VND…được quyền tổ
chức và quản lý các hoạt động của đơn vị mình, được quyền trả lương hoặc cho
thôi việc đối với cán bộ, nhân viên thuộc bộ máy của SGD…
• Phó giám đốc được quyền kí kết các văn bản theo sự ủy quyền của giám
đốc; được quyền giám sát và đôn đốc hoạt động của các phòng ban; được quyền
yêu cầu các bộ phận cung cấp các thông tin cần thiết…
• Phòng tín dụng : Được ký các văn bản theo uỷ quyền của Giám đốc trong
một số trường hợp cụ thể liên quan đến hoạt động tín dụng ;được quyền tham gia
các cuộc họp; được quyền trực tiếp chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh
vực tín dụng đối với các nhân viên tín dụng và nhân viên hỗ trợ tín dụng, và
được yêu cầu các phòng ban và các chi nhánh giao dịch của sở cung cấp các
thông tin cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
• Phòng nguồn vốn và Thanh toán : Thực hiện nhiệm vụ quản lý, xuất nhập
và bảo quản an toàn tuyệt đối Quỹ dự trữ phát hành, Quỹ nghiệp vụ phát hành và
các tài sản khác trong kho quỹ tại Sở; Thực hiện các nghiệp vụ về quản lý, lưu
thông tiền tệ, cung ứng tiền mặt cho các Tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước
trên địa bàn; Tổ chức việc kiểm tra chấp hành chế độ an toàn kho, quỹ của các

Tổ chức tín dụng, các tổ chức có hoạt động ngân hàng.
• Phòng kế toán- tài chính: Thực hiện các công tác hạch toán, kế toán, theo
dõi và phản ánh tình hình hoạt động các loại vốn, quỹ và tài sản bảo quản tại Sở;
Lập và tổ chức chấp hành kế hoạch thu, chi tài chính của Sở; Thực hiện việc mở
tài khoản, giao dịch thanh toán cho Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng
trên địa bàn.
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
• Phòng giao dịch khách hàng: thực hiện trực tiếp hoạt động giao dịch với
khách hàng.
Cơ cấu tổ chức của sở giao dịch được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức của Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Hàng Hải.
(Nguồn: Phòng dịch vụ khách hàng, SGD MSB)
2.1.2.3 Tình hình hoạt động kinh doanh tại Sở giao dịch MSB.
a. Nguyên tắc hoạt động: Sở giao dịch Ngân Hàng Hàng Hải là một đơn vị nằm
trong toàn hệ thống Ngân Hàng Hàng Hải, hạch toán độc lập với Hội Sở Ngân
Hàng Hàng Hải. Tuy nhiên mọi hoạt động của SGD vẫn phải dưới sự chỉ đạo
giám sát của Hội Sở.
- Trong hoạt động tín dụng: SGD và ban giám đốc Sở chỉ có quyền thẩm
định, định giá tài sản, ký kết hợp đồng giải ngân với những hợp đồng vay có giá
trị dưới 800 triệu VND, còn những hợp đồng vay có giá trị trên 800 triệu VND
SGD phải chuyển hồ sơ lên Hội Sở, Hội Sở sẽ tiến hành thẩm định và đưa ra
quyết định cho vay hay không.
- Hoạt động thu nợ: SGD có quyền gửi đơn yêu cầu thu hồi nợ với những
khách hàng vay tiền tại SGD đã quá thời hạn cho vay, trong trường hợp khách
Nguyên Thị Phương Thảo Lớp: 35D2
25

×