Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Hoạt động ngân hàng ngày nay được coi là “mạch máu của nền kinh tế”. Ngân hàng
cung cấp rất nhiều các sản phẩm, dịch vụ khác nhau song đem lại doanh thu lớn nhất cho
ngân hàng vẫn là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên cùng với việc đem lại thu nhập đáng kể
cho Ngân hàng thì lĩnh vực tín dụng cũng là lĩnh vực có rủi ro lớn nhất. Như một hệ quả,
rủi ro khiến ngân hàng bị lỗ và bị phá sản. Nó sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người gửi tiền,
hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp ứng vốn, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả
tăng cao, sức mua giảm sút, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội, và hơn nữa sẽ kéo
theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng trong nước cũng như khu vực ảnh hưởng xấu
đến toàn bộ nền kinh tế.
Năm 2010 có thể nói là năm đầy thử thách với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các tổ
chức tín dụng ngân hàng đối diện với rất nhiều sức ép của quá trình suy thoái toàn cầu. Sự
cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn dưới sức ép lộ trình tăng vốn điều lệ lên 10.000 tỷ
đồng vào năm 2015 do Ngân hàng nhà nước quy định đòi hỏi các ngân hàng phải bước
vào cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Điều này buộc ngân hàng phải có chiến lược phù
hợp, công tác dự báo và điều hành sát thực tiễn đồng thời cần tăng cường năng lực tài
chính, quản trị, quản lý rủi ro đối phó với những rủi ro có thể phát sinh. Về hoạt động tín
dụng, năm 2010 hoạt động tín dụng tăng 27,65%, vượt qua mục tiêu 25% ban đầu, nhưng
sự tăng trưởng không đều trong năm tạo ra những khó khăn mang tính chất cục bộ và thời
điểm, giảm hiệu quả và ý nghĩa của mục tiêu đề ra của hệ thống ngân hàng. Tài sản sinh
lời là các khoản cấp tín dụng luôn chiếm tỷ trọng khá lớn 60% - 70% tài sản có, thậm chí
một số ngân hàng thương mại tỷ lệ này lên đến 80%. Ngân hàng TMCP Xăng dầu
Petrolimex (PG Bank) cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Hiện nay PG Bank đang
không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đặc biệt trong hoạt động tín dụng.
Tính đến 31/12/2010, dư nợ tín dụng đạt 10,886 tỷ đồng, tăng 73.7% so với năm 2009,
hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu cho PG Bank.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
1
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Bước sang năm 2011 là năm Luật Các tổ chức tín dụng mới bắt đầu có hiệu lực, các tổ
chức tín dụng bị hạn chế dư nợ ở mức 20% và việc phải tái cơ cấu hoạt động tín dụng
trong đó vấn đề mấu chốt là giảm các khoản cho vay phi sản xuất xuống dưới 22%. Cùng
với đó, thị trường chưa thực sự phục hồi, các doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn do
đầu ra và chi phí vốn lớn, khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng khó khăn. Theo lộ trình
giai nhập WTO đã ký kết, trong năm 2011 này các ngân hàng nước ngoài được phép tham
gia các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tất cả các vấn đề trên tạo áp lực, thách thức rất
lớn cho các ngân hàng Việt Nam. Tăng trưởng, mở rộng quy mô đồng nghĩa với rủi ro
ngày một lớn vì vậy vấn đề quản trị rủi ro trong các ngân hàng thương mại là vấn đề trở
nên có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, em quyết định chọn đề tài: “Giải pháp quản lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng TMCP Xăng dầu
Petrolimex” để viết khóa luận tốt nghiệp.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
2
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
2. Mục đích nghiên cứu.
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về RRTD và quản trị RRTD trong ngân hàng và tìm
hiểu kinh nghiệm quốc tế về quản trị RRTD.
- Phân tích thực trạng hoạt động quản trị RRTD tại Ngân hàng TMCP Xăng dầu
Petrolimex.
- Đưa ra các giải pháp quản lý RRTD tại Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: quản lý RRTD tại Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: công tác quản lý RRTD tại Ngân hàng TMCP Xăng
dầu Petrolimex trong giai đoạn 2010-2012
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để xem xét
các sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và thường xuyên
có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thực tế,
vận dụng lý luận vào thực tiễn để giải thích nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp thích
hợp.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Xăng
dầu Petrolimex.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Xăng dầu Petrolimex.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
3
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng
và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho bên cho vay
Qui trình tín dụng thông thường gồm 5 bước:
Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng.
Bước 2: Phân tích tín dụng.
Bước 3: Quyết định cấp tín dụng.
Bước 4: Giải ngân.
Bước 5: Giám sát thu nợ và thanh lý tín dụng.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
4
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc VN:
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra
tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Như vậy, rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu do
người vay vốn hay người sử dụng vốn không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp
đồng tín dụng vì bất kỳ lý do gì.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào khả năng khách hàng không trả nợ cho ngân hàng trên cả hai khía cạnh: thời
gian và số lượng, ta có thể phân chia rủi ro tín dụng thành hai loại rủi ro là: Rủi ro đọng
vốn và Rủi ro mất vốn.
1.1.2.1. Rủi ro đọng vốn.
Đây là loại rủi ro do khách hàng không thực hiện đúng các điều khoản cam kết, tức
khách hàng không có khả năng hoàn trả đúng hạn làm cho các khoản cho vay của ngân
hàng bị bất động hoá ( xét trên khía cạnh thời gian).
1.1.2.2. Rủi ro mất vốn.
Đây là loại rủi ro khi khách hàng không trả một phần hoặc toàn bộ khoản vay ( xét trên
khía cạnh số lượng), từ đó làm giảm vốn tự có và sức mạnh tài chính của ngân hàng.
Tóm lại : Để thực hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao, điều không thể không làm là
phòng ngừa và hạn chế rủi ro một cách tối thiểu, để vừa đảm bảo cho vay có điều kiện
phát triển sản xuất kinh doanh trong khi bên cho vay vẫn thu hồi được gốc và có lãi.
1.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
− RRTD mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng đã chuyển giao toàn
bộ quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một thời gian nhất định. RRTD xảy ra chủ
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
5
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
yếu khi khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn mà ngân
hàng khó có thể kiểm soát hết được.
− RRTD có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức
tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của RRTD. Do đó, khi phòng ngừa và xử lý
RRTD cần phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, mọi nguyên nhân và hậu quả do RRTD
gây ra để có các biện pháp phòng ngừa và xử lý thích hợp.
− RRTD mang tính tất yếu: nó luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Tình trạng thông tin không cân xứng làm cho ngân hàng không thể nắm bắt
được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất cứ khoản
vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng.
1.1.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.1.4.1. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Nợ quá hạn được hiểu là một khoản nợ mà doanh nghiệp đến hạn phải trả cho ngân hàng
thương mại cả vốn và lãi theo cam kết, nhưng doanh nghiệp không trả được cho ngân
hàng, nợ quá hạn có tác dụng xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
cũng nhự hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn. Vì thế cả ngân
hàng và khách hàng đều muốn tránh tình trạng nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ gián tiếp cho ta thấy quy mô của các khoản cho vay có
vấn đề của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ chất lượng các hợp đồng cho vay
là kém. Tuy nhiên, nợ quá hạn chưa phải là tổn thất của ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu
gián tiếp, bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn này đều dẫn đến tổn thất.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng nợ quá hạn
Tổng dư nợ
1.1.4.2. Nợ không có tài sản đảm bảo:
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
6
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Là khoản nợ khi cho vay, ngân hàng không yêu cầu người vay phải thế chấp tài sản.
Loại nợ này, con nợ là doanh nghiệp vay vốn vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh nếu
tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt thì cũng có khả năng thu hồi nợ. Tuy nhiên số dư
khoản nợ này cao sẽ làm tăng rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
Tỷ lệ NQH không có TSĐB =
NQH không có TSĐB
Tổng NQH
1.1.4.3.Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
Nợ xấu là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà không
thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản, Theo qui định của
VN, nợ xấu bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5. Những khoản này không thu hồi
được phải hạch toán vào chi phí hoạt động và lấy quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất
chính vậy nên làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là một chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi ro. Nó cho thấy trong
một đồng đem cho vay có bao nhiêu đồng bị tổn thất. Nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh
mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
Tổng dư nợ
1.1.4.4. Tình hình rủi ro mất vốn:
+ Tỷ lệ dự phòng RRTD:
Tỷ lệ dự phòng RRTD =
Dự phòng RRTD được trích lập
Dư nợ cho kỳ báo cáo
Dự phòng RRTD được trích lập bao gồm cả dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Tỷ lệ
dự phòng RRTD cho ta biết trong cơ cấu NQH thì nhóm nợ xấu, đặc biệt là nợ nhóm 5 có
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
7
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
chiếm tỷ trọng cao không. Tỷ lệ này càng cao hay số tiền trích lập DPRR càng lớn chứng
tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp.
+ Tỷ lệ mất vốn:
Tỷ lệ mất vốn =
Dư nợ mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo
Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo
Dư nợ mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo là các khoản nợ đã được xóa ở nội bảng nhưng
vẫn được tiếp tục theo dõi ngoại bảng để thu hồi, tuy nhiên, khả năng thu hồi được rất thấp
nên coi như là nợ mất vốn. Tỷ lệ này phản ánh tỷ trọng nợ đã được xóa ở nội bảng trong
kỳ báo cáo so với dư nợ trung bình kỳ báo cáo.
Dư nợ trung bình
cho kỳ báo cáo
=
Dư nợ đầu kỳ báo cáo + Dư nợ cuối kỳ báo cáo
2
1.1.4.5. Khả năng bù đắp rủi ro:
+ Hệ số khả năng bù đắp các khoản cho vay bị mất
Hệ số khả năng bù đắp các
khoản cho vay bị mất
=
Dự phòng RRTD được trích lập
Dư nợ bị thất thoát
Hệ số này dùng đánh giá khả năng ngân hàng trích dự phòng để bù đắp nợ thất thoát như
thế nào. Hệ số này bằng 1 chứng tỏ DPRR đủ bù đắp nợ tổn thất. Hệ số này lớn hơn 1 tức
là ngân hàng đã trích thừa dự phòng. Tuy nhiên, hệ số này không phải bao giờ cũng >= 1
mà thường nhỏ hơn 1 vì dư nợ bị thất thoát có thể ở nhóm 1 đến nhóm 5, trong khi nợ
nhóm 1 không được trích lập DPRR.
+ Hệ số khả năng bù đắp RRTD:
Hệ số khả năng
bù đắp RRTD
=
Dự phòng RRTD được trích lập
Nợ xấu
Hệ số này phản ánh khả năng ngân hàng bù đắp cho những khoản nợ có nguy cơ rủi ro
cao.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
8
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
1.1.5. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng.
1.1.5.1 Rủi ro tín dụng làm giảm phát sinh tăng chi phí, giảm lợi nhuận ngân hàng.
Khi các ngân hàng xuất hiện những khoản nợ quá hạn, trước mắt là sẽ phát sinh các
khoản chi phí và thời gian trong việc thu hồi nợ. Nếu các khoản nợ này có liên quan đến
nhiều bên thì khoản chi phí này càng cao. Bên cạnh đó các khoản nợ quá hạn làm chậm lại
vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản đầu tư khác của mình, đó là chưa kể đến sự
ảnh hưởng lớn của nợ quá hạn với tâm lý cuả cán bộ tín dụng. Nợ quá hạn khi chuyển
thành nợ xấu không thu hồi được phải hạch toán vào chi phí hoạt động và lấy quỹ dự
phòng rủi ro để bù đắp làm tăng chi phí, từ đó làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh
doanh, giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Trong trường hợp Ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng làm Ngân hàng
mất cơ hội đầu tư vào những dự án khả thi, có khả năng mang lại lợi nhuận.
1.1.5.2 Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng đã khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
Các khoản đầu tư, cho vay bị thoất thoát hoặc chậm thu hồi trong khi Ngân hàng vẫn phải
đều đặn trả lãi vốn huy động theo đúng kỳ hạn. Chính điều này đã làm hạn chế khả năng
thanh toán của Ngân hàng.
1.1.5.3 Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của Ngân hàng
Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín và khả năng kinh doanh của ngân hàng. NHTM gặp
nhiều rủi ro là Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Điều này làm cho uy tín của ngân hàng
bị giảm sút một cách trầm trọng dẫn đến việc khách hàng mất lòng tin ở Ngân hàng. Đây
quả thực là một sự thiệt hại vô hình không thể lường hết được.
1.1.5.4 Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản Ngân hàng.
Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân chúng. Họ
lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ hội đầu tư có lợi hơn ở
một Ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá nhiều người đến rút tiền
về dẫn đến sự phá sản thực sự của Ngân hàng.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
9
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Hậu quả phá sản của một ngân hàng không chỉ mình bản thân ngân hàng đó gánh chịu
mà nó còn tác động tới các Ngân hàng bạn có quan hệ với Ngân hàng. Điều này gây ra sự
phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng ảnh hưởng tới toàn
bộ nền kinh tế.
1.1.6. Nguyên nhân gây ra rủi ro.
1.1.6.1. Nguyên nhân khách quan.
Đây là những nguyên nhân xuất hiện đột ngột, khó đoán, khó kiểm soát, nó thường gây
ra những thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng. Bao gồm các nguyên nhân cụ thể
sau:
a. Nguyên nhân từ môi trường tự nhiên.
Những rủi ro từ môi trường tự nhiên như động đất, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh… sẽ tác
động xấu đến phương án đầu tư của khách hàng, làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của
ngân hàng, từ đó gây ra rủi ro cho chính ngân hàng.
b. Nguyên nhân từ môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế bao gồm các vấn đề như: chu kỳ kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, tỷ
giá…
Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như
các doanh nghiệp. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả và có khả năng trả nợ cho Ngân hàng, ngược lại, khả năng trả nợ cho Ngân
hàng của doanh nghiệp sẽ giảm sút. Bên cạnh đó, việc đất nước mở rộng giao lưu quốc tế
khiến môi trường kinh tế trong nước chịu nhiều ảnh hưởng từ sự biến động của nền kinh tế
thế giới. Sự biến động của giá vàng, giá dầu mỏ thế giới và giá một số ngoại tệ mạnh hoặc
giá một số vật tư chủ yếu đều tác động tới hoạt động của Ngân hàng.
c. Nguyên nhân từ phía môi trường pháp lý.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế,
mang tính xã hội cao. Khi hệ thống pháp luật ổn định, lành mạnh, hành lang pháp lý chặt
chẽ, thông thoáng và có hiệu lực sẽ làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế giữa các tổ
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
10
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
chức kinh tế với nhau, cũng như giữa các tổ chức kinh tế đó với Ngân hàng. Ngược lại, hệ
thống pháp lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất dễ bị lợi dụng, gây ra tình
trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau, từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh
toán đối với Ngân hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của Ngân hàng, điển
hình như vụ án Epco - Minh Phụng… đã gây xôn xao dư luận.
Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ có ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động của Ngân hàng. Việc Chính phủ điều chỉnh lãi suất chiết khấu, lãi suất tái
chiết khấu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay các nghiệp vụ thị trường mở sẽ gây ảnh
hưởng trực tiếp cho các NHTM, thường là những ảnh hưởng không tích cực cho hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu NHTM biết nắm bắt thông tin kinh tế một cách
kịp thời thì sẽ hạn chế được rủi ro xảy ra.
d. Nguyên nhân từ môi trường chính trị- xã hội.
Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
Ngược lại, nếu doanh nghiệp luôn phải đặt trong tình trạng chiến tranh, cấm vận kinh tế
hay bất ổn về chính trị, tệ nạn xã hội tràn lan thì sẽ dần đễn sự kìm hãm sản xuất, từ đó
gây ra rủi ro đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với hoạt động tín dụng của ngân
hàng nói riêng.
Bên cạnh đó, các yếu tố xã hội như thói quen, truyền thống, tập quán, trình độ văn hoá
của người dân ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó, cần đặc biệt
quan tâm đến để tránh việc đưa ra các sản phẩm tín dụng không phù hợp.
Tất cả những nguyên nhân trên nếu không được dự báo, và có biện pháp phòng ngừa kịp
thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh và điều kiện kinh doanh của
ngân hàng và khách hàng vay vốn.
1.1.6.2. Nguyên nhân chủ quan.
a. Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Do khả năng tài chính của khách hàng thấp: nguồn vốn tự có hay thu nhập của khách
hàng thấp, khách hàng làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả được nợ cho ngân hàng.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
11
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Ngoài ra, cũng có thể do rủi ro về đạo đức như sự gian lận và ý thức trả nợ không tốt của
khách hàng. Có rất nhiều trường hợp, khách hàng lập những hồ sơ, giấy tờ giả mạo, hoặc
cố ý không trả nợ cho ngân hàng, thậm chí bỏ trốn, gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho
ngân hàng.
b. Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Ngoài những nguyên nhân nêu trên, rủi ro tín dụng còn xuất phát từ chính bản thân Ngân
hàng. Đó là do chính sách cho vay của ngân hàng không phù hợp, thiếu sự kiểm soát chặt
chẽ hoặc đặt mục tiêu lợi nhuận quá cao.
Bên cạnh đó, năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tín dụng yếu kém cũng
dẫn đến những đánh giá không chính xác về khách hàng và phương án vay vốn từ đó làm
phát sinh những khoản vay kém an toàn, hay do quy trình tác nghiệp thiếu sự hợp lý, kiểm
tra giám sát lỏng lẻo.
Cùng với sự hạn chế về trình độ là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng. Nhiều
cán bộ tín dụng đã sa ngã trước sự cám dỗ của vật chất, làm trái quy định, móc nối với
khách hàng, gây ra tổn thất lớn cho ngân hàng.
Rủi ro từ phía ngân hàng có thể phát sinh do công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, không hỗ trợ
được cho việc đánh giá, phân tích khách hàng.
Ngoài ra, rủi ro có thể xảy ra do giá trị tài sản thế chấp có biến động theo chiều hướng
xấu.
1.1.6.3. Nguyên nhân từ phía bảo đảm tín dụng.
- Khó định giá các tài sản dùng làm bảo đảm tín dụng có thể dẫn đến định giá quá
cao.
- Giá cả biến động theo chiều hướng bất lợi.
- Tính khả mại thấp, tài sản chuyên dụng.
- Khó có khả năng tiếp cận, nắm giữ các tài sản bảo đảm để xử lý chúng do người
vay vi phạm hợp đồng về việc bảo quản duy trì tài sản, do đặc tính của tài sản
hoặc do thiếu các cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
12
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Tóm lại: Rủi ro tín dụng là một đặc thù, một tất yếu khách quan trong hoạt động kinh
doanh tín dụng của NHTM. Loại bỏ hoàn toàn rủi ro là điều không thể nhưng phòng
ngừa và hạn chế nó (đặc biệt là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro mang tính chủ quan)
là điều mà các nhà Ngân hàng có thể làm được.
1.2. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản trị lên
các đối tượng bị quản trị và các khách thể kinh doanh nhằm sử dụng tốt nhất mọi tiềm
năng, cơ hội để đạt được các mục tiêu chung đã đề ra trong môi trường kinh doanh luôn
biến động.
Quản trị RRTD là một quá trình từ việc hoạch định chiến lược đến việc tổ chức thực
hiện, điều khiển và kiểm soát việc thực hiện chiến lược, phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi
ro trong hoạt động tín dụng mà NHTM đã đề ra. Quản trị rủi ro ngày càng chứng tỏ tính
độc lập tương đối của nó trong hệ thống các hoạt động quản trị doanh nghiệp.
1.2.2. Sự cần thiết của công tác Quản lý rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Đối với bản thân ngân hàng.
Trong hoạt động của mình, các ngân hàng thường chỉ chấp nhận RRTD mà mức thiệt hại
tối đa không cao hơn mức lợi nhuận mong đợi. Nhưng trên thực tế, mọi trường hợp đều có
thể xảy ra, không chỉ là sụt giảm lợi nhuận mà nghiêm trọng hơn là bắt đầu thua lỗ, không
có doanh thu, hay thậm chí mất vốn tự có và phá sản.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
13
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Trong một môi trường hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, nếu một ngân hàng yếu kém trong
quản trị RRTD, rủi ro có thể xảy ra vượt ngoài mong đợi. Thiệt hại cho ngân hàng thể hiện
trước hết là giảm lợi nhuận mong đợi và làm giảm nhịp độ phát triển của ngân hàng trong
tương lai.
1.2.2.2. Đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế
RRTD không chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng vì nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng là
huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ trong dân cư. Do vậy, một khi RRTD xảy ra sẽ làm mất
niềm tin ở người gửi tiền và ở mức độ nghiêm trọng hơn khi người dân đến rút tiền một
cách ồ ạt. Nếu ngân hàng không có đủ dự trữ tiền mặt và không có những biện pháp xử lý
kịp thời thì ngân hàng sẽ có thể sụp đổ và với hiệu ứng lan truyền sẽ kéo theo sự đổ vỡ của
cả hệ thống ngân hàng đồng thời ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế.
Mặt khác, tại Việt Nam, giả sử có một NHTM Nhà nước gặp khó khăn về tài chính do
RRTD xảy ra ngoài dự kiến, ngân hàng đó có thể nhận được sự hỗ trợ từ phía ngân sách
Nhà nước. Khi ngân sách tăng chi tiêu cho khoản mục này thì đồng thời phải cắt giảm chi
cho khoản mục khác. Như vậy, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu ổn định và
phát triển của đất nước.
Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay, nền kinh tế mỗi
quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á (1997), cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002)
và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất ở Mỹ vào thời điểm cuối năm 2007,
đầu năm 2008 đã ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế thế giới.
Tóm lại, hoạt động quản trị RRTD giúp ngân hàng vững vàng hơn trong xử lý mối quan
hệ giữa rủi ro và lợi nhuận, qua đó tránh được thiệt hại và đem lại lợi ích cho bản thân
ngân hàng, cho khách hàng, rộng lớn hơn là cho toàn xã hội.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
14
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
1.2.3. Nhiệm vụ của công tác Quản lý rủi ro tín dụng
− Hoạch định phương hướng và kế hoạch phòng chống rủi ro. Nhiệm vụ này bao gồm
dự đoán, xác định rủi ro có thể xảy ra đến đâu, trong điều kiện nào, nguyên nhân dẫn đến
rủi ro và hậu quả ra sao.
− Tổ chức phòng chống rủi ro có khoa học nhằm chỉ ra những mục tiêu cụ thể cần đạt
được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể chấp nhận được.
− Tham gia xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát, phòng chống rủi
ro, phân quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa chọn những công cụ phòng
chống rủi ro, xử lý và giải quyết hậu quả do rủi ro gây ra một cách nghiêm túc.
− Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch phòng chống
rủi ro, từ đó phát hiện các rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi thực hiện giao dịch, đánh giá hiệu
quả công tác phòng chống rủi ro và đề nghị các biện pháp điều chỉnh và bổ sung nhằm
hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro.
1.2.4. Nội dung Quản trị rủi ro tín dụng
Hiện nay, các NHTM trên thế giới cũng như Việt Nam đều thực hiện quy trình quản lý
RRTD theo các bước: (i) nhận biết rủi ro ; (ii) đo lường rủi ro; (iii) quản lý rủi ro; (iv)
kiểm soát và xử lý rủi ro.
1.2.4.1. Công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng
Muốn công tác phòng ngừa có hiệu quả, việc trước hết cần phải làm đó là xác định cho
được các dấu hiệu của RRTD. Có thể các dấu hiệu đến từ phía ngân hàng và cũng có thể
đến từ phía khách hàng.
− Phân tích chung toàn bộ danh mục của khách hàng để nhận biết những rủi ro về
quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, về ngành, về loại tiền. Cần kết hợp với dự báo kinh tế
vĩ mô để đánh giá rủi ro chung của toàn bộ danh mục tín dụng.
− Phân tích đánh giá khách hàng nhằm phát hiện các nguy cơ rủi ro trong từng khách
hàng, từng khoản nợ cụ thể. Phân tích đánh giá khách hàng được thực hiện từ khi bắt đầu
tiếp xúc khách hàng, phân tích trong quá trình cho vay và phân tích sau khi cho vay.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
15
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Với những nội dụng cơ bản này, các ngân hàng sẽ luôn chú trọng đến công tác quản trị
hệ thống TTTD hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm định khách hàng vay, phòng ngừa rủi ro
từ khâu thẩm định hồ sơ vay.
1.2.4.2. Đo lường rủi ro tín dụng
Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh
giá, đo lường RRTD. Các mô hình này rất đa dạng, bao gồm các mô hình định lượng
(quantity models) và những mô hình định tính hay còn gọi là phương pháp chất lượng,
phương pháp chủ quan, phương pháp chuyên gia hay phương pháp truyền thống của
RRTD.
Mô hình định tính về rủi ro tín dụng: Mô hình 6C
Đối với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có thiện chí
và khả năng thanh toán khoản vay đến hạn hay không? Điều này liên quan đến việc nghiên
cứu chi tiết “ 6 khía cạnh – 6C” của khách hàng, bao gồm:
(1) Character (tư cách người vay): CBTD phải chắc chắn rằng người vay có mục
đích rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
(2) Capacity (Năng lực của người vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người
xin vay phải có đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp lý dân sự để ký kết hợp đồng
tín dụng. Các tiêu chí này nhằm đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng trước pháp luật khi có
tranh chấp xảy ra.
(3) Cash (Thu nhập của người vay): Tiêu chí này để trả lời cho câu hỏi: Người vay
có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ cho ngân hàng hay không?
Đối với khách hàng cá nhân, khả năng tạo ra tiền để trả nợ chính là nguồn thu nhập
hàng tháng cộng với giá trị tài sản thuộc sở hữu của họ.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp, nói chung có ba khả năng tạo ra tiền dùng để trả nợ
cho ngân hàng đó là: luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập; bán thanh lý tài
sản; tiền từ phát hành chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn.
Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể sử dụng để trả nợ vay cho ngân
hàng. Tuy nhiên, ngân hàng ưu tiên hơn cả là khả năng thứ nhất và coi đây là nguồn thu
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
16
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
đầu tiên và căn bản để trả nợ vay ngân hàng. Điều này là vì: việc bán thanh lý tài sản có
thể làm cho năng lực người vay trở nên yếu đi, khiến cho ngân hàng là chủ nợ trở nên ít
được bảo đảm.
(4) Collateral (Đảm bảo tiền vay): Những điều kiện đảm bảo tiền vay sẽ giúp cho
ngân hàng có thể giải quyết tốt được những vấn đề khi rủi ro tín dụng phát sinh. Tài sản đảm
bảo là tấm đệm an toàn cho ngân hàng khi thực hiện cho vay, do đó, cần quan tâm đến tính
khả mại của tài sản đảm bảo và vị thế của ngân hàng đối với tài sản khi phải phát mại. Nếu
khoản vay dựa trên bảo lãnh, thì uy tín và năng lực của người bảo lãnh là vô cùng quan trọng.
(5) Conditions (Các điều kiện): Môi trường kinh doanh của khách hàng, xu hướng
ngành nghề, địa vị cạnh tranh hiện tại của khách hàng trong môi trường ngành đó và thị
phần dự kiến là những yếu tố để đánh giá khả năng thành công của phương án kinh doanh.
Thêm vào đó còn phải tính đến mức độ nhạy cảm của khách hàng khi có những biến động
trên thị trường chung, nếu khách hàng là đối tượng quá nhạy cảm thì khả năng tài chính
của họ không ổn định tạo rủi ro cao cho khoản vay.
(6) Control (Kiểm soát): Ngân hàng xem xét kỹ lưỡng khoản tín dụng để đảm bảo
tính hợp pháp theo các quy định, quy chế hiện hành, đồng thời ngân hàng thực hiện kiểm
tra, giám sát để đảm bảo khách hàng sử dụng khoản vay đúng mục đích.
⇒ Mô hình 6C có thể sử dụng để đánh giá khách hàng giai đoạn thẩm đinh và ra quyết
định tín dụng, và cũng có thể sử dụng trong quá trình giám sát sau khi cho vay để theo dõi
chất lượng khoản vay.
Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình này là nó phụ
thuộc mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ
phân tích, đánh giá của CBTD.
Mô hình điểm số Zeta (Z – Credit scoring model):
Mô hình điểm số được thiết lập dựa vào các chỉ tiêu tài chính quan trọng được phản
ánh từ số liệu thống kê trong lịch sử. Tầm quan trọng của từng chỉ tiêu sẽ xác định trọng
số của chúng trong mô hình. Tương ứng với mỗi khách hàng, mô hình sẽ cho một kết quả
nhất định. Nếu điểm số này lớn hơn điểm số chuẩn thì tình hình tài chính của doanh
nghiệp có thể chấp nhận được.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
17
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Mô hình điểm số thường được nhắc tới nhiều nhất là mô hình phân tích Zeta của
Alman, Haldeman và Narayaman được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1077. Mô hình này
có tác dụng phân loại những người vay căn cứ vào mức độ rủi ro có liên quan đến chỉ tiêu
(Xj) phản ánh các đặc điểm tài chính và kinh doanh của khách hàng.
Z = 1,2X
1
+1,4X
2
+ 3,3X
3
+ 0,6X
4
+ 0.99X
5
X
1
= Tài sản lưu động/Tổng tài sản có ( Working Capitals/ Total Assets)
X
2
= Lợi nhuận tích lũy/Tổng tài sản có ( Retain Earrnings/ Total Assets)
X
3
= Lợi nhuận trước thuế và lãi/ Tổng tài sản có ( EBIT/ Total Assets)
X
4
= Giá thị trường của vốn tự có/Giá kế toán của các khoản nợ ( Market Value of
Total Equity/ Book values of total Liabilities)
X
5
= Doanh thu/ Tổng tài sản có ( Sales/ Total Assets)
Chỉ số biến động Z đo lường toàn bộ mức độ rủi ro của người vay. Giá trị của Z càng
lớn thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp, mức độ rủi ro dự tính của người vay càng
nhỏ.
Z > 2,99: Người vay không có khả năng vỡ nợ
1,81 > Z > 2,99: Không xác định được
Z < 1,81: Người vay có khả năng rủi ro cao
Mô hình này có ưu điểm là kỹ thuật đo lường RRTD tương đối đơn giản, tuy nhiên nó
lại có rất nhiều hạn chế:
- Mô hình này chỉ cho phép phân loại hai nhóm người vay có rủi ro và không có rủi
ro. Tuy nhiên trong thực tế mức độ RRTD tiềm năng của mỗi khách hàng rất đa dạng.
- Các hệ số trong mô hình là bất biến theo thời gian trên thực tế nếu trong khoảng
thời gian dài, điều kiện kinh doanh thay đổi thì các hệ số sẽ có sự thay đổi. Ngoài ra, mô
hình cũng giả thiết rằng các biến số Xj là hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau.
- Mô hình không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng một vai
trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro của các khoản vay (danh tiếng của khách
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
18
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
hàng, mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ mô như sự biến
động của chu kỳ kinh tế).
Mô hình xếp hạng tín dụng của Moody’s và Standard & Poor’s
RRTD trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu và
khoản cho vay, trong đó Moody’s và Standard & Poor’s (S&P) là những công ty cung cấp
dịch vụ này tốt nhất. Moody’s và S&P xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay theo nhiều
hạng với chất lượng giảm dần, trong đó những hạng đầu ngân hàng nên cho vay còn các
hạng sau thì không nên đầu tư hay cho vay:
Các hạng mức của Hệ số tín nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn
Chỉ số tín nhiệm
theo S&P
Chỉ số tín
nhiệm
Moody’s
Diễn giải Phân loại
AAA Aaa Chất lượng cao nhất, ổn định, rủi
ro thấp nhất
AA Aa Chất lượng cao, rủi ro thấp.
Độ rủi ro chỉ cao hơn hạng AAA
một bậc.
A A Chất lượng khá, tuy vậy có thể bị
ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế
Trái phiếu có thể đầu tư
BBB Baa Chất lượng trung bình, an toàn
trong thời gian hiện tại, tuy vậy
có ẩn chứa một số yếu tố rủi ro.
BB Ba Chất lượng trung bình thấp, có
thể gặp khó khăn trong việc trả
nợ, bị ảnh hưởng đối với sự thay
đổi của tình hình kinh tế
Trái phiếu có độ rủi ro
cao.
B B Chất lượng thấp, rủi ro cao, có
nguy cơ không thanh toán đúng
hạn.
Trái phiếu không nên
đầu tư
CCC Caa Rủi ro cao, chỉ có khả năng trả nợ
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
19
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
nếu tình hình kinh tế khả quan
CC Ca Rủi ro rất cao, rất gần phá sản
C C Rủi ro rất cao, khó có khả năng
thực hiện thanh toán các nghĩa vụ
nợ
D Xếp hạng thấp nhất, đã phá sản
hay hầu như sẽ phá sản
NR NR Không đánh giá
Đối với chỉ số Moody’s, ngoài những xếp hạng cơ bản trên, hệ số 1,2,3 còn dùng để chia
nhỏ một xếp hạng cơ bản ra làm 3 loại, trong đó 1 là cao nhất trong hạng đó, 2 là trung
bình, 3 là thấp nhất, ví dụ: Aa1, Aa2, Aa3.
Còn đối với chỉ số S&P, + hay – được dùng để chia nhỏ xếp hạng, trong đó + là cao nhất
trong hạng đó, không dấu là trung bình, - là thấp nhất, ví dụ: AA+, AA, AA
Mô hình điểm số tín dụng
Điểm số các tiêu chí xác định chất lượng tín dụng tiêu dùng
Các tiêu chí xác định chất lượng tín dụng tiêu dùng Điểm số
1. Nghề nghiệp của người vay
Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh
Công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)
Nhân viên văn phòng
Sinh viên
Công nhân không có kinh nghiệm
Công nhân bán thất nghiệp
10
8
7
5
4
2
2. Tình trạng nhà ở
Nhà riêng
Nhà thuê hay căn hộ
Sống cùng bạn hay người thân
6
4
2
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
20
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
3. Xếp hạng tín dụng
Tốt
Trung bình
Không có hồ sơ
Tồi
10
5
2
0
4. Kinh nghiệm nghề nghiệp
Nhiều hơn một năm
Từ một năm trở xuống
5
2
5. Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
Nhiều hơn một năm
Từ một năm trở xuống
2
1
6. Điện thoại cố định
Có
Không
2
0
7. Số người sống cùng (phụ thuộc)
Không
Một
Hai
Ba
Nhiều hơn ba
3
3
4
4
2
8. Các tài khoản tại ngân hàng
Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành séc
Chỉ tài khoản tiết kiệm
Chỉ tài khoản phát hành séc
Không có
4
3
2
0
(Nguồn: Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC)
Mô hình này áp dụng trong cho vay tiêu dùng cá nhân và cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ, dựa vào hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, thu nhập, thời gian công tác, để
cho điểm, từ đó hình thành khung chính sách tín dụng. Mô hình này thường sử dụng 7-10
hạng mục, thang điểm cho mỗi hạng mục là 10.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
21
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu nêu trên là 43 điểm, thấp
nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín
dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính sách tín
dụng theo mô hình điểm như sau:
Khung chính sách tín dụng tiêu dùng
Tổng điểm số cho khách hàng Quyết định tín dụng
28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng
29 – 30 điểm Cho vay đến 500 USD
31 – 33 điểm Cho vay đến 1.000 USD
34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD
37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD
39 – 40 điểm Cho vay đến 5.000 USD
41 – 43 điểm Cho vay đến 8.000 USD
(Nguồn: Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC)
Mô hình này có ưu điểm là loại bỏ được sự phán xét chủ động trong quá trình cho vay và
giảm đáng kể thời gian ra quyết định tín dụng. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là không thể
tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và
cuộc sống gia đình.
1.2.4.3. Quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng
Quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng là một nội dung rất phức tạp và bao gồm nhiều hoạt
động, liên quan đến nhiều cấp cán bộ trong ngân hàng. Hoạt động tín dụng sẽ hiệu quả và
lành mạnh nếu ngân hàng thực hiện được các công việc sau:
1, Xây dựng được một hệ thống chính sách tín dụng, quy trình và cơ cấu tổ chức chuẩn để
hướng dẫn cán bộ tín dụng thực thi công việc.
2, Có chế tài giám sát để đảm bảo rằng hoạt động tác nghiệp của các bộ tín dụng tuân thủ
chặt chẽ quy trình.
3, Có các biện pháp hữu hiệu để chủ động phòng ngừa và đối phó với các rủi ro bất khả
kháng.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
22
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
Ủy ban Basel đã đưa ra một nhóm nguyên tắc nhằm giúp các ngân hàng quản lý rủi ro tín
dụng, trên các khía cạnh như:
*Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:
+Nguyên tắc 1 : Phê duyệt và xem xét chiến lược RRTD theo định kỳ, xem xét những vấn
đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, mức độ khả năng sinh lời.
+ Nguyên tắc 2 : Thực hiện chiến lược chính sách tín dụng, xây dựng các quy trình, thủ
tục cho các khoản vay riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng, nhằm xác định, đánh giá,
quản lý, kiểm soát RRTD.
+ Nguyên tắc 3 : Xác định và quản lý RRTD trong tất cả các sản phẩm và các hoạt động.
Đảm bảo rằng tất cả các sản phẩm và hoạt động mới đều trải qua đầy đủ các thủ tục, các
quy trình kiểm soát thích hợp và được phê duyệt đầy đủ.
* Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh:
+ Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: những hiểu biết về người vay,
mục tiêu, cơ cấu tín dụng và nguồn thanh toán.
+ Nguyên tắc 5: Thiết lập HMTD tổng quát cho từng khách hàng riêng lẻ, nhóm những
khách hàng vay có liên quan đến nhau, trong và ngoài bảng cân đối kế toán
+ Nguyên tắc 6: Có các quy trình rõ rang được thiết lập cho việc phê duyệt các khoản tín
dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện có.
+ Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên: cơ sở giao dịch thương mại, quản lý
chặt chẽ các khoản vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi
ro trong cho vay.
* Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp
+ Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả và đầy đủ đối với các
danh mục tín dụng.
+ Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện liên quan đến từng khoản tín
dụng riêng lẻ, đánh giá tính đầy đủ của các khoản dự phòng RRTD.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
23
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
+ Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ, hệ thống đánh giá
cần phải nhất quán với các hoạt động ngân hàng.
+ Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích giúp Ban Quản Lý đánh giá
RRTD cho các hoạt động trong và ngoài Bảng Cân Đối Kế Toán.
+ Nguyên tắc 12: Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với cơ cấu tổng thể, chất lượng của
danh mục tín dụng.
+Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện kinh tế có thể xảy ra
trong tương lai.
* Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ với RRTD
+ Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục, cần thông báo
kết quả đánh giá cho Hội Đồng Quản Trị và Ban Quản Lý Cấp Cao.
+Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi đầy đủ, cụ thể: việc cấp tín
dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và áp dụng kiểm soát nội bộ,
những vi phạm về các chính sách, thủ tục và hạn mức tín dụng cần được báo cáo kịp thời.
+ Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản mục tín dụng phát hiện thấy có
vấn đề.
1.2.4.4. Chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
− Hoán đổi tín dụng
Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng là thỏa thuận giữa bên mua và bên bán nhằm trao đổi
rủi ro tín dụng giữa hai bên. Người mua bảo hiểm rủi ro tín dụng muốn được bảo hiểm rủi
ro tín dụng của tổ chức phát hành ( tổ chức phát hành là người phát hành trái phiếu hoặc
chủ nợ cho những khoản vay cần được bảo đảm), người bán bảo hiểm rủi ro tín dụng sẽ
chấp nhận rủi ro tín dụng của tổ chức phát hành với mục đích đầu tư hoặc kiếm lợi nhuận
thông qua việc mua bán khả năng tín dụng của các công ty hoặc tổ chức phát hành.
Việc mua bán rủi ro tín dụng giữa 2 đối tác được thực hiện thông qua hợp đồng hoán đổi
mà người mua bảo hiểm rủi ro tín dụng sẽ trả một khoản phí cho người bán. Khi xảy ra
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
24
Khóa luận tốt nghiêp Học viện Ngân
hàng
biến cố tín dụng ( được xác định cụ thể trong hợp đồng hoán đổi tín dụng như trường hợp
phá sản, mất khả năng thanh toán), bên bán sẽ thanh toán giá trị của hợp đồng hoán đổi
cho bên mua.
− Bán nợ
Trong một nền kinh tế đầy cạnh tranh như hiện nay, việc các ngân hàng gặp phải những
khoản nợ xấu khó đòi diễn ra nhiều hơn. Những khoản nợ đó sẽ là một vết đen trên bảng
cân đối kế toán của các ngân hàng, việc mất vốn dường như cầm chắc trong tay. Nhưng
nhờ hoạt động mua bán nợ, các ngân hàng có thể thoát khỏi gánh nặng này với việc thu
hồi lại được một phần vốn. Công ty mua bán nợ sẽ mua lại các khoản nợ này với giá hợp
lý, để rồi biến các khoản nợ đó thành phần vốn góp liên doanh của mình tại các doanh
nghiệp mắc nợ, hoặc bán lại cho bên thứ ba.
− Chứng khoán hóa
Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác nhau
của những người đi vay được tập hợp lại và đóng gói, rồi được dùng làm đảm bảo để phát
hành trái phiếu ( gọi chung là các trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người mua các
chứng khoán này được chuyển tới các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để các tổ chức
này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa là quá trình đưa các tài sản
thế chấp sang thị trường thứ cấp, nơi mà chúng có thể trao đi đổi lại. Nó biến các tài sản
kém thanh khoản thành những chứng khoán thanh khoản. Với bốn chủ thể kinh tế, người
thế chấp và đi vay, tổ chức tập hợp và đóng gói tài sản thế chấp rồi phát hành chứng
khoán, nhà đầu tư và mua bán chứng khoán, tổ chức tín dụng, rủi ro được chuyển từ tổ
chức tài chính sang nhà đầu tư trái phiếu đảm bảo bằng tài sản.
− Cho vay hợp vốn
Một khoản vay hợp vốn cũng giống như các khoản tín dụng thông thường khác, chỉ khác
là giá trị của các khoản vay thường lớn, và cần cơ cấu phức tạp.
Hoàng Mai Linh NHA- LTĐH8
25