Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng tmcp việt nam thịnh vượng – chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.93 KB, 76 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trung gian tài chính, một kênh dẫn vốn quan trọng của nền
kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc hoàn thiện và mở
rộng các hoạt động là hướng đi và phương châm cho các ngân hàng tồn tại và phát
triển. Trong các hoạt động của ngân hàng có hoạt động cho vay mà đối tượng khách
hàng bao gồm cả doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình. Trước đây, các ngân hàng
quan tâm chủ yếu tới đối tượng khách hàng là doanh nghiệp nhưng trong những
thập kỉ gần đây, ngân hàng lại nổi lên trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng với tư cách
là một tổ chức cho vay chủ yếu. Một phần nào đó khiến các ngân hàng chiếm vị trí
quan trọng như vậy trong lĩnh vực tiêu dùng là vì khách hàng cá nhân luôn là những
người có nguồn tiền gửi tiết kiệm quan trọng đối với ngân hàng. Thật vậy, nhiều hộ
gia đình sẽ cân nhắc lại việc gửi tiết kiệm vào một ngân hàng nếu như họ không thể
vay tiền từ ngân hàng đó. Ngoài ra, những nghiên cứu còn cho thấy những món vay
trong lĩnh vực này luôn nằm trong những món vay có lợi tức cao nhất mà ngân hàng
có thể nhận được. Với những lí do trên, các ngân hàng lớn với những ưu thế về
mạng lưới chi nhánh rộng khắp của mình đã tăng nhanh thị phần huy động các
nguồn vốn của mình thông qua nghiệp vụ cho vay đối với người tiêu dùng.
Sau một thời gian thực tập, tìm tòi và học hỏi tại Ngân hàng TMCP Việt
Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Hà Nội, em nhận thấy ngân hàng đã chú trọng phát
triển tới cho vay tiêu dùng nhưng hoạt động này chưa thực sự trở thành hoạt động
lớn của ngân hàng. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu thực trạng hoạt động và
đưa ra các giải pháp để phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng sẽ có ý nghĩa cả trên
phương diện lí luận và thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu “Trở thành ngân hàng bán
lẻ hàng đầu Việt Nam” của ngân hàng. Do đó, em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp
phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – chi
nhánh Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1


Nội dung đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Cho vay tiêu dùng và phát triển cho vay tiêu dùng của NHTM
Chương II: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Việt Nam
Thịnh Vượng – Chi nhánh Hà Nội.
Chương III: Giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Hà Nội.
Phạm vi của đề tài là tìm hiểu thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Hà Nội từ năm 2008 đến năm 2010.
Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, bài viết đưa ra một số ý kiến và kiến nghị nhằm phát
triển nghiệp vụ này tại ngân hàng.
Để hoàn thiện đề tài này, em xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và những ý
kiến quý báu của PGS.TS Nguyễn Thị Bất và các cán bộ tín dụng phòng phục vụ
khách hàng cá nhân tại chi nhánh Hà nội.
Sinh viên
Lê Thị Bích An
2
CHƯƠNG I
CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Sự hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự hình thành và phát
triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế đòi hỏi và cũng là điều
kiện cho sự phát triển của ngân hàng. Các NHTM xuất hiện và tồn tại trong nền
kinh tế với tư cách là tổ chức trung gian, tức là họ nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ
chức có dư thừa và trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu.
Thực tế là các ngân hàng đã thực hiện chức năng chu chuyển vốn cho nền kinh tế
một cách gián tiếp. Hệ thống NHTM có phạm vi hoạt động rất rộng rãi vì nó cung
cấp các dịch vụ tài chính cho mọi lĩnh vực của nền kinh tế và hướng tới mọi đối
tượng tầng lớp dân cư. Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì sự cạnh
tranh giữa NHTM và các tổ chức tài chính càng trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết.
Các NHTM có xu hướng xây dựng cho mình một chiến lược phát triển lâu dài, xác

định hoạt động chủ yếu và phương án thực hiện. Mặt khác, cuộc sống con người đã
không ngừng được cải thiện và họ có nhu cầu cao hơn về sinh hoạt, hưởng thụ các
tiện ích xã hội. Do đó, hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM ra đời nhằm đáp
ứng các nhu cầu ấy.
Trong phạm vi chương I: “ Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của
NHTM”, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khái quát về hoạt động tín dụng của NHTM, sau
đó sẽ đi sâu hơn nghiên cứu loại hình tín dụng tiêu dùng.
1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế
cần một lượng hàng hóa cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có
hoặc số tiền hiện chưa đủ, họ có thể sử dụng hình thức vay mượn để đáp ứng nhu
cầu. Có hai cách vay mượn: vay chính loại hàng háo đang có nhu cầu hoặc vay tiền
để mua loại hàng hóa đó. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất và cũng là hoạt động mang lại
lợi nhuận khá lớn cho NHTM. Trong hoạt động tín dụng bao gồm những hoạt động
như cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án và đầu tư.
3
Cho vay thương mại là hoạt động xuất hiện sớm nhất trong buổi đầu ra đời
các NHTM. Khi ấy, các ngân hàng đã thực hiện chiết khấu thương phiếu và thực tế
là cho vay đối với người bán (người bán phải chuyển các khoản phải thu cho ngân
hàng để lấy tiền trước). Sau này, NHTM đã chuyển từ chiết khấu thương phiếu sang
cho vay trực tiếp đối với khách hàng (người mua), giúp họ thực hiện các kế hoạch
nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
Sau một thời gian dài phát triển cho vay thương mại, thêm vào đó sự gia tăng
thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh gay gắt đã khiến các NHTM bắt đầu
chú ý tới cho vay tiêu dùng. Thực tế, trong giai đoạn đầu các ngân hàng không tích
cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì những món vay tiêu dùng này thường
có giá trị nhỏ và độ rủi ro cao. Hiện nay, cho vay tiêu dùng đang ngày càng phát
triển với mức tăng trưởng nhanh, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh hoạt động cho vay thì tài trợ dự án là một trong số các hoạt động

đang ngày càng nhận được sư quan tâm của các NHTM. Họ thực hiện tài trợ cho
các dự án xây dựng, đặc biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số ngân
hàng còn cho vay đầu tư trong lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên đây là hoạt động tín
dụng có độ rủi ro cao.
Thực tế, cho vay là khoản mục chiếm phần lớn trong tổng tài sản của ngân
hàng, đồng thời cũng là khoản có độ rủi ro lớn hơn cả. Nếu không được kiểm soát
chặt chẽ, các khoản vay rất dễ bị thất bại, trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận, thậm
chí đe dọa sự tồn tại của ngân hàng khi những nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng
không được đáp ứng. Vì vậy, cho ai vay như thế nào, quản lí việc sử dụng tiền vay,
thu nợ gốc và lãi ra sao… là những vấn đề mà ngân hàng phải giải quyết trước và
trong quá trình cho vay, nhằm có được những khoản cho vay an toàn và hiệu quả.
Chính vì thế, giai đoạn xem xét trước khi cho vay, xem xét người vay tiền và việc
sử dụng tiền vay (hay còn gọi là thẩm định tín dụng) luôn chiếm vị trí quan trọng.
Để hiếu đầy đủ hơn về tín dụng NHTM, chúng ta cần đưa ra khái niệm, đặc
trưng, phân loại và quy trình tín dụng.
1.1.1 Khái niệm tín dụng NHTM
Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh là Credetium có nghĩa là sự tin tưởng, tín
nhiệm. Tiếng Anh và tiếng Pháp đều lấy từ gốc này, viết là Credit. Theo ngôn ngữ
4
dân gian Việt Nam, tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau. Có một số quan niệm như
sau về tín dụng:
Theo Mac: “Tín dụng là sự chuyển nhượng lượng giá trị từ người sở hữu
sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu lại được lượng giá trị lớn
hơn lượng giá trị ban đầu”. Ông cho rằng, tiền chẳng qua chỉ rời tay người sở hữu
trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay
nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh toán cũng không
tự đem bán đi, nó chỉ đem cho vay, đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay về
điểm xuất phát với một kì hạn nhất định.
Cũng có thể hiểu: “Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn
trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định”.

Hay quan niệm: “ Tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng
giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử
dụng với một thời gian nhất định và khi đến hạn, người sử dụng phải thanh toán cho
người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn, phần lớn hơn gọi là lợi tức”.
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng cũng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau tùy theo bối cảnh sử dụng; ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng
hoàn cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Xét một quan hệ tài
chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ
thể; xét trên khía cạnh chuyển dịch quỹ cho vay: tín dụng được coi là phương pháp
chuyển dịch từ quỹ cho vay sang người đi vay… Trong một số ngữ cảnh cụ thể,
thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Ví dụ, tín dụng ngắn hạn có
thể hiểu là cho vay ngắn hạn.
Khi gắn thuật ngữ tín dụng với chủ thể ngân hàng, chúng ta có thể gọi là tín
dụng ngân hàng. Tín dụng được xem như là chức năng cơ bản của ngân hàng nên có
thể hiểu tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp
và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Còn Luật các tổ chức tín dụng 2010 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam lại quy định rằng: “ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc thỏa
5
thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng
một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín
dụng khác”.
Rõ ràng, dự được định nghĩa như thế nào thì bản chất tín dụng là một giao
dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả. Vì vậy, tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn
theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi theo một thời gian nhất định, giữa ngân hàng

là bên cho vay với các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân
cư là bên đi vay. Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung
cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần đấy nhanh nhịp độ
tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tín
dụng ngân hàng được sử dụng như công cụ để phát triển các ngành kinh tế chiến
lược theo yêu cầu của Chính phủ.
1.1.2 Đặc trưng của tín dụng NHTM
Tín dụng ngân hàng có một số đặc trưng cơ bản sau:
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, tài sản giao dịch có thể theo hình
thức cho vay (bằng tiền) hoặc cho thuê (các loại hàng hóa, động sản, bất động
sản). Trước đây hoạt động tín dụng ngân hàng mới chỉ tồn tại hình thức cho vay
bằng tiền truyền thống. Vì vậy, nhiều khi khái niệm tín dụng được cho là đồng nhất
với việc ngân hàng cho vay (tiền). Nhưng từ năm 1970 đến nay, hoạt động cho thuê
đã được ngân hàng và các tổ chức tài chính khác cung cấp. Thực chất đây cũng là
một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực
(nhà cửa, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải…). Ngày nay, hoạt động tín dụng
của ngân hàng còn bao gồm cả bảo lãnh (cho vay uy tín).
Hoạt động tín dụng của ngân hàng xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả đầy
đủ, đúng hạn cả vốn và lãi. Nghĩa là người cho vay (ngân hàng) khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả trong một thời
gian xác định. Đây là một yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
Ngoài ra, số tiền hoàn trả thường lớn hơn số tiền lúc cho vay. Tức là người
đi vay phải trả thêm phần lãi bên cạnh phần vốn gốc. Đây chính là yếu tố đảm bảo
cho ngân hàng tồn tại và phát triển.
6
Vốn vay phải có mục đích, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu
quả. Để đảm bảo nguyên tắc hoàn trả và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối
thì khi cho vay, cần phải biết người vay sử dụng vào mục đích gì, có khả năng thu
hồi nợ hay không, lợi nhuận tạo ra có đủ trang trải nợ gốc và lãi vay hay không,
mức độ mạo hiểm như thế nào. Tính mục đích hướng việc cho vay vào những khâu

mấu chốt nhằm tạo ra hiệu quả.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở hoàn trả
vô điều kiện. Về mặt pháp lí, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp
đồng tín dụng, khế ước nhận nợ … hoạt động như những tờ lệnh phiếu, cho thấy
cam kết của bên đi vay sẽ hoàn trả vô điều kiện số tiền đã vay cộng một phần lãi
cho bên cho vay (ngân hàng) khi đến hạn thanh toán.
Thực tế, tín dụng ngân hàng là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
cơ cấu tài sản của các NHTM, đem lại rủi ro và thu nhập từ lãi lớn nhất cho
ngân hàng. Nhiều ngân hàng, khoản mục tín dụng chiếm đến hơn 50% tổng tài sản.
Đây cũng là hoạt động đem lại rủi ro nhiều nhất cho các ngân hàng. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng của ngân hàng: những nguyên nhân bất khả
kháng (thiên tai, chiến tranh, những nguyên nhân ở tầm vĩ mô…) vượt qua tầm
kiểm soát của ngân hàng lẫn người đi vay, làm cho người đi vay mất khả năng
thanh toán, không trả được nợ cho ngân hàng; những nguyên nhân chủ quan thuộc
về người vay (trình độ yếu kém trong quản lí sản xuất kinh doanh, chủ định lừa đảo
ngân hàng, chây ì, không muốn trả nợ, cố tình sử dụng vốn vay sai mục đích, kinh
doanh mạo hiểm…) ; hoặc những nguyên nhân thuộc về ngân hàng (chất lượng cán
bộ kém, năng lực đánh giá khách hàng thấp…). Tất cả những nguyên nhân đó đều
gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng, thậm chí để lại nhiều hiệu quả
xấu hơn nữa nếu không kịp thời xử lí. Tuy nhiên, chính vì rủi ro nhất, tín dụng được
đánh giá là hoạt động đem lại thu nhập từ lãi lớn nhất cho ngân hàng. Lãi suất cho
vay ngân hàng đặt ra phải bao gồm những chi phí cho vay mà ngân hàng bỏ ra cũng
như những rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu. Ngoài ra, trong hoạt động tín dụng,
ngân hàng cũng tìm cách giảm thiểu rủi ro thông qua hình thức tài sản đảm bảo, một
điều kiện thúc đẩy người đi vay trả nợ và là nguồn thu nợ thứ hai trong trường hợp
khách hàng không hoàn lại được gốc vay cho ngân hàng.
7
1.1.3 Phân loại tín dụng NHTM
Hiện nay có khá nhiều loại hình tín dụng khác nhau được NHTM khai thác
triệt để. Tuy nhiên, để quản lí hoạt động tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng đã tiến

hành phân loại tín dụng. Hoạt động tín dụng được phân loại dựa trên những căn cứ
khác nhau, mỗi căn cứ khác nhau sẽ có những loại hình tín dụng khác nhau.
1.1.3.1 Căn cứ vào hình thức tín dụng
Dựa vào căn cứ này, tín dụng của NHTM được chia làm bốn loại:
Cho vay: Là hoạt động ngân hàng cho khách hàng vay một khoản tiền với cam
kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là
hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động cấp tín dụng.
Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng
uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo
lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được
vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM.
Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có tái chiết khấu các thương phiếu và giấy tờ
có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác. Chiết khấu là việc ngân
hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi
phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một
giấy nợ). Chiết khấu được xem như một loại hình tín dụng vì ngân hàng đã bỏ ra ở
hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước.
Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau đó khách hàng phải hoàn trả cả gốc
và lãi cho ngân hàng. NHTM muốn hoạt động cho thuê tài chính phải thành lập
công ty tài chính riêng theo nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính.
1.1.3.2 Căn cứ vào mức độ rủi ro
Theo tiêu chí này, tín dụng được phân thành:
Tín dụng lành mạnh: là những khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: là những khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ sản phẩm, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách
hàng gặp thiên tai, khách hàng chậm nộp báo cáo tài chính….

8
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời gian
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ đã quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất
kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
1.1.3.3 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Cho vay không bảo đảm: đây là khoản vay không có tài sản cầm cố, thế
chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Khoản vay được ngân hàng chấp nhận nhờ
vào uy tín của chính khách hàng đó mà không cần nguồn bổ sung nợ thứ hai. Loại
hình tín dụng này được sử dụng đối với khách hàng tốt, trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính lành mạnh …
Cho vay có bảo đảm: là loại hình cho vay dựa trên cơ sở có bảo đảm như:
thế chấp, cầm cố tài sản hoặc có người thứ ba đồng ý bảo lãnh. Loại hình tín dụng
này giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro vì khi khách hàng không trả được nợ, ngân
hàng có thể thu hồi một phần nhờ bán các tài sản đảm bảo hoặc người bảo lãnh sẽ
phải trả hộ.
1.1.3.4 Căn cứ vào mục đích cho vay
Cho vay bất động sản: là loại cho vay nhằm mục đích mua sắm và xây dựng
bất động sản như nhà ở, đất đai hoặc các bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
Cho vay các định chế tài chính : là hoạt động cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm…
Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, đi du lịch, du học, mua nhà ở…
Cho thuê: bao gồm hai loại là cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài
sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản mà chủ yếu là máy móc, thiết bị.

9
1.1.3.5 Căn cứ vào thời hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, được sử
dụng để bù đắp những thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn của các cá nhân.
Cho vay trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
Loại tín dụng này chủ yếu được dựng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra, cho vay trung hạn
còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp.
Cho vay dài hạn: là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm. Đây là loại
hình tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, hoặc xây dựng các xí nghiệp mới.
1.1.4 Quy trình tín dụng của NHTM
Từ những năm 1970 trở lại đây, hoạt động kinh doanh ngân hàng đã có nhiều
thay đổi. Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, ngành ngân
hàng đã có những bước phát triển mới. Bằng việc ứng dụng công nghệ hiện đại,
ngân hàng đã tiếp cận khách hàng của mình với chi phí giao dịch thấp và cung cấp
sản phẩm, dịch vụ đa dạng hơn so với trước. Tuy nhiên, cùng với sự mở rộng đó,
các hoạt động ngân hàng luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Thách thức đó buộc
các ngân hàng phải đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro.
Chính vì vậy, ngân hàng thiết lập một quy trình tín dụng chặt chẽ để đạt được hiệu
quả cao nhất trong kinh doanh.
Quy trình tín dụng là tập hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong
việc cấp tín dụng, trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định
kể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng đến khi ngân hàng ra quyết
định cho vay, giải ngân và thanh lí hợp đồng tín dụng. Đây là một quá trình bao
gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời
có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện
quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân

hàng. Về mặt hiệu quả, quy trình tín dụng hợp lí góp phần nâng cao chất lượng và
giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có tác dụng: Làm cơ
sở cho việc phân định trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong
10
hoạt động tín dụng; làm cơ sở cho việc thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về
mặt hành chính và chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động
tín dụng.
Mỗi ngân hàng, mỗi loại hình cho vay đều có một quy trình tín dụng riêng.
Tuy nhiên, một quy trình tín dụng hợp lí phải bao gồm các giai đoạn cơ bản sau:
Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, phân tích tín dụng, giải ngân, giám sát, thu nợ và
thanh lí tín dụng. Mỗi giai đoạn của quy trình tín dụng đều có các phương pháp
quản trị, các thủ tục, chứng từ thích ứng với loại cho vay và điều kiện cụ thể của
mỗi ngân hàng. Quy trình tín dụng tổng quát được mô tả qua bảng sau:
Bảng 1.1 Quy trình tín dụng tổng quát
Các giai
đoạn của
quy trình tín
dụng.
Nguồn và nơi cung
cấp thông tin.
Nhiệm vụ của ngân
hàng ở mỗi giai đoạn.
Kết quả sau khi kết
thúc một giai đoạn.
1. Lập hồ sơ
đề nghị cấp
tín dụng.
-Khách hàng đi vay
cung cấp thông tin về
năng lực pháp lí, năng

lực hành vi; khả năng
sử dụng và hoàn trả
vốn của mình; thông
tin về bảo đảm tín
dụng.
-Tiếp xúc, phổ biến và
hướng dẫn lập hồ sơ cho
khách hàng (giấy đề nghị
vay vốn, giấy tờ chứng
minh tư cách pháp nhân,
phương án sản xuất kinh
doanh, kế hoạch trả nợ,
các báo cáo tài chính và
các giấy tờ liên quan
khác…)
-Hoàn thành bộ hồ
sơ để chuyển sang
bộ phận phân tích.
2. Phân tích
tín dụng.
-Hồ sơ đề nghị vay từ
giai đoạn 1 chuyển
sang.
-Các thông tin bổ sung
từ phỏng vấn, hồ sơ
lưu trữ…
-Tổ chức thẩm định về
các mặt tài chính và phi
tài chính do các cá nhân
hoặc bộ phận thẩm định

thực hiện.
-Báo cáo kết quả
thẩm định để
chuyển sang bộ
phận có thẩm quyền
và quyết định cho
vay.
11
3. Quyết
định tín
dụng.
-Các tài liệu và thông
tin từ giai đoạn 2
chuyển sang và báo
cáo kết quả thẩm định.
-Các thông tin bổ sung.
-Quyết định cho vay hoặc
từ chối của cá nhân hoặc
hộ được giao quyền phân
quyết.
-Quyết định cho vay
hoặc từ chối.
-Tiến hành các thủ
tục pháp lý như ký
hợp đồng tín dụng,
hợp đồng công
chứng và các hợp
đồng khác.
4. Giải ngân. -Quyết định cho vay và
các hợp đồng liên

quan.
-Các chứng từ làm cơ
sở giải ngân.
-Thẩm định các chứng từ
theo các điều kiện của
hợp đồng tín dụng trước
khi phát tiền vay.
-Chuyển tiền vào tài
khoản tiền gửi cho
khách hàng hoặc
chuyển trả cho đơn
vị cung cấp theo
yêu cầu của khách
hàng.
5. Giám sát
và thanh lý
tín dụng
-Các thông tin từ nội
bộ ngân hàng.
-Các báo cáo tài chính
theo định kỳ của khách
hàng.
-Các thông tin khác.
- Giám sát tín dụng: giám
sát hoạt động tài khoản
tại ngân hàng; phân tích
báo cáo tài chính theo
định kì; giám sát việc trả
lãi định kì; kiểm tra các
hình thức bảo đảm tiền

vay và giám sát qua các
thông tin thu thập khác…
- Tái xét và xếp hạng.
- Thanh lý tín dụng: thu
nợ gốc và lãi; tái xét hợp
đồng tín dụng và thanh lí
hợp đồng tín dụng
-Báo cáo kết quả
giám sát và đưa ra
các giải pháp xử lý.
-Lập các thủ tục để
thanh lý tín dụng.
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy rằng, năm giai đoạn của quá trình tín dụng có
mối tương quan mật thiết với nhau, giai đoạn trước là tiền đề để thực hiện các công
12
việc của giai đoạn sau. Đối với những hồ sơ cho vay phức tạp, việc trao đổi thông tin
và thực hiện các công việc bổ sung giữa các giai đoạn được diến ra nhiều lần.
1.2 Cho vay tiêu dùng tại NHTM
1.2.1 Cơ sở hình thành việc cho vay tiêu dùng tại NHTM
Cho vay tiêu dùng đã có một lịch sử phát triển lâu dài, nó xuất hiện từ thời
phong kiến tại nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự có những bước
tiến đáng kể và mạnh mẽ trong khoảng thời gian gần đây.
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, hệ thống NHTM của Mỹ phải tiến hành
cải cách trước sự cạnh tranh gay gắt ảnh hưởng đến việc thực hiện các nghiệp vụ
của NHTM. Trong thực tế, sự cạnh tranh mạnh mẽ đã tạo ra những thay đổi to lớn
trong lĩnh vực công nghệ, luật pháp… Và chính những sự thay đổi đó đã tạo ra sự
thay đổi về các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, đồng thời vai trò của NHTM trong
hệ thống tài chính cũng không còn duy trì được như trước, từ đó đã dẫn đến sự thay
đổi cơ cấu trong các NHTM. Môi trường cạnh tranh thay đổi một cách nhanh chóng
và mạnh mẽ khiến các NHTM nếu không tiến hành đổi mới thì không thể tham gia

cạnh tranh trong hệ thống tài chính được.
Các NHTM không chỉ phải cạnh tranh với chính các ngân hàng trong cùng
hệ thống, mà bên cạnh đó còn phải đối đầu với các tổ chức tài chính như: công ty tài
chính, công ty bảo hiểm, công ty thuê mua… đã ra đời và đang cùng chia sẻ thị
phần với nó. Cuộc cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính ngày càng diễn ra mạnh mẽ
khi vào những năm 1970, các nhà môi giới đã tạo lập nên “thị trường tiền tệ” bán lẻ.
Do đó, đến đầu những năm 1980, trước đòi hỏi của các ngân hàng về một “lĩnh vực
tham gia ở mức độ cao hơn”, Quốc hội Mỹ đã cho phép các ngân hàng cung ứng
“tài khoản thị trường tiền tệ” và dịch vụ môi giới.
Cũng trong giai đoạn này, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật đã tạo ra
nhiều phương tiện máy móc hiện đại như : máy tính nối mạng, máy rút tiền tự
động… khiến hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM đã có sự thay đổi. Nếu như
trước đây, các NHTM chỉ giới hạn trong hoạt động cho vay thương mại thì đến giai
đoạn này họ đã mở rộng lĩnh vực hoạt động bằng việc triển khai hoạt động cho vay
tiêu dùng, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng vào những năm 1980.
Một yếu tố khách quan thúc đẩy hoạt động tín dụng tiêu dùng phát triển
mạnh đó là xuất phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thông qua mối
13
quan hệ này, ngân hàng thấy được nhu cầu tín dụng theo hình thức này từ cả phía
người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Các nhà sản xuất cần có sự hỗ trợ để gia tăng
tiêu thụ hàng hóa, còn người tiêu dùng cần tìm nguồn tài trợ cho các nhu cầu mà
hiện tại sự tích lũy của họ chưa đáp ứng được.
Ngày nay, cho vay tiêu dùng đang phát triển mạnh mẽ. Nhiều công ty chuyên
môn hóa đã tìm kiếm nhiều dạng dịch vụ khác nhau và hiện đang mở rộng dần ra,
phù hợp với việc cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ. Lĩnh vực này cũng không
còn chỉ do ngân hàng và các công ty tài chính thực hiện nữa, mà các công ty bảo
hiểm, công ty chứng khoán… cùng tham gia cung cấp dịch vụ này.
Tại Việt Nam, cho vay tiêu dùng của NHTM đã phát triển vào những năm
1993-1994, thời gian đầu tập trung nhiều vào cho vay trả góp, các sản phẩm cung
ứng còn rất đơn điệu. Tuy nhiên, do chưa có hành lang pháp lí rõ rang nên hoạt

động được một thời gian, các ngân hàng tỏ ra rất lung túng trong việc cấp tín dụng
theo hình thức này.
Hiện nay, khi một số văn bản pháp luật hướng dẫn đã ra đời thì lĩnh vực cho
vay tiêu dùng ở nước ta lại đang trong xu thế rộ lên, nó đang được xem là thị trường
tiềm năng lớn và có nhiều điều kiện phát triển mạnh cho các NHTM tại Việt Nam.
Tuy nhiên, các ngân hàng phải chịu sự cạnh tranh lớn vì đây là một thị trường mang
lại nhiều lợi nhuận thu hút không chỉ tất cả các ngân hàng tham gia mà còn hấp dẫn
các tổ chức tài chính khác. Hoạt động của các tổ chức tài chính này cũng tương tự
như NHTM: huy đông các nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn để cho vay. Tuy nhiên,
các NHTM là các tổ chức hoạt động hiệu quả nhất vì tính chuyên môn hóa trong
hoạt động tín dụng: nguồn vốn lớn, hoạt động chuyên nghiệp và có lịch sử phát
triển hoạt động cho vay lâu dài.
Hiện nay, đến bất cứ NHTM nào, các cá nhân và hộ gia đình có thể vay tiền
với nhiều mục đích tiêu dùng khác nhau như mua nhà, mua ô tô, chi trả các khoản
phí và tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Cho
vay tiêu dùng của NHTM là hoạt động góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống,
thúc đấy sản xuất kinh doanh phát triển, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của
mỗi quốc gia.
1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
14
1.2.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được định nghĩa như sau: “Cho vay tiêu dùng là sản phẩm
tín dụng hỗ trợ nguồn tài chính cho các nhu cầu mua sắm vật dụng gia đình, sửa
chữa nhà ở, sửa xe cơ giới, làm kinh tế hộ gia đình, thanh toán học phí, đi du lịch,
chữa bệnh,… và các nhu cầu thiết yếu khác trong cuộc sống”. (Theo
nganhangonline.com).
Cũng có thể định nghĩa: “ Cho vay tiêu dùng là nghiệp vụ trong đó ngân
hàng là người cho vay, người đi vay là các cá nhân, hộ gia đình trên nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian xác định nhằm giúp người tiêu
dùng sử dụng hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho

họ được hưởng mức sống cao hơn”.
Định nghĩa về cho vay tiêu dùng có thể khác nhau nhưng nội dung cơ bản là
giống nhau, cùng đề cập đến mục đích của loại hình cho vay này: cho vay tiêu dùng
là để phục vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, hộ gia đình, những
người có nhu cầu nâng cao mức sống nhưng chưa có khả năng chi trả trong hiện tại.
Ngân hàng phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng và thu được gốc cùng lợi nhuận từ khoản vay.
1.2.2.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng của NHTM có nhiều đặc điểm khác nhau . Tuy nhiên, để
phân biệt với các loại hình cho vay khác, chúng ta có thể xét trên một số mặt sau:
Về khách hàng:
- Cho vay tiêu dùng có khách hàng mục tiêu là các cá nhân và hộ gia đình có
nhu cầu mua sắm nhà cửa, hàng hóa, vật dụng … nhằm nâng cao mức sống. Như
vậy, đối tượng vay là các cá nhân. Thường thì khách hàng của cho vay tiêu dùng sử
dụng vốn vay vào mục đích tiêu dùng, tuy nhiên nhiều khách hàng có mục đích sử
dụng vốn vào kinh doanh cá thể, hộ gia đình vẫn được xếp vào cho vay tiêu dùng. Ở
đây, ngân hàng đã xem xét đến tính chất cá nhân của khách hàng và giá trị nhỏ của
khoản vay để xác định đối tượng của cho vay tiêu dùng. Dự vậy, mục đích tiêu
dùng vẫn là căn cứ phân loại khách hàng chủ yếu và nó phản ánh được đặc trưng
của hoạt động cho vay này.
- Cho vay tiêu dùng nhạy cảm theo chu kì: Nhu cầu vay của khách hàng
không chỉ phụ thuộc vào tình hình tài chính của họ mà còn phụ thuộc vào tình hình
15
kinh tế trong những giai đoạn cụ thể (chu kì kinh tế). Khi nền kinh tế phát triển,
khách hàng lạc quan hơn về thu nhập thì nhu cầu hưởng thụ cuộc sống cũng cao
hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái thì cho vay tiêu dùng cũng bị thu hẹp và
giảm sút.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co giãn với lãi suất cho
vay tiêu dùng. Thông thường, người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán
hàng tháng hơn là lãi suất mà họ phải chịu.

- Mức thu nhập và trình độ học vấn của khách hàng là hai biến số có quan hệ
rất mật thiết tới nhu cầu vay tiêu dùng và hạn mức vay. Những người có mức thu
nhập cao hơn mức bình quân thường có xu hướng vay một mức cao hơn tổng thu
nhập hàng năm của họ. Ngược lại, những người có trình độ học vấn cao (thông
thường là những người có nhiều năm đào tạo ở bậc trên phổ thông và đồng thời là
trụ cột trong gia đình) thì lại thường quyết định vay tiền trên cơ sở cân nhắc kĩ
lưỡng thu nhập của mình.
- Chất lượng các thông tin tài chính về khách hàng thường không cao: Hiện
nay, đơn vị duy nhất theo dõi lịch sử tín dụng của các cá nhân và doanh nghiệp vay
vốn là Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC). Tuy nhiên khả
năng cập nhật của CIC còn chưa cao. Chính vì vậy, ngân hàng thường thiếu thông
tin khi ra quyết định cho vay, hoặc sẽ dẫn đến cho vay chồng chéo trong khi khách
hàng không đủ khả năng trả nợ. Đây vẫn là một hạn chế khó khắc phục đối với
NHTM cũng như các tổ chức tín dụng khác trong khi tư cách của khách hàng lại là
yếu tố rất quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay.
Về khoản vay:
- Giá trị khoản vay không lớn nhưng số lượng các khoản vay nhiều: với mục
đích đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình nên quy mô của mỗi
khoản vay tiêu dùng thường nhỏ so với giá trị các khoản vay sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, số lượng các khoản vay tiêu dùng lại rất nhiều do nhu cầu chi tiêu của
con người ngày càng tăng lên với mức độ thường xuyên hơn. Hiện nay, khi nền
kinh tế tăng trưởng ổn định và đời sống người dân được cải thiện thì nhu cầu cho
vay tiêu dùng để nâng cao chất lượng cuộc sống là điều dễ hiểu.
- Chi phí quản lí món vay tiêu dùng lớn: do giá trị mỗi khoản vay thường
không lớn nhưng ngân hàng vẫn phải tốn nhiều thời gian và nhân lực để thực hiện
16
đầy đủ một quy trình tín dụng. Hơn nữa, với số lượng lớn các khoản vay thì việc
quản lí của NHTM cũng không đơn giản. Đây cũng là lí do khiến lãi suất áp dụng
trong cho vay tiêu dùng thường lớn hơn cho vay thương mại.
- Cho vay tiêu dùng có mức độ rủi ro cao: rủi ro trong cho vay tiêu dùng cao

hơn trong kinh doanh. Rủi ro tiêu dùng bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro từ phía
khách hàng. Trong đó, lãi suất cho vay tiêu dùng là lãi suất cứng nhắc trong khi lãi
suất trong cho vay kinh doanh thường áp dụng hiện nay là lãi suất thả nổi được điều
chỉnh theo kì hạn nên khi thị trường có biến động, lãi suất huy động vốn tăng lên,
các ngân hàng sẽ gặp rủi ro lãi suất khi cho vay tiêu dùng. Hơn nữa, nguồn trả nợ
của khách hàng cho các khoản vay tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập của họ nên
nếu có những nhân tố tác động làm giảm thu nhập thì điều đó cũng làm gia tăng độ
rủi ro cho ngân hàng .
Về lợi nhuận:
Vì cho vay tiêu dùng có lãi suất cao nên đem lại lợi nhuận lớn cho các
NHTM. Đặc biệt là khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng, chi tiêu cho tiêu dùng của
người dân ngày càng cao như hiện nay. Các ngân hàng đã xem xét hoạt động cho
vay tiêu dùng là một hoạt động quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao lợi nhuận và
tăng khả năng cạnh tranh của mình.
1.2.3 Vai trò của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Vai
trò và lợi ích của nó cũng khác nhau ứng với mỗi chủ thể kinh tế khác nhau.
Về phía NHTM:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, chất lượng cuộc sống ngày
càng được nâng cao khiến con người muốn thỏa mãn cao hơn những nhu cầu của
mình. Điều này khiến cho vay tiêu dùng trở thành một thị trường tiềm năng. Hiện
nay, các ngân hàng đang hưởng tới thị trường này nhờ những lợi ích mà nó mang
lại. Mặc dù các khoản tài trợ theo hình thức cho vay tiêu dùng là nhỏ nhưng với số
lượng các khoản này lại rất lớn (đối tượng của cho vay tiêu dùng là tất cả mọi thành
phần trong xã hội), vì thế, tổng quy mô là rất lớn. Bên cạnh đó, lãi suất của các
khoản tài trợ theo hình thức này rất cao (do người đi vay theo hình thức này thường
ít quan tâm đến lãi suất mà chỉ quan tâm đến nhu cầu trước mắt) nên mang lại cho
ngân hàng một tỷ suất lợi nhuận tương đối lớn. Đặc biệt, với những ngân hàng có
17
quy mô nhỏ, uy tín chưa cao hoặc không thể đáp ứng được những khoản vay lớn thì

cho vay tiêu dùng là một loại hình rất quan trọng. Tuy còn có nhược điểm là rủi ro
và chi phí cao, nhưng cho vay tiêu dùng mang lại những lợi ích quan trọng là: Giúp
mở rộng mối quan hệ với khách hàng từ đó làm tăng khả năng huy động các loại
tiền gửi cho ngân hàng; Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh nhờ vậy
nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Về phía người đi vay:
Cho vay tiêu dùng đặc biệt có tác dụng với người có thu nhập thấp và trung
bình. Thông qua nghiệp vụ này, họ sẽ được hưởng các dịch vụ, tiện ích trước khi có
đủ khả năng về tài chính như mua sắm các hàng hóa thiết yếu có giá trị cao (nhà, xe
hơi…) hay trong trường hợp cần chi tiêu cấp bách như nhu cầu y tế, giáo dục… Bất
cứ ai cũng mong muốn được thỏa mãn những nhu cầu của mình từ hàng hóa tất yếu
đến những hàng hóa xa xỉ hơn. Nhưng, với những người trẻ, họ chưa có đủ khả
năng chi trả cho những nhu cầu đó mà phải cần thời gian để tích lũy. Với cho vay
tiêu dùng, người tiêu dùng có thể phối hợp giữa thỏa mãn ở hiện tại và khả năng
thanh toán ở hiện tại và tương lai. Do vậy, người tiêu dùng là người được hưởng
trực tiếp và nhiều nhất lợi ích mà hình thức cho vay này mang lại. Tuy nhiên, cũng
không nên lạm dụng cho vay tiêu dùng vì nó có thể làm cho người đi vay chi tiêu
vượt quá mức cho phép, làm giảm khả năng tiết kiệm và chi tiêu trong tương lai.
Về phía nền kinh tế- xã hội:
Nếu cho vay tiêu dùng được dựng để tài trợ cho các chi tiêu về hàng hóa,
dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, nếu không được dựng đúng như vậy thì có thể làm giảm khả
năng tiết kiệm trong nước. Cho vay tiêu dùng mang lại những lợi ích sau:
- Đối với doanh nghiệp, cho vay tiêu dùng kéo nhu cầu tương lai về hiện tại
khiến quy mô sản xuất tăng nhanh; mức độ đổi mới và phong phú về chất lượng
ngày càng lớn. Chính điều này đã làm cho toàn bộ quá trình sản xuất, trao đổi, phân
phối, tiêu dùng diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, đó chính là nền tảng của tăng
trưởng kinh tế.
- Cho vay tiêu dùng thúc đẩy thành phần tiêu dùng và do đó gia tăng cầu
trong nước, trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội; hạn chế sự phụ thuộc vào cầu

nước ngoài, do đó thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững hơn.
18
AD = C + G + I + X – M
- Cho vay tiêu dùng góp phần xóa bỏ vòng luẩn quẩn: thu nhập thấp- tiết
kiệm ít- sản lượng thấp.
- Cho vay tiêu dùng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và từ đó
lại làm tăng thu nhập, tạo khả năng tăng tiết kiệm, mở rộng cơ hội huy động vốn và
phát triển các dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng.
Như vậy, cho vay tiêu dùng là hoạt động có lợi cho cả người cho vay, người
đi vay và nền kinh tế, hay nói cách khác là có lợi ích, vai trò quan trọng cho xã hội.
Chính vì vậy, phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng là một hướng đi đúng đắn của
các NHTM.
1.2.4 Phân loại cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được phân loại theo một số căn cứ sau:
1.2.4.1 Căn cứ vào mục đích vay
Theo tiêu chí này, cho vay tiêu dùng được phân thành:
Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu
mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú: là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải
các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch.
1.2.4.2 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng bao gồm:
Cho vay tiêu dùng trả góp:
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gốc và lãi)
cho ngân hàng nhiều lần, theo những thời hạn nhất định trong thời hạn cho vay.
Phương thức này thường áp dụng với các khoản vay có giá trị lớn, hoặc thu nhập
từng định kì của khách hàng vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ
vay. Đối với loại vay này, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề có tính nguyên
tắc sau:
19

- Loại tài sản được tài trợ: Thiện chí trả nợ của người vay sẽ tốt hơn nếu
tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu với họ một cách lâu dài
trong tương lai. Do đó, ngân hàng nên tài trợ cho những tài sản có thời gian sử
dụng lâu bền.
- Số tiền phải trả trước: thông thường ngân hàng yêu cầu khách hàng vay
phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm. Số tiền này gọi là số
tiền trả trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước này phải đủ lớn
để: Đủ cho người đi vay có động lực nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản
nhằm tăng thiện chí trả nợ; Giúp ngân hàng hạn chế rủi ro trong trường hợp phải
phát mại tài sản vay . Số tiền trả trước là cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Loại tài sản (tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều và ngược
lại); Thị trường tiêu thụ tài sản đã qua sử dụng (nếu tài sản sau khi sử dụng vẫn dễ
dàng được mua bán, chuyển nhượng thì số tiền trả trước thấp và ngược lại); Năng
lực của người đi vay và Môi trường kinh tế.
- Chi phí tài trợ: là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc
sử dụng vốn. Chi phí tài trợ phải bù đắp được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt
động, bù đắp rủi ro và mang lại lợi nhuận tương xứng cho ngân hàng.
- Điều khoản thanh toán: Khi xác định điều khoản thanh toán cho khoản
vay, ngân hàng cần lưu ý các yếu tố sau: Số tiền thanh toán mỗi định kì phải phù
hợp với khả năng thu nhập của khách hàng và trong mối tương quan với các
khoản chi tiêu khác của khách hàng; Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp
hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi; Kì hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ
của khách hàng; Thời hạn tài trợ không nên quá dài bởi vì thời hạn tài trợ quá dài
dễ làm giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh, hơn thế nữa, động lực trả nợ của
khách hàng cũng bị suy giảm.
- Vấn đề phân bổ lãi vay theo thời gian: việc phân bổ có thể được thực hiện
theo định kì gắn liền với các kì thanh toán, hoặc cũng có thể thực hiện theo quý
hoặc năm tài chính. Tuy nhiên, phân bổ lãi vay theo năm tài chính thường được các
ngân hàng áp dụng hơn.
- Vấn đề trả nợ trước hạn.

20
Cho vay tiêu dùng phi trả góp: tiền vay được khách hàng thanh toán cho
ngân hàng một lần khi đáo hạn. Hình thức cho vay này chỉ phù hợp với những
khoản cho vay có giá trị nhỏ và thời gian ngắn.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại sec được phép
thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng
được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kì,
khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kì một
cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng.
1.2.4.3 Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng được phân thành:
Tín dụng tiêu dùng trực tiếp: gồm các phương thức:
- Tín dụng trả theo định kì: là phương thức trong đó khách hàng vay và trả
trực tiếp ngân hàng với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được quy định cụ thể khi
cho vay. Hình thức này tạo cho ngân hàng khả năng thanh khoản đều đặn và thích
hợp với cá nhân có thu nhập ổn định và đều đặn.
Việc phát tiền vay có thể phát một lần bằng tiền mặt hoặc chuyển vào tài
khoản tiền gửi cá nhân.
Việc thu nợ có thể thực hiện theo hai phương pháp:
(1) Phương pháp thu nợ gốc đều đặn theo kì hạn, lãi vay được tính theo nợ
gốc còn lại ở đầu mỗi kì hạn.
(2) Phương pháp thu nợ trong số tiền lãi và vốn gốc được thu đều đặn mỗi kì.
- Thẻ tín dụng: là nghiệp vụ tín dụng, trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho
những người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn
tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.
Mỗi thẻ tín dụng có một mức tín dụng nhất định và mức này có thể thay đổi
tùy thuộc nhu cầu và mức độ tín nhiệm của khách hàng.
Thẻ tín dụng có ưu điểm: sử dụng trong thanh toán tiện lợi và an toàn; Có thể
dựng để rút tiền mặt hoặc chuyển khoản sang tài khoản của ngân hàng khác; Lệ phí

giao dịch thấp và phạm vi hoạt động rộng.
21
Người tiêu dùng
Công ty bán lẻNgân hàng
Nhược điểm của thẻ tín dụng: chỉ sử dụng phổ biến cho tín dụng tiêu dùng
mà không phù hợp với các hoạt động mua bán lớn ( xe hơi…); sử dụng thẻ cũng có
thể có rủi ro nếu bị mất cắp, đánh rơi và đồng thời lộ mã thẻ tín dụng mà không kịp
thời báo cho ngân hàng.
Tín dụng tiêu dùng gián tiếp
Đây được hiểu là các hoạt động tín dụng tiêu dùng qua việc ngân hàng mua
các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ
cho người tiêu dùng và như vậy, nó chính là hình thức tài trợ bán trả góp của các
NHTM.
Tín dụng trả góp của các ngân hàng được thực hiện bằng một trong hai cách sau:
- Cách 1: Ngân hàng, người bán hàng và người mua hàng phải thỏa thuận với
nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần, sau đó ngân hàng cho người mua hàng
vay phần tiền chưa trả đủ cho người bán hàng để thanh toán cho người bán hàng và
giữ lại quyền sở hữu tài sản cho đến khi người mua trả góp đủ.
Mô hình 1.1 Tín dụng tiêu dùng gián tiếp (cách 1)
(1)
(4)
(5)
(6) (2) (3)

Trong đó:
(1) Công ty bán lẻ kí hợp đồng mua bán nợ với ngân hàng.
(2) Khách hàng kí hợp đồng mua tài sản với ngân hàng (người mua trả trước
20-30% giá trị tài sản).
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người mua đồng thời giữ lại quyền sở hữu
tài sản.

22
Người mua Người bán
Ngân hàng
(4) Công ty bán lẻ giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng thế chấp.
(5) Ngân hàng trả số tiền còn thiếu cho người bán (70-80%).
(6) Người mua trả góp cho ngân hàng theo mức và kì hạn được xác định.
- Cách 2: được thực hiện với thời hạn và mức trả dần tương tự như cách 1
nhưng khác ở một số điểm: người bán giao tài sản và giao sở hữu, người bán và
người mua thực hiện mua bán chịu nên xuất hiện kì phiếu, ngân hàng thực hiện việc
chiết khấu kì phiếu như sau:
Mô hình 1.2 Tín dụng tiêu dùng gián tiếp (cách 2)
(1)
(4)
(5) (3)
(2)
Trong đó:
(1) Người mua mua chịu hàng hóa và có kì phiếu cho người bán .
(2) Người mua kí quỹ 20- 30% giá trị tài sản và cam kết thế chấp tài sản.
(3) Ngân hàng chiết khấu kì phiếu từ người bán hàng.
(4) Người bán giao tài sản và quyền sở hữu cho người mua.
(5) Người mua tiến hành trả góp cho ngân hàng theo mức và kì hạn xác định.
Tín dụng trả góp đem lại những ưu điểm lớn, đó là:
- Việc mua phiếu bán hàng sẽ ít tốn kém hơn so với chi phí xét duyệt cho
vay trực tiếp.
23

×