Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nhtm cổ phần đại tín chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.57 KB, 83 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế nước
ta đã và đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, thực hiện quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước phát triển, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Góp phần không nhỏ vào tiến trình phát triển của đất nước, hệ thống ngân
hàng có nhiệm vụ huy động vốn và cung cấp các dịch vụ tiền tệ tín dụng cho xã
hội, cho nền kinh tế.Do vậy sự phát triển của nền kinh tế không thể thiếu vai trò của
hoạt động tiền tệ tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín dụng mạnh mẽ là một kênh
giúp cho nền kinh tế có nguồn vốn dồi dào để đầu tư, phát triển, cung cấp vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu dịch vụ đời sống, làm đầu mối trung gian
nhằm điều hòa cung cầu tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội.Vì thế hoạt động cho vay
huy động vốn là một nghiệp vụ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một
ngân hàng thương mại.
Hiện nay theo số liệu thống kê tính đến cuối năm 2010 số doanh nghiệp vừa và
nhỏ chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Đóng góp của doanh
nghiệp vừa và nhỏ vào GDP chiếm tỉ trọng khá cao – trung bình khoảng 40-
60%/năm.Các doanh nghiệp này giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, trong
tương lai nó sẽ là đối tượng cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng. Nhưng do
một số vấn đề hạn chế mà việc cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nhiều nơi vẫn
còn chưa được mở rộng. Do vậy vấn đề đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
sẽ giúp cho các doanh nghiệp này có điều kiện tốt hơn để phát triển kinh doanh
đồng thời cũng giúp cho Ngân hàng mở rộng hơn trong lĩnh vực tín dụng của mình.
Nhận thức được sự phát triển và tiềm năng của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Ngân
Hàng TMCP ĐẠI TÍN đã có chủ trương mở rộng cho vay sang khu vực doanh
nghiệp này với mục đích mở rộng thị phần, tăng trưởng tín dụng và cung cấp dịch
vụ để thu phí.
1
Với những vấn đề nêu trên cùng với quá trình thực tập tại NHTM CP ĐẠI
TÍN chi nhánh Hà Nội “GẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH


NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHTM CỔ PHẦN ĐẠI TÍN CHI NHÁNH HÀ NỘI”
là đề tài được chọn nghiên cứu trong quá trình thực tập. Qua đề tài này em tìm
hiểu , tổng hợp lý thuyết cơ bản liên quan đến đề tài và nghiên cứu thực trạng mở
rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngận Hàng TMCP
ĐẠI TÍN CHI NHÁNH HÀ NỘI bằng việc tìm hiểu tài liệu và thu thập số liệu hoạt
động của chi nhánh.
Cấu trúc đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ
Chương 2: Thực trạng mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại NHTM cổ phần ĐẠI TÍN chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối vối doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại NHTM cổ phần ĐẠI TÍN chi nhánh Hà Nội
Xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế, tổng tài sản của NHTM luôn luôn có khối lượng lớn nhất trong toàn
bộ nền kinh tế ngân hàng. Mặt khác, khối lượng séc hay tiền gửi không kỳ hạn mà nó
có thể tạo ra chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cung tiền trrj M1 của cả nền kinh tế.
Có nhiều khái niệm khác nhau về NHTM :
Ở Hoa Kỳ: NHTM là công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài
chính và hoạt động ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sỡ nào thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào nghiệ vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.

Ở Việt Nam theo sắc lệnh số 18CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính
quyền Sài Gòn cũ cho rằng: NHTM là mọi xí nghiệp công hay tư laapjkeer cả chi
nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường xuyên là thi hành
cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính với tiền ký thác của tư
nhân hay xí nghiệp hay cơ quan công quyền
Theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước xác
định”ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán”.
Qua những khái niệm trên có thể rút ra một số điểm đặc trưng của Ngân hàng
thương mại như sau:
 Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công
chúng với trách nhiệm hoàn trả
3
 Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công
chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác
Cần phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tín dụng khác:
• Vào cuối thập niên 60, điểm đặc thù để phân biệt ngân hàng thương mại với
các ngân hàng trung gian khác đó là ngân hàng thương mại là đơn vị duy nhất được
phép mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn cho công chúng. điều này có nghĩa là
người ta phân biệt nó dựa trên các thành phần của tài sản Nợ. Vào lúc này tiền gửi
không kỳ hạn bị cấm trả lãi, tuy nhiên vì nhu ầu giao dịch thông qua Séc vẫn tăng
gấp đôi hàng năm, do đó khối lượng sộ phát hành từ tài khoản gửi không kỳ hạn
tiếp tục tăng mạnh sau bộ phận tiền mặt pháp định,
• Từ ng năm 80 trở đi, sau khi tiền gửi không kỳ hạn được phép trả lãi, các ngân
hàng tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác cũng được quyền và bắt đầu mở tài
khoản không kỳ hạn, cho phép công chúng sử dụng Séc một cách linh hoạt, đa
dạng dưới nhiều hình thức. Lúc này việc phân biệt ngân hàng thương mại với các
ngân hàng khác dựa vào tài sản Nợ không còn phù hợp nữa, do vậy các chuyên gia
phương Tây chuyển sang dựa trên tài sản Có để làm tiêu thức phân biệt. Theo tiêu

thức này một ngân hàng thương mại là ngân hàng trung gian mà tỷ lệ vốn cho vay vào
mục đích thương mại và công nghiệp chiếm đa số trong tài sản Có của nó.
1.1.2.Các hoạt động của Ngân hàng Thương Mại
1.1.2.1.Hoạt động huy động vốn:
Hoạt động huy động vốn hay còn gọi là nghiệp vụ tạo vốn trong ngân hàng,
làm tăng giá trị nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, cơ bản gồm
các hình thức sau:
Nhận tiền gửi: NHTM nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức
tín dụng khác dưới các hình thức tiềng gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các
loại tiền gửi khác.
Phát hành giấy tờ có giá: NHTM phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và
các giấy tờ có giá để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước
khi được Thống đốc NHNN chấp thuận
Vay của các tổ chức tín dụng khác : Hoạt động này cho phép NHTM được
4
vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín
dụng nước ngoài. Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường
liên ngân hàng ( Interbank Market ). Đây là trường hợp ngân hàng có lượng tiền gửi
tại NHNN thấp và không đáp ứng được nhu cầu chi trả, khi đó dưới sự tổ chức của
NHNN, ngân hàng này sẽ được vay của ngân hàng khác có lượng tiền gửi dư thừa
tại NHNN. Ngoài ra các ngân hàng cũng có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau mà
không thông qua thị trường liên ngân hàng. Phương thức này rất linh hoạt giúp các
NHTM cân đối vốn một cách kịp thời. Tuy nhiên quá trình vay vốn từ các tổ chức
tín dụng khác phải đảm bảo các nguyên tắc sau :
+ Các ngân hàng phải hoạt động hợp pháp
+ Thực hiện việc cho vay và đi vay trên cơ sở hợp đồng tín dụng
+ Vốn vay phải có sự đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của
NHNN
Vy vốn ngắn hạn của NHNN: đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp
bách trong chi trả của NHTM. Các NHTM trong trường hợp thiếu khả năng chi trả

hoặc thiếu hụt dự trữ tạm thời có thể vay NHTW. Một số hình thức cho vay của
NHNN đối với NHTM:
+ Tái cấp vốn
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu các giấy tờ có giá ngắn hạn khác…
+ Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc có cầm cố thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN
1.1.2.2.Hoạt động sử dụng vốn:
Với nguồn vốn huy động được, NHNN sẽ sử dụng trong nhiều hoạt động khác
nhau để nhằm mục đích tạo lợi nhuận cho ngân hàng. Trong đó quan trọng nhất là
các hoạt động sau:
- Hoạt động ngân quỹ: Là hoạt động huy động bảo đảm khả năng chi trả thanh
toán thường xuyên của ngân hàng. Nguồn đảm bảo cho khả năng này là những tài sản có
tính lỏng cao
- Hoạt động đầu tư: Ngân hàng có thể tham gia vào các hoạt động đầu tư trên thị
5
trường chứng khoán, góp vốn liên doanh liên kết nhằm sinh lời và phân tán rủi ro.
- Hoạt động tín dụng : Theo điều 20, khoản 08, luật các tổ chức tín dụng 1997
và sửa đổi năm 2004, hoạt động tín dụng là việc các tổ chức tín dụng sử dụng nguồn
vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Như vậy có thể hiểu, tín dụng là
quan hệ vay mượn, bao gồm cả việc đi vay và cho vay. Tuy nhiên khi gắn tín dụng
với một chủ thể nhất định thì tín dụng ngân hàng bao hàm nghĩa là cho vay. Có thể
nói, tín dụng là hoạt động truyền thống và chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Hoạt động này bao gồm :
+ Cho vay: Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là
tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Các phương thức cho vay của NHTM rất
đa dạng. Nếu căn cứ theo thời hạn cho vay, NHTM được cho các tổ chức,cá nhân
vay vốn dưới các hình thức: cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn,dài hạn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ…Nếu căn cứ theo tài

sản đảm bảo, cho vay lại bao gồm cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không cần
tài sản đảm bảo. Trong đó, cho vay không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho
khách hàng có uy tín, là khách hàng có mối quan hệ tốt với ngân hàng, thường
xuyên và có tình hình tài chính minh bạch, ít xảy ra nợ xấu. Bên cạnh đó, nếu căn
cứ theo mức độ rủi ro thì cho vay lại có các khoản vay lành mạnh và các khoản vay
có vấn đề. Các khoản vay lành mạnh là các khoản vay đảm bảo tính thu hồi nợ cao,
ngược lại là các khoản vay không đảm bảo. Các cách phân loại này giúp ngân hàng
thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản vay, trích lập dự phòng tổn
thất kịp thời.
Và khi đã chấp nhận cho khách hàng vay, ngân hàng phải lập hợp đồng tín
dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện cho vay, chứng minh được
mục đích sử dụng vốn vay, hình thức cho vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay,
hình thức bảo đảm, tài sản đảm bảo, phương thức trả nợ và những cam kết bắt buộc
khác tùy từng quy định của ngân hàng. Có thể nói họat động cho vay của ngân hàng
đem lại một tỷ lệ sinh lời cao nhất nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất
6
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
+ Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước cho khách hàng một
khoản tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất triết khấu và hoa hồng phí,
đổi lại ngân hàng sẽ được sở hữu một thương phiếu chưa hết hạn ( hoặc một giấy nợ
). Khi thương phiếu hết hạn, ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ thương phiếu.
1.1.3. Các chức năng của ngân hàng thương mại:
1.1.3.1 Chức năng trung gian tín dụng
NHTM là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những người có nhu
cầu về vốn. Thông qua việc huy động khai thác các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi trong nền kinh tế, NH hình thành nên quỹ cho vay cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Với chức năng này NH vừa đóng vai trị là chủ thể đi vay, vừa đóng vai trị là chủ thể
cho vay.
Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội,
NHTM với vai trò là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, nắm bắt

tình hình cung cầu về vốn tín dụng sẽ thực hiện và chuyển giao vốn một cách có
hiệu quả. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, NH có thể giải quyết
mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tín dụng về khối lượng và cả thời gian tín dụng.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng NHTM góp phần tạo lợi ích cho tất
cả các chủ thể kinh tế tham gia và lợi ích chung của nền kinh tế.
Đối với người gửi tiền: Họ sẽ thu được lợi từ các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi
dưới hình thức lãi tiền gửi, đồng thời NH cũng đảm bảo an toàn cho các khoản tiền
gửi và cung cấp cho khách hàng những dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người vay: Họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu về vốn để kinh doanh, chi
tiêu, thanh toán mà không phải tiêu tốn nhiều chi phí về sức lực, thời gian cho việc
tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp
Đối với bản thân NH: NH sẽ tìm kiếm được khản lợi nhuận từ chênh lệch giữa
lãi xuất cho vay và lãi xuất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. đây là yếu tố quyết
định cho sự tồn tại và phát triển của NHTM
Đối với nền kinh tế: Chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
7
nền kinh tế tăng trưởng, vì nó đáp ứng được nhu cầu về vốn để đảm bảo quá trình
sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này,
NH đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt đôngj, kích thích quá
trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
1.1.3.2. Chức năng trung gian thanh toán
NH làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện theo yêu cầu của
khách hàng như trích một khoản tiền trên tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ hoặc nhập vào khoản tiền gửi của khách hàng từ bán hàng hóa hoặc
các khoản thu khác.
NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán làm cho nó trở thành thủ quỷ
cho khách hàng. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản
tiền gửi của khách làm cho NH thực hiện được vai trò trung gian thanh toán. Trên
thực tế, khi việc thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể kinh tế bằng tiền mặt gặp
nhiều hạn chế và rủi ro cao, do phải tập hợp, kiểm tra, vận chuyển làm cho chi phí

thanh toán cao mà lại thiếu chính xác và an toàn, đặc biệt là khi hai đơn vị này cách
xa nhau, điều này tạo nên nhu cầu và gia tăng khối lượng thanh toán qua NH.
Chức năng trung gian thanh toán của NH có ý nghĩa rất lớn đối với các hoạt
động của nền kinh tế xã hội. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ
thống NH góp phần giảm chi phí và lượng tiền mặt trong lưu thông và đảm bảo an
toàn trong thanh toán. Việc lựa chọn phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
thích hợp cho phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả, điều
này góp phần tăng tốc độ lưu thông hàng hóa, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả
của quá trình tái sản xuất xã hội. Mặt khác, việc cung ứng các dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt giúp cho NH thu hút nhiều khách hàng mở tài khoản tại NH và
do đó tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi.
Khi kết hợp chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán
taọ cho NHTM khă năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tại NHTM. Từ một lượng tiền gửi ban đầu, qua nghiệp vụ cho
vay dưới hình thức chuyển khoản, đã làm cho số dư trên tài khoản tiền gửi trong hệ
8
thống NHTM tăng lên.
NHTM có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một khoản tiền gửi ban
đầu, hoặc từ một khoản tiền nhận được từ ngân hàng trung ương thông qua việc cấp
tín dụng cho khách hàng. Khi NHTM huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp
các dịch vụ trung gian thanh toán cho khách hàng, đều có khả năn tạo ra một lượng
tiền gửi mở rộng. Điều này được thể hiện khi mỗi lần thanh toán chuyển tiền từ tài
khoản này sang tài khoản khác để thực hiện một khoản thanh toán tiền hàng hóa
dịch vụ, lượng tiền gửi ban đầu không ra khỏi hệ thống NH nhưng số dư trên tài
khoản tiền gửi gia tăng về lượng. Tốc độ gia tăng tiền tệ phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ sử dụng tiền mặt của khách hàng tiền gửi thanh toán, tỷ lệ dự trữ tiền
mặt thừa trên tiền gửi không kỳ hạn tại NH. Cơ chế tạo tiền của NHTM cho thấy
mối quan hệ giữa tín dụng và lưu thông tiền tệ, việc mở rộng khối lượng tín dụng có
ảnh hưởng đến khối tiền tệ lưu thông.
Như vậy, các chức năng của NHTM có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ

sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản,
tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi NH thực hiện tốt
chức năng trung gian thanh toán lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng mở rộng
quy mô hoạt động của NH.
1.2.Hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa vả nhỏ của ngân
hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại:
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN của Thống đốc NHNN về việc
ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay là một
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
NHTM có thể tiến hành cho vay với nhiều đối tượng khách hàng như các cá
nhân, các DN… Tuy nhiên, tùy theo đối tượng vay vốn, khái niệm cho vay có thể
được hiểu theo những khía cạnh khác nhau. Hiện nay, trong các đối tượng khách
9
hàng của NHTM thì DNVVN là đối tượng khách hàng có nhiều tiềm năng nhất. Ưu
điểm của DNVVN không chỉ là sự gia tăng ngày càng lớn về số lượng mà còn là
những đóng góp cho sự phát triển kinh tế và tăng thu nhập dân cư. Vậy có thể hiểu
một cách khái quát rằng, cho vay DNVVN là hình thức cho vay mà theo đó ngân
hàng thương mại cho DNVVN sử dụng một khoản tiền để dựng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Khái niệm cho vay DNVVN là cơ sở trong việc phân loại các phương thức
cho vay cũng như xác định đối tượng khách hàng vay vốn của NHTM
1.2.2.Khái quát hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
NHTM
1.2.2.1.Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Doanh Nghiệp vừa và nhỏ
 Khái niệm về Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực

hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
doạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là những doanh nghiệp có quy mô
nhỏ bộ về mặt vố ,
lao độ hay doanh th . Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chia thành ba loại
căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nh , doanh nghiệp nhỏ và doanh
nghiệp vừa. Theo tiêu chí phân nhóm ở
Việt N
, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ, qui
định số lượng lao động trung bình hàng năm từ 200 đến 300 người lao động và
có số vốn pháp định nhỏ hơn 10 tỷ đồng được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong
đó không phân biệt doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừ. Doanh nghiệp vừa và
nhỏ là một doanh nghiệp hoạt động độc lập trong một lĩnh vực kinh doanh nhưng
không thống trị trong lĩnh vực kinh doanh của mìn
10
Công thức xác định quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc một ngành hoặc
địa bàn cụ thể như sau:
F(S
ba
) = I
b
* I
a
*S
a
/ I
d
Trong đó:
F(S

ba
): quy mĩ một doanh nghiệp thuộc một ngành và trong một lãnh thổ
cụ thể.
I
b
,I
a
,I
d
: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mĩ doanh
nghiệp;
S
a
: quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước.
 Đặc Điểm của Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ:
Bên cạnh những đặc điểm của Doanh nghiệp nói chung như hoạt động sản
xuất kinh doanh hay dịch vụ nhằm tối đa hóa lợi nhuận, các DNVVN cũng có
những đặc điểm riêng.
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay
đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không lớn, các điều kiện
sản xuất đơn giản là đó có thể bắt đầu hoạt động. Vòng quay sản phẩm nhanh nên
có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn
nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như
quy mô nhỏ của nó, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị
trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng
tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo
ra sự sống động trong phát triển kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao

động nên có khả năng sẵn sàng mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thì cũng
không bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới
11
này: do tính chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn
trong sản xuất dây chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các
cuộc kinh doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với
chi phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định
cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời
doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát
triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, cũng như có thể sản xuất
được hàng hoá có chất lượng tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi
điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số lượng lao
động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp
chưa quá mức rõ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá
gắn bó. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ dàn xếp.
Tuy nhiên, bên cạnh một số ưu điểm trên, các DNVVN tại Việt Nam hiện nay
còn khá nhiều hạn chế.Có thể thấy hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ
hai nguồn. Các hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ
chính các lợi thế của DNVVN.
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của DNVVN nằm trong chính đặc điểm của nó,
đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tình trạng
thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng
cấp trang thiết bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp mà nó

cung cấp sản phẩm.
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là
các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản
12
phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp,thiếu bí quyết
và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sảnphẩm, thiếu đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển, nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các
yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trường, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, DNVVN gặp khó khăn trong thiết lập và mở
rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó
đang hoạt động.
- Cũng do tính chất vừa và nhỏ của nó, DNVVN gặp khó khăn trong thiết lập
chỗ đứng vững chắc trong thị trường.
Loại hình DNVVN tại Việt Nam đã và đang có những bước tiến khá vững
trong nền kinh tế. Tuy còn nhiều hạn chế xong không thể phủ nhận được vai trò to
lớn của nó đối với nền kinh tế thị trường đang trên đà đổi mới của Việt Nam.
 Vai Trò:
• Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp
Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương pháp tiết
kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết thất nghiệp hiệu
quả nhất.
Do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này thường
phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều
đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu vùng xa, vùng chưa phát triển kinh
tế, với các đối tượng lao động có trình độ tay nghề thấp.Nhờ vậy chúng vừa giải
quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm dòng người chuyển về thành phố tìm việc làm.
Do tính linh hoạt, uyển chuyển để thích ứng với các thay đổi của thị trường

của các DNVVN. Trong trường hợp có biến động xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ
đối phó khá chậm chạp, không phải vì cấp quản lý bất tài mà bởi vì doanh nghiệp
lớn thì khó xoay trở nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ
13
phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển
được trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể
thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có
thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động.
• Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất lượng,
số lượng và chủng loại
Các DNVVN thu hút một lượng lớn lao động và tài nguyên của xã hội để sản
xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các công ty và tập đoàn
lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo
cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào
nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ.
• Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương
Nhìn chung các DNVVN được mở ra ở địa phương nào đều có công nhân và
chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được mở
ra thì người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết
cục là quỹ tiền tiết kiệm - đầu tư của địa phương đó được bổ sung.
• Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn
Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị
kinh tế nhỏ hơn chúng vì một nguyên nhân đơn giản là quy mô của chúng quá lớn.
Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thì quán tính của nó càng lớn.
Cũng vậy, các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu khả
năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì càng lớn. Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ
quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở
nên chậm chạp, không bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường.
Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ
trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ

được nâng cao.
• Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng
kinh tế
14
Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng sâu”, “vùng xa”. Đó
là các khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa
tuyến giao thông, thiếu tài nguyên Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó
vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi
khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao.
Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự
phát triển không đều giữa các vùng, không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu
quả hoạt động của nền kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh
tế. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí cơ hội của các vùng
này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt
động ở đây nếu có các chính sách ưu đãi thích hợp của chính quyền địa phương.
1.2.2.2.Các loại hình cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
•Ngắn hạn:
Là phương thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn thường xuyên hay nhu
cầu vốn do đặc điểm sản xuất kinh doanh theo thời vụ của doanh nghiệp. Phần lớn
các khoản cho vay này có thể thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Cho vay ngắn hạn đối
với DNVVN bao gồm một số phương thức cho vay như sau:
- Cho vay từng lần : Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng
đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp
hạn mức thấu chi. Cho vay từng lần thường áp dụng cho các khoản vay dài hạn hoặc
cho vay các dự án. Ưu điểm của phương thức cho vay từng lần là ngân hàng chủ động
sử dụng vốn, thu lãi cao do các món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau.
Số tiền = tổng vốn Dự Án – vốn chủ - vốn khác ( nếu có)
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay theo đó ngân hàng
thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay
tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa

thuận trong hợp đồng tín dụng. Căn cứ để cấp hạn mức tín dụng là kế hoạch tài chính
của doanh nghiệp, trong đó dự báo chi tiết về tài sản và vốn của doanh nghiệp.
Đây là phương thức cho vay thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường
15
xuyên và được ngân hàng tín nhiệm. Phương thức cho vay này có ưu điểm là thủ tục
đơn giản, khách hàng chủ động được nguồn vốn vay, tuy nhiên về phía ngân hàng
dễ bị đọng vốn, đồng thời do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể
nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
- Cho vay thấu chi: Thấu chi là phương thức cho vay trong đó ngân hàng cho
phép khách hàng được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong khoản thời gian xác định.
- Cho vay luân chuyển: Là phương thức cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hóa. Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường
xuyên và được ngân hàng tín nhiệm. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách
hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Tuy nhiên nếu
khách hàng gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
Quy mô cho vay ngắn hạn của NHTM đối với doanh nghiệp như sau:
Bước 1: Xác định nhu cầu hàng hóa dự trữ bình quân trong kì
DS bán tính theo giá vốn trong kì
Nhu cầu dự trữ hàng hóa =
Vòng quay hàng hóa dự trữ trong kì

Vòng quay được tính dựa trên DS bán ra tính theo giá vốn kì trước
DS bán kì trước =
Dự trữ hàng hóa bình quân kỳ trước
Bước 2: Xác định nhu cầu vay vốn ngắn hạn
Nhu cầu vay
ngắn hạn =
Nhu cầu hàng hóa

dự trữ bình quân
trong kỳ

-
Nguồn vốn CSH, vay TCTD
khác tài trợ cho nhu cầu dự trữ
hàng hóa bình quân
16
Nếu doanh nghiệp hiện đang vay ngân hàng thì số tiền có thể cho vay thêm là:
Số tiền có thể = Nhu cầu vay ngắn hạn - Dư nợ đến thời điểm
cho vay thêm NH xin vay
Một số trường hợp ngân hàng không phân tích được phương án vay, ngân
hàng quết định số tiền cho vay dựa vào giá trị tài sản đảm bảo.
Số tiền có thể = Giá trị TSĐB x Tỷ lệ cho vay
cho vay
•Trung và Dài Hạn:
Là phương thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tài trợ cho tài sản cố định và
tài sản lưu động thường xuyên hay nhu cầu tài trợ cho các dự án riêng biệt. Doanh
nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng,
cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ…Về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn
dài hạn, bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn để tài trợ cho những loại tài sản này.
Nhưng do vốn chủ sở hữu có giới hạn nên thường doanh nghiệp phải sử dụng đến
nguồn vốn vay dài hạn. Doanh nghiệp có thể vay dài hạn thông qua ngan hàng hoặc
phát hành trái phiếu huy động vốn trên thị trường.
Nhu cầu theo = Nhu cầu đầu tư vào + Nhu cầu đầu tư vào
DA TSCĐ TSLĐ

Số tiền có thể cho vay = Nhu cầu đầu tư - Các nguồn khác tham gia tài trợ
Số tiền có thể
cho vay

= Nhu cầu đầu tư -
Các nguồn khác tham gia
tài trợ
Cho vay trung và dài hạn có thể bao gồm nhiều phương thức khác nhau như
cho vay trả góp, cho vay theo các dự án…
- Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp.
- Cho vay theo các dự án: Khái niệm dự án có thể hiểu là tổng thể các chính
sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt được
17
những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định. Cho vay theo dự án đòi hỏi
quá trình thẩm định dự án một cách cẩn trọng và chính xác.
Trên đây là một số phương thức cho vay DNVVN phân theo kì hạn cho vay.
Mặc dù phương thức cho vay DNVVN có thể khác nhau, tuy nhiên các phương thức
đó đều phải tuân theo một quy trình cho vay chung nhất, đảm bảo tính đồng bộ và
thống nhất trong quá trình cho vay của NHTM.
1.3.Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1.Khái niệm:
Xét trong lĩnh vực ngân hàng, mở rộng cho vay DNVVN là việc tăng tỷ trọng
các khoản cho vay DNVVN trong tài sản của NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của khách hàng về quy mô các khoản vay. Bên cạnh đó, cùng với sự cạnh
tranh gay gắt của các NHTM hiện nay, việc mở rộng cho vay có thể bao gồm nhiều
tiêu chí khác nhau như: mở rộng quy mô, hình thức, phạm vi cho vay hay đối tượng
cho vay.
Quá trình mở rộng cho vay của NHTM kết hợp với các yếu tố khách như
chính sách cho vay, chính sách khách hàng…nhằm đảm bảo hiệu quả và chất lượng
các khoản vay.
1.3.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay
1.3.2.1.Nhân tố chủ quan:

 Từ phía ngân hàng
Để mở rộng hoạt động cho vay có hiệu quả và chất lượng, các NHTM cần đưa
ra những chính sách, hành động, phương hướng kinh doanh hợp lý. Cụ thể như sau:
 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi một tổ chức ngay từ khi được thành lập ra đã phải có một phương châm
hoạt động nhất định và phải có chiến lược kinh doanh phù hợp với các mục tiêu đã
đặt ra. Đó là một tiêu chí rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế hiện nay, quá trình cạnh tranh càng ngày càng trở nên gay
gắt, mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một phương châm, chiến lược kinh
doanh đúng đắn và hiệu quả. Đó là một điều kiện vô cùng quan trọng giúp cho ngân
18
hàng có định hướng nhất quán trong việc khai thác tốt nhất tiềm lực hiện có và có
thể thích ứng tốt với những biến đổi của môi trường kinh doanh gay gắt hiện nay.
Khi mà chiến lược kinh doanh đặt ra không hiệu quả, không đúng đắn thì mọi
hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng
không thể phát triển được, thậm chí nó có thể gây nên những tổn thất khôn lường
cho ngân hàng.
Chiến lược phát triển sẽ tạo ra một định hướng chung về khách hàng mục tiêu
của ngân hàng và từ đó xây dựng nên các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với đối
tượng khách hàng đó.
Để phù hợp với xu thế hiện nay thì các NHTM đang ngày càng quan tâm đến
các DNVVN và đang thúc đẩy việc thiết lập chiến lược kinh doanh hướng vào đối
tượng này. Chính điều này đã có ảnh hưởng quyểt định đến họat động cho vay nói
chung, doanh số cho vay cũng như chất lượng cho vay đối với DNVVN nói riêng
trong mỗi một ngân hàng.
 Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một NHTM được xem như là kim chỉ nam trong hoạt
động cho vay của ngân hàng đó. Khi mà có một chính sách tín dụng đúng đắn, đồng
bộ, khoa học và thống nhất thì nó sẽ xác định cho các cán bộ tín dụng một phương
hướng đúng đắn khi thực hiện nhiệm vụ của mình từ đó nâng cao được hiệu quả

kinh tế- xã hội của họat động cho vay. Tuy nhiên, khi chính sách tín dụng đặt ra
không đầy đủ, đúng đắn, khoa học sẽ tạo ra một định hướng lệch lạc cho họat động
tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, không đúng mục đích
hoặc tạo ra khe hở cho người sử dụng vốn và từ đó sẽ không đem lại hiệu quả kinh
tế thậm chí dẫn đến rủi ro tín dụng.
Chính sách tín dụng bao gồm:
• Chính sách khách hàng:
Do đối tượng khách hàng vay vốn của ngân hàng rất đa dạng vì vậy ngân
hàng cần phải tiến hành phân loại khách hàng theo các tiêu chí nhất định nào đó, từ
đó mới đem ra các chính sách về lãi suât, tài sản đảm bảo, hạn mức tín dụng phù
hợp với từng phân đoạn khách hàng.
19
• Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng:
Ngân hàng cam kết tài trợ cho khách hàng với món tiền và hạn mức nhất định.
Giới hạn này ngoài các quy định theo luật thì mỗi ngân hàng còn có quy định riêng
về quy mô và giới hạn.
Ví dụ như quy mô tối đa cho vay của mỗi giám đốc khu vực, giám đốc chi
nhánh, quy mô cho vay dựa trên giới hạn đảm bảo…
Chính sách này sẽ được quy định một cách cụ thể trong từng thời kỳ trong
năm có tính đến quy mô và tổ chức nguồn vốn của mỗi ngân hàng.
• Lãi suất tín dụng:
Mỗi một ngân hàng đều có các mức lãi suất tín dụng khác nhau phân theo
từng kỳ hạn, loại tiền, đối tượng khách hàng. Lãi suất này có thể được cố định trong
một thời hạn tín dụng nhưng cũng có thể được thả nổi theo sự biến đổi của lãi suất
tham khảo hặc chỉ số làm cơ sở điều chỉnh lãi suât hoặc cũng có thể là sự kết hơp cố
định có điều chỉnh sau một khoảng thời gian xác định.
• Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ:
Các thời hạn tín dụng có liên quan trực tiếp đến rủi ro thanh khoản trong hệ
thống ngân hàng và chu kỳ kinh doanh của người vay. Các chính sách thời hạn tín
dụng được đưa ra phải giải quyểt được mối quan hệ về thời hạn giữa nguồn(chủ yếu

do người gửi và do ngân hàng vay quyết định) và thời hạn tài trợ(bắt nguồn từ yêu
cầu của người vay do đặc điểm luân chuyển nguồn vốn và quy mô thu nhập quyết
định). Kỳ hạn nợ liên quan đến tính toán các nguồn thu của khách hàng có thể dựng
để trả nợ.
• Các khoản đảm bảo:
Chính sách đảm bảo gồm những quy định về trường hợp tài trợ cần đảm bảo
bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, danh mục các đảm bảo
được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm bảo, đáng giá và quản
lý đảm bảo. Chính sách tín dụng về các khoản đảm bảo cũng bao gồm cả việc đánh
giá tài sản đảm bảo và mức phán quyết tín dụng dựa trên việc định giá cho tài sản
đảm bảo.
20
• Chính sách đối với tài sản có vấn đề
Các tài sản có vấn đề bao gồm các tài khoản nợ xấu và tài sản có biểu hiện
đáng ngờ. Chính sách đối với tài sản có vấn đề gồm các quy định về cách thức xác
định nợ xấu và các tài sản đáng ngờ khác, tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận và mức độ
xấu của các khoản nợ, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai thác.
Như vậy, chính sách tín dụng của ngân hàng có ảnh hưởng vô cùng quan trọng
tới khả năng tiếp cận tín dụng của các DNVVN. Khi chính sách tín dụng mà linh
hoạt, đa dạng thì nó sẽ đáp ứng được nhiều nhu cầu của DNVVN ở các phân đoạn
thị trường khác nhau hay nói cách khác là sẽ làm tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng của các DNVVN.
 Quy mô nguồn vốn của ngân hàng thương mại:
Như ta đã biết, tất cả các hoạt động cho vay của NHTM đều phải tuân theo quy
định liên quan đến hoạt động cho vay của pháp luật. Quy định 1627 về quy chế cho vay
của một tổ chức tín dụng đối với một khách hàng có quy định ” dư nợ cho vay tối đa đối
với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ
trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn ủy thác của chính phủ, của các tổ
chức, cá nhân hay trường hợp khách hàng vay là một tổ chức tín dụng khác”.
Do đó, quy mô nguồn vốn của ngân hàng đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu là

nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng cho vay của một ngân hàng. Các ngân
hàng lớn thường cung cấp các khoản cho vay có giá trị lớn cho các doanh nghiệp
còn các ngân hàng nhỏ thường tập trung cho vay các khỏan có quy mô nhỏ- nghiệp
vụ tín dụng bán lẻ.
Ngoài ra, quy mô của ngân hàng cũng ảnh hưởng đáng kể đối với thu nhập
ròng của các loại hình cho vay. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong cho vay, ngân
hàng cần cung cấp các loại hình cho vay mà ngân hàng có lợi thế nhất. Ví dụ như,
các ngân hàng lớn thường có ưu thế trong cho vay kinh doanh bất động sản và cho
vay tiêu dùng trả góp, các ngân hàng có quy mô trung bình thường có lợi thế về các
khoản cho vay theo thẻ tín dụng, còn các ngân hàng nhỏ lại có ưu thế trong cho vay
thương mại.
21
 Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay
Đây là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng.
Một ngân hàng sẽ ít có khả năng lớn mạnh, khả năng mở rộng cho vay nếu những
sản phẩm cho vay mà nó cung cấp cho khách hàng là đơn điệu, chất lượng hoạt
động không cao. Một trong những đặc điểm đặc trưng của các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng là không có sự khác biệt, bản quyền khó xác định nên từ đó làm ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, khốc liệt như
ngày nay thì buộc các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng các sản
phẩm dịch vụ và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra tính khác biệt cho sản
phẩm ngân hàng để củng cố và mở rộng thị phần, duy trì khả năng cạnh tranh của
chính ngân hàng mình.
 Thông tin tín dụng
Là tất cả các thông tin về tài chính, quan hệ tín dụng, đảm bảo tiền vay, tình
hình tín dụng và thông tin pháp lý của khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Hệ
thống thông tin tín dụng được đưa ra nhằm hình thành cơ sở dữ liệu về khách hàng
để phục vụ cho quá trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín dụng, quản trị rủi ro
tín dụng. Mục đích quan trọng nhất của nó là tìm kiếm và phát hiện ra sớm các

khoản tín dụng có vấn đề để đánh giá đúng mức độ rủi ro của các khoản nợ đồng
thời dự báo trước khả năng một khoản tín dụng có thể chuyển sang nợ xấu.
Trên cơ sở thông tin thu được, ngân hàng sẽ quyết định được một cách đúng
đắn hơn trong quy trình kiểm tra, giám sát tín dụng. Chất lượng của thông tin tín
dụng ảnh hưởng trực tiếp đến khoản cho vay. Khi thông tin tín dụng đầy đủ, chính
xác sẽ góp phần hạn chế và ngăn ngừa được phần nào rủi ro tín dụng, rủi ro lựa
chọn đối nghịch do thiếu thông tin không cân xứng về đối tượng đầu tư từ đó nâng
cao được hiệu quả hoạt động tín dụng.
Thông tin tín dụng có thể khai thác từ các nguồn khác nhau. Có thể nguồn bên
trong hay bên ngoài hệ thống; chính thức hay phi chính thức. Việc thu thập thông
tin nhanh chóng, chính xác, đầy đủ ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động tín
dụng từ đó ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các DNVVN.
22
 Trình độ cán bộ công nhân viên
Trình độ của cán bộ làm công tác cho vay có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng hoạt động tín dụng của NHTM. Khi các cán bộ tín dụng có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, có kiến thức và hiểu biết sâu rộng thì sẽ có thể phân tích và nắm bắt
được tình hình của khách hàng và từ đó đưa ra được quyết định tín dụng chính xác.
Ngược lại, khi các cán bộ tín dụng yếu kém về năng lực lao động, chưa được đào
tạo một cách đầy đủ thì sẽ thiếu khả năng phân tích và đánh giá một cách chính xác
về khách hàng vay vốn, không bao quát được các điểm yếu về mặt pháp lý hoặc các
sai sót trong hồ sơ vay vốn của khách hàng nên từ đó đem ra những quyết định thiếu
chính xác, gây nên những hậu quả xấu cho ngân hàng.
1.3.2.2.Nhân tố khách quan:
 Từ phía doanh nghiệp vừa và nhỏ:
 Năng lực tài chính của DNVVN
Năng lực tài chính của DNVVN là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng
quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động hiệu
quả thì tình hình tài chính sẽ vững mạnh từ đó mới có thể đáp ứng được yêu cầu của
ngân hàng và có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng. Năng lực tài chính

được thể hiện ở khối lượng vốn chủ sở hữu và tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng
nguồn vốn kinh doanh của DNVVN. Vốn chủ sở hữu này sẽ phản ánh khả năng tự
chủ tài chính, khả năng chống chọi với hoàn cảnh bất lợi của DN. Khi tỷ trọng vốn
chủ sở hữu trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp càng nhỏ chi phí vốn vay
càng lớn và đó có thể là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh doanh thua lỗ và
mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng của doanh nghiệp.
Hiện nay, các DNVVN muốn vay vốn ngân hàng thì phải đảm bảo là có một
phần vốn tự có nhất định tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy, nếu như vốn sở hữu thấp nhưng nhu cầu đầu tư lớn cũng khó có
thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng.
 Phương án sản xuất kinh doanh:
Đây là một vấn đề liên quan đến tính hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp khi
tiến hành sản xuất kinh doanh một sản phẩm nào đó. Khi tiến hành phương án sản
23
xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ tính toán doanh thu thu được, các chi phí liên
quan và lỗ lãi. Từ đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định là có tiến hành thực
hiện các dự án hay không.
Đây là một trong những điều kiện vay vốn hàng đầu của DNVVN. Để đảm
bảo thu hồi được vốn vay từ các doanh nghiệp, ngân hàng phải chọn những phương
án khả thi, có khả năng thực hiện được và thực sự có hiệu quả để tiến hành đầu tư.
Do vậy, việc doanh nghiệp có khả năng vay vốn của ngân hàng phụ thuộc một phần
vào phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có khả thi hay không.
 Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ:
Khi một doanh nghiệp có đội ngũ quản lý tốt thì sẽ có được chiến lược kinh
doanh tốt, khả năng kinh doanh cao và có thể quản lý vốn tụt. Nó được thể hiện ở
cách thức tổ chức hoạt động chung, tổ chức hoạt động sổ sách kế toán, quản lý tài
chính hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, môi trường kinh doanh. Nó
còn thể hiện ở trình độ nhận định thị trường để có được chiến lược kinh doanh năng
động và các biện pháp nhằm chống chọi lại những biến động bất lợi của thị trường.
Năng lực quản lý này nó ảnh hưởng trực tiếp đến đội ngũ cán bộ, đến sản phẩm của

doanh nghiệp, đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, mối quan hệ với các đối tác Đây
cũng là một tiêu chí quan trọng để ngân hàng đưa ra quyết định có cho DNVVN vay
vốn hay không và nếu vay thì với hạn mức là bao nhiêu.
 Đạo đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp:
Đây là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng tiếp cận vốn ngân
hàng của DNVVN và đây chính là thiện chí trả nợ của chủ DNVVN. Đạo đức kinh
doanh của DNVVN thể hiện ở việc doanh nghiệp trung thực, sử dụng vốn đúng mục
đích, quản lý tốt, báo cáo thật, đảm bảo hoạt động kinh doanh được lành mạnh, đảm
bảo trả nợ được cho ngân hàng.
Các DNVVN luôn muốn có thể tiếp cận được nhiều hơn tới nguồn vốn của
ngân hàng. Nếu các DNVVN báo cáo một cách đầy đủ, minh bạch, sử dụng vốn
đúng mục đích kinh doanh, thực hiện vay và trả tốt thì có thể tiếp cận được nhiều
hơn đối với nguồn vốn đó. Tuy nhiên, nếu các DNVVN cố tình báo cáo sai lệch các
24

×