Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNO&PTNT B ách Khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.43 KB, 114 trang )

MỤC LỤC
1
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Công nghiệp hoá là vấn đề mang tính quy luật đối với tất cả
các nước đang phát triển. Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp
hoá đã diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển và thực tế cho
thấy rằng, trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá các quan hệ
kinh tế; trong xu hướng hội nhập, đan xen phát triển, thì việc tạo vốn
cho công nghiệp hoá bằng việc huy động, khai thác, nâng cấp nguồn
vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế là hết sức cần thiết và ngày
càng có ý nghĩa quan trọng.
2
Từ năm 1986, sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, Chính phủ đã đưa ra chương trình đổi mới quản lý nền kinh tế,
chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà Nước. Kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển với sự góp
mặt của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt các doanh
nghiệp vừa và nhỏ được xem là những nguồn nhân lực mạnh nhất và
trong tương lai không xa chính họ sẽ tạo nên sự tăng trưởng mạnh
mẽ cho nền kinh tế nước nhà, là tiền đề để phát triển nền kinh tế mũi
nhọn, phát triển cơ chế công nghiệp hoá hiện đại hoá của toàn xã
hội. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả nền
kinh tế quốc dân đã đề ra, đồng thời để hội nhập với xu hướng hội
nhập quốc tế, các thành phần kinh tế phải biết khai thác toàn diện và
hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là phải tận dụng được sự hỗ trợ của hệ
thống NH. Muốn vậy, ngành NH phải giải quyết hàng loạt khó khăn
mà hiện nay doanh nghiệp đang gặp phải. Đây cũng đang là mỗi
quan tâm đặc biệt của các NHTM, bản thân các doanh nghiệp và các
tổ chức tín dụng nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín


dụng.
3
Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng NH đầu tư cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Một phần là do khách
hàng truyền thống và do mục tiêu của các NHTM chủ yếu là các
doanh nghiệp lớn, mặt khác do doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
sử dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì vậy,
việc tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là mối quan tâm đặc biệt của các
NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động tín dụng
tại NHN
O
&PTNT chi nhánh Bách Khoa, em đã chọn đề tài “Giải
pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
NHN
O
&PTNT B ách Khoa” làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chọn hoạt động cho vay các DNV&N tại NHTM làm
đối tượng để nghiên cứu. Từ đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại
NHN
O
&PTNT Bách Khoa
Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định, phạm vi nghiên cứu
của đề tài chỉ xem xét ở các khía cạnh về chính sách, giải pháp và
trạng thái cụ thể về quy trình cho vay tại NHN
O
&PTNT Bách Khoa
3. Phương pháp nghiên cứu:

4
Quá trình thực hiện đề tài đã vận dụng tổng hợp các phương
pháp: phương pháp kết hợp lịch sử với logic, phương pháp kết hợp
phân tích với tổng hợp, phương pháp thống kê và so sánh... đồng
thời tham khảo các tài liệu và các luận văn của những lớp trước để
rút ra những kết luận có tính phổ biến chung về quá trình cho vay
DNV&N.
4. Kết cấu đề tài
Ch ¬ng 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với DNV&N
của NHTM
Ch ¬ng 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHN
O
&PTNT Bách Khoa
Ch ¬ng 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với các
DNV&N tại chi nhánh NHN
O
&PTNT Bách Khoa
5
Danh mục những chữ viết tắt
- NHTM: Ng ân Hàng Thương Mại
- NHN
O
&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn
- NHNN: Ngân hàng nhà nước
- DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
- DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
6
CHƯƠNG 1

NH ƯNG VẤN Đ Ề CƠ BẢN V Ề TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DNV&N CỦA NHTM
1.1.NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế.
1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại.
* Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ
thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
* Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
-Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn,
cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt
đông tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan
trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm có: Vốn chủ sở hữu và
vốn nợ
Vốn chủ sở hữu chủ yếu bao gồm có nguồn vốn góp ban đầu,
nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động có thể là do đóng góp
7
thêm hoặc trích từ lợi nhuận giữ lại, các quỹ và cuối cùng là nguồn
vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn nợ là nguồn vốn lớn nhất mà ngân hàng có được để sử
dụng kinh doanh. Theo luật các tổ chức tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu đối với các ngân hàng thương mại là 10%, riêng có ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là 8%, tức là
nguồn vốn này có thể chiếm tới 90% tổng nguồn vốn của ngân hàng.
Vốn nợ bao gồm có:
Thứ nhất là tiền gửi của khối dân cư và các doanh nghiệp các
loại như tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của dân
cư… Đây là nguồn vốn huy động được nhiều nhất trong số vốn huy

động được của ngân hàng. Dân cư và các doanh nghiệp nhận thấy
rằng mình có một lượng vốn không dùng đến tạm thời hoặc cũng có
thể họ có nhu cầu nhờ chi đối với ngân hàng để thuận tiện cho hoạt
động của mình nên họ quyết định gửi số tiền của mình để nhận được
khoản phần thưởng của ngân hàng cho việc đã sẵn sàng bỏ ra một
khoản tiền cho ngân hàng sử dụng. Đây là các khách hàng của ngân
hàng và đối với khách hàng mà nói thì đây cũng là một phương pháp
vừa tiết kiệm lại vừa sinh lời từ khoản tiền nhàn rỗi của mình chính
là những khoản tiền gửi.
Thứ hai, tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của ngân hàng nhưng
không chỉ thế, vốn nợ của ngân hàng còn được hình thành từ các
khoản tiền vay, ngân hàng thương mại có thể vay tiền ngân hàng
trung ương bằng cách chiết khầu hoặc tái chiết khấu thương phiếu.
8
Các thương phiếu đã được ngân hàng chiết khấu (hoặc tái chiết
khấu) trỏ thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những
thương phiếu này tới ngân hàng nhà nước tái chiết khấu lại, như vậy
trong ngắn hạn làm cho lượng tiến mặt trong két của ngân hàng
thương mại tăng lên đồng nghĩa với thương phiếu của họ cũng giảm
đi. Cũng có thể ngân hàng thương mại vay các tổ chức tín dụng khác
trong thị trường liên ngân hàng tuy nhiên việc đi vay các tổ chức tín
dụng khác thường ít được áp dụng hơn do chi phí của các khoản vay
này cao hơn là vay ngân hàng trung ương. Nếu vay các ngân hàng
khác thì dự trữ của ngân hàng thiếu vốn đi vay sẽ tăng lên và ngược
lại với ngân hàng thừa vốn cho vay trong ngắn hạn. Ngoài ra, ngân
hàng thương mại còn đi vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành
các loại giấy nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn.
Nhờ vậy mà các nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng có thể
tăng lên đảm bảo.
Thứ ba, ngân hàng cũng còn một lượng vốn nợ khác hình

thành từ các hoạt động như ủy thác thanh toán, nguồn trong thanh
toán và các nguồn khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…Trong
quá trình hoạt động, ngân hàng có thể nhận được những khoản ủy
thác đầu tư, ủy thác giải ngân, ủy thác chi hộ … từ những cá nhân
hay tổ chức khác trong nền kinh tế làm cho nguồn vốn nợ của ngân
hàng tăng lên; nguồn vốn nợ cũng có thể tăng lên nhờ nguồn trong
thanh toán như khoản tiền ký quỹ trong thanh toán L/C
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng
9
Đây là hoạt động phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích
nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng
thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn quan trọng nhất là hoạt động tín dụng, bao
gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua việc cho vay
ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế. Lợi nhuận thu từ hoạt
động này là thường là cao nhất trong tổng lợi nhuận, tạo ra thu nhập
chủ yếu cho ngân hạng. Tuy nhiên, đây là hoạt động chứa đựng độ
rủi ro cao nên các ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng của hoạt
động này.
Ngoài ra còn các hoạt động sử dụng vốn khác như hoạt động ngân
quỹ, hoạt động đầu tư tài chính, đầu tư vào trụ sở và những trang
thiết bị kỹ thuật phục vụ quá trình hoạt động của bản thân ngân
hàng, chi phí thường xuyên cho quá trình vận hành ngân hàng.
1.1.2.3. Các hoạt động kinh doanh khác
Ngoài các hoạt động cho vay và đầu tư tạo ra lợi nhuận, ngân hàng
thương mại còn đóng vai trò là trung gian thực hiện các dịch vụ và
hoạt động ngân hàng khác theo yêu cầu của khách hàng như: dịch vụ
kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thanh toán, thu hô, chi hộ, chuyển
tiền, ủy thác, bảo quản vật có giá, nghiệp vụ bảo lãnh, tư vấn… Các
hoạt động trung gian này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và

đầu tư trong khi vẫn mang lại nguồn thu lớn cho ngân hàng. Ở một
10
số ngân hàng lớn trên thế giới như Citibank, HSBC..thì tỷ trọng lợi
nhuận thu từ dịch vụ lên đến 20%. Ngày nay, lợi nhuận từ các hoạt
động dịch vụ này ngày càng tăng cao và chiếm vị trí quan trọng
trong hoạt động ngân hàng
1.2 Khái quát về DNV&N
1.2.1.Khái niệm DNNVV:
Phát triển DNV&N là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế -xã hội nước ta .Bởi vì sự thành đạt của các doanh nghiệp
DNNVV là khái niệm tương đối đối với doanh nghiệp lớn. Phương
thức phân loại DNNVV thường là căn cứ các chỉ tiêu chuẩn như số
lượng nhân viên, tổng số vốn, tổng tài sản, thị phần của doanh nghiệp
v.v… Vì vậy, trình độ phát triển kinh tế ở các nước là khác nhau, dẫn
đến các trị số của các chỉ tiêu trên cũng khác nhau. Do đó, khái niệm
DNNVV ở mỗi nước là không giống nhau.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-
CP ngày 23/11/2001 tại điều 3 đã đưa ra khái niệm mới về DNN&V:
“ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không
vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 người”.
Khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh
độc lập.
11
- Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ đăng kí hoạt động theo
luật hợp tác xã.
- Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh
nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập đăng kí

hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí hoạt động theo Nghị định số
02/2000/NĐ - CP ngày 03/02/2000 của chính phủ về đăng ký kinh
doanh.
Các DNN&V luôn chiếm số lượng lớn so với các khu vực
khác và tốc độ phát triển ngày càng tăng. Bằng chứng là cộng đồng
DNN&V có khoảng 230 000 doanh nghiệp, trong đó chiếm đến 90%
là DNN&V, đóng góp khoảng gần 30% vào GDP mỗi năm. DNN&V
cũng là đội ngũ chính cung cấp khoảng trên 30% tổng sản lượng
công nghiệp và tạo ra khoảng 40% lao động việc làm, chưa kể các
hợp tác xã, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên được thành doanh
nghiệp.
1.2.2.Đặc điểm của DNV&N ở Việt Nam.
Các DNV&N ở Việt Nam được phát triển một cách chính thức kể
từ khi có sự ra đời của luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty áp
dụng từ năm 1990 và sửa đổi năm 1994. Một loạt các bộ luật khác đã
thực sự hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực này. Theo các số liệu
thống kê cùng kết quả điều tra các tổ chức kinh tế thì đến cuối năm
12
1999 số lượng các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thuộc
DNV&N là 43.772 doanh nghiệp chiếm 91%trong tổng số các doanh
nghiệp, trong đó DNV&N thuộc DNNN là 3.672 chiếm 64% tổng số
DNNN và số DCV&V ngoài quốc doanh là 40.100 doanh nghiệp
chiếm 94,5% trong tổng số doanh nghiệp. Trong năm 2000, số doanh
nghiệp mới được thành lập theo luật doanh nghiệp dưới dạng doanh
nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có số
vốn đăng ký trung bình trên dưới 1 tỷ đồng nên hầu hết các doanh
nghiệp này cũng có quy mô vừa và nhỏ.
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006 do tổng cục thống kê

( GSO) và ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam công bố ngày
6/12/2006, số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động tính đến
31/12/2005 là 113.352 doanh nghiệp, tăng 23,54% so với
31/12/2004. Trong đó, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp
chiếm 22,55%, doanh nghiệp hoạt động trong thương nghiệp chiếm
41,59%, trong xây dựng chiếm 13,46%.
1.2.2.1. Những điểm mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Trong nền kinh tế của một quốc gia, hệ thống các doanh nghiệp
đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển và tăng trưởng. Hệ
thống các doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp lớn, các
DNV&N. Mỗi loại doanh nghiệp đó đều có những điểm mạnh,
những khó khăn của mình trong quá trình hoạt động. Các doanh
nghiệp lớn họ gặp nhiều những khó khăn về mức độ rủi ro; bất lợi về
quy mô dẫn đến khả năng thay đổi mẫu mã sản phẩm, khả năng đa
dạng hóa đầu tư, kinh phí cao, kênh phân phối, khả năng xâm nhập
13
thị trường; hạn hẹp trong các lĩnh vực kinh doanh; cồng kềnh về mô
hình tổ chức; khả năng hợp tác kém. Nếu như ở các doanh nghiệp
khó khăn như vậy thì ở các DNV&N họ lại có những lợi thế về
những mặt đó và đang ngày càng phát huy được những thế mạnh đó
của mình
-Năng đông, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh:
Do có quy mô cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ nên khi có một sự thay
đổi thị trường các doanh nghiệp có quy mô lớn thường kém linh hoạt
và nhanh nhậy đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hơn là các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trước sự thay đổi liên tục của thị
trường, các doanh nghiệp có thể chuyển hướng kinh doanh, thay đổi
mặt hàng nhanh chóng, đồng thời có thể tăng giàm lao động hay sử
dụng lao động thời vụ, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn
nữa, khi chuyển địa điểm sản xuất các doanh nghiệp vừa và nhỏ

không gặp khó khăn như các doanh nghiệp lớn. DNV&N có thể nắm
bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa phương.
DNV&N có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh
doanh. Điều này càng làm cho DNV&N khai thác hết năng lực của
mình, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
-Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh.
Điều này hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế
đầu tư vào khu vực này. DNV&N có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động
thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất
tạo việc làm cao hơn.
14
Để cho một doanh nghiệp lớn đi vào hoạt động được thì cần lượng
vốn đầu tư ban đầu rất lớn, mặt khác các doanh nghiệp lớn chu kỳ
sản xuất kinh doanh thường dài, khả năng thu hồi vốn chậm, rủi ro
lớn. Trong khi đó đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chỉ cần lượng
vốn ít hơn. Ngoài ra, với quy mô vừa, nhỏ nên các doanh nghiệp chỉ
đa số là sản xuất các mặt hàng có khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm
thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn. Đây chính là lợi thế cho
các DNV&N khi vay vốn tại các ngân hàng. Các ngân hàng khi thực
hiện cho vay họ thường phải xem xét kĩ những khoản vay và đặc biệt
khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm thiểu được rủi ro do thời gian sản
xuất ngắn sẽ đóng góp một phần cho quyết định cho vay của ngân
hàng
-Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNV&N gọn nhẹ, linh
hoạt, ti ết ki ệm đ ư ợc chi ph í . Nhờ có bộ máy quản lý ngọn nhẹ,
việc điều hành được thực hiện được một cách trực tiếp không phải
qua các khâu trung gian nên việc ra quyết định hay việc thực hiện
công việc được thực hiện được một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Bên cạnh đó, công tác giám sát diễn ra trực tiếp, đảm bảo hiệu quả
công việc. Nhờ đó nên có thể tiết kiệm được chi phí quản lý doanh

nghiệp.
-Các DNV&N dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ,
thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại:
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ nê nhiều khi
thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại của thế
hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để
15
chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị công nghệ mới.
Trong trường hợp này các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại sẽ có lợi thế
hơn. Hơn nữa việc phải thay đổi những tư bản cố định để chuyển
hướng kinh doanh cũng thuận lợi hơn do không phải chịu nhiều thiệt
hại và có thể nhanh chóng ứng dụng và đưa vao hoạt động những
công nghệ tiên tiến, hiện đại.
-Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý trong các
DNV&N khá chặt chẽ:
Do số lượng lao dộng trong các DNV&N là không nhiều nên lãnh
đạo doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để hiểu rõ trình độ năng lực
cũng như mong muốn nguyện vọng của người lao động, từ đó sẽ có
những biện pháp thích hợp để tạo động lực lao động, từ đó có thể
nâng cao trình độ quản lý cũng như tận dụng triệt đế năng lực lao
động, nâng cao hiệu quả công việc.
DNV&N có tinh thần tự lực tự cường cao
Số lượng doanh nghiệp quá lớn, nhà nước không thể kiểm soát
chắt chẽ được hết cũng như khổng thể quan tâm hay có những tài trợ
dễ dàng. Do vậy mà buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tinh thần
tự chủ, đi lên trong cạnh tranh.
Những điểm mạnh đó của các DNV&N đã và đang là lợi thế của
họ và với lợi thế đó họ dễ dàng hơn tiếp cận với các nguồn vốn của
ngân hàng
-Sự hội nhập kinh tế toàn cầu đã tạo ra một lợi thế không nhỏ đối

với các DNV&N.
16
Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt
Nam được hưởng quy chế quan hệ bình thường (MNF) và đối sử
quốc gia (NT) giữa các nước thành viên của WTO. Quy chế này sẽ
tạo thuận lợi cho các DNV&N ngày càng đa dạng được sản phẩm,
thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Bởi, hầu hết các sản phẩm của DNV&N của Việt Nam có giá thành
cao, khối lượng nhỏ lẻ, tiêu thụ ở thị trường nội địa nên khó thâm
nhập vào thị trường nước ngoài, nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới
hạn bằng hạn ngạch. Do đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan bị thu hẹp lại hoặc được dỡ bỏ, các sản phẩm của các DNV&N
sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn nhờ đó sẽ khai thác
được lao động rẻ.
Hội nhập WTO khiến cho hàng hóa nước ngoài sẽ tràn vào Việt
Nam với giá rẻ và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về
nguyên liệu ngoại nhập và các DNV&N cũng sẽ biết được nhu cầu
của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực tiếp với các nhà phân
phối của nước ngoài.
Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt
Nam, tính minh bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức đối với
các DNV&N cũng sẽ được nâng cao. Mặt khác hiện tượng phân biệt
đối sử giữa các DNNN với các DNV&N (chủ yếu là khu vực tư
nhân) sẽ không còn, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thuận lợi
hơn trong việc tiếp cận nguồn lực tài chính, gia nhập thị trường hỗ
trợ kinh doanh.
1.2.2.2 Những hạn chế và khó khăn của DNV&N:
17
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô vừa và nhỏ trong
những năm gần đây ở mức rất thấp, mới ở trung bình trên 2 tỷ

đồng/doanh nghiệp. Nguyên nhân là do các DNV&N phải đối mặt
với nhiều bất lợi. Cụ thể:
-Quy mô về vốn và lao động còn quá nhỏ bé:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động các số liệu
thống kê cho thấy, trong tổng số 88.222 DNV&N năm 2004 có
2.211.795 lao động, tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh
nghiệp có 25 lao động như vậy quy mô về vốn và lao động của
DNV&N của Việt Nam còn quá nhỏ so với các nước phát triển và
đây cũng là lý khiến cho các Ngân hàng thương mại còn e dè trong
việc cấp tín dụng đối với các DNV&N bởi lẽ họ chưa có kinh nghiệp
trong sản xuất kinh doanh, nguồn trả nợ bé đội rủi ro khá cao. Việc
mở rộng kinh doanh trang thiết bị công nghệ hay cải thiện chất
lượng lao động đối với các DNV&N là rất khó khăn. Đặc điểm này
là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập WTO.
-Hiệu quả kinh doanh thấp:
Do quy mô của các DNV&N như vậy kéo theo kết quả kinh doanh
không cao. Theo thống kê, lợi nhuận bình quân của DNV&N là 240
triệu đồng. Các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận trên vốn và lợi nhuận
trên doanh thu cũng thấp ở mức 3 tỷ đồng và 2,57 tỷ đồng so với các
mức bình quân chung các doanh nghiệp cả nước là 4,85 tỷ đồng và
5,99 tỷ đồng.
Bên cạnh đó các DNV&N chủ yếu tập trung vào các ngành thương
mại, sửa chữa động cơ, xe máy ( chiếm 40,6% doanh nghiệp cả
18
nước), tiếp đến là các ngành chế biến, 20,9%, xây dựng, 13,2%, các
ngành kinh doanh tài sản tư vấn, khách sạn nhà hàng 25,3%. Việc
tập trung như vậy sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các DNV&N
với nhau. Chính điều này sẽ làm giảm sự đa dạng của thị trường,
giảm thị phần bản thân của các doanh nghiệp.
Phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh:

Các DNV&N gặp khó khăn do các thủ tục và điều kiện cạnh tranh
khốc liệt ở thị trường trong nước mà nguyên nhân chủ yếu là bản
quyền trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện
nghiêm túc bên cạnh đó, sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn
cũng ngăn chặn sự mở rộng thị trường của các DNV&N.
Không chỉ các đối thủ cạnh tranh trong nước, theo quy định của
WTO Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối
nước ngoài, do đó, với quy mô lớn, mạng lưới phân phố toàn cầu và
có tính chuyên nghiệp cao, các công ty nước ngoài sẽ là những đối
thủ lớn phải đe dọa sự tồn tại của nhiều DNV&N trong lĩnh vực
thương mại của Việt Nam.
- Hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu:
Một số thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy
móc thiết bị lạc hậu, khoảng 10-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm
đối với ngành cơ khí 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng
được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của
Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Đây chính là
nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng,
nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường đặc biệt trong sản xuất công
19
nghiệp. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với
định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến việc tăng
chi phí đầu vào cao hơn từ 30-50% so với các nước ASEAN, đồng
thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất
thấp.
-Trình độ của người quản lý và của người lao động còn hạn chế:
Nhiều DNV&N rất yếu kém trong việc tiếp cận thông tin và các
dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân
lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của
giám đốc, và đội ngũ quản lý doanh nghiệp, một phần là do đầu tư

cho hệ thống thông tin thấp chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa
theo kịp diễn biến của thị trường. Vì thế nhiều quyết định kinh
doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính,
đây là điểm yếu nhất các DNV&N của Việt Nam chịu áp lực cạnh
tranh quốc tế.
Tóm lại: DNV&N hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị
hạn chế, và thực lực kinh tế yếu nên khả năng vay vốn càng khó
khăn. Bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều
khiếm khuyết không tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát
triển của khu vực này. Tất cả tạo ra một vòng luẩn quẩn không thể
thoát ra được đối với các DNV&N.
-khả năng tiếp cận và xử lý thông tin trên thị trường hạn chế
Do quy mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi hẹp, thiếu mạng lưới thu
thập thông tin và các mỗi quan hệ rộng, các DNV&N thường gặp
20
khó khăn trong việc phân tích các thông tin thị trường về nguyên
liệu, xu hướng phát triển kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, các chính
sách hỗ trợ của nhà nước cũng như của nước ngoài,…Hơn nữa, ngay
cả khi có những thông tin thì các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn
trong việc phân tích, đưa ra dự đoán do khả năng có hạn.
1.2.2.3. Vai trò của các DNV&N ở Việt Nam.
Trên thực tế các DNV&N đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế
quốc dân với nhiều hình thức đa dạng phong phú, hoạt động trong
hầu hết các hoạt động kinh tế. Cùng với những lợi thế và không đòi
hỏi vốn đầu tư, quản lý đơn giản, dễ thay đổi linh hoạt theo thị
trường, các DNV&N đã và đang phát huy những mặt tích cực và
khảng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Đường lối kinh tế
đúng đắn, các doanh nghiệp này đã và đang phát triển một cách
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng ở Việt Nam cụ thể như sau:
a. Tăng việc làm và thu nhập cho người lao động.

Chúng ta có thể thấy rằng, tác động kinh tế lớn của các DNV&N là
tạo việc làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết tình
trạng thất nghiệp. Do sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong
ngành nghề kinh doanh, hơn nữa là không đòi hỏi trình độ quá cao,
DNV&N đã và đang thu hút rất nhiều lao động ở thành thị và nông
thôn từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện
đời sống và hạn chế các tệ nạn xã hội. Rõ ràng giải quyết việc làm là
một thế mạnh của các DNV&N và là nguyên nhân chủ yếu khiến ta
phải quan tâm đặc biệt tới đối tượng này.
21
b. Khai thác, tận dụng các nguồn lực xã hội.
Hiện nay còn rất nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác
như tiềm năng của trí tuệ, tay nghề cao, lao động, vốn, điều kiện
thực hiện, bí quyết sản xuất… do đó việc phát triển doanh nghiệp
sản xuất, các ngành nghề trong nông thôn hiện nay là một hướng
quan trọng để khai thác nguồn lực nói trên, thu hút lao động nông
thôn, nhằm phát huy lợi thế của từng vùng nhằm phát triển kinh tế.
Khu vực DNV&N thu hút được phần lớn nguồn vốn trong dân do
tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán, đi sâu vào các gõ ngách bản làng. Do
yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNV&N có thế
tận dụng từ số vốn của bản thân, vay gia đình, bạn bè thậm chí còn
vay của các tổ chức tín dụng. Do dễ khởi sự và nguồn vốn ít nên
các DNV&N có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các
nguồn vốn nhỏ lẻ nhà rỗi trong dân cư để đầu tư sản xuất kinh
doanh sự phát triển của các DNV&N ở nông thôn sẽ thu hút nhiều
lao động chưa có việc làm hoặc lực lượng lao động tạm thời nhàn
rỗi theo mùa vụ vào hoạt động sản xuất, rút dần lực lượng lao động
trong nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống tại
quê hương không phải di chuyển sang lơi khác. Đây là yếu tổ chỉ
đạo góp phần phát huy các ngành nghề truyền thống đã và đang bị

mai một, một phần nhằm khôi phục nền văn hóa dân gian mặt khác
làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước hiện đại hóa nông thôn
và nâng cao đời sống nhân dân. Ngoài ra, lực lượng lao động ở khu
vực này không những rất dồi dào mà còn rất dẻ, do đó sẽ giúp cho
22
các DNV&N giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả kinh
doanh của mình.
DNV&N thường áp dụng kỹ thuật phù hợp với kỹ thuật thủ công
và kỹ thuật phổ biến để nhanh chóng tiếp thu và làm chủ ít sử dụng
kỹ thuật tiên tiến đòi hỏi lượng vốn lớn vì vậy tận dụng được kỹ
thuật trong nước, thúc đẩy công nghệ cải tiến kỹ thuật.
c. Tạo sự năng động, hiệu quả và thúc đẩy chuyển dịch kinh tế
theo hướng CNH –HĐH đất nước :với ưu thế về tính linh hoạt và
lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DNV&N có khả năng chuyển
đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ cho phù
hợp với môi trường kinh doanh. Vì vậy các DNV&N làm cho nền
kinh tế thêm năng động hơn trên thực tế các DNV&N có tốc độ gia
tăng lớn hơn rất nhiều các doanh nghiệp lớn. Sự gia tăng về số
lượng các DNV&N làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc có nhiều nguồn lực được huy
động vào mục tiêu phát triển kinh tế. Nói cách khác DNV&N giúp
nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.
Tóm lại: DNV&N giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Phát
triển hướng đi này là một hướng đi đúng đắn trong điều kiện nước
ta hiện nay do đó các Ngân hàng thương mại phải có những biện
pháp hỗ trợ DNV&N góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của
nền kinh tế đất nước.
1.3.Tín dụng ngân hàng đối với các DNV&N
1.3.1.Khái niệm và phân loại tín dụng.
23

1.3.1.1 Khái niệm về tín dụng.
Theo luật ngân hàng các nước định nghĩa:” Cấu thành một nghiệp vụ
tín dụng bất cứ động tác nào, qua đó một người đưa vốn hoặc hứa
đưa vốn cho người khác dùng, các cam kết cho người này bằng bảo
đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. (Nguồn từ phòng tín
dụng..)
Theo đó, tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn, hoàn trả. Trong
quan hệ này thể hiện những nội dung sau:
+Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định.
+Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời
gian nhất đinh, sau khi khoản vay đó hết thời hạn sử dụng theo thỏa
thuận giữa người đi vay và người cho vay, người đi vay phải hoàn
trả cho người cho vay phần vốn gốc cộng với khoản chi phí cơ hội
mà người cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn.
+Thông thường giá trị hoàn trả được lớn hơn lúc hai bên kỹ kết hợp
đồng tín dụng.
1.3.1.2. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò
quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời đây là loại tài sản
chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động
đặc trưng của ngân hàng.
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ tín
dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng – một tổ chức chuyên
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân
24
trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người
cho vay.
Với định nghĩa trên ta có thể hiểu khi đề cập tới tín dụng ngân hàng
là đề cập đến cả hai hoạt động: đi vay, và cho vay.

-Đi vay: huy động vốn. Hoạt động này do bộ phận nguồn vốn đảm
nhận.
-Cho vay: hoạt động này do bộ phận tín dụng đảm nhận.
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong
đó ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là các tổ chức cá
nhân, xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi
vào thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thỏa thuận.
Theo định nghĩa này tín dụng ngân hàng ở đây mang nghĩa hẹp hơn,
giới hạn bên cho vay là ngân hàng.
1.3.1.3. Phân loại tín dụng.
* Phân loại theo thời gian cấp tín dụng.
-Tín dụng có kỳ hạn: là khoản tín dụng có thời hạn xác định ngày trả
nợ. Theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
cùng với quyết định cùng với quyết định 1627/2001/QD-NHNN-
31/12/2000 của Thống đốc, khi phân loại theo thời hạn cấp tín dụng
thì:
+Cho vay ngắn hạn: tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với
chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
+Cho vay trung hạn: từ trên 12 – 60 tháng thời gian cho vay được
xác định phù hợp với thời gian thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả
25

×