Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

31 Các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.96 KB, 118 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠIBỘ GIÁO DỤCTẾ TP. HỒ CHÍ MINH
HỌC KINH VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

×&Ø
×&Ø

LÊ THỊ THANH THỦY
LÊ THỊ THANH THỦY

CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU
CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU
TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH
TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH
TỈNH NINH THUẬN
TỈNH NINH THUẬN
Chuyên ngành: KINH TẾ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Mã số: 60.31.12
Chuyên ngành: KINH TẾ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS - NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Tiến sĩ NGUYỄN NGỌC ĐỊNH



PGS - Tiến sĩ NGUYỄN NGỌC ĐỊNH

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008


2

PHẦN MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trước yêu cầu của hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, cùng với sự phát triển của
các ngành kinh tế khác, ngành du lịch có những bước phát triển đáng kể và ngày càng tỏ
rõ vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu kinh tế chung. Du lịch đã và đang ngày càng
trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Du lịch không chỉ đem
đến cho con người những cảm xúc tuyệt vời thơng qua các loại hình nghỉ dưỡng, tắm
biển, tham quan, vui chơi giải trí, hành hương tìm về cội nguồn, thiên nhiên... mà du lịch
còn là thước đo chất lượng cuộc sống, một ngành “cơng nghiệp khơng khói” đem lại hiệu
quả xã hội vô cùng to lớn ở nhiều nước trên thế giới và khu vực. Trong mối quan hệ phát
triển tổng hòa của nền kinh tế, du lịch phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của
các ngành kinh tế khác. Du lịch còn là cơ hội, là chiếc cầu nối quan trọng nhằm phát triển
mạnh mẽ các mối quan hệ giao lưu văn hóa, hữu nghị, phát triển khoa học kỹ thuật, hợp
tác và ngoại giao giữa các vùng miền, các quốc gia, các khu vực trên toàn thế giới. Do
vậy, việc mở rộng đẩy mạnh hoạt động kinh doanh du lịch là một xu hướng phát triển tất
yếu của tất cả các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Ninh Thuận là tỉnh ven biển Nam Trung Bộ, có vị trí địa lý thuận lợi cho hoạt
động du lịch do nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt (Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam)
và nằm ở ngã 3 của vùng trọng điểm du lịch cả nước Đà Lạt - Phan Rang - Nha Trang,
được xác định là một trong những vùng trọng điểm trong chiến lược phát triển du lịch của
cả nước từ nay đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đặc biệt, Ninh
Thuận có các bãi biển đẹp, nhiều hệ sinh thái đặc trưng với các lồi động thực vật phong

phú, khí hậu khác nhau gồm có vùng biển, vùng đồng bằng, trung du và miền núi. Đây là
tiềm năng lợi thế rất lớn để phát triển du lịch.
Do đó, định hướng phát triển du lịch của tỉnh Ninh Thuận trong những năm tới là
khai thác có hiệu qủa các tiềm năng và lợi thế; phát triển một cách toàn diện cả du lịch
biển, du lịch văn hoá, và du lịch sinh thái gắn với du lịch lịch sử, đưa du lịch thật sự trở
thành ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh.


3

Tuy nhiên, là một tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển du lịch nhưng so
với 2 tỉnh Nha Trang và Lâm Đồng thì ngành du lịch của tỉnh Ninh Thuận vẫn còn non
trẻ, lượng khách du lịch hàng năm đến Ninh Thuận vẫn còn thấp, chưa khai thác có hiệu
qủa và chưa phát triển ngang tầm với vị trí thuận lợi và tiềm năng của nó do công tác khơi
thông và huy động vốn đầu tư để phát triển các dự án du lịch Ninh Thuận thời gian qua
cịn nhiều khó khăn, bất cập. Trăn trở với thực trạng đó, tơi chọn đề tài: “Các giải pháp
huy động vốn đầu tư để phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Thuận” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn thạc sĩ của mình.
II. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích nghiên cứu của đề tài là ứng dụng lý luận về vốn và các kênh huy động
vốn đầu tư để phân tích thực trạng huy động vốn trong quá trình phát triển du lịch tỉnh
Ninh Thuận trong thời gian qua, đánh giá những thuận lợi và thách thức, những kết qủa
đạt được và những hạn chế, vướng mắc, từ đó đề ra những giải pháp huy động vốn đầu tư
để phát triển ngành du lịch Ninh Thuận giai đoạn đến 2010 và tầm nhìn đến 2015.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Huy động vốn đầu tư phát triển cho một ngành
kinh tế là vấn đề có phạm vi rộng. Do điều kiện thời gian và khả năng có hạn nên đề tài
chủ yếu nghiên cứu tập trung đánh giá quá trình phát triển du lịch, thực trạng huy động
vốn và đề xuất các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận. Tuy
nhiên, trong q trình nghiên cứu, có đánh giá minh họa thêm kinh nghiệm một số nước
trong khu vực và một số địa phương trong nước nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

III. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong đề tài là phương pháp duy vật biện
chứng.Vận dụng các phương pháp mơ tả, so sánh, thống kê, phân tích với nguồn số liệu
được thu thập từ niên giám thống kê, các báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, các Sở, ban
ngành trong tỉnh và từ nguồn khác.


4

IV. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư và vốn đầu tư
Chương 2: Thực trạng huy động vốn đầu tư cho phát triển du lịch tỉnh Ninh
Thuận.
Chương 3: Các giải pháp huy động vốn đầu tư để phát triển kinh tế du lịch tỉnh
Ninh Thuận đến 2010.


5

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ
1.1. Tổng quan về đầu tư và vốn đầu tư cho phát triển kinh tế
1.1.1. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư
1.1.1.1. Đầu tư
Trong các mơ hình kinh tế vĩ mơ đơn giản, xét về phương diện tiêu dùng thì đầu tư
là bộ phận hợp thành lớn thứ hai sau nhu cầu. Khái niệm đầu tư theo nghĩa rộng bao hàm
hai phạm trù phân biệt:
- Một mặt, đầu tư liên quan đến việc mua sắm tài sản tài chính như: cổ phiếu, trái
phiếu và các loại chứng khốn khác, đó là loại đầu tư tài chính. Các tài sản tài chính có

thể có thể có được từ các đợt phát hành mới hay được mua lại trên thị trường tài chính.
- Mặt khác, đầu tư nhằm vào việc mua sắm các tài sản vật chất như máy móc, thiết
bị, nhà xưởng,… hay cịn gọi là hàng hố đầu tư vật chất.
Việc mua sắm các tài sản tài chính được xem như một việc đầu tư bởi người mua
hy vọng chúng sẽ đem lại nguồn thu nhập trong tương lai (chẳng hạn như cổ tức hay lãi
của trái phiếu…). Tuy nhiên, ở đây không xuất hiện sự gia tăng nguồn vốn mới cho nền
kinh tế bởi vì việc mua bán một sản phẩm tài chính sẽ là sự đầu tư đối với người mua nó
nhưng lại là sự giảm đầu tư đối với người bán. Hay nói cách khác, về phương diện kinh tế
vĩ mô, các khoản đầu tư và giảm đầu tư về tài sản tài chính bù trừ cho nhau.
Như vậy, chỉ có sự tạo ra các hàng hóa đầu tư vật chất (máy móc, thiết bị, nhà
xưởng,…) sẽ khơng dẫn đến hiện tượng bù trừ và hình thức đầu tư loại này mới thực sự
đem lại sự gia tăng phát triển cho nền kinh tế. Chính việc tạo ra hàng hóa đầu tư vật chất
mới này sẽ tạo thêm việc làm mới và kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất bổ trợ
khác, trong khi tài sản tài chính trên thị trường thứ cấp khơng ảnh hưởng trực tiếp với hai
q trình đó. Và cũng chính vì điều đó mà loại đầu tư này được xem là đầu tư có tính chất
phát triển, gọi tắt là đầu tư phát triển.
Tổng giá trị các hàng hóa đầu tư mới được sản xuất trong nền kinh tế ở thời kỳ
nhất định tạo nên tổng lượng đầu tư. Nhưng vì các hàng hóa vốn này được sử dụng và


6

phần nào bị hao mịn trong năm đó để phục vụ sản xuất nên một phần hàng hóa đầu tư
được dành cho đầu tư thay thế, phần còn lại tạo nên khoản bổ sung cho tổng giá trị tư bản
vật chất của nền kinh tế và được gọi là đầu tư rịng.
Như vậy, để có nguồn đầu tư mới cho nền kinh tế, điều kiện cần có là làm sao cho
các doanh nghiệp và những nhà đầu tư hy vọng rằng họ sẽ nhận được một khoản lợi
nhuận từ việc đầu tư vào hàng hóa mới cao hơn khoản lãi do mua tài sản tài chính trên thị
trường. Theo quan điểm của kinh tế học thì tổng thu nhập của nền kinh tế (Y) tức là tổng
sản phẩm quốc dân GNP thường được biểu hiện ở mơ hình đơn giản:

Y=C+S

(1)

Trong đó: C: tiêu dùng, S: tiết kiệm. Tuy nhiên, kinh tế học luôn giả định rằng
phần không sử dụng mục đích tiêu dùng - phần tiết kiệm (S) là phần tài sản được tích luỹ
cho mục đích đầu tư. Do vậy: Y = C + I

(2)

Từ (1) và (2), suy ra S = I
Từ đó, có thể thấy tiết kiệm hay tích lũy vốn với mục đích là để đầu tư. Hay nói
cách khác, đầu tư là từ bỏ tiêu dùng hiện tại để đổi lấy sản lượng cao hơn và như vậy gia
tăng tiêu dùng trong tương lai.
Qua phân tích trên cho thấy:
- Đầu tư theo nghĩa rộng được hiểu là bao hàm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Chỉ có đầu tư trực tiếp rịng tức là đầu tư tạo ra hàng hóa vốn mới làm tăng nguồn vốn
cho nền kinh tế xét về tổng thể.
- Để cho nền kinh tế có thêm được nguồn vốn, điều quan trọng và mang tính quyết
định là làm thế nào cho những người có ý định đầu tư tin tưởng rằng họ sẽ nhận được
khoản hiệu qủa (kinh tế, chính trị, xã hội) do đầu tư vào hàng hóa vốn đem lại cao hơn
việc bỏ vốn đầu tư vào các hoạt động khác.
- Hoạt động vốn đầu tư luôn gắn liền với rủi ro như rủi ro kinh doanh, rủi ro tài
chính.
Từ đó, chúng ta có thể dẫn đến khái niệm đầu tư như sau:


7

- Theo quan điểm của doanh nghiệp: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh trên

cơ sở chấp nhận rủi ro nhất định để thu được số lợi nhuận lớn hơn số vốn đã bỏ ra.
- Theo quan điểm của xã hội: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển, chấp nhận rủi
ro nhất định nhằm thu được hiệu qủa nhất định vì mục tiêu phát triển quốc gia.
1.1.1.2. Vốn đầu tư
Tài sản của một quốc gia bao gồm tài nguyên thiên nhiên, môi trường, tài sản
được sản xuất ra và tích lũy lại trong suốt q trình hình thành và phát triển, nguồn nhân
lực và tri thức.
Quá trình phát triển của mỗi quốc gia, địa phương ln đòi hỏi phải tạo ra được
những tài sản mới nhằm bù đắp được những tài sản đã tiêu hao trong q trình sử dụng;
đồng thời khơng ngừng tăng thêm khối lượng và chất lượng tài sản quốc gia. Để đáp ứng
u cầu và địi hỏi đó, quốc gia, địa phương phải huy động, đầu tư những yếu tố cần thiết
cho tồn bộ q trình hoạt động sản xuất kinh doanh từ cơng cụ, tài sản cố định, thiết bị
máy móc, nguyên nhiên vật liệu, lao động, công nghệ,… và tất cả những yếu tố đó được
xem là nguồn vốn đầu tư để tạo ra thu nhập tài sản quốc gia, địa phương.
Như vậy, vốn đầu tư được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ nguồn lực đưa vào hoạt
động của nền kinh tế xã hội, bao gồm tài nguyên, đất đai, môi trường, tri thức, công nghệ
và kể cả những tài sản hiện hữu như máy móc thiết bị, nhà xưởng… Và vốn đầu tư hiểu
theo nghĩa hẹp thì chính là nguồn lực được thể hiện bằng tiền của các cá nhân, doanh
nghiệp và quốc gia.
1.1.2. Mục tiêu đầu tư
1.1.2.1. Đối với doanh nghiệp
Trong một thời gian nhất định, một doanh nghiệp có thể có một hay nhiều mục
tiêu đồng thời, các mục tiêu của doanh nghiệp có thể thay đổi theo thời gian, bao gồm các
loại mục tiêu đầu tư như tối đa hóa lợi nhuận; duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp; tăng
cường uy tín của sản phẩm và của doanh nghiệp; tăng giá trị của doanh nghiệp. Tóm lại,
mục tiêu của doanh nghiệp là “lợi nhuận”.


8


1.1.2.2. Đối với Nhà nước
Đứng trên quan điểm quốc gia, mục tiêu của đầu tư là làm tăng trưởng GDP tạo
nguồn thu cho ngân sách; tạo ra việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người dân, cải thiện phân phối thu nhập; sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Những mục tiêu trên phải được đặt ra trong mối quan hệ cân nhắc nhằm hạn chế
tối đa những mặt trái của đầu tư gây ảnh hưởng không tốt, mang mầm mống tiêu cực cho
nền kinh tế - văn hóa - xã hội của một quốc gia.
1.1.3. Phân loại đầu tư
1.1.3.1. Theo đặc điểm đầu tư
a. Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn tham gia trực tiếp vào quá
trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức
hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra (người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ
thể). Hoạt động đầu tư này có thể được thực hiện dưới các dạng: hợp đồng hợp tác, liên
doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…; Đầu tư trực tiếp của nước ngoài
tại Việt Nam.
b. Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt đông kinh tế nhằm đem lại hiệu qủa
cho bản thân người bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu qủa cho bản thân
người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có vốn không trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường được thực hiện dưới dạng: cổ phiếu, tín
phiếu,…
1.1.3.2. Theo tính chất sử dụng vốn đầu tư
a. Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là phương thức đầu tư trực tiếp; trong đó, việc bỏ vốn nhằm gia
tăng giá trị tài sản. Sự gia tăng giá trị tài sản trong đầu tư phát triển nhằm tạo ra những
năng lực mới hoặc cải tạo, mở rộng, nâng cấp năng lực hiện có vì mục tiêu phát triển.


9


Đối với các nước đang phát triển, đầu tư phát triển có vai trị quan trọng hàng đầu;
là phương thức căn bản để tái sản xuất mở rộng, tăng thu nhập quốc dân, tạo ra việc làm
và thu nhập cho người lao động như đầu tư để tạo mới, mở rộng, cải tạo hoặc nâng cấp
đường xá, cầu cống, doanh nghiệp sản xuất, cơ sở dịch vụ,…
b. Đầu tư dịch chuyển
Đầu tư dịch chuyển là phương thức đầu tư trực tiếp; trong đó, việc bỏ vốn nhằm
dịch chuyển quyền sở hữu giá trị tài sản. Trong đầu tư dịch chuyển, khơng có sự gia tăng
giá trị tài sản.
Đầu tư dịch chuyển có ý nghĩa quan trọng trong hình thành và phát triển thị trường
vốn, thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái…, hỗ trợ cho hoạt động đầu tư phát
triển như hoạt động mua bán cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường vốn…
1.1.3.3. Theo ngành đầu tư
a. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước…Cơ
sở hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, nhà trẻ, cơ sở văn hóa, thể thao…
Đối với các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng rất yếu kém và mất cân đối
nghiêm trọng. Cơ sở hạ tầng cần được đầu tư phát triển, đi trước một bước, tạo tiền đề
phát triển các lĩnh vực kinh tế khác.
b. Đầu tư vào lĩnh vực sản xuất
b.1. Đầu tư phát triển công nghiệp
Đầu tư phát triển công nghiệp là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các
cơng trình cơng nghiệp.
Trong cơng cuộc phát triển ở Việt Nam hiện nay, đầu tư công nghiệp đất nước
theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là chính yếu nhằm gia tăng giá trị sản lượng
công nghiệp trong GDP.



10

b.2. Đầu tư phát triển nông nghiệp
Đầu tư phát triển nông nghiệp là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các
cơng trình nơng nghiệp.
Việt Nam từ điểm xuất phát là một nước nông nghiệp, với lợi thế so sánh trong
nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực. Vì thế đầu tư phát triển nơng nghiệp có ý
nghĩa chiến lược, lâu dài nhằm đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và tỷ trọng giá trị
sản lượng nông nghiệp hợp lý trong GDP.
c. Đầu tư phát triển dịch vụ
Đầu tư phát triển dịch vụ là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các cơng
trình dịch vụ (thương mại, khách sạn-du lịch, dịch vụ khác,…).
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư dịch vụ là xu thế phát triển nhằm
gia tăng tỷ trọng giá trị dịch vụ trong GDP ở Việt Nam trong quá trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
1.1.3.4. Theo tính chất đầu tư
a. Đầu tư theo chiều rộng (đầu tư mới)
Đầu tư mới là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm hình thành các cơng trình
mới. Trong đầu tư mới, cùng với việc hình thành các cơng trình mới, địi hỏi có bộ máy
quản lý mới. Đầu tư mới có ý nghĩa quyết định trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Đầu tư mới đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, trình độ cơng nghệ và quản lý mới.
b. Đầu tư chiều sâu
Đầu tư chiều sâu là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nhằm cải tạo, mở rộng,
nâng cấp, hiện đại hóa, đồng bộ hóa dây chuyền sản xuất, dịch vụ trên cơ sở các cơng
trình đã có sẵn.
Trong đầu tư chiều sâu, tiến hành việc cải tạo, mở rộng và nâng cấp các cơng trình
có sẵn, với bộ máy quản lý đã hình thành từ trước khi đầu tư.


11


Đầu tư chiều sâu là hình thức đầu tư ưu tiên đối với các nước đang phát triển trong
điều kiện cịn thiếu vốn, cơng nghệ và quản lý. Đầu tư chiều sâu cần được xem xét trước
khi có quy định đầu tư mới.
c. Tận dụng năng lực sản xuất - dịch vụ
Trước khi quyết định đầu tư, dù là đầu tư mới hay đầu tư chiều sâu; cần đánh giá
đúng năng lực sản xuất - dịch vụ hiện có. Nếu năng lực sản xuất - dịch vụ của một ngành,
sản phẩm kinh tế - kỹ thuật chưa được tận dụng, trên quan điểm tiết kiệm và hiệu qủa,
cần huy động các giải pháp để sử dụng 100% công suất thiết kế của năng lực sản xuất đã
có.
1.1.4. Các nguồn vốn đầu tư
Trong tổng thu nhập của mỗi nước, nguồn hình thành vốn đầu tư là từ quỹ bù đắp
và quỹ tích lũy. Đây chính là phần cịn lại sau khi đã trừ đi phần tiêu dùng, trong đó quỹ
tích lũy là bộ phận quan trọng nhất. Quỹ tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm.
Nền kinh tế càng phát triển, thu nhập càng cao thì tỷ lệ tích lũy càng cao. Đối với các
nước đang phát triển, do thu nhập cịn thấp nên quy mơ và tỷ lệ tích lũy đều thấp, trong
khi đó nhu cầu nguồn vốn đầu tư rất cao. Vì vậy, rất cần đến nguồn vốn đầu tư nước
ngoài.
Mặt khác, trong xu hướng chu chuyển vốn quốc tế và tồn cầu hóa kinh tế hiện
nay, ngay cả các nước phát triển vẫn có sự kết hợp giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và
ngoài nước để phát triển kinh tế. Như vậy vốn đầu tư của mỗi nước được hình thành từ
tiết kiệm trong nước và tiết kiệm nước ngoài.
Tiết kiệm trong nước bao gồm tiết kiệm của Nhà nước, tiết kiệm của doanh nghiệp
và tiết kiệm của cộng đồng dân cư. Đây là nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước.
Tiết kiệm của nước ngồi hình thành vốn đầu tư nước ngồi được hình thành dưới
dạng đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài.
1.1.4.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư thể hiện sức mạnh nội lực của một quốc gia. Nguồn vốn này có
ưu điểm là ổn định, bền vững, chi phí thấp, giảm thiểu được rủi ro và hậu qủa xấu đối với



12

nền kinh tế do những tác động từ bên ngoài. Mặc dù ngày nay các dịng vốn nước ngồi
ngày càng trở nên đặc biệt không thể thiếu đối với các nước đang phát triển nhưng nguồn
vốn trong nước vẫn giữ vị trí quyết định.
a. Vốn Ngân sách nhà nước
Tiết kiệm của ngân sách Nhà nước chính số chênh lệch dương giữa tổng các khoản
thu mang tính khơng hồn lại (chủ yếu là các khoản thu thuế) với tổng chi tiêu dùng của
ngân sách. Tổng thu ngân sách sau khi chi cho các khoản chi thường xun, cịn lại hình
thành nguồn vốn đầu tư phát triển.
Như vậy, vốn đầu tư của Nhà nước là một phần tiết kiệm của ngân sách để chi cho
đầu tư phát triển. Nguồn vốn này phụ thuộc vào khả năng tập trung thu nhập quốc dân
vào ngân sách và quy mô chi tiêu dùng của Nhà nước.
Đối với các nước đang phát triển, do tiết kiệm của nền kinh tế bị hạn chế bởi yếu
tố về thu nhập bình qn đầu người, do đó để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và mở rộng
đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải gia tăng tiết kiệm NSNN trên cơ sở kết hợp chính sách thuế
và chi tiêu. Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng, ổn định và có tính định hướng cao đối
với các nguồn vốn đầu tư khác.
b. Vốn của doanh nghiệp
Tiết kiệm của doanh nghiệp là số lãi rịng có được từ kết qủa kinh doanh. Đây là
nguồn tiết kiệm cơ bản để các doanh nghiệp tạo vốn cho đầu tư phát triển theo chiều rộng
và chiều sâu. Qui mô của tiết kiệm doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố như hiệu quả
kinh doanh, chính sách thuế, sự ổn định kinh tế vĩ mô,…
c. Vốn của dân cư
Vốn của dân cư là phần vốn của các hộ gia đình, các cá nhân và tổ chức đồn thể
xã hội. Đây là phần cịn lại của thu nhập sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế và sử dụng
cho mục đích tiêu dùng. Mức độ vốn của dân cư phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức thu
nhập bình qn đầu người, chính sách lãi suất, chính sách thuế và sự ổn định kinh tế vĩ
mô,…



13

Vốn của dân cư giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính, do khả năng
chuyển hóa nhanh chóng thành nguồn vốn đầu tư thơng qua các hình thức gửi tiết kiệm,
mua chứng khoán, trực tiếp đầu tư,… Vốn của dân cư cũng dễ dàng chuyển thành nguồn
vốn đầu tư của Nhà nước thơng qua các hình thức mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu
kho bạc hay chuyển thành vốn đầu tư của các doanh nghiệp thông qua việc mua trái
phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp phát hành.
Tóm lại, tiết kiệm là một quá trình nền kinh tế dành ra một phần thu nhập ở hiện
tại để tạo ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển, qua đó nâng cao hơn nữa nhu cầu
tiêu dùng trong tương lai. Tuy vậy, đối với nền kinh tế đang chuyển đổi, bước đầu thực
hiện chính sách cơng nghiệp hóa do nguồn tiết kiệm trong nước thấp, không đáp ứng đủ
nhu cầu vốn nên cần phải thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngồi để tạo ra cú hích cho sự
đầu tư phát triển nền kinh tế.
1.1.4.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
So với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn đầu tư nước ngồi có ưu thế là mang lại
ngoại tệ cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nguồn vốn nước ngồi lại ln chứa ẩn những nhân
tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh tế, đó là sự lệ thuộc; nguy cơ khủng hoảng nợ; sự
tháo chạy đầu tư; sự gia tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm trong nước… Do đó, vấn đề huy
động vốn nước ngồi đặt ra những thử thách khơng nhỏ trong chính sách huy động vốn
của các nền kinh tế đang chuyển đổi, đó là: Một mặt phải ra sức huy động vốn nước
ngoài để đáp ứng tối đa nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa; mặt khác phải kiểm sốt chặt
chẽ sự huy động vốn nước ngoài để ngăn chặn khủng hoảng. Để vượt qua những thử
thách đó địi hỏi Nhà nước phải sử dụng tốt các cơng cụ tài chính trong việc ổn định hóa
mơi trường kinh tế vĩ mơ, tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi cho sự vận động vốn nước
ngồi, điều chỉnh và lựa chọn các hình thức thu hút vốn sao cho có lợi cho nền kinh tế.
Về bản chất, vốn đầu tư nước ngoài cũng được hình thành từ tiết kiệm của các chủ
thể kinh tế nước ngồi và được huy động thơng qua các hình thức cơ bản sau:

a. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào trong nước để thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh dưới nhiều hình thức hợp


14

đồng hợp tác kinh doanh; liên doanh góp vốn hay thành lập các doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài và các hình thức khác như đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
kinh tế cao, thực hiện những hợp đồng BT, BOT, BTO.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hình thành từ tiết kiệm của tư nhân và các cơng ty
nước ngồi đầu tư vốn vào nước khác nhằm khai thác lợi thế so sánh, tận dụng các yếu tố
lao động, tài nguyên của địa phương, tiết kiệm chi phí vận chuyển để tăng lợi nhuận cho
việc đầu tư.
Đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang ý nghĩa
quan trọng trong việc tạo nên cú hích ban đầu cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế. Bên
cạnh nguồn vốn ngoại tệ, FDI còn mang theo cơng nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và khả
năng tiếp cận thị trường thế giới. Vì vậy, thu hút FDI đang trở thành hình thức huy động
vốn phổ biến, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển.
b. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là những khoản đầu tư thực hiện thông qua các
hoạt động cho vay và viện trợ. Nguồn vốn có thể là của chính phủ các nước, có thể là của
các tổ chức quốc tế được huy động thơng qua các hình thức cơ bản sau:
* Vốn tài trợ phát triển chính thức (Official Development Asistance - ODA)
Đây là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác phát triển do chính phủ các nước
ngồi hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức
phi chính phủ cho một nước tiếp nhận. Nguồn vốn ODA bao gồm viện trợ khơng hồn
lại, các khoản vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, khối lượng vốn vay và thời hạn
thanh toán nhằm hỗ trợ cán cân thanh tốn, hỗ trợ các chương trình, dự án…
Nguồn vốn ODA tuy có ưu điểm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm

nghèo (phát triển cơ sở hạ tầng; thực hiện các chương trình xã hội, phát triển giáo dục
đào tạo và con người; phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng nông nghiệp, nơng thơn và
các địa phương có hồn cảnh đặc biệt khó khăn) và hỗ trợ cải cách (cải cách chính sách
và thể chế; điều chỉnh cơ cấu và cải cách kinh tế; cải cách hành chính và luật pháp).


15

Tuy nhiên, các nước tiếp nhận viện trợ thường xuyên phải đối mặt những thử
thách rất lớn đó là rủi ro kinh tế vĩ mô (nguy cơ nợ nần, nguy cơ tỷ giá hối đoái, nguy cơ
lệ thuộc nguồn vốn đầu tư bên ngoài và các tệ nạn đi kèm như tham nhũng gây thất thoát
nguồn vốn); rủi ro can thiệp từ bên ngoài (chấp nhận các điều kiện và ràng buộc khắt khe
về thủ tục chuyển giao vốn; động cơ chính trị của các nhà tài trợ). Mỗi tổ chức, mỗi chính
phủ đều có những phương cách và thơng lệ riêng trong việc cung cấp ODA nhằm để đạt
được những mục tiêu chính sách riêng của họ. Bên cạnh đó, do trình độ quản lý của các
nước tiếp nhận viện trợ còn thấp nên hiệu qủa sử dụng vốn này không cao, làm cho nhiều
nước lâm vào cảnh nợ nần chồng chất và nền kinh tế không phát triển được. Do đó, vấn
đề quan trọng là cần phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA để đạt
được những mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra.
* Vốn viện trợ của các tố chức phi chính phủ (Non-Government Organization
- NGO)
Đây là các khoản viện trợ khơng hồn lại. Trước đây loại viện trợ này chủ yếu là
vật chất, phục vụ cho mục đích nhân đạo như cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế,
chỗ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai… Hiện nay loại viện trợ này được thực
hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia
như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khỏe, thiết lập các dự án tín dụng,
cung cấp nước sạch ở nông thôn, cung cấp dinh dưỡng và sức khỏe ban đầu…
* Những khoản đầu tư thông qua thị trường tài chính
Thị trường tài chính, trong đó có thị trường vốn trung và dài hạn, cung cấp những
nguồn tài trợ trung và dài hạn cho Chính phủ một nước và các doanh nghiệp, ngày nay

khơng cịn giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà sự phát triển mạnh mẽ của nó đã mở
ra nhiều triển vọng cho Chính phủ và các doanh nghiệp của một nước để huy động vốn
trên bình diện quốc tế.
Các nhà đầu tư sẽ thực hiện đầu tư gián tiếp thơng qua hình thức mua bán chứng
khốn được Chính phủ hay các doanh nghiệp thuộc một quốc gia nào phát hành trên thị
trường tài chính nước ngoài hay khu vực.


16

Đầu tư gián tiếp thông qua qua thị trường tài chính (FPI) có ưu điểm góp phần bổ
sung thêm nguồn vốn cho nền kinh tế cũng như thúc đẩy việc củng cố và cải tiến hoạt
động của các thị trường vốn nội địa. Điều này sẽ khiến cho vốn và các nguồn lực trong
nền kinh tế được phân bổ tốt hơn, tạo cơ hội đa dạng hóa danh mục đầu tư, cải thiện khả
năng quản lý rủi ro và thúc đẩy sự gia tăng của tiết kiệm và đầu tư với kết quả là nền kinh
tế sẽ trở nên vững mạnh hơn cà tăng trưởng kinh tế sẽ được thúc đẩy.
Tuy nhiên, sự gia tăng mạnh mẽ và quá mức dịng vốn FPI thơng qua hình thức
đầu tư này vào trong nước sẽ khiến cho nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng phát triển q
nóng (bong bóng); sự di chuyển quá mức của dòng vốn FPI sẽ khiến cho hệ thống tài
chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng một khi gặp phải các cú sốc từ
bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế; đồng thời dịng vốn FPI cũng làm giảm tính
độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá gây nên những hậu qủa tiêu cực cho nền kinh tế..
Tóm lại, nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được sử dụng có hiệu qủa sẽ có
tác dụng thúc đẩy, khuyến khích và tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối
với các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là nguồn vốn rất quý
giá, cần phải tận dụng và khai thác có hiệu quả, tạo thành địn bẩy kích thích tăng trưởng
kinh tế.
1.1.5. Các công cụ huy động vốn đầu tư
Huy động vốn đầu tư là quá trình tổ chức khai thác các nguồn lực tài chính đưa
vào phục vụ cho đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Chính vì thế, chính sách

huy động vốn là hướng vào nâng cao tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư từ các khu vực kinh tế để
gia tăng thêm khối lượng vốn mới cho nền kinh tế. Các công cụ huy động vốn thường
được sử dụng là:
1.1.5.1. Các công cụ thuộc chính sách tài chính – tiền tệ
a. Thuế
Thuế là cơng cụ để nhà nước huy động, tập trung các nguồn lực tài chính của xã
hội vào ngân sách dưới hình thức cưỡng chế, bắt buộc. Tạo lập nguồn thu cho NSNN là
chức năng cơ bản của thuế. Theo kinh nghiệm phát triển, để có được nguồn thu từ thuế
khơng những đáp ứng cơ bản các nhu cầu chi tiêu dùng mà còn dành ra một phần thỏa


17

đáng tạo nguồn vốn cho sự đầu tư phát triển, thì địi hỏi nhà nước phải thiết lập một hệ
thống thuế có hiệu qủa, được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản đó là thuế phải
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia, phải có độ nổi – tính ổn định và phải đảm
bảo tính trung lập và đơn giản.
b. Tín dụng
Tín dụng được xem là chiếc cầu nối giữa các nguồn cung cầu về vốn tiền tệ trong
nền kinh tế. Bằng việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các cá nhân, các tổ
chức kinh tế để bổ sung kịp thời cho những doanh nghiệp, cá nhân kể cả ngân sách đang
gặp thiếu hụt về vốn trên ngun tắc có hồn trả, các tổ chức tín dụng góp phần quan
trọng trong việc điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh
khơng bị gián đoạn, đồng thời còn giúp các doanh nghiệp bổ sung vốn đầu tư mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, từ đó thúc đẩy kinh
tế phát triển. Tín dụng bao gồm tín dụng Nhà nước và tín dụng ngân hàng.
Xét trên góc độ huy động vốn, tín dụng nhà nước là hoạt động đi vay do nhà nước
tiến hành nhằm cân đối ngân sách khi mà nguồn thu thuế và các nguồn khác không đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu chi tiêu của ngân sách. Tín dụng nhà nước giúp nhà nước huy
động và tập trung được nguồn thu lớn tạo điều kiện cho ổn định kinh tế vĩ mô, phân bổ

lại nguồn lực tài chính, nâng cao nguồn vốn tập trung để thỏa mãn nhu cầu đầu tư của
nhà nước.
Tín dụng nhà nước được thực hiện nhằm vay nợ trong nước thông qua các cơng cụ
như cơng trái, tín phiếu ngắn hạn, trái phiếu dài hạn phát hành trong nước. Bằng việc phát
hành các chứng khoán này, nhà nước cung cấp cho thị trường tài chính một khối lượng
hang hóa lớn, ít rủi ro làm phong phú thêm sản phẩm để phát triển thị trường.
Tín dụng nhà nước cũng được thực hiện nhằm vay nợ nước ngoài bằng việc vay từ
nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA, phát hành trái phiếu của nhà nước trên thị
trường quốc tế. Tín dụng nhà nước là một kênh huy động vốn cần thiết và quan trọng để
bù đắp bội chi ngân sách và tạo nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, việc vay nợ phải được
kiểm soát một cách chặt chẽ để tránh tình trạng vay quá giới hạn cho phép, dẫn đến áp
lực nặng nề của việc trả nợ cũng như mất cân đối giữa đầu tư của ngân sách và đầu tư của


18

khu vực doanh nghiệp và dân cư làm gia tăng lãi suất huy động vốn, gây hạn chế việc vay
vốn đầu tư.
Tín dụng ngân hàng là cơng cụ thu hút vốn nhãn rỗi của các doanh nghiệp và dân
cư để cho vay. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian tín dụng bằng việc
cho vay những nguồn tiền huy động được đã cung cấp cho nền kinh tế một khoản vốn
đầu tư cần thiết để phát triển. Bên cạnh việc thực hiện nghiệp vụ vay và cho vay, các
ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ đầu tư vốn dưới các hình thức đầu tư trực tiếp như
hùn vốn liên doanh, liên kết, thành lập cơng ty, xí nghiệp bằng vốn tự có của mình; hoặc
đầu tư gián tiếp như sử dụng các nguồn vốn huy động có thời hạn và vốn tự có để đầu tư
vào cổ phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác, và hưởng thu nhập qua chênh lệch
giá trên thị trường thứ cấp.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hóa kinh tế diễn ra ngày càng
sâu rộng, quá trình điều tiết và chu chuyển vốn đã vượt khỏi giới hạn của một quốc gia
làm hình thành các quan hệ tín dụng quốc tế, tín dụng khơng chỉ là một kênh quan trọng

thu hút vốn đầu tư từ trong nước mà còn là một nhân tố thúc đẩy huy động vốn đầu tư
nước ngoài.
c. Các quỹ hỗ trợ tài chính nhà nước
Là cơng cụ tài chính năng động để đa dạng hóa sự huy động các nguồn lực tài
chính của xã hội vào nhà nước, qua đó tiến hành hỗ trợ đầu tư ở một số lĩnh vực hay hoạt
động có tính chất ưu tiên cần khuyến khích nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội.
Trên góc độ này, quỹ hỗ trợ tài chính của nhà nước có tác dụng rất tích cực trong
việc tăng cường thu hút vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, tính hợp lý
việc thành lập và phát triển các quỹ hỗ trợ tài chính khơng những tạo cho nước tăng thêm
công cụ để gia tăng nguồn lực tài chính, thực hiện tốt vai trị quản lý vĩ mơ mà cịn góp
phần hình thành và phát triển thị trường tín dụng hỗ trợ của nhà nước để hướng vào khai
thác nội lực, nâng tỷ lệ vốn hóa các nguồn tích lũy đưa vào đầu tư phát triển.


19

1.1.5.2. Thị trường tài chính và các cơng cụ trên thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi tập trung các quan hệ cung cầu về vốn và tại đây các
loại chứng khoán được các chủ thể thị trường sử dụng như là cơng cụ tài chính để giải
quyết nhu cầu giao lưu vốn. Cụ thể hơn, trên thị trường tài chính, đối với người cần vốn,
chứng khốn là cơng cụ tài chính để huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn, ngắn
hạn; còn đối với người thừa vốn, thì chứng khốn là cơng cụ đầu tư để mang lại những
khoản thu nhập nhất định.
Dựa vào khuôn khổ của luật pháp quy định, các chủ thể huy động vốn trên thị
trường tài chính phải chủ động xây dựng chiến lược phát hành chứng khốn một cách có
hiệu quả, trong đó cần minh chứng cho các nhà đầu tư phải thật hấp dẫn; tạo ra nhiều tiện
ích, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư…
Đối với nền kinh tế đang chuyển đổi, để thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển thị
trường tài chính nhằm tạo vốn cho tiến trình cơng nghiệp hố, nhà nước phải chủ động

tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự ra đời và vận hành của một thị trường tài chính có
hiệu qủa, đó là ổn định kinh tế; thực hiện chính sách kích thích tiết kiệm đầu tư, chính
sách cổ phần hóa DNNN, chính sách kích cung và kích cầu chứng khốn và những khn
khổ pháp lý cho sự chuyển nhượng, mua bán chứng khoán trên thị trường,…
1.1.5.3. Các cơng cụ tài chính vĩ mơ hỗ trợ cho quá trình huy động vốn
a. Chi ngân sách nhà nước
Mặc dù đây không phải là công cụ trực tiếp huy động nguồn lực tài chính cho nhà
nước nhưng nó có tác động đến việc làm mở rộng hay thu hẹp nguồn vốn đầu tư mà nhà
nước cung ứng cho nền kinh tế cũng như làm biến đổi quy mô tiết kiệm - đầu tư của khu
vực kinh tế tư nhân thông qua việc phân phối nguồn lực tài chính tập trung thành 2 quỹ
tiêu dùng và quỹ đầu tư.
b. Các cơng cụ tài chính thuộc chính sách tiền tệ
+ Lãi suất
Trên thị trường tài chính, lãi suất được xem như là giá cả của tín dụng. Trên góc
độ kinh tế vĩ mô, lãi suất là công cụ để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Do


20

đó, lãi suất ít nhạy cảm với quan hệ cung cầu về vốn. Một khi có sự mất cân đối quan hệ
cung cầu vốn thì diễn ra quá trình phân phối lại thu nhập giữa người đi vay và cho vay
thông qua sự thay đổi tăng hay giảm lãi suất. Chính đặc tính này mà lãi suất có tác động
đến sự phân phối nguồn tài chính xã hội trong mối tương quan giữa tiết kiệm và đầu tư.
Trong ngắn hạn, lãi suất càng cao thì khích lệ cơng chúng hạn chế tiêu dùng trong
hiện tại để tăng tiết kiệm trong thu nhập. Qua đó, từ khoản tiết kiệm này, họ sẽ chọn
hướng đầu tư vào hoạt động tài chính khi thấy có lợi hơn. Ngược lại, ở mức lãi suất cao
sẽ làm hạn chế các doanh nghiệp đi vay vốn để đầu tư do khi đó thu nhập có được từ các
dự án đầu tư khó bù được số lãi phải trả cho số tiền cho vay. Tình trạng này kéo dài sẽ
dẫn đến đầu tư của xã hội giảm.
+ Thị trường mở

Là hoạt động mà NHTƯ tham gia vào mua bán chứng khốn trên thị trường tài
chính để thực hiện chính sách tiền tệ. Bằng cơng cụ này, NHTƯ thực hiện thay đổi mức
cung tín dụng của các TCTD theo hướng mở rộng hay thu hẹp. Khi nền kinh tế mở cần
mở rộng mức cung tiền tệ, NHTƯ thực hiện nghiệp vụ mua bán chứng khoán và ngược
lại.
Đối với một nền kinh tế phát triển, công cụ thị trường mở đã tơ thêm vẻ đẹp cho
thị trường tài chính và trở thành cơng cụ có tính chủ đạo được NHTƯ sử dụng thường
xuyên trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và góp phần nâng cao hiệu suất của chính
sách huy động vốn.
Đối với nền kinh tế đang chuyển đổi, do hệ thống thị trường tài chính hoạt động
cịn yếu kém và chứng khốn của nó yếu cả về số lượng và chất lượng nên việc sử dụng
công cụ này ở mức rất hạn chế.
+ Dự trữ bắt buộc
Là số tiền mà các TCTD phải gửi lại NHTƯ theo một tỷ lệ phần trăm trên tổng số
tiền gửi để thực hiện chính sách tiền tệ. Dự trữ bắt buộc là cơng cụ có tính pháp định. Căn
cứ vào các diễn biến tình hình kinh tế và mục tiêu chính sách tiền tệ, NHTƯ có thể đặt ra
yêu cầu dự trữ trong một khuôn khổ giới hạn mà pháp luật cho phép.


21

+ Tỷ giá hối đoái
Gắn liến với sự vận động của hai đồng tiền trong mối tương quan so sánh sức mua
của chúng, tỷ giá hối đoái thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập của những đối
tượng có liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế. Do đó, sự tác động của tỷ giá hối
đối đến q trình huy động vốn của nền kinh tế được biểu hiện thơng qua những ảnh
hưởng của nó đến sự thay đổi tiết kiệm - đầu tư, cán cân thanh toán và sự ổn định kinh tế
vĩ mô.
1.2. Vốn đầu tư cho sự phát triển kinh tế và ngành du lịch.
1.2.1. Tổng quan về du lịch

1.2.1.1. Khái niệm về du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến trên toàn
thế giới; nhất là các nước đang phát triển, du lịch được coi là một cứu cánh để vực dậy
nền kinh tế ốm yếu. Cho đến nay, không chỉ ở nước ta nhận thức du lịch vẫn chưa thống
nhất, tùy theo hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu
khác nhau, mỗi người có mỗi cách hiểu về du lịch khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có
những định nghĩa du lịch thường gặp như sau:
+ Du lịch là một hoạt động của dân cư trong thời gian nhàn rỗi có liên quan đến
sự di cư và lưu trú tạm thời ngồi nơi ở thường xun nhằm mục đích phát triển thể chất
và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc hoạt động thể thao kèm theo việc
tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ.
+ Du lịch là quan hệ tương hỗ do sự tương tác của bốn nhóm du khách, cơ quan
cung ứng du lịch, chính quyền và dân cư tại nơi đến du lịch tạo nên.
+ Du lịch là một tập hợp các hoạt động, các dịch vụ và nghề nghiệp nhằm tạo ra
một kinh nghiệm du lịch, chẳng hạn như vận chuyển, các cơ sở lưu trú và ăn uống, các
cửa tiệm, các tiện nghi vui chơi giải trí và các dịch vụ phục vụ khách.
+ Du lịch là tập hợp những hoạt động sản xuất và tiêu thụ phục vụ cho việc đi lại
và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức
khỏe, hội họp, thể thao hợac tôn giáo.


22

+ Du lịch là đi khỏi nơi cư trú để tham quan phong cảnh, tìm nguồn vui thanh thản
tinh thần.
+ Du lịch được coi chủ yếu là một hoạt động nhàn rỗi liên quan đến việc du hành
khỏi nơi cư trú của một người nhưng trong một số trường hợp, nó cũng bao gồm các hoạt
động như du lịch kinh doanh, tham dự hội nghị và viếng thăm bạn bè và người thân.
+ Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường

xun của họ hay ngồi nước họ với mục đích hịa bình. Nơi họ đến cư trú khơng phải là
là nơi làm việc của họ.
Nếu xem xét du lịch như là hiện tượng nhân văn, hiện tượng xã hội làm phong phú
thêm nhận thức và cuộc sống con người. Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourism
Organization - WTO) đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch bao gồm những hoạt động của
những người đi đến một nơi khác ngoài nơi cư trú thường xun của mình trong thời hạn
khơng q một năm liên tục để vui chơi, vì cơng việc hay vì mục đích khác khơng liên
quan đến những hoạt động kiếm tiền ở nơi mà họ đến”. Nếu xem du lịch không chỉ đơn
thuần là hoạt động xã hội mà còn là hoạt động kinh tế, du lịch được coi là “toàn bộ các
hoạt động mà mục tiêu là kết hợp các hoạt động của các đối tượng tham gia vào quá
trình, kết hợp giá trị của các tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với các dịch vụ,
hàng hóa để tạo ra sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của khách”.
Theo Luật du lịch Việt Nam: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến
đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoản thời gian dài nhất định”.
Nói chung, du lịch là một khía cạnh của con người do nhu cầu về thể chất và tinh
thần. Sở dĩ có sự khác biệt nhau giữa các định nghĩa về du lịch vì du lịch tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh của từng đất nước, từng khu vực,… Hơn nữa, trình độ phát triển du lịch của
mỗi nước khác nhau nên nhận thức về nội dung du lịch cũng khơng như nhau. Ðối với
nước ta, điều này có ý nghĩa to lớn, chúng ta đánh giá đúng tiềm năng du lịch, từ đó có
giải pháp huy động vốn để đầu tư, khai thác thật sự khoa học, đồng bộ và thống nhất


23

nhằm chuyển hoá chúng thành các sản phẩm du lịch đa dạng và phong phú đáp ứng được
nhu cầu, nâng cao lợi thế cạnh tranh và đạt hiệu qủa kinh tế xã hội cao.
1.2.1.2. Khái niệm về sản phẩm du lịch
Có nhiều khái niệm về sản phẩm du lịch, theo từ điển du lịch tiếng Đức NXB
Berlin 1984: Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên

cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian
thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng.
Sản phẩm du lịch bao gồm những yếu tố hữu hình (hàng hóa) và những yếu tố vơ
hình (dịch vụ) kết hợp nhau. Dịch vụ du lịch là kết qủa của các hoạt động kinh tế được
thể hiện trong sản phẩm vơ hình như vận chuyển, lưu trú ăn uống, vui chơi giải trí, tài
chính, thơng tin liên lạc, y tế và các dịch vụ cá nhân khác.
1.2.1.3. Khái niệm về du khách
Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch Quốc tế, khách viếng (visitors) là những
người rời khỏi nơi cư trú của mình đến nơi khác khơng q một năm và khơng vì mục
đích kiếm tiền; du khách (tourists) là những khách viếng có lưu trú qua hơn một đêm tại
nơi đến; khách viếng trong ngày (same-day visitors) là những khách viếng khơng có lưu
trú qua đêm tại nơi đến.
Khách du lịch quốc tế là những khách mà nơi cư trú là một quốc gia khác với quốc
gia nơi đến du lịch. Khách du lịch nội địa là những khách mà quốc gia nơi cư trú cũng là
quốc gia nơi đến tham quan du lịch, bao gồm cả những người nước ngoài nhưng đang cư
trú tại quốc gia đó.
1.2.1.4. Khái niệm khu du lịch, điểm du lịch và tuyến du lịch:
* Khu du lịch là một khơng gian địa lý bao gồm diện tích mặt đất, mặt nước, là nơi
có tài nguyên du lịch phong phú, hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên được
quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại
hiệu qủa kinh tế - xã hội. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên thiên nhiên, môi
trường, sinh thái (bãi biển, sông hồ, núi, rừng cây…) và những tài nguyên nhân văn như
các di sản văn hóa, lịch sử, các cơng trình kiến trúc, các gía trị văn hoá phi vật thể. Khu


24

du lịch phải có quy mơ cần thiết. Khu du lịch gồm khu du lịch quốc gia và khu du lịch địa
phương.
* Điểm du lịch quốc gia là nơi có một vài tài ngun du lịch hấp dẫn hoặc cơng

trình riêng biệt phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch.
* Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp
dịch vụ du lịch gắn với các tuyên giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường
hàng không nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
1.2.1.5. Tài nguyên và môi trường du lịch
* Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân
văn đang được khai thác và chưa được khai thác.
- Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu,
thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du
lịch.
- Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hố, văn
nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các cơng trình lao động
sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử
dụng phục vụ mục đích du lịch.
* Mơi trường du lịch là môi trường tự nhiên và xã hội nơi diễn ra các hoạt động du
lịch. Môi trường du lịch bao gồm các nhân tố tự nhiên, kinh tế xã hội và nhân văn trong
đó du lịch tồn tại và phát triển.
Mơi trường du lịch có liên quan mật thiết đến tài nguyên du lịch, việc khai thác
hợp lý, cải tạo và tái tạo các tài nguyên du lịch sẽ là chất lượng môi trường du lịch tốt
hơn, tăng sức hấp dẫn của các khu du lịch. Ngược lại, việc khai thác khơng đồng bộ,
khơng có biện pháp tái tạo khu du lịch sẽ phá vỡ sự cân bằng sinh thái của khu vực, làm
giảm chất lượng môi trương du lịch.
1.2.1.6. Quan điểm phát triển du lịch bền vững
Trong thời đại của tồn cầu hóa, phát triển du lịch bền vững khơng chỉ là một hiện
tượng nhất thời, mà cịn là một xu thế của thời đại và có ý nghĩa quan trọng không chỉ về


25

mặt kinh tế mà cịn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển bền vững của xã hội, của

cộng đồng theo quan điểm phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường. Do
vậy, việc hiểu rõ một số khái niệm về phát triển du lịch bền vững và đáp ứng yêu cầu của
sự phát triển này rất quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển du lịch của
các quốc gia trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
* Theo Tổ chức Du lịch Thế giới định nghĩa: “Phát triển du lịch bền vững thỏa
mãn những nhu cầu hiện tại của du khách và các vùng đón khách trong khi vẫn bảo vệ và
nâng cao các cơ hội cho tương lai. Phát triển du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả
các nguồn tài nguyên theo một cách nào đó để vừa đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội,
thẩm mỹ trong khi vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa, các q trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng
sinh học và các hệ thống đảm bảo sự sống”.
* Theo Luật Du lịch năm 2005 của Việt Nam, phát triển du lịch bền vững là sự
phát triển đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu về du lịch của tương lai. Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo các nguyên tắc
sau:
- Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hồ giữa
kinh tế, xã hội và mơi trường; phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn
hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch.
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an ninh, an
toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh du
lịch.
- Bảo đảm sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong phát
triển du lịch.
- Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam.
- Phát triển đồng thời du lịch trong nước và du lịch quốc tế, tăng cường thu hút
ngày càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam.



×