Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

157 Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn Tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.86 KB, 76 trang )

Trang - 1 -
A.PHẦN MỞ BÀI
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên thế giới. Kinh tế
có phát triển thì mới có điều kiện nâng cao mức sống vật chất đồng thời tạo môi
trường cho phép mọi người được hưởng thụ cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe, xóa
bỏ nghèo đói. Mà muốn tăng truởng và phát triển kinh tế thì 1 trong những yếu tố
quan trọng cần phải có là vốn. Với nguồn vốn này sẽ giúp các doanh nghiệp trang bị
máy móc công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng những thành tựu
công nghệ mới…dẫn đến tăng khả năng cạnh tranh và đứng vững trong điều kiện hội
nhập và sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức. Có thể nói nguồn vốn để đầu tư phát
triển theo chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất. Vì vậy nhu cầu
về vốn là nhu cầu rất bức xúc và cấp bách. Trong khi đó nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
của người dân nằm rải rác khắp nơi. Vì vậy để có thể thu hút được nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp phát triển đòi hỏi cần có 1
tổ chức đứng ra làm trung gian. Tổ chức đó là hệ thống Ngân hàng. Hệ thống Ngân
hàng với chức năng của mình trực tiếp “hút” ( nghiệp vụ huy động vốn ) và “bơm”
( cho vay ) vốn vào nền kinh tế, vào khắp các ngõ ngách của hoạt động kinh tế, điều
tiết vốn giữa các ngành, các vùng 1 cách tối ưu nhất. Có thể nói huy động vốn là một
trong những hoạt động hết sức đặc thù của NHTM là tiêu chí quan trọng và duy nhất
để phân biệt giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Vì vậy làm cách nào để hệ thống
NHTM nói chung và NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An nói riêng phát huy có hiệu
quả chức năng trên của mình, là cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn, đáp ứng
được nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế của Tỉnh trong điều kiện thị trường tài
chính tiền tệ trong và ngoài nước diễn biến phức tạp: lạm phát cao, giá xăng dầu tăng,
NHNN áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, yêu cầu
NHTM mua tín phiếu. Trong khi đó, bản thân các ngân hàng lại có vốn điều lệ ít, và
sự cạnh tranh của các định chế tài chính trung gian khác. Đó là mối quan tâm của
cấp lãnh đạo các ngân hàng trên địa bàn. Chính vì những lý do trên học viên quyết
định chọn đề tài “Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của
các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An”.


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trang - 2 -
Đề tài chỉ tập trung trình bày thực trạng hoạt động huy động vốn của các
NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An, những ưu điểm cũng như những khuyết điểm
trong hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn. Từ đó đưa ra những giải
pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp
từ đó thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
3. Phương pháp nghiên cứu
Dùng phương pháp lịch sử, thống kê so sánh số tương đối và tuyệt đối, phân
tích theo chiều rộng, chiều sâu về hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa
bàn Tỉnh Long An.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do sự hạn chế về thời gian nên đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động
huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An ở nước Việt Nam từ năm
2005 đến năm 2007 nhằm đưa ra những giải pháp thích hợp với thực trạng tại địa
phương.
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Dựa trên thực trạng công tác huy động vốn trên địa bàn tỉnh, luận văn đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của các NHTM
trên địa bàn tỉnh Long An nhằm thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển theo định
hướng phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh đến 2010.
6. Hạn chế của luận văn
Luận văn chỉ đi sâu vào nguồn vốn huy động và vay không đi vào nguồn vốn
điều lệ và các quỹ.
7. Nội dung và kết cấu của luận văn gồm 6 phần
1.Phần mở đầu
2.Chương 1: Trình bày tổng quan về nguồn vốn huy động của các NHTM.
3.Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn
Tỉnh Long An.
4.Chương 3: Những giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các

NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An.
5.Kết luận
6.Tài liệu tham khảo
Trang - 3 -
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.
1.1 Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn
1.1.1 Đối với nền kinh tế
Hệ thống NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
nền kinh tế. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn mà hệ thống ngân hàng tập
trung hầu hết các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của xã hội, biến tiền
nhàn rỗi từ chổ là phương tiện tích lũy trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh
tế. Đây là nguồn vốn rất quan trọng để đầu tư phát triển nền kinh tế vì nó
không những lớn về số tiền tuyệt đối mà vì tính chất “luân chuyển” không
ngừng của nó. Đặc biệt trong chiến lược phát triển của nước ta là xây dựng
nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng điểm xuất phát
thấp, ngân sách còn hạn hẹp, hầu như không có tích lũy từ trước, do đó vốn
đầu tư cho các ngành kinh tế phải trông đợi rất nhiều vào nguồn vốn nội lực
trong đó nguồn từ các ngân hàng huy động được là rất quan trọng vì nó tạo
nên sự ổn định vững chắc cho sự phát triển nhanh ổn định và bền vững lâu
dài. Ngoài việc thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội để sử dụng cho đầu tư phát
triển bên cạnh đó thông qua nghiệp vụ huy động vốn giúp NHNN kiểm soát
khối lượng tiền tệ trong lưu thông qua việc sử dụng chính sách tiền tệ ( tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, tỷ
giá….). Chẳng hạn muốn thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông, NHNN
tăng lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khống chế dư
nợ tín dụng, và ngược lại…. nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm
phát, bình ổn giá cả.
1.1.2 Đối với NHTM
Nghiệp vụ huy động vốn mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện

các nghiệp vụ kinh doanh khác: tín dụng, đa dạng hoá các sản phẩm, dịch
vụ, phát triển khoa học công nghệ ngân hàng. Phần lớn vốn huy động bắt
nguồn từ các hoạt động huy động nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các
doanh nghiệp, cá nhân cũng như từ việc vay mượn các nhà đầu tư trên thị
trường tiền tệ và thị trường vốn. Nếu không có nghiệp vụ này thì ngân hàng
Trang - 4 -
thương mại sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình bởi vì khi
một NHTM được cấp giấy phép thành lập phải có vốn điều lệ theo quy định,
nhưng vốn điều lệ chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở, văn phòng,
máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để ngân hàng có
thể thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Chính nguồn vốn này, chứ
không phải nguồn vốn sở hữu đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các
hoạt động thường là một khoản chi phí lớn nhất đối với ngân hàng. Bên cạnh
đó thông qua nghiệp vụ này NHTM có thể đo lường được sự sự tín nhiệm,
uy tín của khách hàng đối với ngân hàng qua đó có những giải pháp không
ngừng đẩy mạnh hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ
với khách hàng. Chính nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết đầu vào
của ngân hàng.
1.1.3 Đối với khách hàng
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng 1 kênh đầu tư, làm
cho tiền của họ sinh lợi bằng cách gửi tiền vào ngân hàng, được hưởng lãi từ
đó tạo điều kiện cho họ tăng khả năng tiêu dùng trong tương lai. Qua nghiệp
vụ huy động vốn, Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để
cất trữ, tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi đồng thời giúp cho khách hàng có cơ
hội tiếp cận các dịch vụ, đặc biệt dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ
tín dụng khi họ cần vốn cho sản xuất hoặc cho tiêu dùng và dịch vụ ủy thác
thu hộ, chi hộ giúp họ tiết kiệm thời gian, chi phí vận chuyển, nhân lực và
vật lực.
1.2 Đối tượng của nghiệp vụ huy động vốn
Ngân hàng huy động từ nhiều nguồn khác nhau: các bộ phận dân cư,

công ty kinh doanh, các công ty tài chính, cơ quan chính quyền, kho bạc nhà
nước, các tổ chức tín dụng nước ngoài, người nước ngoài… Trong đó các
NHTM thường chú trọng nhiều đến 2 nguồn vốn chủ yếu: tiền gửi của các tổ
chức kinh tế và tiền gửi dân cư.
Các tổ chức kinh tế thường giao dịch với ngân hàng thông qua việc mở
tài khoản tiền gửi thanh toán để được cung cấp các dịch vụ thanh toán qua
ngân hàng, dịch vụ ngân quỹ và tiền gửi có kỳ hạn.
Trang - 5 -
Ngược lại khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, hoạt động giao dịch chủ
yếu với ngân hàng thông qua tài khoản cá nhân và tiền gửi tiết kiệm chiếm
tỷ trọng lớn.
1.3 Những vấn đề chung về hoạt động huy động vốn
1.3.1 Các khái niệm
Do đặc điểm tuần hoàn vốn, thu nhập và sử dụng thu nhập của các
doanh nghiệp, cá nhân trải qua các giai đoạn khác nhau, không khớp về
không gian và thời gian, có lúc khách hàng này thừa vốn chưa sử dụng
nhưng lại có những khách hàng khác thiếu vốn cần bổ sung. Do đó NHTM
với chức năng và nghiệp vụ của mình để làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi
thiếu.
- Khái niệm vốn huy động: vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ
chức và cá nhân mà ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách
nhiệm hoàn trả, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, nguồn tài nguyên to
lớn nhất và quan trọng nhất của bất kỳ NHTM nào.
- Dự trữ bắt buộc: là khoản mà Ngân hàng Nhà nước buộc các ngân
hàng khác phải nộp để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà
nước được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ nhất
định theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước việt Nam ( Luật số
1/1997/QH10) khoản 1 điều 20 của luật này ghi rõ: “ Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín
dụng và từng loại tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ ”. Số

tiền gửi bắt buộc = (tỉ lệ dự trữ bắt buộc) * tổng nguồn vốn huy động bình
quân của ngân hàng. Mục đích của dự trữ bắt buộc là bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền vào ngân hàng và đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước có thể
điều chỉnh mức cung tiền của Ngân hàng Thương mại. Điều này khiến cho
NHTM không thể sử dụng được 100% vốn huy động được để cho vay.
* Dự trữ sơ cấp: gồm tiền mặt, tiền gửi
Tiền mặt, các khoản coi như tiền mặt.
Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước ( tiền gửi không kỳ hạn).
Tiền gửi tại các ngân hàng khác.
Trang - 6 -
Các khoản khác ( ngân quỹ đang thu).
* Dự trữ thứ cấp là dự trữ không tồn tại bằng tiền mặt và tiền gửi mà bằng
chứng khoán, nghĩa là những chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển
thành tiền một cách thuận lợi bao gồm tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp
nhận, các giấy nợ ngắn hạn khác. Gọi là dự trữ thứ cấp, bởi nó chỉ được sử
dụng khi các khoản mục dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt.
Khi quản lý mức dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng
1 trong 3 phương pháp:
+ Phương pháp phong tỏa: theo đó toàn bộ mức dự trữ bắt buộc phải
gửi vào một tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và sẽ bị phong tỏa để đảm
bảo thực hiện đúng mức dự trữ.
+ Phương pháp bán phong tỏa: theo đó một phần của mức dự trữ bắt
buộc sẽ được quản lý và phong tỏa tại một tài khoản riêng ở Ngân hàng Nhà
nước.
+ Phương pháp không phong tỏa: theo phương pháp này, tiền dự trữ
được tính và thực hiện hàng ngày trên cơ sở số dư thực tế về tiền gửi không
kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
Toàn bộ mức dự trữ sẽ không bị phong tỏa, nó có thể tồn tại dưới hình
thức tiền mặt hay tiền gửi Ngân hàng Nhà nước, hay dưới dạng chứng khoán
ngắn hạn là tuỳ NHTM. Tuy nhiên đến cuối mỗi tháng, Ngân hàng Nhà

nước cũng sẽ kiểm tra việc thực hiện dự trữ bắt buộc, nếu các ngân hàng
thương mại không thực hiện đúng sẽ bị phạt ( cảnh cáo, phạt tiền nếu tái
phạm ).
-Hệ số giới hạn huy động vốn:
H1= (Vốn tự có/Tổng nguồn vốn huy động) *100%
Hệ số này đưa ra nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng
để tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn quá nhiều vượt quá mức bảo
vệ của vốn tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả. Để tạo một
khoản cách an toàn trong hoạt động của ngân hàng trong mối tương quan
Trang - 7 -
giữa vốn tự có và vốn huy động, nếu chênh lệch đó càng lớn thì hệ số an
toàn của ngân hàng sẽ càng thấp.
Trong đó:
+Vốn tự có của ngân hàng gồm: vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn
điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận
không chia.
+Tổng nguồn vốn huy động gồm: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ
tiền gửi để huy động vốn, các khoản tiền giữ hộ và đợi thanh toán, tiền gửi
của Kho bạc Nhà nước (nếu có) .
Ở góc độ khác, một số quốc gia còn dùng hệ số này để bảo hộ các ngân hàng
trong nước đối với thị trường tiền gửi trong giai đoạn đầu của hội nhập kinh
tế quốc tế ( theo công văn số 1210/NHNN-CNH của Ngân hàng Nhà nước,
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được nhận tiền gửi VNĐ
từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ
lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh với mức tiền gửi tối đa và theo lộ
trình cụ thể: từ ngày 1/1/2007, tỷ lệ được huy động là 650 % vốn được cấp;
từ ngày 1/1/2008 là 800% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2009: 900% vốn được
cấp; từ ngày 1/1/2010: 1000% vốn được cấp và sau ngày 1/1/2011 sẽ được
đối xử quốc gia đầy đủ. Theo Ngân hàng Nhà nước, cơ chế và lộ trình trên là

nhằm thực hiện các cam kết về dịch vụ ngân hàng tại biểu cam kết về dịch
vụ trong bộ văn kiện gia nhập tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam ).
1.3.2 Đặc điểm của vốn huy động và các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn
huy động
1.3.2.1 Đặc điểm
Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Thông
thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn, các ngân hàng hoạt động
được là nhờ vào nguồn vốn này và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các
ngân hàng. Nhưng vốn huy động là nguồn vốn không ổn định, vì khách hàng
có thể rút tiền của họ mà không bị ràng buộc ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ
hạn chưa đến hạn nên ngân hàng cần duy trì một khoản dự trữ thanh khoản
Trang - 8 -
để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Sự thay đổi đặc biệt là tiền gửi
ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.
Vốn huy động có chi phí sử dụng vốn cao ( do ngân hàng vừa phải trả
lãi cho khách hàng gửi, vừa phải trả phí bảo hiểm tiền gửi nhưng lại không
được sử dụng hết để cho vay mà phải để lại một phần theo tỷ lệ dự trữ bắt
buộc của Ngân hàng Nhà nước quy định. ) đồng thời chiếm tỷ trọng chi phí
đầu vào rất lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nhưng lại là
nguồn vốn có tính cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng bởi vì muốn tăng
trưởng tín dụng buộc các ngân hàng phải tăng được nguồn vốn huy động. Ví
dụ trong hệ thống ngân hàng BIDV, các chi nhánh muốn tăng trưởng tín
dụng phải tuân thủ theo hệ số k ( tổng dư nợ cho vay / tổng nguồn vốn huy
động ) được Hội sở chính giao cho từng chi nhánh trong từng thời kỳ.
Đặc biệt vốn huy động chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và
bảo lãnh, các NHTM không được sử dụng nguồn vốn này để đầu tư.
Trong nguồn vốn huy động thì nguồn tiền gửi thanh toán thường biến
động mạnh ( kém ổn định ) hơn tiền gửi tiết kiệm.
1.3.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động
Quy mô của nguồn vốn huy động chịu sự tác động của các nhân tố chủ

quan và khách quan.
- Các nhân tố chủ quan:
+ Lãi suất: tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với
các biến động về lãi suất. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh
nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người gửi quan
tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa lãi suất thực dương mới thực sự hấp
dẫn các nguồn tiết kiệm. Do đó việc ấn định lãi suất để thu hút, duy trì sự ổn
định lượng tiền gửi của khách hàng đồng thời cạnh tranh với các trung gian
tài chính khác là việc vô cùng khó khăn đối với nhà quản trị bởi vì nếu đưa
ra lãi suất thấp thì không huy động được ( tâm lý người gửi sẽ chọn nơi có
lãi suất cao để gửi ), còn nếu trả mức lãi suất cao thì làm gia tăng chi phí
giảm thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Cho nên xây dựng lãi suất cạnh
Trang - 9 -
tranh trở nên cần thiết đối với các NHTM nhằm bảo đảm cho khoản thu đủ
bù đắp các khoản chi và có lãi.
+ Chất lượng dịch vụ ảnh hưởng đến quy mô và cấu trúc của nguồn
tiền.
Khi đánh giá chất lượng dịch vụ của ngân hàng, khách hàng xem xét
vào các yếu tố sau:
. Sự đa dạng của các dịch vụ: ngân hàng nào có nhiều sản phẩm dịch vụ
hơn sẽ có lợi thế hơn các ngân hàng có số lượng dịch vụ giới hạn do ngân
hàng có khả năng đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, tạo cho khách
hàng có sự lựa chọn cao hơn.
. Đội ngũ nhân sự của ngân hàng: với đội ngũ nhân viên được đào tạo
chuyên nghiệp, các khách hàng sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi nhận được
những lời khuyên nhủ và sự hướng dẫn của họ, và vì thế hình ảnh của ngân
hàng sẽ có sức sống lâu dài hơn trong lòng khách hàng.
. Cơ sở vật chất với một trụ sở kiên cố, các phòng gửi tiền an toàn tiện
nghi cũng tạo ưu thế cho ngân hàng đem lại sự tin cậy cho khách hàng.
+ Chính sách cơ bản trong huy động vốn của ngân hàng: chính sách tín

dụng ( khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá
nhân cũng gia tăng ), chính sách đầu tư, chính sách ngân quỹ… là một tiêu
chuẩn đo lường quan trọng để đánh giá năng lực, trình độ của các nhà quản
lý ngân hàng. Một ngân hàng luôn đề ra được những chính sách đúng đắn sẽ
được khách hàng tin tưởng rằng việc giao dịch tại ngân hàng này sẽ được
điều hành 1 cách chính xác và lành mạnh.
- Các nhân tố khách quan như: chính sách tiền tệ, chính sách tài chính
của Chính phủ. Thời vụ chi tiêu, động cơ của người tiêu dùng ảnh hưởng
đến qui mô, tính ổn định của nguồn tiền. Thu nhập gia tăng là điều kiện để
gia tăng qui mô và thay đổi kì hạn của nguồn tiền. Các nhân tố khách quan
cũng đóng vai trò quan trọng trong khả năng thu hút tiền gửi tại ngân hàng.
1.3.3 Nguyên tắc huy động vốn
1.3.3.1 Tuân thủ pháp luật trong huy động vốn
Trang - 10 -
Các Ngân hàng Thương mại không được huy động vốn quá nhiều so
với vốn tự có nhằm đảm bảo khả năng chi trả về sau. Bên cạnh đó các tổ
chức tín dụng phải áp dụng lãi suất huy động phù hợp với cơ chế quản lý về
lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, bởi vì lãi suất là một trong những công cụ
để Ngân hàng Nhà nước kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông, bình ổn
giá cả và chống lạm phát.
Bên cạnh đó các NHTM phải có trách nhiệm hoàn trả gốc lãi cho khách
hàng vô điều kiện ( bất kể người đi vay có sử dụng vốn có hiệu quả hay
không ) do ngân hàng không phải là tổ chức trung gian tài chính thuần túy
mà là trung gian tín dụng ( tài chính là sự tài trợ, sự cung cấp vốn, sự cấp
phát theo tính chất không có sự hoàn trả. Đối tượng nhận được sự trợ giúp
về tài chính không có nghĩa vụ hoàn trả mà chỉ có nghĩa vụ sử dụng tài chính
đúng mục đích, đúng yêu cầu. Tín dụng là sự tín nhiệm, lòng tin, là quan hệ
vay mượn theo nguyên tắc hoàn trả. ).
Ngân hàng Thương mại phải tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định
hiện hành. Với việc quy định các Ngân hàng Thương mại tham gia bảo hiểm

tiền gửi nhằm mục đính bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền gửi. Cụ thể là
nếu ngân hàng nơi người gửi tiền bị phá sản, thì người gửi tiền được công ty
bảo hiểm đền bù một khoản tiền nhất định ( hiện nay là 50.000.000 đ / tổng
tiền gửi của một khách hàng ).
Hơn nữa, ngân hàng phải giữ gìn bí mật số dư và hoạt động của tài
khoản khách hàng. Nhưng không được che dấu các khoản tiền lớn và bất
thường ( thực hiện các quy định của pháp lệnh chống rữa tiền ). Đồng thời
các ngân hàng không được cạnh tranh bất hợp lý (thông tin giả, khuyến mãi
bất hợp pháp…) gây ra tâm lý lo sợ, mất lòng tin của người dân đối với ngân
hàng. Khi niềm tin của người dân không còn thì họ sẽ rút tiền ồ ạt dẫn đến
ngân hàng sẽ gặp rủi ro thanh khoản đi đến phá sản.
1.3.3.2 Thoả mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp nhất
Mục đích hoạt động của NHTM là vì lợi nhuận, do đó các NHTM phải
đảm bảo được hai yêu cầu chi phí thấp và quy mô cao của nguồn vốn huy
động. Với chi phí thấp và quy mô cao sẽ giúp ngân hàng có nguồn vốn rẻ và
Trang - 11 -
đủ lớn để tài trợ cho các dự án qua việc cấp phát tín dụng đồng thời làm cho
biên độ chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra lớn từ đó tạo lợi nhuận cao.
Để có thể cạnh tranh với các tổ chức trung gian tài chính khác đòi hỏi
NHTM phải áp dụng đa dạng hoá phương thức trả lãi đi đôi với dự thưởng
để thu hút khách hàng và đưa ra nhiều phương thức huy động để hạn chế rủi
ro ( rủi ro thanh khoản khi sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho
vay dài hạn do không huy động được nguồn vốn dài hạn ) và phù hợp với
đặc điểm hoạt động của ngân hàng.
Do nhu cầu của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng không chỉ là
được an toàn và hưởng lãi, mà còn mong muốn sử dụng các dịch vụ của
ngân hàng ( chuyển tiền, thu tiền hộ, chi hộ..) nên NHTM cần kết hợp chặt
chẻ giữa huy động vốn với hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng. Với sự phát triển
của dịch vụ ngân hàng sẽ làm thỏa mản nhu cầu của khách hàng từ đó thu
hút được lượng tiền gửi càng nhiều.

1.3.3.3 Ngăn ngừa sự giảm sút bất thường của nguồn vốn huy động
Hoạt động của ngân hàng dựa vào chữ tín. Có tin tưởng vào sự quản lý
và khả năng trả nợ của ngân hàng, thì người dân mới gửi tiền. Vì vậy để tạo
và giữ chữ tín của mình đối với khách hàng, ngân hàng phải đảm bảo khả
năng thanh toán, đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình
huống của người dân. Bên cạnh việc đảm bảo tốt khả năng thanh khoản,
ngân hàng cần nắm bắt kịp thời những thông tin đồn “ nhảm ” về hoạt động
kinh doanh của ngân hàng và tìm cách ngăn chặn chúng. Bởi vì nếu không
kịp thời ngăn chặn những thông tin đồn nhảm về hoạt động kinh doanh của
ngân hàng sẽ gây tâm lý sợ mất tiền trong người dân. Từ tâm lý lo sợ đó,
người dân sẽ đến rút tiền hàng loạt, khi đó ngân hàng không thể đáp ứng kịp
thời nhu cầu rút tiền của người dân ( do nguồn vốn huy động đã sử dụng cho
vay chưa thu hồi kịp ). Trong trường hợp đặc biệt khi có sự cố xảy ra, ngân
hàng phải có phương án đáp ứng nhu cầu thanh khoản kịp thời ( vay trên thị
trường tiền tệ, vay Ngân hàng Nhà nước ) để tránh tâm lý lây lan cho rằng
ngân hàng mất khả năng thanh toán càng rộng trong người dân.
1.3.4 Các hình thức huy động vốn của NHTM
Trang - 12 -
Nghị định 49/1000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của chính phủ về tổ chức
và hoạt động của NHTM nhằm cụ thể hoá việc thi hành Luật các tổ chức tín
dụng, Ngân hàng Thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau
đây:
-Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền
gửi khác.
-Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
-Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt nam và của
các tổ chức tín dụng nước ngoài.

-Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật
ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Sơ đồ 1: Sơ đồ về nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại
Vốn huy động
Tiền gửi của khách hàng Vốn đi vay Vốn phát hành
Tiền Tiền Chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,
ký gửi tiết kiệm kỳ phiếu, các giấy tờ có giá khác
Tiền gửi Tiền gửi Tiết kiệm Tiết kiệm
không kỳ hạn có kỳ hạn không kỳ hạn có kỳ hạn
Các hoạt động huy động vốn sẽ lần lượt được chi tiết hoá bằng các nghiệp
vụ huy động tiền gửi và nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành chứng từ có
giá, đi vay.
1.3.4.1 Nghiệp vụ huy động tiền gửi của NHTM
Trang - 13 -
* Một số vấn đề liên quan đến hoạt động tiền gửi
-Vấn đề uỷ quyền: người gửi tiền có thể ủy quyền cho người khác để
thực hiện các giao dịch như gửi tiền, chuyển nhượng, thanh toán gốc và lãi
tại ngân hàng, ra công chứng làm thủ tục ủy quyền. Việc ủy quyền phải thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành ( cả về nội dung lẫn hình
thức ). Căn cứ vào giấy ủy quyền, ngân hàng sẽ chi trả cho người được ủy
quyền.
-Vấn đề thừa kế: việc thừa kế tiền gửi được thực hiện theo luật quy
định: có di chúc và không có di chúc. Ngân hàng sẽ dựa vào tờ di chúc của
người gửi tiền để lại làm căn cứ chi trả nếu trong trường hợp có di chúc hoặc
dựa vào quy định của pháp luật về thừa kế để chi trả trong trường hợp không
có di chúc.
-Vấn đề phong tỏa tài khoản tiền gửi, giấy tờ có giá: ngân hàng sẽ thực
hiện việc phong tỏa tài khoản theo yêu cầu của cơ quan công quyền khi
người gửi tiền có liên quan đến việc tranh chấp nào đó. Trong thời gian
phong tỏa không được thực hiện bất kỳ một nghiệp vụ giao dịch nào với tiền

gửi này. Ngân hàng cũng thực hiện phong tỏa tiền gửi khi có yêu cầu của
phòng kinh doanh hoặc theo yêu cầu của ngân hàng khác khi chủ thẻ cầm cố
sổ tiết kiệm để vay vốn tại ngân hàng.
-Vấn đề mất sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá: nguyên tắc chung là khách
hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc thất lạc mất sổ tiết kiệm, giấy tờ có
giá. Đối với khách hàng khi mất sổ, giấy tờ có giá phải thông báo ngay cho
ngân hàng nơi phát hành để ngân hàng kịp thời ngăn chặn mọi bất trắc xảy
ra cho người gửi tiền. Ngân hàng từ chối việc báo mất đối với giấy tờ có giá
vô danh.
-Vấn đề xác nhận số dư tiền gửi: ngân hàng thực hiện xác nhận số dư
theo yêu cầu khách hàng khi khách hàng đề nghị và 1 số trường hợp sẽ thu
phí dịch vụ này ( như xác nhận số dư để bổ túc hồ sơ đi du học hoặc đi du
lịch..).
* Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán
Trang - 14 -
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi mang tính đặc thù riêng có của
NHTM, là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng. Chính vì đặc thù này, NHTM thường được gọi là tổ chức nhận tiền gửi
trong khi các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được gọi là tổ chức không nhận
tiền gửi.
-Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kỳ hạn )
a/ Khái niệm:
Là loại tiền gửi mà người gửi được sử dụng một cách chủ động và linh
hoạt không bị ràng buộc về mặt thời gian, là hình thức huy động vốn của
ngân hàng thương mại bằng cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài
khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng,
cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng để
thực hiện các khoản chi trả về mua bán hàng hoá, dịch vụ, nhu cầu nhận
chuyển tiền vào tài khoản, như nhận tiền lương hàng tháng, nhận chuyển tiền
từ nước ngoài hoặc từ cá nhân khác trong nước.

Thanh toán qua ngân hàng là một loại dịch vụ thanh toán, theo đó ngân
hàng thực hiện việc trích chuyển tiền từ tài khoản của đơn vị phải trả, bằng
cách ghi Nợ vào tài khoản, sang tài khoản của đơn vị thụ hưởng, bằng cách
ghi Có vào tài khoản. Để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán này, đòi hỏi
khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng.
b/ Đặc điểm:
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ
ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu
chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào
tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Tiền gửi không kỳ hạn không phải là những khoản tiền để dành mà là
một bộ phận tiền đang chờ để thanh toán. Do đó về mặt pháp lý khi gửi tiền
không kỳ hạn theo tài khoản thanh toán đã thể hiện một hợp đồng mặc nhiên
giữa khách hàng với ngân hàng. Trong đó ngân hàng có trách nhiệm thực
Trang - 15 -
hiện các khoản chi trả cho khách hàng một cách kịp thời chính xác trong
phạm vi số dư.
Khi gửi tiền vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng có thể rút
tiền bất kỳ lúc nào và không cần báo trước nên khi ngân hàng sử dụng làm
nguồn vốn kinh doanh thì rủi ro cao. Do đó phải dự trữ nhiều hơn so với các
loại tiền gửi khác. Chính vì vậy ngân hàng, đối với loại tiền gửi này ngân
hàng trả lãi suất thấp.
Mục đích của người gửi không phải là để được hưởng lợi tức mà để
được ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, chính
vì vậy lãi suất không phải là công cụ để thu hút nguồn vốn này, mà công cụ
chính là dịch vụ mà ngân hàng cung cấp kèm theo phải là dịch vụ có nhiều
tiện ích, an toàn, nhanh chóng và chính xác. Loại này tuy biến động thường
xuyên nhưng nó vẫn luôn có một số dư ổn định do số tiền gửi vào và rút ra
trong một thời kỳ có thể bù trừ cho nhau. Vì vậy nếu sử dụng để làm nguồn

vốn cho vay sẽ mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của từng khách hàng
thường không lớn, nhưng do là trung tâm tập trung tiền tệ và cung cấp dịch
vụ thanh toán, nên Ngân hàng Thương mại có số lượng khách hàng rất đông
làm cho tổng số vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng
trở nên lớn đáng kể.
- Tài khoản vãng lai: Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, chủ tài
khoản được quyền ra lệnh cho ngân hàng chi trả trong phạm vi số tiền đã gởi
vào. Còn đối với tài khoản vãng lai, thường áp dụng với khách hàng có uy
tín, ngân hàng có thể cho thấu chi đến hạn mức phù hợp với thu nhập bình
quân của chủ tài khoản nhầm đảm bảo trả nợ vay. Tài khoản vãng lai là công
cụ riêng có của ngân hàng ở tầm vi mô. Các doanh nghiệp chỉ mở cho nhau
các tài khoản khách nợ, chủ nợ hay phải thu, phải trả. Các công ty tài chính,
các tổ chức phi ngân hàng không được mở tài khoản vãng lai cho khách
hàng. Để mở tài khoản vãng lai, ngân hàng và khách hàng ký một hợp đồng
trong đó hai bên thỏa thuận về hạn mức cho vay, thời hạn, lãi suất, các hình
thức đảm bảo như tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba. Các
Trang - 16 -
tranh chấp phát sinh được xử lý theo tố tụng thương mại. Tài khoản vãng lai
hoạt động theo nguyên tắc:
+ Bên nợ ghi mọi khoản tiền khách hàng rút ra sử dụng như rút tiền
mặt, thanh toán séc, thẻ, ủy nhiệm chi, trả phí, lãi…luôn cả các khoản ngân
hàng trả thay cho khách hàng.
+ Bên có ghi mọi khoản tiền khách hàng nộp hay thu vào như nộp tiền
mặt, séc, chuyển tiền đến, chiết khấu, thu ngân thương phiếu, ủy thác thu cổ
tức, lợi tức lãi tiền gởi.
Tài khoản vãng lai thuộc loại lưỡng tính, có thể DƯ CÓ hoặc DƯ NỢ
tại một thời điểm nhất định. DƯ NỢ khi rút ra nhiều hơn gửi vào, thực chất
là khoản tiền mà khách hàng nợ ngân hàng. DƯ CÓ khi gửi vào nhiều hơn
rút ra, thực chất là tiền gửi ngân hàng của khách hàng.

- Tiền gửi có kỳ hạn
a/ Khái niệm:
Là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút ra khi đáo hạn. Tuy
nhiên trong trường hợp bình thường các ngân hàng vẫn cho khách hàng rút
tiền trước hạn với điều kiện chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn, hoặc hưởng
lãi có kỳ hạn tương ứng với thời hạn gửi thực tế.
b/ Đặc điểm:
Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền
gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, chủ tài
khoản phải làm thủ tục để rút tiền. Tuy không thuận lợi cho khách hàng bằng
hình thức tiền gửi thanh toán không kỳ hạn, song tiền gửi có kỳ hạn được
hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn càng
dài thì lãi suất phải càng cao.
Tiền gửi có kỳ hạn là có sự ổn định tương đối cao, do đó các NHTM
thường sử dụng để cho vay trung, dài hạn. Tiền gửi có kỳ hạn có chi phí sử
dụng vốn khá cao. Người gửi tiền có kỳ hạn nhằm mục đích hưởng lãi, ngân
hàng muốn tăng khoản này phải trả lãi thoả đáng sao cho người gửi vừa bảo
toàn vốn vừa có được một khoản thu nhập hợp lý từ tiền gửi của mình. Do
Trang - 17 -
đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao là đòn bẩy, là công cụ chủ yếu để thu hút
nguồn vốn này.
* Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm
- Tiết kiệm không kỳ hạn
a. Khái niệm:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi khách hàng có thể gửi và
rút ra bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho ngân hàng.
b. Đặc điểm:
Loại tiền gửi này được thiết kế cho khách hàng cá nhân có tiền tạm thời
nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không
thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng

khi lựa chọn hình thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng
hơn là mục tiêu sinh lợi. Đối với ngân hàng, vì là loại tiền gửi này khách
hàng muốn rút ra bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn
quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Vì vậy
ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này.
Khác với hình thức tài khoản tiền gửi thanh toán, mỗi lần giao dịch
khách hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể thực hiện được các giao
dịch ngân quỹ như là gửi tiền và rút tiền chứ không thể thực hiện được các
giao dịch thanh toán như trong trường hợp tài khoản tiền gửi thanh toán.
Mặc dù số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của khách
hàng thường không lớn (do chỉ được hưởng lãi suất ở mức thấp) nhưng nếu
ngân hàng thu hút được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn
huy động qua hình thức tiền gửi này có thể trở nên đáng kể.
-Tiết kiệm định kỳ
a. Khái niệm:
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ là loại tiền gửi mà trong đó có sự cam kết
gửi tiền giữa khách hàng và ngân hàng trong 1 kỳ hạn nhất định.
b. Đặc điểm:
Đối với loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ, người gửi có một số tiền nhàn
rỗi trong thời gian dài, họ thường gửi theo hình thức này để được lãi suất
Trang - 18 -
cao. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với loại
tiền gửi này song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền. Tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn thường được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên giữa các loại
tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có kỳ
hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng cao.
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ
được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu
an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối

tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu
nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc
hàng quý.
Mục tiêu quan trọng của khách hàng khi chọn lựa hình thức tiền gửi
này là lợi tức có được theo định kỳ. Do đó lãi suất đóng vai trò quan trọng
để thu hút được đối tượng khách hàng này. Lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết
kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn khác tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Đối
với tiền gửi tiết kiệm định kỳ khách hàng chỉ được rút tiền gửi theo đúng kỳ
hạn đã cam kết, không được phép rút tiền trước hạn. Tuy nhiên để khuyến
khích và thu hút khách hàng gửi tiền ngân hàng cho phép khách hàng được
rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu, nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi
suất không kỳ hạn, hoặc lãi suất kỳ hạn theo thời hạn gửi thực tế.
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân chia thành nhiều loại.
. Căn cứ vào thời hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7,
8, 9, 10, 11, 12, 13 tháng hoặc lâu hơn đến 36 tháng.
. Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể chia thành
Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi đầu kỳ
Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ
Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý)
Trang - 19 -
Tiền gửi không kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn có chi phí sử dụng
vốn (chi phí trả lãi ) rất thấp. Chính vì vậy các ngân hàng nên tập trung huy
động nguồn vốn này thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới có hiệu
quả. Do tính chất linh hoạt của nó, nên tiền gửi này được sử dụng để cho vay
ngắn hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn có đặc điểm là sự ổn định
tương đối cao do đó các NHTM thường sử dụng để cho vay trung, dài hạn
nhưng không được tham gia thanh toán không dùng tiền mặt. Loại tiền gửi

này có chi phí sử dụng vốn khá cao. Người gửi tiền nhằm mục đích hưởng
lãi, do đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao là đòn bẩy, là công cụ để thu hút
nguồn vốn này.
1.3.4.2 Nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành các loại giấy tờ có giá
Bên cạnh các hình thức huy động trên, NHTM còn phát hành các loại
giấy tờ có giá nhằm bổ sung vốn lưu động của ngân hàng khi vốn tự có và
vốn tiền gửi chưa đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh.
* Khái quát về các loại giấy tờ có giá
- Khái niệm: Giấy tờ có giá là chứng nhận của NHTM phát hành để
huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một
thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa
NHTM và người mua.
- Các thuộc tính của giấy tờ có giá:
Mệnh giá là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát
hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu
đối với giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ.
Thời hạn giấy tờ có giá là khoản thời gian từ ngày tổ chức tín dụng
nhận nợ đến hết ngày cam kết thanh toán toàn bộ khoản nợ.
Lãi suất được hưởng là lãi suất áp dụng để tính lãi cho người mua giấy
tờ có giá được hưởng.
- Phân loại giấy tờ có giá:
+ Căn cứ quyền sở hữu: giấy tờ có giá ghi danh và giấy tờ có giá vô danh.
Trang - 20 -
Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ ghi sổ, có ghi tên người sở hữu.
Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng
chỉ, không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu
của người nắm giữ nó.
+ Căn cứ vào loại công cụ trên thị trường vốn: giấy tờ có giá thuộc công cụ
nợ ( chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ) và giấy tờ có giá thuộc công cụ

vốn ( cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu thường).
+ Căn cứ vào thời hạn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn.
- Các hình thức phát hành giấy tờ có giá
+ Huy động vốn ngắn hạn qua việc phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn (kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác ):
. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 12 tháng.
. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn,
tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
. Phương thức trả lãi giấy tờ có giá: trả lãi sau ( trả lãi một lần vào thời
điểm đáo hạn hay thời điểm thanh toán ), trả lãi trước ( trả một lần tại thời
điểm phát hành ), trả lãi định kỳ ( trả lãi theo từng định kỳ cho người sở hữu
giấy tờ có giá ).
+ Huy động vốn dài hạn bằng việc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi
và các giấy tờ có giá dài hạn khác có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
. Trái phiếu là giấy chứng nhận nợ do các NHTM phát hành để huy động
vốn dài hạn, theo đó ngân hàng cam kết sẽ trả lãi và vốn gốc cho các nhà đầu
tư mua trái phiếu. Trái phiếu có những thuộc tính sau:
Mệnh giá: là giá trị được công bố trên trái phiếu mà nhà đầu tư sẽ
nhận lại khi trái phiếu đáo hạn.
Lãi suất của trái phiếu là lãi suất nhà đầu tư được hưởng, được công
bố và ghi trên trái phiếu.
Thời hạn của trái phiếu là khoản thời gian tính từ lúc phát hành cho
đến khi trái phiếu đến hạn hoàn trả vốn gốc.
Trang - 21 -
Phương thức trả lãi là cách thức ngân hàng áp dụng để xác định và trả
lãi được hưởng cho nhà đầu tư. Nhìn chung phương thức trả lãi cũng
có thể áp dụng một trong ba phương thức trả trước, trả sau hoặc trả
theo định kỳ.
. Đặc điểm: việc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ
có giá dài hạn khác làm nguồn vốn hoạt động của NHTM tăng lên, tuy nhiên

không làm tăng vốn chủ sở hữu mà chỉ làm tăng nợ dài hạn của ngân hàng.
Theo phân loại của Basel II, nợ dài hạn qua phát hành trái phiếu được xem
như là vốn cấp II, trong khi vốn chủ sở hữu được xem là vốn cấp I.
+ Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi:
. Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành bán cho
các nhà đầu tư, trong đó có thoả thuận đến một thời điểm nào đó sau khi
phát hành các nhà đầu tư có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỷ lệ
chuyển đổi nhất định.
. Đặc điểm: trái phiếu chuyển đổi vừa có các tính chất của một chứng
khoán nợ, đồng thời vừa có các tính chất của một chứng khoán vốn. Ưu
điểm nổi bật của loại trái phiếu này là nhờ đính kèm quyền chuyển đổi thành
cổ phiếu nên có thể giúp tổ chức phát hành giảm được chi phí huy động vốn
một cách đáng kể.
Việc phát hành các loại giấy tờ có giá ( kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,
trái phiếu…) nhằm mục đích thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội và ngân hàng
sẽ ngưng việc phát hành khi thừa vốn.
* Đặc điểm của nghiệp vụ huy động vốn qua việc phát hành kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu.
- Tính ổn định chắc chắn: những người mua kỳ phiếu, chứng chỉ tiền
gửi tiết kiệm, trái phiếu ngân hàng chỉ được hoàn vốn khi đáo hạn. Đây là
đặc điểm nổi bật của loại nguồn vốn này.
- Lãi suất ( chi phí sử dụng vốn ) thường cao hơn lãi suất tiền gửi định
kỳ, do đó hấp dẫn hơn đối với khách hàng.
- Loại vốn này không được tái lập thời hạn như tiền gửi có kỳ hạn,
nhưng bù lại người sở hữu có thể thế chấp cầm cố để vay vốn tại ngân hàng.
Trang - 22 -
1.3.4.3 Nguồn vốn huy động khác
Các nguồn vốn này phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng
như khi làm đại lý, dịch vụ thanh toán, bán chứng khoán có giá, làm trung
gian thanh toán và các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình

thành nguồn trong thanh toán như:
Tiền gửi ký quỹ là nguồn tiền được khách hàng nộp vào ngân hàng và
được ngân hàng phong tỏa theo yêu cầu của bên thứ ba. Loại tiền gửi này
nhầm bảo đảm khả năng thanh toán của khách hàng cho bên thứ ba. Ví dụ:
để đảm bảo công ty X có khả năng xử lý ô nhiểm môi trường khi đầu tư dự
án A, Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường yêu cầu công ty X nộp
tiền vào ngân hàng B và yêu cầu ngân hàng B phong tỏa và chỉ giải tỏa khi
có văn bản chấp thuận đồng ý giải tỏa của trung tâm.
Bên cạnh đó để được ngân hàng cung cấp các dịch vụ: bảo chi séc, bảo
lãnh ( bảo lãnh: thanh toán, dự thầu, thực hiện hợp đồng...), mở L/c khách
hàng phải nộp vào ngân hàng một khoản tiền dưới hình thức tiền gửi không
kỳ hạn hoặc tiết kiệm có kỳ hạn và ngân hàng sẽ phong tỏa để bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng khi khách hàng vi phạm hợp đồng đối với bên
thứ ba.
Tiền tạm giữ là khoản tiền trong quá trình phục vụ nhu cầu thanh toán
tiền hàng hoá cho khách hàng, do khách hàng cung cấp thông tin về tên,
hoặc tài khoản người thụ hưởng, hoặc ngân hàng phục vụ người thụ hưởng
không chính xác nên khoản tiền chuyển đến không được ghi có vào tài
khoản người thụ hưởng mà được ngân hàng tạm giữ chờ sự đính chính của
khách hàng.
Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư
tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn vốn huy động từ các nguồn trên là nguồn vốn có chi phí rẻ bởi
vì thường tồn tại dưới dạng tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kỳ hạn ) mà
đối với loại tiền gửi này ngân hàng trả lãi suất thấp. Vì lý do trên cần có
chính sách thích hợp để huy động nguồn vốn này.
1.4 Vốn đi vay
Trang - 23 -
1.4.1 Khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng
a. Khái niệm:

Vốn đi vay là nguồn vốn giúp cho các NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn
hạn của mình để đảm bảo duy trì hoạt động một cách bình thường.
b. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng
+ Vốn đi vay chiếm tỷ trọng thấp hơn nguồn tiền gửi trong tổng nguồn,
trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn.
+ Các khoản đi vay thường là có thời hạn và qui mô xác định trước do
đó tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi ngân
hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên. Ngân hàng chỉ đi vay lúc
cần thiết và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu
cầu sử dụng.
+ Nguồn vay có thể không chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi.
Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi
suất trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn. Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước và
vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ
nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng.
+ Việc cho vay của NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà
NHNN theo đuổi trong từng thời kỳ. Muốn mở rộng qui mô vay mượn trên
thị trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân
hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
+ Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn
định vĩ mô, các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản
của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay.
1.4.2 Cơ cấu vốn đi vay
1.4.2.1 Vốn đi vay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong một số trường hợp NHTM gặp khó khăn, Ngân hàng Nhà nước
có thể xem xét cho vay với thời hạn rất ngắn để giải quyết khó khăn tạm thời
trong thanh toán của ngân hàng. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng
Nhà nước là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ).
* Tái cấp vốn
Trang - 24 -

- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá. Các
thương phiếu và chứng từ có giá đã được ngân hàng thương mại chiết khấu (
hoặc tái chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang
những giấy tờ có giá này đến tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp
vụ này làm thương phiếu và các giấy tờ có giá của NHTM giảm đi và dự trữ
( tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà
nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các
điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà
nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu, giấy tờ có giá có chất
lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục
tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Đây là hình thức cho
vay của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng xin vay trên cơ sở cầm cố
các giấy tờ có giá để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Lãi suất cho vay là lãi suất tái
cấp vốn được dùng để thu lãi trên số nợ gốc thực tế khi NHNN cho vay. Lãi
suất cho vay do Thống đốc NHNN quy định và điều chỉnh phù hợp với mục
tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Việc cho vay tái cấp vốn bằng
đồng Việt Nam của NHNN đối với các Ngân hàng Thương mại dưới hình
thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá theo nguyên tắc: cấp tín
dụng có bảo đảm, cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các
ngân hàng.
- Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng mà ngân hàng thương mại xuất trình
là hình thức tái cấp vốn của NHNN cho các ngân hàng đã cho vay đối với
khách hàng.
Trong điều kiện chưa có thương phiếu, giấy tờ có giá, Ngân hàng Nhà
nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn
mức tín dụng nhất định. Tái cấp vốn nhằm giúp các NHTM bổ sung nguồn
vốn ngắn hạn để họ có thể tiếp tục cho vay đối với các doanh nghiệp, các tổ
chức, cá nhân, nhờ đó làm gia tăng khối lượng tín dụng cung ứng cho nền
kinh tế. Điều kiện cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng

thương mại dễ dãi hay khắc khe phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền
Trang - 25 -
tệ trong từng thời kỳ, uy tín và chất lượng hoạt động tín dụng của mỗi ngân
hàng thương mại.
* Cho vay thanh toán
Khi các NHTM tham gia hệ thống thanh toán bù trừ ( bao gồm cả thanh
toán bù trừ thủ công và thanh toán bù trừ điện tử ) nếu ngân hàng nào thiếu
vốn ( phần vốn thiếu hụt trong tài khoản tiền gửi thanh toán trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng ) để thanh toán thì sẽ được Ngân hàng Nhà nước cho
thấu chi và cho vay qua đêm để đảm bảo các khoản giao dịch thanh toán bù
trừ được thực hiện. Thấu chi trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là việc
các ngân hàng được chi vượt số dư có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
mình mở tại sở Giao dịch – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngày
thanh toán. Cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là việc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho các ngân hàng vay có bảo đảm bằng
cầm cố các giấy tờ có giá trong khoảng thời gian tính từ cuối ngày làm việc
hôm trước đến 8 giờ 30 phút ngày làm việc liền kề tiếp theo. Các ngân hàng
được thấu chi để bù đắp thiếu hụt vốn thanh toán tạm thời trong ngày thanh
toán điện tử liên ngân hàng. Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam cho vay qua đêm để tất toán khoản thấu chi tại thời điểm cuối ngày làm
việc. Nhờ loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được tiến hành
một cách thuận lợi, nhanh chóng.
Ngoài ra đối với những ngân hàng thương mại nào bị mất khả năng chi
trả, thì NHNN còn cho vay khôi phục năng lực chi trả để vừa giúp NHTM
đó khắc phục sự cố, vừa tạo ổn định chung cho toàn hệ thống ngân hàng.
1.4.2.2 Vốn đi vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác
Loại vay này còn được gọi là vay trên thị trường tiền tệ. Các NHTM có
thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng: đây là
trường hợp ngân hàng có lượng tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước thấp không
đủ đáp ứng cho nhu cầu chi trả. Khi đó dưới sự tổ chức của Ngân hàng Nhà

nước, ngân hàng này sẽ được vay của một ngân hàng khác có lượng tiền gửi
thừa tại Ngân hàng Nhà nước, vì khoản cho vay là một bộ phận của tiền gửi
thanh toán nên thời gian vay thường chỉ là một ngày ( vay qua đêm ). Ngoài

×