Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học kể chuyện lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.5 KB, 110 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kể chuyện là một phân môn của Tiếng Việt, do đó việc dạy tốt
phân môn này cũng nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu dạy học bộ
môn Tiếng Việt đề ra. Những mục tiêu đó được thể hiện cụ thể như sau:
Một là: Môn Tiếng Việt góp phần hình thành và phát triển bốn kĩ
năng sử dụng Tiếng việt đó là: nghe, nói, đọc, viết để tiếp tục học lên các
bậc học cao hơn và để giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày. Đồng thời nó
còn rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp,
khái quát, hệ thống Ngoài ra, môn Tiếng Việt còn giúp nâng cao phẩm
chất tư duy và năng lực về nhận thức cho học sinh.
Hai là: Khi học Tiếng Việt, các em sẽ được cung cấp các hiểu biết
sơ giản về hệ thống tiếng Việt và tri thức sử tiếng Việt trong giao tiếp.
Song song đó, các em còn tiếp thu được những hiểu biết sơ giản về xã hội,
tự nhiên và con người, về văn hoá và văn học Việt Nam và nước ngoài.
Ba là: Tình yêu tiếng Việt của các em sẽ được hình thành và phát
triển thông qua việc học môn học này, cũng từ đó các em sẽ có ý thức đối
với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Tất cả những điều đó sẽ góp phần hình thành nên nhân cách của con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. Mục tiêu dạy học bộ môn Tiếng Việt được cụ thể hoá ở phân
môn Kể chuyện bởi mục đích và ý nghĩa của nó. Cụ thể như sau:
Một là: Môn học này nhằm thoả mãn nhu cầu được nghe kể chuyện của
trẻ, đồng thời nó còn mang lại những xúc cảm thẩm mĩ cho tâm hồn học sinh.
Hai là: Những câu chuyện kể sẽ góp phần giáo dục các em một cách
hết sức tự nhiên, nhẹ nhàng và thoải mái. Góp nhặt từng chút một từ ý
nghĩa của mỗi câu chuyện, các em sẽ ngày càng tự hoàn thiện nhân cách
của mình.
1
Ba là: Giờ kể chuyện còn góp phần tích luỹ vốn văn học, mở rộng
vốn sống cho trẻ. Thông qua việc kể lại các câu chuyện dưới các dạng bài


khác nhau các em đã tiếp xúc với các tác phẩm văn học, điều này đồng
nghĩa với việc vốn văn học của các em được tích luỹ dần trong dạy học Kể
chuyện. Song song đó, các giờ kể chuyện còn mở ra cho các em một tầm
hiểu biết mới hơn về cuộc sống xung quanh.
Bốn là: Trí tưởng tượng của các em ngày càng phát triển nhờ vào
việc được nghe hoặc kể lại các câu chuyện. Các câu chuyện cũng gieo vào
tâm hồn các em những ước mơ, hoài bão về một tương lai tươi đẹp.
Năm là, việc kể lại câu chuyện bằng lời của mình đã góp phần rèn
luyện và phát triển kĩ năng nói, kể trước đám đông. Từ đó, các em sẽ tự tin,
mạnh dạn hơn trong giao tiếp với mọi người. Để thu hút sự chú ý của mọi
người vào câu chuyện của mình, các em phải luôn nghĩ để tìm ra cách kể
sao cho hấp dẫn nhất. Đó quả là một nghệ thuật.
Cuối cùng là, để kể tốt, các em còn phải biết nghe tốt các câu
chuyện. Điều này góp phần rèn kĩ năng nghe cho các em.
1.3. Tuy nhiên, thực tế dạy học kể chuyện ở tiểu học hiện nay chưa
đáp ứng được những mục đích, yêu cầu của Kể chuyện đặt ra. Điều đó
được biểu hiện như sau:
Một là, do giáo viên chưa có một quan miện đúng đắn và đầy đủ về
tầm quan trọng của việc dạy học Kể chuyện cũng như họ chưa hiểu đầy đủ
những ích lợi mà Kể chuyện mang lại nên họ nghĩ rằng đây là môn học
không phải là thật sự cần thiết đối với học sinh. Vì lẽ đó nên giáo viên rất ít
đầu tư cho việc dạy học Kể chuyện (từ việc rèn luyện kĩ năng kể chuyện
cho bản thân đến việc tìm ra phương pháp phù hợp để hướng dẫn cho học
sinh).
Hai là, do giáo viên chưa có phương pháp dạy tốt nên học sinh chưa
thể có một giờ học Kể chuyện thật sự thú vị. Điều này dẫn tới việc các em
2
không hứng thú thậm chí còn không thích học mặc dù trẻ em nào hầu như
cũng rất thích kể chuyện.
Những điều trên đây đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là chất lượng

dạy học Kể chuyện ở tiểu học, trong đó có lớp 5 chưa đạt hiệu quả như
mong muốn.
Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học Kể chuyện lớp 5”. Đề tài nhằm khắc phục những thực
tế trên để góp phần đạt được mục tiêu dạy học Kể chuyện nói riêng và dạy
học Tiếng Việt nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đọc và kể chuyện văn học là một loại hình nghệ thuật có từ rất lâu
đời. Nó xuất hiện cả trước khi con người tìm ra chữ viết. Điều này được
chứng minh bằng một kho tàng văn học dân gian khổng lồ mà các bậc tiền
nhân đã để lại cho chúng ta. Kể chuyện đã sớm được đưa vào chương trình
giảng dạy trong trường tiểu học. Và nó đã được các em học sinh đón nhận
rất hào hứng vì đây là một môn học lí thú và hấp dẫn. Tuy nhiên để giảng
dạy tốt môn học, người giáo viên cần có những hiểu biết về một số điểm lí
luận cơ bản về phương pháp và kĩ thuật dạy học phân môn này. Xuất phát
từ yêu cầu trên, một số nhà khoa học đã lao vào nghiên cứu vấn đề này
nhưng số lượng các công trình hãy còn khá khiêm tốn.
Đầu tiên trong số đó, chúng ta phải nhắc đến là quyển Đọc và kể
chuyện văn học ở vườn trẻ của M.K. Bogliuxkaia. V.V. Septsenkô do Lê
Đức Mẫn dịch. Đây là một quyển sách thật sự bổ ích đối với những giáo
viên mầm non. Trong quyển sách này, tác giả đã đề cập đến ba vấn đề lớn
đó là: nghệ thuật đọc văn học và những thủ thuật cơ bản khi đọc, kể
chuyện văn học và phương pháp đọc, kể chuyện văn học cho trẻ.
Bàn về nghệ thuật đọc văn học, tác giả chủ yếu nói đến tầm quan
trọng của nghệ thuật đọc văn học: “Nhiệm vụ của người đọc là giúp cho
người nghe nhìn thấy cái đã nghe được, làm cho những bức tranh và những
3
hình ảnh tương ứng nổi lên chân thực và đập vào mắt, gợi lên những tình
cảm và cảm xúc nhất định ”.
Bàn về thủ thuật đọc, ông đã phân tích một số thủ thuật cơ bản sau:

thanh điệu cơ bản, ngữ điệu, tính lô gích trong đọc truyện, cách ngắt giọng,
nhịp điệu, cường độ của giọng và tư thế, nét mặt, cử chỉ.
Trong phần những vấn đề về phương pháp tổ chức giờ đọc và kể
chuyện cho trẻ em, tác giả đã viết rất cụ thể và có nhiều bài soạn mẫu để
dẫn chứng minh hoạ rất rõ ràng.
Một tài liệu viết về đề tài kể chuyện mà không thể không nhắc đến
đó là quyển Kể chuyện 1 của đồng tác giả Đỗ Lê Chẩn và Nguyễn Thị
Ngọc Bảo. Trong phần lí luận chung, các tác giả đã nêu đầy đủ về vị trí,
nhiệm vụ cũng như phương pháp của dạy học kể chuyện ở lớp 1 cũng như
đối với tiểu học. Phần hướng dẫn cụ thể, các tác giả đã tóm tắt nội dung
truyện, hướng dẫn tìm hiểu truyện và hướng dẫn các bước lên lớp cho từng
bài cụ thể.
Một tác giả đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực này, đó chính là
Chu Huy với Dạy kể chuyện ở trường Tiểu học. Theo tác giả, nhu cầu kể
chuyện đối với học sinh tiểu học là rất lớn. Ngoài việc xác định vị trí,
nhiệm vụ rất quan trọng của phân môn Kể chuyện, ông còn đề ra phương
pháp và kĩ thuật lên lớp với những bài soạn mẫu rất cụ thể.
Xuất phát từ quan điểm: Tiếng Việt - là công cụ, là phương tiện lĩnh
hội tiếp thu nền văn hoá của dân tộc, nền văn minh của nhân loại – phải
được coi trọng từ thời thơ ấu, cần được tổ chức hướng dẫn dạy dỗ thật
khoa học, Nguyễn Xuân Khoa đã cho ra mắt bạn đọc quyển Phương pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Dạy học kể chuyện là một trong
những phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mà tác giả đã đề cập tới.
Trong đó, tác giả đã chỉ ra phương pháp cũng như nghệ thuật đọc và kể
chuyện thật cụ thể.
4
Quyển giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 do đồng tác giả
Lê Phương Nga và Nguyễn Trí biên soạn cũng đã đề cập đến phương pháp
dạy học Kể chuyện. Viết về phương pháp dạy học kể chuyện, các tác giả
đã vạch ra mục đích quan trọng và ý nghĩa thiết thực của việc dạy học kể

chuyện. Đồng thời, các tác giả cũng đã xây dựng cách thức tổ chức cũng
như các hoạt động chủ yếu trong tiết kể chuyện. Đặc biệt, các tác giả đã
nhấn mạnh đến việc rèn kĩ năng nghe và kể cho học sinh.
Đề tài Truyện cổ tích và một số biện pháp dạy học kể chuyện cổ tích
cho học sinh lớp 1, 2, 3 là khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Thu Thuỷ,
sinh viên K 46, khoa Giáo dục Tiểu học trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra một số biện pháp dạy học kể chuyện cổ
tích ở lớp 1, 2, 3 khá cụ thể.
Xác định quan niệm và biện pháp dạy học Kể chuyện ở Tiểu học là
đề tài nghiên cứu của Trần Thị Mến, sinh viên K47, khoa Giáo dục Tiểu
học trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ngoài việc xác định quan niệm về
việc dạy học kể chuyện ở Tiểu học, trong đề tài này, tác giả còn đề xuất
một số biện pháp dạy học kể chuyện ở Tiểu học nhưng cũng chỉ dừng lại ở
hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện vừa được nghe thầy cô kể.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây là rất giá trị cho giáo viên
trong việc dạy học kể chuyện theo chương trình cải cách giáo dục. Đối với
chương trình 2000 thì các công trình trên đây chỉ có thể áp dụng với các
lớp 1,2,3 và kiểu bài Nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe trên lớp ở lớp 4-5.
Ngoài việc điều chỉnh, phát triển và ứng các kết quả của những công
trình nghiên cứu trên đây, trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi
còn nghiên cứu đề xuất một số biện pháp dạy học cho hai kiểu bài mới
được bổ sung vào chương trình kể chuyện 4-5, đó là: kiểu bài Kể chuyện
đã nghe, đã đọc và kiểu bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia.
5
Tất cả những điều đúc kết được từ các công trình nghiên cứu trên
đây cũng chỉ là phần cứng. Vấn đề là ở chỗ giáo viên hiểu và vận dụng
chúng ở mức độ nào. Đó là điều mà chúng ta cần quan tâm hiện nay.
Học sinh được rèn luyện kĩ năng kể chuyện thật tốt. Từ đó, các em
sẽ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Điều đó chỉ đạt được khi giáo viên có
một quan niệm đúng đắn về mục đích, ý nghĩa của kể chuyện cũng như họ

phải có những biện pháp dạy học thật hợp lí. Đó cũng chính là những gì
mà đề tài này mong muốn mang đến cho giáo viên.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm giúp cho giáo viên nhận thức một cách đúng đắn và
đầy đủ về tầm quan trọng của phân môn Kể chuyện, từ đó họ thấy rằng dạy
học tốt Kể chuyện là hết sức cần thiết. Đồng thời khi nghiên cứu đề tài
chúng tôi cũng cố gắng tìm ra một số biện pháp để cùng giáo viên tháo gỡ
những khó khăn trong dạy học Kể chuyện thời gian qua. Những việc làm
trên không ngoài mục đích là nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Kể chuyện
ở lớp 5 nói riêng và ở tiểu học nói chung.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, dạy học Kể chuyện ở
lớp 5.
Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất
lượng dạy học Kể chuyện lớp 5.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng dạy học Kể chuyện ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói
riêng sẽ được nâng cao nếu:
Giáo viên nhận thức đúng mục đích, vai trò của phân môn Kể chuyện, đồng
thời họ có cách tổ chức giờ học sao cho hấp dẫn học sinh và có các biện pháp hữu hiệu
giúp học sinh biết cách kể chuyện.
Học sinh biết kể chuyện, hứng thú với giờ học, mạnh dạn, tự tin trong khi kể
chuyện cũng như trong giao tiếp.
6
6. Các nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lí luận của việc dạy học Kể chuyện ở Tiểu học.
Tìm hiểu thực trạng dạy học Kể chuyện ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp
5 nói riêng.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Kể
chuyện lớp 5.

Tiến hành dạy học thực nghiệm nhằm kiểm tra tính khả thi của các
biện pháp đã đề xuất.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Góp phần giúp giáo viên nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về mục
đích, vai trò của phân môn Kể chuyện trong dạy học Tiếng Việt.
Thông qua các biện pháp đã đề xuất, đề tài có thể giúp giáo viên
thực hiện tốt hơn giờ dạy học Kể chuyện lớp 5.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phân tích tài liệu: Đọc, nghiên cứu và sử dụng các tài liệu có
liên quan đến đề tài.
8.2. Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu quan
niệm của giáo viên về Kể chuyện, ý thức học tập của học sinh và thực
trạng việc dạy học Kể chuyện hiện nay.
8.3. Quan sát: Dự một số giờ dạy thực tế để nắm được cách thức
dạy học của giáo viên và kĩ năng kể chuyện của học sinh ở lớp 5 đồng thời
cũng nhằm bổ sung, tăng độ chính xác, khách quan cho việc điều tra.
8.4. Thực nghiệm sư phạm: Nhằm kiểm tra tính khoa học và tính
khả thi của những biện pháp đã đề xuất.
8.5. Tổng hợp và thống kê các kết quả thu được từ điều tra, quan sát
và thực nghiệm sư phạm.
9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương I. Cơ sở lí luận của việc dạy học Kể chuyện ở Tiểu học.
7
Chương II. Thực trạng dạy học Kể chuyện lớp 5.
Chương III. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Kể
chuyện lớp 5.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC KỂ CHUYỆN

Ở TIỂU HỌC
1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ KỂ CHUYỆN
1.1.1. Quan niệm về kể và kể chuyện
Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giải thích “kể”: nói rõ đầu
đuôi, và nêu ví dụ: kể chuyện cổ tích. Theo đó “kể” tức là nói một sự việc
có mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Tác giả Nguyễn Trí cho rằng: Kể chuyện là một phương thức tự sự,
một phương thức biểu đạt để kể các chuyện. Theo quan niệm này, muốn kể
chuyện chúng ta phải có chuyện để kể. Hay nói cách khác là người ta dùng
cách kể chuyện khi có chuyện muốn kể.
Thuật ngữ kể chuyện cũng được tác giả Chu Huy trình bày trong
quyển Dạy học kể chuyện ở trường Tiểu học. Theo đó, ông cho rằng “ kể
chuyện” bao gồm bốn phạm trù ngữ nghĩa sau:
Một là: Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với loại hình trữ
tình, loại hình kịch) còn gọi là truyện hay tiểu thuyết.
Hai là: Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng.
Ba là: Chỉ tên một loại văn thuật chuyện trong môn Tập làm văn.
Bốn là: Chỉ tên một phân môn ở các lớp trong trường tiểu học.
8
Ở phạm trù ngữ nghĩa thứ nhất, tác giả cho rằng kể chuyện là một
loại hình trong sáng tác văn học mà đặc trưng của nó là phải có tình tiết,
tức là sự việc đang xảy ra, đang diễn biến, có nhân vật với ngôn ngữ, tâm
trạng, tính cách riêng. Theo đó thì phạm trù ngữ nghĩa này chỉ đề cập tới
“ chuyện” mà chưa nói tới hoạt động “kể”.
Ở phạm trù ngữ nghĩa thứ hai, tác giả cho rằng kể chuyện là một
phương pháp trực quan sinh động bằng lời nói. Theo cách hiểu này, tác giả
đã quan niệm kể chuyện là một phương pháp dùng lời để trình bày một vấn
đề một cách sinh động nhằm thu hút sự chú ý của người nghe.
Nếu ở phạm trù ngữ nghĩa thứ nhất, tác giả xem kể chuyện chỉ hàm
chứa nội dung thì trong phạm trù ngữ nghĩa thứ hai, tác giả lại cho rằng kể

chuyện là một hành động nói. Vậy cộng hai phạm trù ngữ nghĩa trên lại với
nhau chúng ta sẽ được một cách hiểu đầy đủ về kể chuyện.
Ở thuật ngữ thứ ba và thứ tư thì kể chuyện được sử dụng là một
danh từ để gọi tên một thể loại văn trong phân môn Tập làm văn (văn kể
chuyện) hoặc một phân môn trong bộ môn Tiếng Việt ở tiểu học (kể
chuyện). Xét về bản chất, sở dĩ có tên gọi là (văn) Kể chuyện hay (phân
môn) Kể chuyện là do bản thân của chúng mang những nét đặc trưng của
kể chuyện. Điều đó có nghĩa là tên gọi có sau và nó phản ánh bản chất mà
môn học đó chứa đựng.
Tóm lại, dù theo quan điểm nào thì chúng ta cũng phải hiểu: kể
chuyện là một hoạt động của lời nói, nhằm trình bày một sự việc có mở
đầu, diễn biến và kết thúc.
1.1.2. Nhu cầu kể chuyện trong cuộc sống
Trong cuộc sống sinh hoạt của xã hội loài người, con người luôn
luôn trao đổi thông tin với nhau. Để thoả mãn nhu cầu đó, con người cần
một phương tiện đó là ngôn ngữ. Như ta đã biết, ngôn ngữ tồn tại dưới hai
dạng là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Trong cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày, con người sử dụng ngôn ngữ nói để trao đổi thông tin với nhau. Việc
9
sử dụng lời nói để trao đổi với nhau các vấn đề của cuộc sống, thật ra lúc
đó con người đang kể chuyện cho nhau nghe. Vì sao có thể khẳng định như
vậy? Vì khi đó con người đang tiến hành một hoạt động lời nói để trình
bày một sự việc sao cho người nghe hiểu được ý của mình.
Trong cuộc sống và lao động của người xưa, khi mà xã hội chưa
phân chia giai cấp, con người sống với nhau theo bầy đàn, sau một ngày
săn bắt hái lượm, họ cùng quây quần với nhau bên bếp lửa để kể cho nhau
nghe những câu chuyện về những cuộc săn bắt, hái lượm của họ.
Xã hội ngày càng phát triển, cùng với ngôn ngữ trình độ nhận thức
của con người cũng phát triển. Khi đó, trong quá trình lao động sản xuất
của mình, họ lại kể cho nhau nghe những câu chuyện có thể tự mình nghĩ

ra hoặc của thế hệ trước để lại. Những câu chuyện này chủ yếu nói về kinh
nghiệm sản xuất hoặc giải thích các hiện tượng thiên nhiên hay ước mơ
chinh phục thiên nhiên của người xưa. Đó chính là kho tàng văn học dân
gian đồ sộ và vô cùng quý giá mà nhân loại bao thế hệ đã dành tặng cho
hậu thế.
Khi chữ viết xuất hiện cũng là lúc nền văn học viết ra đời, hơn bao
giờ hết nhu cầu kể chuyện của con người là rất cao. Điều này thể hiện ở
việc con người ghi lại những câu chuyện dân gian để tiếp tục kể lại và lưu
truyền lâu dài cho đời sau. Song song đó, con người luôn không ngừng đua
nhau sáng tác thêm rất nhiều câu chuyện mang hơi thở của thời đại nhằm
đáp ứng nhu cầu về kể chuyện ngày càng cao của con người.
Tóm lại, kể chuyện là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống
con người. Dù muốn dù không nhu cầu này vẫn tồn tại và phát triển một
cách tự nhiên từ đời này qua đời khác và ngày càng cao.
1.1.3. Nhu cầu kể chuyện đối với trẻ
Từ lúc bập bẹ tập nói, các em nhỏ đã rất thích nghe kể chuyện.
Những câu chuyện của bà luôn là niềm hứng khởi đối với các em và nó đã
để lại trong lòng các em những tình cảm tốt đẹp. Khi đến tuổi mẫu giáo,
10
nhu cầu được nghe cũng như được kể chuyện của các em lại tăng lên. Bộ
môn cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học mà chủ yếu là cho trẻ làm
quen với truyện và thơ là bộ môn quan trọng ở các lớp mẫu giáo.
Đến khi bước vào tuổi tiểu học, nhu cầu về kể chuyện lại tiếp tục
tăng, đặc biệt là đối với các loại truyện cổ dân gian. Vì sao vậy? Vì những
truyện kể dân gian là những câu chuyện rất gần gũi với các em, các em đã
được làm quen với chúng từ rất sớm. Những câu chuyện này giúp các em
nhận thức thế giới và chúng cũng giúp các em chính xác hoá những biểu
tượng đã có về tự nhiên và xã hội. Đồng thời chúng từng bước cung cấp
thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống cho trẻ. Những
câu chuyện ấy còn hình thành cho các em thái độ với cuộc sống xung

quanh. Puskin - một nhà thơ vĩ đại của Nga - đã từng bộc bạch: “Buổi tối,
tôi nghe kể những câu chuyện cổ tích và lấy việc đó bù đắp những thiếu sót
trong sự giáo dục đáng nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ tích ấy mới
đẹp đẽ làm sao, mỗi truyện là một bài ca”.
Rõ ràng nhu cầu về kể chuyện là không thể thiếu đối với cuộc sống
của tất cả mọi người, mọi giới, mọi lứa tuổi trong xã hội.
1.2. KỂ CHUYỆN Ở TIỂU HỌC
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện ở trường
Tiểu học
Trước khi tìm hiểu về mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện
ở Tiểu học, chúng ta hãy cùng nhau điểm qua vài nét về mục tiêu, nhiệm
vụ của phân môn này ở bậc học Mầm non.
Theo hai tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nhung và Phạm Thị Việt, dạy
học Kể chuyện ở Mầm non nhằm đáp ứng những mục tiêu, nhiệm vụ vô
cùng quan trọng. Cụ thể như sau:
11
Một là, giúp cho trẻ yêu thích văn học và có nhu cầu tham gia vào
các hoạt động văn học nghệ thuật mà một trong những hình thức đó là kể
chuyện.
Hai là, Kể chuyện giúp cho trẻ mở rộng nhận thức về thế giới xung
quanh, bồi dưỡng cho trẻ những tình cảm lành mạnh, những ước mơ cao
đẹp, giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp trong tự nhiên, trong các mối quan hệ
xã hội. Đồng thời, kể chuyện còn giúp cho các em cảm nhận được vẻ đẹp
của ngôn ngữ.
Ba là, Kể chuyện còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ: giúp trẻ
phát âm chính xác, giúp làm giàu vốn từ, phát triển kĩ năng diễn đạt rõ
ràng, mạch lạc, sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt trong giao tiếp.
Bốn là, Kể chuyện giúp rèn kĩ năng đọc, kể diễn cảm các câu chuyện
văn học cho trẻ.
1.2.1.1. Mục tiêu của dạy học Kể chuyện ở Tiểu học

Theo tác giả Hoàng Hoà Bình, dạy học kể chuyện ở tiểu học nhằm
đạt các mục tiêu sau:
Một là, cùng với phân môn Tập đọc, kể chuyện bước đầu cho các
em tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, biết rung cảm trước vẻ đẹp của nó.
Đồng thời các em nắm được một số đặc điểm chính yếu của nó để vận
dụng trong việc tiếp nhận các tác phẩm văn học và trong việc sáng tạo lời
nói phục vụ cho hoạt động giao tiếp.
Hai là, bước đầu cho các em tiếp xúc với hình tượng văn học, rung
cảm trước những vui, buồn, yêu, ghét của con người. Từ đó hình thành và
phát triển nhận thức, tình cảm và thái độ đúng đắn trong cuộc sống như
biết phân biệt cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác, cái đúng với cái sai;
biết yêu thương trường lớp, thầy cô, bạn bè, quê hương, đất nước; có lòng
nhân ái vị tha; có ý thức về bổn phận với ông bà, cha mẹ, người thân, thầy
cô giáo, bạn bè; biết tôn trọng nội qui, tôn trọng pháp luật, bảo vệ của
12
công, bảo vệ môi trường; biết sống tự tin, năng động, trung thực, dũng
cảm; có ý thức và nhu cầu nhận thức bản thân.
Ba là, bước đầu rèn luyện và hình thành các kĩ năng cơ bản như biết
kể chuyện, biết tóm tắt câu chuyện, biết rút ra ý nghĩa câu chuyện, biết
nhận xét, nêu cảm nghĩ của mình về các nhân vật có trong truyện để vận
dụng trong học tập trên lớp và trong thưởng thức nghệ thuật ngoài lớp.
1.2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện ở trường Tiểu học
Trong quyển Dạy kể chuyện ở trường Tiểu học, tác giả Chu Huy đã
chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của phân môn kể chuyện là: bồi dưỡng tâm hồn,
đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển ngôn ngữ và
tư duy cho trẻ. Chúng ta có thể hiểu các nhiệm vụ của kể chuyện cụ thể
như sau:
Nhiệm vụ thứ nhất là bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui cho trẻ.
Kể chuyện đã đáp ứng nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ. Đối với các em nhu
cầu này rất lớn (như đã nói đến ở phần trên). Các câu chuyện được sử dụng

để kể cho trẻ là các tác phẩm văn học nghệ thuật. Các tác phẩm này có tác
động rất lớn đến tâm hồn và xúc cảm của trẻ, đồng thời nó còn đem lại
những xúc cảm thẩm mĩ cho các em.
Nhiệm vụ thứ hai là trau dồi vốn sống và vốn văn học cho các em.
Các em được học kể chuyện từ khi chưa biết đọc biết viết, điều này cũng
có nghĩa là các em được tiếp xúc rất sớm với các tác phẩm văn học. Trong
chương trình tiểu học, các em được nghe và kể rất nhiều câu chuyện với
nhiều thể loại khác nhau, từ truyện cổ tích đến hiện đại, có cả tác phẩm văn
học trong nước lẫn ngoài nước. Nhờ đó vốn văn học của trẻ được phát
triển. Các câu chuyện kể với nhiều đề tài khác nhau đã đưa các em tới một
thế giới muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống, tự nhiên và xã hội. Các câu
chuyện phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc sống: nỗi khổ cực, bị áp bức
bốc lột của nhân dân lao động xưa, bộ mặt ích kĩ, tham lam, gian tà của
giai cấp bốc lột, tập quán, truyền thống của dân tộc, các gương chiến đấu
13
hi sinh bảo vệ và xây dựng đất nước. Vốn sống của các em được mở rộng
cũng nhờ đó.
Nhiệm vụ thứ ba là phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ. Qua việc
nghe và kể các câu chuyện, trẻ được tiếp xúc với các hình ảnh nghệ thuật
của ngôn từ mà tác giả đã sử dụng. Chính điều đó giúp cho ngôn ngữ của
trẻ phát triển. Các chi tiết, các hình ảnh nghệ thuật, tính cách của nhân
vật trong câu chuyện làm phát triển tư duy cho trẻ. Trong quá trình nghe,
kể trẻ phải thâm nhập vào trong truyện. Muốn vậy trẻ phải hiểu sâu sắc câu
nội dung chuyện. Mà nội dung câu chuyện chính là các chi tiết, các hình
ảnh, các nhân vật.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng mục tiêu và nhiệm vụ dạy học ở
hai bậc học trên có những nét tương đồng. Mục tiêu, nhiệm vụ dạy học ở
Tiểu học là sự phát triển cao so với Mầm non.
Tóm lại, Kể chuyện có mục tiêu, nhiệm vụ rất quan trọng trong
trường tiểu học. Ngoài việc góp phần hoàn thiện nhân cách cho học sinh,

Kể chuyện còn tạo cho các em hứng thú học tập.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động dạy học Kể chuyện ở Tiểu học
1.2.2.1.Kể chuyện là hoạt động lời nói – là một dạng độc thoại đặc
biệt
Tác giả Nguyễn Trí cho rằng: Nói là hoạt động phát tin nhờ sử dụng
bộ máy phát âm. Đầu tiên người nói phải xác định nội dung lời nói, lựa
chọn ngôn ngữ để diễn tả nội dung ấy. Sau đó người nói sử dụng bộ máy
phát âm để truyền đi chuỗi lời nói đã được xác định.
Như vậy muốn người khác hiểu được những ý nghĩ của mình, con
người phải sử dụng bộ máy phát âm để chuyển đổi những ý nghĩ đó thành
lời nói. Hay nói cách khác là để tiến hành hoạt động giao tiếp con người
phải sử dụng lời nói phù hợp với những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Hoạt động lời nói là một phương thức giao tiếp, trong đó, con người sử
14
dụng lời nói trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm mục đích trao đổi thông tin cho
nhau.
Theo quan niệm về kể chuyện thì hoạt động chủ yếu của kể chuyện là
hoạt động ngôn ngữ nói. Đó là hoạt động lời nói sinh động. Về bản chất
“ truyện” xuất phát từ hoạt động “ nói chuyện” nên khi tái tạo lại truyện thì
phải tái tạo bằng cách“ kể” sao cho truyền cảm thì mới chuyển tải hết cái
hay, cái đẹp của câu chuyện. Muốn đạt được điều này, ngoài phương tiện
chính là ngôn ngữ, người kể còn phải sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ
như: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, để hỗ trợ.
Về bản chất chúng ta có thể xem kể chuyện là một kiểu đặc biệt của
dạng nói độc thoại.
Trong quyển Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương
trính mới, tác giả Nguyễn trí có viết: “Kể chuyện là lời nói độc thoại có
tính nghệ thuật cao nhằm truyền đạt đến người nghe không phải những
thông báo khô khan, nhạt nhẽo mà là một văn bản nghệ thuật (có trong
sách vở, trong cuộc sống, hoặc do chính người nói xây dựng nên)”. Điều

này được thể hiện rất rõ nét qua các kiểu bài trong chương trình kể chuyện
ở tiểu học. Đó là các kiểu bài: kiểu bài nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe
kể trên lớp; kiểu bài kể chuyện đã nghe, đã đọc và kiểu bài kể chuyện được
chứng kiến hoặc tham gia.
Là một dạng đặc biệt của độc thoại nên kể chuyện mang đầy đủ đặc
điểm của lời nói độc thoại. Đó là: nội dung câu chuyện, nghệ thuật kể và
việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ khi kể sao cho hấp dẫn người nghe.
Nội dung câu chuyện phải hấp dẫn, phù hợp với tâm lí, hứng thú của
từng lứa tuổi. Câu chuyện càng có nội dung xã hội sâu sắc, càng có ý nghĩa
nhân văn to lớn, càng có sức hấp dẫn người nghe. Giở lại các câu chuyện ở
tiểu học, chúng ta thấy chúng quá thoả mãn với yêu cầu này. Mỗi câu
chuyện trong chương trình đều phục vụ cho một chủ điểm học tập nhất
15
định mà các chủ điểm học tập ở tiểu học phù hợp với đặc điểm tâm lí,
hứng thú, hấp dẫn với các em là điều quá tất nhiên.
Một câu chuyện dù hay đến mấy nhưng nghệ thuật kể không hay thì
việc kể chuyện không thể thành công được.
Nghệ thuật kể có thể được hiểu là khi kể một câu chuyện, người kể
phải truyền đạt một cách say mê nội dung câu chuyện, làm sao cho người
nghe tưởng như người kể là một nhân chứng của những sự kiện đang diễn
ra. Để làm được điều đó, người kể phải khéo léo sử dụng toàn bộ kho tàng
sắc thái âm thanh của mình. Một số biểu hiện của sắc thái âm thanh có thể
kể đến như sau:
Một là sắc thái giọng: sắc thái giọng là sự thể hiện những nét khác
nhau của thái độ, tình cảm, tính cách của con người thông qua giọng đọc,
kể của mình. Sắc thái có thể: vui tươi, trang trọng, hóm hỉnh, trong sáng,
tha thiết Về cơ bản, mỗi thể loại truyện mang một sắc thái riêng mà khi
kể, người kể phải thể hiện cho phù hợp như truyện cười phải được kể với
giọng vui tươi, truyện ngụ ngôn sẽ được kể với giọng châm biếm, còn
giọng hùng tráng được dành để kể chuyện thần thoại, với cổ tích thì giọng

trầm tĩnh, trong sáng là phù hợp nhất. Tuy nhiên, sắc thái giọng của hầu
hết các truyện không phải lúc nào cũng như nhau từ đầu đến cuối truyện
mà phải thay đổi cho phù hợp với từng tình tiết cụ thể. Ví dụ khi kể chuyện
Ông Nguyễn Khoa Đăng (lớp 5, tuần 21), chúng ta sẽ kể với giọng trầm
tĩnh ở đoạn (từ một lần cho đến lính bắt họ giải về quan) để thuật lại
nguyên nhân vụ kiện của người bán dầu nhưng ở đoạn kể lại cuộc chiến
giữa quân của triều đình với bọn cướp thì chúng ta phải kể với giọng hùng
tráng để thấy được sức mạnh của quân triều đình.
Hai là kĩ thuật ngắt giọng: Ngắt giọng là cách ngừng, nghỉ giọng
trong khi kể để bộc lộ ý tứ của câu chuyện.
Trong Kể chuyện, chúng ta thường sử dụng hai kĩ thuật ngắt giọng
sau:
16
Thứ nhất là ngắt giọng lô gích: Đó là những chỗ dừng lại giữa các
từ, nhóm từ có quan hệ mật thiết với nhau về nghĩa. Cách ngắt giọng này
chủ yếu dựa vào dấu hiệu hình thức đó là các dấu câu hoặc dựa vào cấu
trúc câu (trạng ngữ/ chủ ngữ/ vị ngữ). Nhờ ngắt giọng lô gích, chúng ta
hiểu được ý nghĩa của câu nói một cách rõ ràng, đầy đủ hơn.
Thứ hai là ngắt giọng tâm lí: Ngắt giọng tâm lí là một phương tiện
tác động đến tình cảm của người nghe. Như vậy nếu ngắt giọng lô gích
phục vụ cho trí tuệ thì ngắt giọng tâm lí phục vụ cho tình cảm Sự im lặng
có tác dụng truyền cảm, đó chính là ngắt giọng tâm lí”.
Ngắt giọng tâm lí bắt nguồn từ trạng thái tâm hồn của người kể, nó
được xác định bằng sự hàm ý, bằng thái độ của người kể, nó phản ánh hoạt
động sáng tạo của người kể. Ngắt giọng lô gích có thể trùng hoặc không
trùng với ngắt giọng lô gích. Ví dụ khi kể đoạn nói về suy nghĩ của Pa-xtơ
khi nhìn thấy em bé đau đớn trong câu chuyện Pa-xtơ và em bé (lớp 5,
tuần 14), để diễn tả nỗi xót thương em bé của Pa-xtơ, ta có cách ngắt giọng
tâm lí như sau: “ Nhìn vẻ đau đớn của em bé/ và đôi mắt đỏ hoe rưng rưng
muốn khóc của người mẹ,/ lòng Pa-xtơ se lại./ Ông nghĩ đến một ngày kia/

em bé đáng thương sẽ lên cơn dại, lịm dần/ vì tê liệt,/ hoặc nghẹt thở/ vì
một cơn giật dữ dội,/ rồi chết./”.
Ngắt giọng tâm lí còn được sử dụng khi kể xong một câu chuyện.
Điều này có tác dụng làm cho câu chuyện như lắng đọng mãi trong tâm
hồn người nghe.
Ba là nhịp điệu: Nhịp điệu là sự thể hiện của giọng đọc nhanh hay
chậm, khẩn trương hay vừa phải. Nhịp điệu là phương tiện rất hiệu nghiệm
của tính truyền cảm nghệ thuật. Sử dụng các sắc thái khác nhau của nhịp
điệu sẽ đem đến cho lời nói, kể một sức mạnh đặc biệt. Nếu khi nói, chúng
ta chỉ sử dụng một nhịp điệu thì nó sẽ héo hon và mất sức sống.
Nhịp điệu được quy định bởi tính chất, nội dung của tác phẩm, nó
gắn liền với thực chất những điều mà người biểu diễn muốn thể hiện và có
17
thể biến đổi từ đoạn này sang đoạn khác. Ví dụ khi kể về hai hành động
khác nhau của anh Lý Tự Trọng (trong truyện LýTự Trọng- lớp 5, tuần1),
chúng ta phải kể với hai nhịp điệu khác nhau. Với hành động thứ nhất
“ anh nhảy xuống vờ cởi bọc, kì thật buộc lại cho chặt hơn.”, chúng ta
phải kể với nhịp điệu chậm rãi để cho thấy anh cố tình kéo dài thời gian để
tìm cách đối phó với tên mật thám. Nhưng với hành động thứ hai của anh,
chúng ta phải kể với giọng thật nhanh để thể hiện sự nhanh nhẹn, khẩn
trương của anh khi chạy thoát: “ Nhanh trí, anh vồ lấy xe của nó, nhảy lên,
phóng mất”.
Bốn là cường độ của giọng: Cường độ của giọng là độ vang, độ hoàn
chỉnh của giọng, là khả năng điều chỉnh giọng, làm cho nó có thể to hoặc nhỏ,
có thể tạo được các bậc thang chuyển độ vang từ to đến nhỏ và ngược lại.
Cường độ của giọng phụ thuộc vào nội dung tác phẩm, nó thay đổi
phụ thuộc vào hoàn cảnh phát triển của các tình tiết. Ví dụ giọng vang to
được sử dụng khi thuật lại lời nói của anh Lý Tự Trọng trước toà để thể
hiện sự đĩnh đạc, hùng tráng và mạnh mẽ nhằm tỏ rõ khí phách của người
cộng sản: “Tôi hành động có suy nghĩ. Mọi việc tôi làm đều vì mục đích

cách mạng. Tôi chưa đến tuổi thành niên thật nhưng tôi đủ trí khôn để
hiểu rằng thanh niên Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là làm cách
mạng, không có con đường nào khác”. Một ví dụ khác, chúng ta sẽ kể
giọng trầm lặng với đoạn sau để thể hiện lòng đau xót đối với những đồng
bào, với quê hương ta đã bị bọn lính Mĩ giết hại, tàn sát một cách vô cùng
dã man: “ Vào sáng ngày 16 tháng 3 năm 1968, chỉ trong vòng bốn tiếng
đồng hồ, quân đội Mĩ đã huỷ diệt hoàn toàn mảnh đất này: thiêu cháy nhà
cửa, ruộng vườn, giết hại gia súc, bắn chết 504 người, phần lớn là cụ già,
trẻ em và phụ nữ mang thai. Có gia đình 11 người bị lính Mĩ ập tới, xả
súng giết đồng loạt trong ít phút. Có những đứa bé bị bắn khi đang bú trên
xác mẹ” (Tiếng vĩ cầm ở Mĩ Lai- Lớp 5, tuần 4).
18
Việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ trong kể chuyện. Ngoài những
kĩ thuật về mặt âm thanh đã nêu trên, trong khi kể chuyện, người kể cần sử
dụng phối hợp các yếu tố phi ngôn ngữ nhằm tăng sức hấp dẫn của lời kể.
Lời kể của chúng ta sẽ tạo ra sức hấp dẫn bội phần nếu như nó được kết
hợp chặt chẽ, hài hoà với tư thế, nét mặt và cử chỉ.
Yêu cầu về tư thế là người kể, trong lúc kể, phải giữ tư thế của mình
sao cho tự nhiên và đẹp, đĩnh đạc, không gò bó.
Nét mặt của người kể là rất quan trọng đối với việc truyền cảm câu
chuyện. Vẻ mặt của người kể giúp cho người nghe dễ dàng tiếp thu được ý
nghĩa của câu chuyện. Vẻ mặt phải được biểu hiện sao cho phù hợp với nội
dung câu chuyện. Nếu là một câu chuyện vui thì nét mặt người kể phải
biểu lộ vẻ tươi vui. Nếu là một câu chuyện buồn thì nét mặt phải lộ vẻ
buồn rầu, ủ dột, thương cảm. Những vẻ mặt đó tự nó xuất hiện nếu người
kể thấu hiểu nội dung và cảm thụ được nó. Người kể chuyện mà vẻ mặt
dửng dưng, thờ ơ, lãnh đạm là điều cần tránh. Vì như thế người nghe sẽ bị
đẩy đến chỗ tách biệt với người kể. Đặc biệt đối với học sinh, điều đó sẽ
ngăn cản không cho các em nhận thức được ý nghĩa câu chuyện một cách
đầy đủ và trọn vẹn. Tuy nhiên người kể cũng không nên gượng ép hay thái

quá vì như thế sẽ không tạo được một cảm xúc thật sự. Điều này đôi khi
tạo ra tác dụng ngược lại.
Cử chỉ là động tác của tay. Nó cũng là phương tiện bổ sung vào câu
chuyện. Cử chỉ là sự biểu lộ thái độ của người kể đối với các nhân vật, các
sự kiện trong câu chuyện. Cử chỉ chỉ làm tăng cường những sắc thái, ngữ
điệu của lời nói. Cho nên người kể tuyệt đối không dùng cử chỉ thay cho lời
nói. Cử chỉ phải đa dạng để không gây nhàm chán và tăng sức biểu cảm.
Tóm lại, kể chuyện là hoạt động lời nói. Nó là một dạng độc thoại
đặc biệt. Do đó muốn phát huy hết sức mạnh của nó, chúng ta phải sử dụng
các kĩ thuật của độc thoại sao cho hiệu quả nhất.
19
1.2.2.2. Kể chuyện là một hình thức sinh hoạt văn hoá
Kể chuyện ở tiểu học là một hoạt động văn hoá được nảy sinh và
phát triển do nhu cầu của xã hội. Sống trong thế giới bao la, muôn hình
muôn vẻ, con người có nhu cầu khám phá, nhận thức nó. Kể chuyện là nhu
cầu to lớn của cả người lớn lẫn trẻ em. Với trẻ em, kể chuyện là hoạt động
rất quan trọng để các em nhận thức thế giới xung quanh, tích lũy kinh
nghiệm sống. Chính vì vậy mà Kể chuyện được đưa vào chương trình và là
một phân môn trong tiếng Việt.
Kể chuyện nói chung và trong tiểu học nói riêng đều sử dụng các tác
phẩm của văn học làm chất liệu. Như chúng ta đã biết, các tác phẩm văn
học cho chúng ta hiểu biết rất nhiều điều về thiên nhiên, xã hội và con
người. Qua các tác phẩm văn học chúng ta như được làm quen với con
người, cuộc sống hiện tại và cả trong quá khứ, trong phạm vi đất nước ta
và cả các nước khác trên thế giới. Văn học không những cho chúng ta nhận
thức được mối quan hệ của con người với đời sống hiện thực mà thông qua
đó nó giúp chúng ta hiểu con người một cách đầy đủ hơn, hiểu biết bản
thân mình một cách cặn kẽ hơn. Con người trong sự phản ánh của văn học
là con người với những biểu hiện phong phú về tinh thần, tình cảm, thế
giới tinh thần con người thật đa dạng, phong phú và bí ẩn. Cũng chính nhờ

quá trình nhận thức về con người mà người đọc, người nghe có được một
hoạt động tự nhận thức. Đó là quá trình đối chiếu, liên tưởng, nghiền
ngẫm, tự quan sát và hiểu mình hơn.
Tóm lại, do bản chất phản ánh đới sống con người trong tính toàn vẹn
sinh động mà các tác phẩm văn học có thể cung cấp cho người đọc, người
nghe một vốn tri thức phong phú về nhiều mặt: từ cây cỏ, chim muông, vật
dụng cho đến phong tục tập quán, các trạng thái tình cảm và đời sống tinh
thần của con người. Nếu có dịp đọc qua các câu chuyện dành cho các em,
chúng ta sẽ tìm thấy tất cả những điều đó trong các câu chuyện ấy.
20
Ngoài việc cung cấp cho con người những hiểu biết về thế giới xung
quanh, văn học còn giúp con người hiểu được chính mình, nhờ hiểu được
mình nên con người tự tin với chính mình hơn. Văn học cũng góp phần
làm nảy sinh trong con người một khát vọng hướng tới chân lí, đấu tranh
với cái xấu xa trong con người, biết tìm thấy cái tốt của con người và thức
tỉnh trong tâm hồn họ sự xấu hổ, chí căm thù và lòng dũng cảm, biết làm
tất cả để con người lành mạnh hơn và tắm đẫm cuộc sống con người trong
ánh sáng thiêng liêng của vẻ đẹp.
Như vậy, các tác phẩm văn học được sử dụng trong Kể chuyện còn
có tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn, trí tuệ, tình cảm, đạo đức cho con người.
Nó giúp con người nhận ra cái đẹp, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái thật, cái
giả Đồng thời, nó còn gieo vào lòng ta một sự cảm thông sâu sắc với nỗi
đau, sự cô đơn, tủi nhục của người khác. Nó làm cho chúng ta hiểu rằng
nỗi đau không của riêng ai.
Rõ ràng qua mỗi câu chuyện các em sẽ được bồi dưỡng một phẩm
chất trong các phẩm chất trên. Nội dung giáo dục được thể hiện trong ý
nghĩa của câu chuyện mà trong giờ dạy chúng ta yêu cầu các em tìm ra.
Trong chương trình kể chuyện ở tiểu học, mỗi câu chuyện gắn với một chủ
điểm cụ thể. Các chủ điểm đó cũng chính là nội dung giáo dục mà các câu
chuyện hướng tới. Ví dụ ở lớp 5, chủ điểm Giữ lấy màu xanh thuộc các

tuần 11, 12, 13. Trong tuần 11, câu chuyện các em được nghe và kể lại đó
là Người đi săn và con nai, câu chuyện nhằm giáo dục các em tình yêu
thiên nhiên, từ đó các em có ý thức bảo vệ thiên nhiên. Trong tuần 12, đề
bài yêu cầu các em Hãy kể lại một câu chuyện đã nghe hay đã đọc có nội
dung liên quan đến việc bảo vệ môi trường. Đến tuần 13, đề bài yêu cầu
các em hoặc Kể lại một việc làm tốt của em hoặc của những người xung
quanh để bảo vệ môi trường hoặc kể chuyện về một hành động dũng cảm
bảo vệ môi trường.
21
Các tác phẩm văn học sử dụng trong Kể chuyện còn làm thoả mãn
nhu cầu và thị hiếu thẩm mĩ của con người. Văn học thỏa mãn nhu cầu và
thị hiếu thẩm mĩ của con người bằng nhiều cách. Trước tiên là nó thoả mãn
nhu cầu thưởng thức cái đẹp của người đọc, người nghe qua việc phản ánh
cái đẹp vốn có trong thiên nhiên, trong cuộc sống vào trong nó. Hai là qua
lăng kính nghệ thuật, các nhà văn đã gọt giũa, nhào nặn làm cho cái đẹp
vốn đã đẹp lại càng rực rỡ, lóng lánh hơn. Nhờ tiếp xúc với tác phẩm văn
học con người không chỉ nhận thức được cái đẹp một cách tinh tế, nhạy
bén mà còn biết khám phá cái đẹp.
Qua các câu chuyện được nghe, được kể trong chương trình tiểu
học, các em được nhìn thấy, được sờ mó vẻ đẹp của quê hương đất nước,
con người. Đồng thời các em cũng nhận ra được đâu là điều thiện đâu là
điều ác. Các em sẽ vui thích khi điều thiện bao giờ cũng chiến thắng cái ác.
Các em cũng vui buồn, khóc cười với nhân vật trong truyện. Qua câu
chuyện Tiếng vĩ cầm ở Mĩ Lai, các em đau xót đối với đồng bào ta bao
nhiêu thì các em căm thù bọn lính Mĩ tàn ác bấy nhiêu. Ôi cảnh thiên nhiên
đẹp biết bao: “ Thế rồi, trên lưng đồi sẫm đen dưới ánh trăng, bóng con
nai hiện rõ dần. ánh đèn ló trên trán người thợ săn chợt vụt lên. Hai con
mắt nai đỏ như hổ phách bối rối trong làn sáng đèn. Con nai ngây ra đẹp
quá” (Người đi săn và con nai). Các em sẽ vui sướng biết bao khi em bé
được Pa-xtơ cứu sống (Pa-xtơ và em bé)

Ngoài việc cảm nhận vẻ đẹp do nội dung tác phẩm mang lại, người
đọc, người nghe còn cảm nhận được vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ (chúng
tôi sẽ đề cập trong mục 2.2.3.)
Ngoài ra tác phẩm văn học còn đưa ra nội dung giao tiếp cụ thể.
Nhưng tác phẩm văn học không phải đưa ra một thứ kí hiệu giao tiếp thông
thường mà nó còn chứa đựng nội dung tư tưởng tình cảm và mang tính xã
hội rất đậm nét. Do đó tác phẩm nghệ thuật trở thành phương tiện có hiệu
22
quả nhất đưa con người xích lại gần nhau hơn về tình cảm cũng như về mặt
tinh thần.
1.2.2.3. Kể chuyện là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật
Kể chuyện có tính chất sáng tạo vì khi kể, người kể đã chuyển văn
bản từ ngôn ngữ viết sang ngôn ngữ nói. Đồng thời, người kể cũng thể hiện
mối quan hệ riêng của mình đối với tác phẩm và kể theo phong cách riêng
của mình. Trong kể chuyện, người kể sử dụng ngôn từ theo cách riêng của
mình để dựng lại câu chuyện và gửi gắm tình cảm, cách nghĩ, cách nhìn
của mình đối với những sự kiện, nhân vật trong tác phẩm. Ngôn ngữ được
người kể sử dụng ở đây là ngôn ngữ nói, nó mang tính trực giác và biểu
cảm, nó gắn liền với ngữ cảnh và hoàn cảnh nói. Cho nên ngôn ngữ kể có
đôi lúc không phải sử dụng nguyên xi ngôn ngữ viết trong tác phẩm. Có
thể nói cách khác là người kể chuyện đã tái tạo tác phẩm văn học một cách
nghệ thuật.
Đặc biệt đối với kiểu bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia
thì hoạt đông sáng tạo nghệ thuật thể hiện rất rõ nét. Điều đó được thể hiện
ở chỗ là từ những sự việc được nhìn thấy hoặc được trực tiếp tham gia, các
em phải biết sử dụng ngôn ngữ của mình để kể lại cho người khác nghe.
Muốn câu chuyện kể của mình hấp dẫn, thu hút sự chú ý của người khác,
các em phải biết lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ một cách hay nhất. Và lúc
này, các em không phải là người tái tạo mà chính các em là người đã sáng
tạo hoàn toàn ra câu chuyện.

Như đã trình bày ở phần trên, kể chuyện là một hoạt động lời nói.
Cho nên kể chuyện là hoạt động nghệ thuật của lời nói như ngữ điệu, cách
ngắt giọng, cường độ giọng, cử chỉ, điệu bộ Mà không người nào thể
hiện giống người nào.
Tóm lại, câu chuyện được kể lại mang dấu ấn của người kể từ lời
văn đến, giọng điệu lẫn cảm xúc. Đó là sáng tạo. Sáng tạo trong kể chuyện
là yếu tố cực kỳ quan trọng. Vì nhờ có sáng tạo mà chuyện xưa thành
23
chuyện nay, những tác phẩm xa lạ trở nên gần gũi, thân quen, nội dung bên
ngoài người kể biến thành nội dung bên trong bản thân người kể Nhờ đó
tác phẩm để lại tác động sâu sắc, những dấu ấn khó phai trong tâm hồn
người kể, người nghe.
1.2.3. Nội dung và phương pháp dạy học Kể chuyên ở Tiểu học
1.2.3.1. Nội dung dạy học Kể chuyện ở Tiểu học
Đối với lớp 1: Trong giai đoạn học vần, ở các bài ôn tập, sau phần
luyện đọc và luyện viết là phần kể chuyện theo tranh nhằm giúp cho nội
dung học tập thêm phong phú, sinh động và hấp dẫn. Các câu chuyện được
kể ở giai đoạn này có tên gắn với những âm, vần vừa học.
Ở giai đoạn này, giáo viên kể cho các em nghe là chủ yếu. Học sinh
nhìn tranh minh hoạ trong sách giáo khoa và nghe giáo viên kể. Giáo viên
có thể đặt câu hỏi đơn giản cho học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể kể lại
từng đoạn theo tranh.
Đến phần Luyện tập tổng hợp, cuối mỗi tuần có một bài kể chuyện,
các văn bản dùng để kể chuyện được tuyển chọn và biên soạn lại cho phù
hợp với trẻ lớp một. Độ dài của các văn bản khoảng từ 120 đến 300 chữ.
Nội dung các mỗi truyện gắn liền với một chủ điểm học tập của chương
trình. Các chủ điểm ở lớp 1 gồm có: Nhà trường, Gia đình và Thiên nhiên
đất nước.
Đối với lớp 2: Số lượng bài của lớp hai là 31 bài ứng với 31 tiết. Nội
dung kể được chọn từ các bài tập đọc học trong hai tiết. Các câu chuyện ở

lớp hai gắn liền với các chủ điểm: Em là học sinh; Bạn bè; Trường học;
Thầy cô; Ông bà; Cha mẹ; Anh em; Bạn trong nhà; Bốn mùa; Chim chóc;
Muông thú; Sông biển; Cây cối; Bác Hồ và Nhân dân.
Với lớp 2, kể chuyện có ba hình thức chủ yếu, đó là: kể theo tranh,
kể theo dàn ý cho sẵn hoặc kể theo lối phân vai.
Đối với lớp 3: Nội dung truyện kể chính là những văn bản các em
vừa học trong bài tập đọc. Kể chuyện ở lớp ba không có tiết riêng mà được
24
bố trí chung với tiết Tập đọc, nó chiếm thời lượng khoảng nửa tiết. Nội
dung các câu chuyện ở lớp 3 phục vụ các chủ điểm: Măng non; Mái ấm;
Tới trường; Cộng đồng; Quê hương; Bắc-Trung-Nam; Anh em một nhà;
Thành thị và nông thôn; Bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo; Nghệ thuật; Lễ hội;
Thể thao; Ngôi nhà chung và Bầu trời và mặt đất.
Về hình thức, ở lớp 3 có bốn hình thức kể, trong đó có ba hình thức
giống với lớp hai, hình thức Tự đặt tên cho các đoạn rồi kể lại là mới.
Nội dung dạy học kể chuyện ở lớp 4 và lớp 5 nhằm củng cố kĩ năng
kể chuyện đã được hình thành ở các lớp dưới đồng thời hình thành cho các
em những kĩ năng mới về kể chuyện.
Nội dung dạy học nhằm củng cố kĩ năng kể chuyện đã được hình
thành ở các lớp dưới: Đây là kiểu bài tập kể chuyện ở tuần thứ nhất trong
một chủ điểm học tập. Trong trường hợp này, câu chuyện có độ dài khoảng
trên dưới 500 chữ, được in trong sách giáo viên. Sách giáo khoa chỉ trình
bày tranh hoặc tranh kèm lời dẫn giải ngắn gọn. Bên cạnh mục đích chung
là rèn kĩ năng nói, kiểu bài tập này còn có mục đích rèn kĩ năng nghe cho
học sinh.
Nội dung dạy học nhằm hình thành những kĩ năng mới về kể
chuyện: Nội dung này được thể hiện ở việc các em phải kể lại những câu
chuyện đã nghe, đã đọc (không phải vừa được nghe trên lớp) và những câu
chuyện các em được chứng kiến hoặc tham gia. Với việc kể lại những câu
chuyện đã nghe, đã đọc thì nội dung là những câu chuyện các em đã được

nghe hoặc đã được đọc từ bất kì kênh thông tin nào. Nội dung của những
câu chuyện được chứng kiến hoặc tham gia là hoàn toàn không có sẵn. Để
kể được câu chuyện thuộc kiểu bài này, các em phải nhớ lại các tình tiết
những câu chuyện mà mình đã được chứng kiến hoặc tham gia. Khi có ý
tưởng, các em dựa vào cách thức xây dựng câu chuyện đã được học ở phân
môn Tập làm văn để sắp xếp lại các chi tiết và kể. Tất nhiên nội dung của
những câu chuyện này phải phù hợp với chủ điểm mà các em được học.
25

×