Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh hà nội-ngân hàng xăng dầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.08 KB, 110 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
DANH MỤC VIẾT TẮT
CIC: (Credit information Center ) : Trung tâm thông tin tín dụng.
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
GDP: (Gross domestic product) : Tổng thu nhập quốc nội.
IAS : (International Accounting standard) : Tiêu chuẩn kế toán quốc tế.
ICOR : (Incremental Capital - Output Ratio) : Hệ số sử dụng vốn.
L/C : (Letter of credit) : thư tín dụng.
PG Bank : (Petrolimex Group Bank ) :Ngân hàng xăng dầu.
SMEs : (Small and medium enterprises) : Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
TMCP : thương mại cổ phần.
USD : (United State Dollar) : Đô la Mỹ.
VAS : (VietNamese Accounting standard) : Tiêu chuẩn Kế Toán Việt Nam.
VCB: (Vietcombank) : Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
VNĐ: Việt Nam đồng.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
LỜI MỞ ĐẦU
Vai trò của nền kinh tế trong sự phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới
ngày càng trở nên quan trọng hơn.Tất cả các quốc gia đều có mục tiêu tăng
cường sức mạnh kinh tế, cũng như sức mạnh tài chính của mình.Vì vậy, mỗi
quốc gia đều cố gắng hết sức để kích thích nền kinh tế của mình phát triển.Có
nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hệ thống ngân hàng thương mại là một trong những yếu tố quan trọng
hàng đầu trong nền kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới nói chung và


tại Việt Nam nói riêng.Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính, nó có
chức năng kết nối giữa người cho vay và người đi vay để có thể nâng cao tốc
độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế.Nguồn tài chính từ ngân hàng thương
mại là một đòn bẩy tài chính quan trọng và không thể thiếu đối với doanh
nghiệp để có thể đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Có thể nói,
hệ thống ngân hàng thương mại là không thể thiếu trong mỗi nền kinh tế, và
nếu hệ thống này sụp đổ thì nền kinh tế cũng sẽ sụp đổ theo.Chính vì vậy,hiệu
quả trong hoạt động của ngân hàng thương mại ,và đặc biệt là hiệu quả trong
hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại là các yếu tố quan trọng
quyết định đến sự tồn tại của nền kinh tế quốc gia.
Một trong những yếu tố quan trọng không kém là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.Theo Zaman (2007), tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp.Tại Việt Nam, cũng
như các nước khác trên thế giới, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
chiếm ưu thế tuyệt đối, với 97% các doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.Với số lượng lớn như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã nắm giữ một
vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.Tại Việt Nam, tính đến
năm 2011, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp 40% GDP .Thêm vào
đó, lượng lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng chiếm đa số trong
lực lượng lao động Việt Nam ( khoảng 51% năm 2011).Với các con số nêu
trên, có thể thấy là tại Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trị
đặc biệt quan trọng, và sự hiệu quả trong hoạt động của cấc doanh nghiệp vừa
và nhỏ có thể gây ảnh hương lớn tới nền kinh tế quốc dân Việt Nam.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
Bên cạnh đó,tại Việt Nam, lượng vốn cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
đang ngày càng có xu hương tăng cao trong các năm trở lại đây.Điều này
được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 1.1.Tình hình cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của hệ thống ngân

hàng thương mại.
Đơn vị: nghìn tỷ đồng.
Năm
Tổng vốn cho vay Cho vay DNVVN Cho vay DN lớn
Quy

Tỷ trọng Quy mô Tỷ trọng Quy mô Tỷ trọng
2005 571 100% 155 27,1% 416 72,9%
2006 693 100% 203 29,3% 490 70,7%
2007 1.067 100% 353 33,1% 714 66,9%
2008 1.339 100% 445 33,2% 894 66,8%
2009 1.869 100% 699 37,4% 1.170 62,6%
2010 2.475 100% 1.044 42,2% 1.431 57,8%
(Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.)
Như đã thấy ở bảng trên, trong các năm gần đây, lượng vốn cho vay
doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mai đã gia tăng tương đối
nhanh.Tính đến năm 2010, lượng vốn này đã là 1.044 nghìn tỷ đồng, chiếm
tới 42,2% tổng lượng vốn cho vay doanh nghiệp của toàn hệ thống ngân
hàng.Chính vì vậy, có thể nói hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngân hàng thương mại đang đúng một vai trò quan trọng quyết định tới
hiệu quả hoạt động nói chung của ngân hàng thương mại.Xa hơn nữa, nó còn
có ý nghĩa sống còn tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân tại Việt Nam.
Chính vì những lý do trên,em quyết định chọn đề tài:”Nâng cao hiệu
quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Hà Nội-Ngân hàng
xăng dầu” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.Mục tiêu của đề tài là:
•Cung cấp một nghiên cứu chuyên sâu về ngân hàng, về doanh nghiệp
vừa và nhỏ và hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
2

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
•Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại thông qua số liệu tại chi nhánh
Hà Nội-Ngân hàng xăng dầu, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh.
Với các mục tiêu trên, kết cấu đề tài sẽ được chia làm ba phần chính như
sau:
Chương 1.Lý luận chung về hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngân hàng thương mại.
Chương 2.Thực trạng hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi
nhánh Hà Nội của PG Bank.
Chương 3.Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại chi nhánh Hà Nội của PG Bank trong thời gian tới.
Với kiến thức các số liệu có hạn nên bài nghiên cứu của em không thể
tránh khỏi thiếu sót.Em mong muốn nhận được những ý kiến phê bình, đóng
góp quý báu của các thầy cô nhằm giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lý
luận cũng như thực tiễn tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, chu đáo của Ths.
Lê Thu Thuỷ – là người trực tiếp hướng dẫn cũng như các cán bộ tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Xăng dầu chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành
chuyên đề này.
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ THUYẾT
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
I.Một số vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Có rất nhiều các khái niệm khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ.Sự
khác nhau giữa các khái niệm này phụ thuộc chủ yếu vào tổ chức đưa ra khái
niệm, và vì vậy giữa mỗi quốc gia khác nhau sẽ có một khái niệm cho riêng

mình về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo cuốn “The new SMEs definition – User guide and model
declaration” -European Commission, doanh nghiệp vừa và nhỏ được định
nghĩa là một thực thể , với bất kì hình thức pháp lý nào, và phải tham gia vào
các hoạt động kinh tế. Ủy ban Châu Âu cũng đưa ra ba tiêu thức thường được
dựng để xác định một doanh nghiệp vừa và nhỏ.Nó bao gồm số lượng nhân
viên, doanh thu hàng năm và bảng cân đối kế toán hàng năm.Dựa trên cuốn
“The new SMEs definition – User guide and model declaration”, doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở châu Âu được xác định theo ba tiêu thức trên như bảng
dưới đây.
Bảng 2.1.Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Liên Minh Châu Âu.
Loại doanh nghiệp
Số lượng
nhân viên
Doanh thu hàng
năm
Bảng cân đối kế
toán hàng năm
Doanh nghiệp vừa < 250 ≤ 50 triệu euro ≤ 43 triệu euro
Doanh nghiệp nhỏ <50 ≤ 10 triệu euro ≤ 10 triệu euro
Doanh nghiệp siêu
nhỏ
<10 ≤ 2 triệu euro ≤ 2 triệu euro
(Nguồn: The new SMEs definition – User guide and model declaration)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ được xác định chủ yếu dựa trên tiêu thức về số
lượng nhân viên.Các tiêu thức còn lại như doanh thu hàng năm và bảng cân
đối kế toán hàng năm không nhất thiết phải đồng thời được thỏa mãn.
Ở Việt Nam, theo nghị định số 59/2009/ND-CP của chính phủ, doanh
nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa dựa trên ba ngành kinh tế chính, và sử
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công

4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
dụng hai tiêu thức để xác định, theo như bảng dưới đây.
Bảng 2.2. Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Việt Nam.
Ngành
Doanh nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Lượng lao
động
Lượng lao
động
Nguồn
vốn
Lượng lao
động
Nguồn
vốn
Nông , lâm
, thủy sản
≤ 10
Khoảng
10 đến
200
≤ 20 tỷ
VNĐ
Khoảng
200 đến
300
20 đến

100 tỷ
VNĐ
Công
nghiệp và
xây dựng
≤ 10
Khoảng
10 đến
200
≤ 20 tỷ
VNĐ
Khoảng
200 đên
300
20 đến
100 tỷ
VNĐ
Thương
mại và
dịch vụ
≤ 10
Khoảng
10 đên 50
≤ 10 tỷ
VNĐ
Khoảng
50 đến
100
20 đến 50
tỷ VNĐ

(Nguồn: Nghị định số 59/2009/ND-CP)
Như vậy, có thể thấy là định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
Nam có những điểm giống và khác với định nghĩa về doanh nghiệp vừa và
nhỏ trên thế giới nói chung và của Liên Minh Châu Âu nói riêng. Cả hai định
nghĩa đều sử dụng số lượng lao động như là một tiêu chuẩn để xếp loại một
doanh nghiệp, tuy nhiên ở Việt Nam, nguồn vốn chủ sở hữu được quan tâm
hơn là doanh thu hàng năm.Ngoài ra, ở Việt Nam, các doanh nghiệp thuộc các
ngành kinh tế khác nhau cũng có sự khác biệt trong các chỉ tiêu đánh giá. Do
sự khác biệt nhau về các tiêu thức này, một doanh nghiệp có thể được xếp loại
khác nhau theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, và vì vậy sẽ gây nên sự khác
biệt về các chỉ số đanh giá hiệu quả cho vay khi áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam
và quốc tế.
2.Huy động vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.1.Các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
Có rất nhiều lý do để cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm kiếm nguồn tài
chính. Trong những lĩnh vực truyền thống, tìm kiếm nguồn tài chính có thể là
nhằm mục đích mua sắm tài sản vốn như là mua mới máy móc thiết bị, xây
dựng nhà xưởng,…Ngoài ra, nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới cũng rất
tốn kém , và việc tìm kiếm nguồn tài chính cũng nhằm mục đích cung ứng
cho mục đich này.Trong thực tế, “ hầu hết nguồn tài chính phục vụ cho công
tác nghiên cứu sản phẩm được tài trợ nội bộ, trong khi các nguồn tài chính
bên ngoài thì thường được sử dụng cho các mục đích mua sắm máy móc thiết
bị” (Carter et al., 1997).
Theo Carter et al. ( 1997), nguồn vốn có hai loại khác nhau.Các nguồn
tài chính nội bộ là nguồn tài chính phổ biến nhất để tài trợ cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.Theo European Commission (2009), các nguồn tài chính
nội bộ của một doanh nghiệp bao gồm vốn đầu tư của chủ sở hữu, lợi nhuận

giữ lại và các khoản tiền có được từ việc bán tài sản.
Rất nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp
tăng trưởng mạnh cũng cần phải tiếp cân với các nguồn tài chính từ bên
ngoài.Có hai nguồn tài chính bên ngoài, nguồn “ không chính thức” và nguồn
“ chính thức” (European Commission, 2009). Nguồn “không chính thức” là
nguồn vốn được huy động từ bạn bè, gia đình, hay những “người dại
dột”.Trong khi đó, nguồn “chính thức” bao gồm các khoản nợ theo hình thức
vay ngân hàng hay các tổ chức tài chính, thuê tài chính hay là mua trả
góp.Ngoài ra, còn một vài nguồn vốn từ bên ngoài khác.Đó là các nguồn vốn
rủi ro ( vốn liên doanh, vốn cổ phần), bao thanh toán và tín dụng thương mại
(European Commission, 2009).
2.2.Những khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong vấn đề huy
động vốn.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
Theo Beck, Demirguc-Kunt (2006), doanh nghiệp vừa và nhỏ đã gặp
phải một vài khó khăn có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động và sự phát triển
của doanh nghiệp.Nó bao gồm sự khó khăn để tiếp xúc với nguồn tài chính,
cơ sở hạ tầng yếu kém, sự không ổn định của nền kinh tế vĩ mô, tội phạm và
tham nhũng.Theo Schiffer và Weder (2001), doanh nghiệp vừa và nhỏ thường
xuyên phải đối mặt với những khó khăn lớn hơn so với các doanh nghiệp lớn
trong quá trình phát triển doanh nghiệp.Đồng quan điểm với họ, Beck,
Demirguc-Kunt, Laeven và Maksimovic (2006) cũng đề xuất ý kiến là các
doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài gặp ít khó
khăn về tài chính hơn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Họ cũng chứng minh
rằng những khó khăn lớn hơn về tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
không chỉ là bằng chứng từ cả những nước đang phát triển và phát triển mà
còn được xác nhận như một dự đoán mang tính lý thuyết(Beck, Demirguc-
Kunt, 2006). Một điều hiển nhiên là, những khó khăn lớn về tài chính sẽ hạn

chế sự tăng trưởng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.Beck, Demirguc-Kunt và
Maksimovic (2005) đã chỉ ra là những khó khăn về tài chính sẽ dẫn đến sự
tăng trưởng chậm của doanh nghiệp.
Zavatta (2008, p.23) đã chỉ ra một số trở ngại có ảnh hưởng lớn tới khả
năng huy động được nguồn tài chính đầy đủ của doanh nghiệp vừa và nhỏ
như sau:
•Sự tồn tại của thông tin bất đối xứng giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ
và người cho vay: Thông tin bất đối xứng là hiện tượng một bên trong giao
dich có được thông tin tốt hơn và đầy đủ hơn so với bên còn lại.Trong hoạt
động huy động vốn của doanh nghiệp, hiện tượng thông tin bất đối xứng là
việc người cho vay ( ngân hàng và các tổ chức tài chính) không có được
thông tin đầy đủ và tụt về doanh nghiệp vay vốn, và vì vậy rủi ro trong hoạt
động tài trợ này là cao.Vì vậy, ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể từ
chối tài trợ vốn cho doanh nghiệp để tránh những rủi ro mà họ không muốn
đối mặt.Điều này dẫn đến những khó khăn trong quá trình huy động vốn của
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
•Nhửng rủi ro nội tại lớn liên quan tới các hoạt động kinh doanh có
quy mô nhỏ:Hồ sơ doanh nghiệp cũng là một trở ngại lớn tới khả năng huy
động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.Ngân hàng và các tổ chức tài chính có
thể đánh giá doanh nghiệp vừa và nhỏ là một đối tượng khách hàng đầy rủi ro
vì những lí do sau.Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ ít có khả năng tồn tại
trong môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh, so sanh với các doanh
nghiệp lớn ( tỉ lệ lợi nhuận bất ổn và khả năng thất bại cao hơn).Thứ hai,
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu hụt rất nhiều cả về mặt nhân sự và
nguồn vốn chủ sở hữu để có thể tồn tại trong một thị trường cạnh tranh.Thứ
ba, doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu một hệ thống kế toán đầy đủ để có thể thể
hiện một cách chính xác và đầy đủ lợi nhuận và khả năng trả nợ của mình.

•Chi phí tài chính lớn trong xử lý tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Khi ngân hàng cấp tín dụng cho một doanh nghiệp, những chi phí sau là
không thay đổi: chi phí hành chính, lệ phí pháp lý, và các chi phí khác để có
thể tiếp cận với các thông tin của doanh nghiệp như lý lich trả nợ từ các đơn
vị cung cấp thông tin tài chính.Vì vậy, với những món vay nhỏ thì lợi nhuận
thu được sẽ khó có thể bù đắp được những chi phí đã bỏ ra như trên.Thêm
vào đó, tại các nước đang phát triển,những chi phí trên còn có thể cao hơn
nữa vì những lý do sau: (i) Các ngân hàng và tổ chức tài chính thiếu tiêu
chuẩn quản lý thông tin, (ii) Nền công nghiệp thông tin kinh tế còn lạc hậu,
(iii) Một số dịch vụ công cộng như đăng kí sở hữu tài sản và đăng kí giao dịch
đảm bảo vẫn còn nghèo nàn.Những lý do đó có thể làm tăng chi phí tài chính
thông qua việc tăng lãi suất hoặc lệ phí cao.
•Sự thiếu hụt tài sản đảm bảo: Trong vấn đề vay nợ, người cho vay
( thường là ngân hàng) luôn đòi hỏi phải có tài sản thế chấp để đảm bảo cho
khoản vay.Với quy mô nhỏ, doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn gặp khó khăn lớn
trong việc thế chấp tài sản để đảm bảo cho khoản vay của mình.Đây cũng
được coi là vấn đề lớn nhất của doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận với
nguồn tài chính từ bên ngoài.
Như vậy, có thể thấy việc cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ còn tồn tại
rất nhiều các vấn đề khó khăn cho cả doanh nghiệp và ngân hàng, đặc biệt là
tại các nước không phát triển.Chính những vấn đề thiếu hụt thông tin hay chi
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
phí tài chính cao đã làm cho việc cho vay của ngân hàng đến những doanh
nghiệp vừa và nhỏ chứa đựng rủi ro lớn, và lợi nhuận thu được không cao.
II.Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.Ngân hàng thương mại.
Klein (1971), tuyên bố rằng, nhìn chung ngân hàng là một tổ chức trung

gian tài chính, với nhiệm vụ là huy động kinh phí từ các công ty chi tiêu thặng
dư và chuyển nó đến các công ty chi tiêu thâm hụt.Tuy nhiên, ngân hàng khác
với các trung gian tài chính khác.Nó có thể thu hút được nguồn vốn và tiền
gửi không kì hạn mà không phải trả lãi suất rõ rang.Đó là bởi vì các giao dich
qua ngân hàng được đánh giá cao hơn các giao dịch tiền mặt trong phần lớn
các giao dịch tầm trung (Klein, 1971).Theo Corrigan (1982), ngân hàng đặc
biệt là do các chức năng của nó.Ngân hàng cung cấp dịch vụ giao dịch, quản
lý hệ thống thanh toán quốc gia, cung cấp thanh khoản dự phòng cho nền kinh
tế quốc dân và đảm nhận chức năng chuyển tiền (Corrigan,1982).
Cùng ý kiến với Klein (1971), Heffernan (1996) cũng cho rằng chức
năng trung gian và chức năng thanh toán là lý do mà ngân hàng được hình
thành.Ngân hàng làm trung gian giữa người đi vay và người cho vay, và nó
cũng cung cấp dịch vụ thanh toán tới tất cả các khách hàng của mình.
Để ủng hộ ý kiến trên, Llewellyn (1999) phát biểu:
“Ngân hàng luôn đảm nhận một vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính
quốc gia với chức năng là một trung gian giữa những ngươi tiết kiệm và
người đi vay cuối cùng.Với vai trò là người chuyển đổi tài sản, ngân hàng
nhận và tập hợp các khoản tiền gửi có cùng một số tính chất rồi chuyển nó
thành các tài sản với các tính chất khác.Đặc biệt, họ tham gia chuyển đổi kỳ
hạn các hợp đồng nợ đến hạn ở cả hai bên của bảng cân đối kế toán”
Bên cạnh đó, Llewellyn cũng cho rằng trong những năm gần đây, ngân
hàng đã tham gia vào rất nhiều các khía cạnh của hoạt động kinh doanh, chứ
không chỉ là huy động tiền gửi và cho vay như truyền thống.Hiện tại, ngân
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
hàng hoạt dộng như là một công ty dich vụ tài chính.
2. Đặc điểm của hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của
ngân hàng.
2.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng tới

doanh nghiệp vựa và nhỏ.
Berger và Udell ( 2006) đã phát biểu rằng, các yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt động cho vay của mỗi quốc gia tác động lớn đến tính khả thi và lợi
nhuận của các phương thức cho vay của ngân hàng tới doanh nghiệp vừa và
nhỏ.Theo Berger và Udell ( 2006), các yếu tố đó là:
•Môi trường thông tin : Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của
môi trường thông tin là hệ thống kế toán.Một tiêu chuẩn kế toán tốt và các
công ty kiểm toán độc lập là vô cùng cần thiết để xác định tính chính xác của
một báo cáo tài chính- cơ sở của việc quyết định các phương thức cho
vay.Một khía cạnh khác là việc trao đổi thông tin với các văn phòng tín dụng-
những tổ chức đã thiết lập một cơ chế chính thức cho việc mua bán và trao
đổi thông tin.Theo Miller (2003), các văn phòng tín dụng đã góp phần không
nhỏ trong việc tiết kiệm chi phí và thời giản để phê duyệt một khoản
vay.Miller ( 2003) cũng cho rằng tại mỗi quốc gia khác nhau, văn phòng tín
dụng cũng có sự khác biệt về chủ sở hữu ( nhà nước hay tư nhân) và khác biệt
về lượng thông tin mà nó nắm giữ.Thông tin từ các văn phòng tín dụng là yếu
tố quan trọng để định hướng quyết định phương thức cho vay và chấm điểm
tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Berger và Udell, 2006).
•Môi trường pháp lý, tư pháp và phá sản: Theo Berger và Udell
(2006), môi trường pháp lý, tư pháp và phá sản có ảnh hưởng lớn tới các điều
khoản trong hợp đồng được kí kết.Một trường pháp lý, bao gồm cả luật
thương mại có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động cho vay.Nó quy định cụ thể
các quyền lợi liên quan đến tài sản trong các giao dịch thương mại.Berger và
Udell ( 2006, p.2957) cũng cho rằng : “Môi trường pháp lý và phá sản có thể
xác định được sự hiệu quả của việc thi hành luật pháp trong các vụ tranh
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
chấp thương mại và trong các nghị quyết phá sản. Sự hiệu quả này sẽ ảnh
hưởng tới sự tự tin của các bên tham gia ký kết hợp đồng tài chính.Nhìn

chung, các yếu tố này sẽ tạo nên các quy định của pháp luật liên quan đến
việc gia hạn các khoản vay.”
•Môi trường xã hội: Môi trường xã hội có thể có ảnh hưởng không nhỏ
tới lượng cung ứng tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.Berger và Udell
(2006) cho rằng, lượng vốn trong xã hội cũng như sự tin tưởng là những yếu
tố quan trọng trong việc đơn giản hoá việc ký kết và thực thi các hợp đồng tài
chính.Hơn thế nữa, môi trường xã hội cũng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt
động cho vay dựa trên quan hệ giữ người cho vay và người vay.Điều này là
do tôn giáo, văn hoá cũng như các chuẩn mực xã hội của mỗi quốc gia đều có
ảnh hưởng rất lớn tới lượng cung ứng thông tin về các doanh nghiệp, cũng
như khả năng của các tổ chức tài chính trong việc sử dụng một cách có hiệu
quả các thông tin này trong hoạt động cho vay của mình ( Berger and Udell,
2006).
•Thuế và chính sách tín dụng của tổ chức tài chính : Thuế và các
chính sách tín dụng cũng được Berger and Udell ( 2006) đánh giá là các yếu
tố có ảnh hưởng lớn tới hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các
chính sách tín dụng của tổ chức tài chính tác động tới lượng tín dụng cung
ứng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ do các chủ trương hạn chế của tổ chức tài
chính.Bên cạnh đó , các chính sách về thuế của chính phủ cũng gây ảnh
hưởng tới các tổ chức tài chính trên nhiều khía cạnh, như là thị phần của họ,
khả năng cạnh tranh của họ và cơ cấu quản lý doanh nghiệp của họ.Do vậy
mà chính sách thuế cũng có ảnh hưởng tới hoạt động cho vay doanh nghiệp
vừa và nhỏ của các tổ chức tài chính ( Berger and Udell, 2006).
2.2.Các phương thức cho vay của ngân hàng cho doanh nghiệp vừa
vả nhỏ.
2.2.1.Cho vay dựa trên báo cáo tài chính : Đây được coi là một kỹ thuật
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
giao dịch.Người cho vay ( các tổ chức tài chính) sẽ cho vay dựa trên mức độ

lành mạnh của báo cáo tài chính của người đi vay. Kỹ thuật này đòi hỏi một
lượng thông tin dồi dào về người đi vay và nó có hai yêu cầu.Thứ nhất là
người đi vay phải cung cấp được báo cáo tài chính đã được kiểm toán bởi một
tổ chức kiểm toán có danh tiếng, và được lập theo một tiêu chuẩn kế toán
được công nhận rộng rãi ( như là VAS tại Việt Nam). Thứ hai là doanh
nghiệp đi vay phải đang ở trong tình trạng hoạt động tốt dựa trên các chỉ số tài
chính được tính ra từ báo cáo tài chính của doanh nghiệp.Trong kĩ thuật cho
vay này, người cho vay sẽ chủ yếu tập trung vào dòng tiền trong tương lai để
đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
2.2.2.Chấm điểm tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: Kỹ thuật giao
dịch nay dựa vào thông tin của người cho vay về cả doanh nghiệp đi vay cũng
như chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay.Thông tin về chủ sở hữu doanh
nghiệp được thu thập bởi các văn phòng tín dụng tiêu dùng.Những thông tin
này được kết hợp với các thông tin về doanh nghiệp được thu thập bởi các tổ
chức tài chính hay các văn phòng tín dụng thương mại.Dựa trên các thông tin
này, tổ chức tài chính sẽ sử dụng một mô hình dự báo để chấm điểm tín dụng
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các tổ chức tài chính sẽ dựa trên điểm tín
dụng đã chấm để quyết định cho vay doanh nghiệp vừa vả nhỏ.
2.2.3.Cho vay dựa trên tài sản lưu động: Đây là phương thức giao dịch
mà người cho vay tập trung chú ý vào tập hợp các tài sản thế chấp của người
đi vay, và coi đây là nguồn trả nợ khi mà các doanh nghiệp không thể thanh
toán khoản vay đúng hạn.Các loại tài sản thường được sử dụng làm tài sản thế
chấp bao gồm các khoản phải thu và hàng tồn kho.Berger and Udell (2006)
cho rằng, việc thế chấp các khoản phải thu thương mại và hàng tồn kho
thường có liên quan tới các hoạt động cho vay dựa trên báo cáo tài chính, cho
vay dựa trên châm điểm tín dụng hay là cho vay dựa trên quan hệ giữa người
cho vay và người vay.
2.2.4. Bao thanh toán: Theo Berger and Udell ( 2006,p.2949), Bao
thanh toán là hoạt động mua lại các khoản phải thu của “người cho vay” ,
hay còn được gọi là người mua .Cũng giống như hoạt động cho vay dựa trên

SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
tổng tài sản, kỹ thuật cho vay này chủ yếu dựa vào lượng tài sản thay vì dựa
vào rủi ro tổng thể của doanh nghiệp.Tuy nhiên, nó cũng có ba điểm khác biệt
với kỹ thuật cho vay dựa trên tài sản.Thứ nhất, hoạt động bao thanh toán chỉ
có sự tham gia của các nguồn tài chính từ các khoản phải thu.Thứ hai, trong
hoạt động bao thanh toán, tài sản được bán cho người cho vay chứ không phải
là thế chấp để đảm bảo khoản vay.Thứ ba, hoạt động bao thanh toán là một
tổng hợp của ba dịch vụ tài chính : dịch vụ
2.2.5.Cho vay dựa trên tài sản cố định: Đây là kỹ thuật cho vay dựa
trên những tài sản có thời gian sử dụng lâu dài, và không bị bán đi trong chu
kì kinh doanh bình thường của doanh nghiệp (như là máy móc, trang thiết bị,
phương tiện vận tải và bất động sản).Trong phương thức cho vay này, tài sản
cố định được sử dụng để bảo đảm cho khoản vay.Không giống như các khoản
phải thu thương mại hay hàng tồn kho, những tài sản có thời hạn sử dụng dài
và có các dấu hiệu nhận biết đặc biết có thể gây nên sự phức tạp trong quá
trình tiếp nhận và cơ chế giám sát(Berger and Udell, 2006).
2.2.6.Cho thuê tài chính: Theo Berger and Udell ( 2006,p.2950) , Cho
thuê tài chính là hoạt động mua tài sản cố định của “người cho vay”, hay
còn được gọi là người cho thuê trong trường hợp này.Ở nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ, thuê tài chính là một phương thức phổ biến để tài trợ tài sản cố
định , như là trang thiết bị , phương tiện vận tải, máy móc và bất động sản của
cả ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.Người cho thuê sẽ mua
tài sản cố định sau khi đã thoả thuận được hợp đồng cho thuê với người thuê (
hay còn gọi là người đi vay), trong đó xác định rõ kế hoạch thanh toán của
người thuê.Hợp đồng này có thể bao gồm cả quyền mua của người đi thuê với
một mức giá xác định tại thời điểm kết thúc hợp đồng thuê.Thuê tài chính
cũng là một phương thức cho vay do hoạt động này cũng phải dựa trên một
nền tảng thông tin dồi dào về đối tác vay.

2.2.7.Cho vay dựa trên quan hệ với khách hàng: Trong phương thức
cho vay này, người cho vay dựa trên những thông tin thu được từ quá trình
quan hệ lâu dài với khách hàng, với chủ của doanh nghiệp, và từ cộng đồng
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
địa phương để đưa ra quyết đinh cho vay của mình.Những thông tin này được
thu thập bằng cách liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp, hoặc qua việc quan sát
các hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến quan hệ với ngân hàng.Berger
and Udell (2006) cũng cho rằng các thông tin này cũng bao gồm cả các đánh
giá về triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai, được thu thập từ các
thông tin liên lạc trong quá khứ với các nhà cung cấp, khách hàng hay các cơ
sở kinh doanh lân cận của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.3.Các phương thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
Nam.
Việt Nam là một đất nước đang phát triển, mới bắt đầu bước vào nền
kinh tế thị trường kể từ sau năm 1986.Chính vì vậy, hệ thống tài chính ở Việt
Nam còn tương đối lạc hậu, so sánh với các nước phát triển khác trong khu
vực và trên thế giới.Thêm vào đó, tại Việt Nam, các yếu tố như môi trường
pháp lý, tư pháp và phá sản, môi trường xã hội, thuế và chính sách tín dụng
của tổ chức tài chính, môi trường thông tin cũng kém phát triển và còn nhiều
bất cập. Hệ thống pháp lý, tư pháp liên quan đến các hoạt động tài chính vẫn
còn chưa đầy đủ.Trong khi đó , môi trường xã hội tại Việt Nam cũng tương
đối bất ổn, gây ảnh hưởng lượng vốn xã hội có thể huy động cũng như sự tin
tưởng lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay. Điều này tạo ảnh hưởng
không nhỏ tới việc thoả thuận và kí kết các hợp đồng vay vốn.Hệ thống thông
tin tài chính tại Việt Nam cũng còn nhiều tồn tại, khi mà lượng thông tin về
doanh nghiệp thu thập được là chưa đầy đủ và thiếu tính chính xác.Một số
doanh nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường
tìm cách làm giả báo cáo tài chính, hoặc cung cấp các thông tin sai lệch về

tình hình hoạt động của mình nhằm mục đích vay vốn ngân hàng.Thêm vào
đó, tiêu chuẩn kế toán được áp dụng tại Việt Nam là VAS (Vietnamese
accounting standard), thay vì tiêu chuẩn kế toán quốc tế được áp dụng tại hầu
hết các quốc gia trên thế giới.Điều này cũng tạo nên khó khăn lớn cho các tổ
chức tài chính trong việc thu thập và phân tích các thông tin về hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.Vì
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
vậy, việc cấp vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VIệt Nam được xem là
chứa đựng nhiều rủi ro, có thể gây ảnh hưởng lớn tới hiệu quả cho vay của
ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính.Chính vì các lý do trên, tại Việt
Nam, các phương thức cho vay như : cho vay theo báo cáo tài chính, cho vay
dựa trên chấm điểm tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là không phổ
biến.Các ngân hàng tại Việt Nam thường chủ yếu sử dụng các kỹ thuật cho
vay như là cho vay dựa theo tài sản, cho vay theo tài sản cố định, hay là cho
vay dựa trên quan hệ lâu dài với khách hàng.Nhìn chung, các phương thức
cho vay này đều yêu cầu người đi vay phải có tài sản thế chấp để đảm bảo cho
khoản vay của mình, hoặc là người đi vay phải là các khách hàng có thời gian
quan hệ lâu dài và lành mạnh với ngân hàng.Các tiêu chuẩn này là rất khó đáp
ứng với khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Tại Việt Nam, các kỹ
thuật cho vay còn lại như thuê tài chính, bao thanh toán cũng không phát triển
bởi các lý do đã nêu trên.
III.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
1.Khái niêm về hiệu quả cho vay của ngân hàng.
Hiệu quả cho vay là thuật ngữ phản ánh hiệu quả của hoạt động cho vay
của các Ngân hàng thương mại, nó được cấu thành bởi hai yếu tố là mức độ
an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động cho vay mang lại.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay, để quyết định bỏ vốn tài

trợ vào một dự án nào đó, các ngân hàng phải đứng trước hai sự lựa chọn là
lợi nhuận và rủi ro. Mức rủi ro càng cao thì khả năng sinh lời càng lớn. Vì thế
trong một quyết định cho vay, ngân hàng có thể theo đuổi mục tiêu lợi nhuận
cao hay thấp, song phải xác định được mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời để
đảm bảo hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất.
Như vậy, có thể hiểu hiệu quả cho vay vừa phản ánh khả năng sinh lời
lại vừa phản ánh mức độ an toàn của khoản vay. Hiệu quả cho vay cao đồng
nghĩa với một mức lợi nhuận tốt và một mức độ rủi ro thấp của khoản vay.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
Hiệu quả cho vay cũng góp phần phản ánh sự hiệu quả trong các hoạt động
của một ngân hàng, do cho vay là một trong các hoạt động chính của ngân
hàng.
2.Các chỉ tiêu đánh giả hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngân hàng.
2.1.Chỉ tiêu nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là các khoản nợ mà khách hàng mất khả năng thanh toán gốc
hoặc lãi khi đến hạn thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng.Nợ quá hạn là
một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả cho vay của ngân hàng, bởi nó
có ảnh hưởng tới cả mức độ an toàn của hoạt động cho vay của ngân hàng và
mức sinh lời từ hoạt động cho vay của ngân hàng.Khi nợ quá hạn gia tăng,
đồng nghĩa với ngân hàng đang đứng trước rủi ro lớn hơn cho tình huống mất
vốn vì không thu hồi được nợ gốc.Bên cạnh đó, việc không thu hồi được lãi,
cùng với việc buộc phải trích lập thêm dự phòng cho các khoản nợ quá hạn sẽ
gây ảnh hưởng tới kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng, khi mà nguồn
tiền cho hoạt động cho vay sẽ bị sụt giảm.
Để có một cái nhìn chi tiết hơn về tình trạng nợ quá hạn của một ngân
hàng, một số tỷ lệ sau đó được đề xuất :
•Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay:

Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay là tỷ lệ giữa tổng nợ quá hạn
của ngân hàng so với tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Tổng nợ quá hạn
của ngân hàng bao gồm cả các khoản nợ gốc và lãi quá hạn. Phần lớn các
khoản nợ này là các khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi hay nợ có khả năng mất
vốn.Nếu ngân hàng có càng nhiều khoản nợ quá hạn, thì điều đó có nghĩa là
hiệu quả cho vay của ngân hàng càng thấp,khả năng không thu được lợi
nhuận từ khoản vay thấp và nguy cơ rủi ro càng cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ là
một trong những chỉ tiêu quan trọng để dánh giá hiệu quả cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ giữa tổng nợ quá
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
hạn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa
và nhỏ của ngân hàng.
Nếu tỷ lệ này ở mức quá cao chứng tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng
đang ở mức yếu kém. Điều này có thể do ngân hàng đã vi phạm một số
nguyên tắc cơ bản khi cho vay như không phân tích kỹ khả năng trả nợ của
khách hàng, tài sản thế chấp không đúng quy định, cho vay tùy tiện, thiếu
kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ…và nhất là vi phạm các nguyên tắc về phân tán
rủi ro, tập trung vốn quá quy định vào một nhóm khách hàng hoặc một ngành
kinh tế.
Nếu tỷ lệ này ở mức quá thấp, thể hiện quan điểm của ngân hàng khi cho
vay là nếu không đủ tin tưởng thì không cho vay, cho vay đảm bảo thực hiện
đúng các nguyên tắc tín dụng, nguyên tắc phân tán rủi ro, kiểm soát chặt chẽ
các khoản vay của khách hàng.
Nếu tỷ lệ này ở mức vừa phải, thể hiện chiến lược kinh doanh táo bạo
của ngân hàng là chấp nhận rủi ro trong một chừng mực nhất định để có thể
đạt được lợi nhuận cao. Ngân hàng thực hiện chiến lược này đã thể hiện khả
năng quản lý cao trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng của mình. Như vậy để

hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận cao đồng thời hạn chế được rủi ro cho
ngân hàng thì các ngân hàng thương mại cần khống chế tỷ lệ này ở mức nào
đó có thể chấp nhận được.
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay doanh nghiệp vừa vả nhỏ phản ánh rủi ro đối
với các khoản cho vay và hậu quả có thể xảy ra cho ngân hàng từ các khoản
nợ quá hạn, nó cho biết tỷ lệ dư nợ cho vay có nguy cơ gây mất vốn một
phần hoặc toàn bộ cho ngân hàng trên tổng dư nợ cho vay các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xem xét đến việc hoàn trả khi đã
quá hạn chứ không xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá hạn. Nếu số lượng các
khoản vay tăng nhanh thì việc sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn có thể phản ánh mức
độ rủi ro từ hoạt động cho vay không chính xác. Điều này là do số dư nợ cho
vay ra tăng, cùng với số tiền cho vay được giải ngân trong khi đó số dư nợ
đến hạn chỉ tăng khi các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả. Tốc độ tăng nhanh của
các khoản cho vay có thể che dấu đi phần nợ quá hạn, nó không tính đến chỉ
số đánh giá an toàn hoạt động cho vay. Do vậy các ngân hàng thương mại khi
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
cho vay phải thận trọng khi xem xét độ an toàn của hoạt động cho vay bằng
việc xác định kỳ hạn nợ hợp lý.
Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá của các DNVVN
Khi một khoản vay đến hạn mà khách hàng không có khả năng hoàn trả
do gặp phải khó khăn nào đó trong sản xuất kinh doanh hay chuyển hướng
hoạt động kinh doanh, ngân hàng có thể xem xét gia hạn nợ cho khách hàng,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian thu xếp để trả nợ ngân
hàng.Tuy nhiên, nếu một khoản vay đã quá quá hạn một kì hạn gia hạn nợ thì
nó được gọi là nợ khó đòi. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng,
việc thu nợ trở nên mong manh hơn, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để
đảm bảo thu hồi được vốn, tránh tổn thất cho ngân hàng.
Ngoài tỷ lệ nợ quá hạn, các ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó

đòi trên tổng dư nợ quá hạn cho vay doanh nghiệp vừa vả nhỏ hoặc tỷ lệ nợ
quá hạn có khả năng thu hồi trên tổng dư nợ cho vay quá hạn doanh nghiệp
vừa và nhỏ làm cơ sở để đánh giá khả năng thu hồi vốn từ các khoản nợ quá
hạn của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như lượng vốn có khả năng thu hồi từ
các khoản cho vay này. Như vậy, việc sử dụng thêm các chỉ tiêu này giúp
ngân hàng đánh giá được chi tiết hơn về độ an toàn trong cho vay. Tuy nhiên
chỉ tiêu này cũng chưa cho phép ngân hàng đánh giá được chính xác khoản nợ
nào có khả năng thu hồi được, khoản nợ nào không có khả năng thu hồi.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
rủi ro khác nhau do vậy khi đánh giá mức độ an toàn của các khoản cho vay
các ngân hàng cần kết hợp nhiều chỉ tiêu để có cái nhìn cụ thể đối với từng
khoản vay. Mặt khác khi đánh giá các chỉ tiêu này cần chú ý đến các yếu tố có
thể làm cho các chỉ tiêu này bị biến dạng như định kỳ hạn trả nợ không đúng,
không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khiến các
doanh nghiệp không thể trả được nợ, hoặc do khi đảo nợ, giãn nợ không xem
xét thận trọng các khoản vay làm cho các chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ khó đòi
không phản ánh đầy đủ rủi ro cho vay.
2.2.Tỷ lệ mất vốn.
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
Tỷ lệ mất vốn là tỷ số giữa số vốn bị mất do xóa nợ trong kì báo cáo trên
tổng dư nợ bình quân của kỳ báo cáo.
Tỷ lệ mất vốn khi cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ là tỷ số giữa số vốn
bị mất do ngân hàng thương mại tiến hành xoá nợ cho vay doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong kì báo cáo với tổng dư nợ bình quân cho vay doanh nghiệp vừa
và nhỏ của kì báo cáo.
Các khoản nợ được xoá nợ thường là các khoản “nợ có khả năng mất
vốn”.Sau khi xóa nợ, các khoản nợ này đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán để
tiếp tục theo dõi thì được xem như nợ không có khả năng thu hồi.Tỷ lệ này có

thể cung cấp cho các NHTM thông tin về những khoản vay có khả năng bị
mất và các khoản vay bị mất thực sự, cung cấp một cái nhìn về mối tương
quan giữa số vốn cho vay bị mất trong tổng số vốn cho vay bình quân.Nếu tỉ
lệ này ở mức cao, điều đó có nghĩa lad ngân hàng đã và đang mất nhiều vốn
do phải xử lý các khoản nợ có khả năng mất vốn của doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Nó phản ánh hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
đang bị đe doạ cả về mức độ an toàn và khả năng sinh lời.Chỉ tiêu này được
sử dụng để phân tích cùng với các chỉ tiêu nợ quá hạn để phản ánh mức độ an
toàn nói riêng và hiệu quả hoạt động cho vay nói chung của các ngân hàng
thương mại.
2.3. Mức sinh lời của vốn cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mức sinh lời của vốn cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ cho biết cứ
mỗi đồng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tạo ra được bao nhiêu
đồng thu nhập thuần cho ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh trực tiếp hiệu
quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại, nó cho
biết khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mức
sinh lời từ vốn cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ càng lớn thì có nghĩa là
khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ càng cao,
hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ càng cao.
Đối với mọi ngân hàng thương mại, mục tiêu cuối cùng trong hoạt động
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
cho vay đề là lợi nhuận. Vì vậy, chỉ tiêu mức lợi nhuận của vốn cho vay
doanh nghiệp vừa và nhỏ là chỉ tiêu mà các ngân hàng thương mai luôn
hướng tới trong quá trình cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.Tuy nhiên, không
phải luc nào mức sinh lời vốn cho vay cao cũng có thể làm ngân hàng thương
mại hoàn toàn yên tâm về hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của
mình, đặc biệt là trong trung và dài hạn, do sự lựa chọn đối nghịch giữa rủi ro
và lợi nhuận kỳ vọng.Một mức lợi nhuận kì vọng cao thường sẽ đi cùng với

một mức rủi ro cao mà ngân hàng phải chấp nhận và ngược lại. Do đó, đứng
trước một quyết định đầu tư, các ngân hàng thương mai cần có sự lựa chọn
đúng đắn giữa rủi ro và lợi nhuận, tuỳ theo từng thời điểm và hoàn cảnh cụ
thể , tuỳ theo từng phương án vay vốn khác nhau.Chỉ tiêu mức sinh lời cho
vay cần phải được phân tích kết hợp với các chỉ tiêu khác, đặc biệt là các chỉ
tiêu đo lường về mức độ an toàn của hoạt động cho vay, để có thể thây được
hiệu quả hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng.
2.4. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên tổng thu nhập từ hoạt động cho vay.
Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho va doanh nghiệp vừa vả nhỏ trên tổng
thu nhập cho vay là tỷ số giữa thu nhập từ hoạt động cho vay doanh nghiệp
vừa và nhỏ với tổng thu nhập của hoạt động cho vay.
Hoạt động cho vay đặc biệt là cho vay doanh nghiệp là hoạt động cơ bản
mạng lại thu nhập cho ngân hàng. Vì thế để đánh giá hiệu quả cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ phải xem xét đến tỷ trọng thu nhập của hoạt động cho vay
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng thu nhập của hoạt động cho vay. Hiệu
quả hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ cao phải thể hiện ở tỷ lệ thu
nhập từ hoạt động cho vay trên tổng thu nhập từ hoạt động cho vay cao.
Như vậy,để đánh giá đúng hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngân hàng thương mại, cần kết hợp phân tích nhiều chỉ tiêu với nhau, mỗi
chỉ tiêu sẽ cho thấy được những khía cạnh khác nhau trong hoạt động cho vay
của ngân hàng, giúp ngân hàng thương mại đánh giá được những kết quả đạt
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
được cũng như những khó khăn mà ngân hàng gặp phải trong hoạt động cho
vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của mình.
3.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ của ngân hàng thương mại.
Như đã nêu ở trên, hiệu quả hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ

của ngân hàng thương mại được đánh giá bằng bốn chỉ tiêu chính. Các chỉ
tiêu này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác, bao gồm các yếu tố khách
quan và chủ quan. Như vậy, hiệu quả hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ của ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố này.
3.1.Các nhân tố khách quan
o Môi trường pháp lý: Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với
hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng, và vì vậy nó
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân
hàng. Pháp luật ban hành không hợp lý, đồng bộ sẽ gây khó khăn cho sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng cũng như hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp luật đồng
bộ và hợp lý sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng cho mọi
thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để phat triển sản xuất kinh doanh;
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ngân hàng và cả khách hàng, tiết kiệm được
thời gian và chi phí cho ngân hàng và doanh nghiệp…
o Môi trường kinh tế : Những biến động của nền kinh tế quốc dân
cũng có ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động cũng như hiệu quả cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng.Nếu nền kinh tế đang trải qua một thời kì
tăng trưởng mạnh và ồn định, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sẽ gia tăng, do sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
như sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng của người dân trên mọi lĩnh vực dẫn đến
nhu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp. Nền kinh tế tăng trưởng cao
và ổn định cũng giúp cho các doanh nghiệp có thể thực hiện các phương án
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TH.S. Lê Thu Thủy
kinh doanh của mình một cách hiệu quả, đạt được lợi nhuận ổn định.Điều này
cũng có nghĩa là các khoản cho vay của ngân hàng cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ sẽ ở trong tình trạng lành mạnh,nợ quá hạn cũng như nợ khó đòi ở mức
thấp, trong khi tỉ lệ sinh lời của vốn cho vay là tương đối cao. Ngược lại khi

nền kinh tế trong giai đoạn trì trệ, suy thoái, sản xuất kinh doanh bị đình trệ,
quy mô sản xuất thu hẹp, nhu cầu đầu tư giảm mạnh, thua lỗ kéo dài dẫn đến
các khách hàng của ngân hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ, hiệu quả cho
vay của ngân hàng bị giảm sút.
o Các chủ trương chính sách vĩ mô của chính phủ:Hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại cũng chịu những tác động lớn từ các chủ trương
chính sỏch của nhà nước. Việc chính phủ đưa ra những định hướng, chính
sách, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là chính sách tiền tệ quốc gia
có ảnh hưỏng đặc biệt đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại nó
chịu tác động trực tiếp từ các công cụ của chính sách tiền tệ như dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và tái chiết khấu…
Ngoài ra các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, chính sách xuất
nhập khẩu, cũng có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế, cụ thể là
tới doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Nếu các
chính sách này không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, gây khó
khăn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh thì chắc chắn hiệu quả
cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của các ngân hàng thương mại cũng sẽ bi
giảm sút.
o Môi trường chính trị- xã hội: Mỗi quốc gia có một môi trường chính
trị xã hội khác nhau. Quốc gia nào có môi trường chính trị- xã hội ổn định và
phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư.
Môi trường chính trị-xã hội cũng có liên hệ mật thiết với nền kinh tế quốc
dân. Môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế
quốc dân tăng trưởng một cách ổn định và lành mạnh. Ngược lại, nếu tình
hình chính trị xã hội bất ổn, nền kinh tế sẽ đứng trước nguy cơ suy thoái do
tâm lý hoang mang của các nhà đầu tư.Điều này làm cho hoạt động sản xuất
SV: Nguyễn Hoàng Anh Lớp: Tài chính công
22

×