Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

văn hóa dân gian korea qua truyện cổ tích báo cáo nghiên cứu khoa học sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 84 trang )

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 3
3.1 Mục tiêu nghiên cứu: 3
3.2 Phạm vi nghiên cứu: 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Những đóng góp của đề tài 4
6. Cấu trúc: 4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 5
Chương 1 5
TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN CỔ TÍCH KOREA 5
1.1 Truyện cổ tích- đối tượng nghiên cứu khoa học hấp dẫn 5
1.2 Đặc điểm truyện cổ tích Korea 6
1.3 Về nghệ thuật truyện cổ tích Korea 11
Chương 2 12
VĂN HÓA DÂN GIAN KOREA 12
2.1 Định nghĩa “Văn hóa” và “Văn hóa dân gian” 12
2.2 Đôi nét về văn hóa dân gian Korea 16
Chương 3 20
TRUYỆN CỔ TÍCH KOREA - BỨC TRANH VỀ VĂN HÓA DÂN GIAN 20
3.1 Tín ngưỡng-tôn giáo 20
3.1.1 Tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” 20

3.1.2 Tín ngưỡng thờ ông Trời 22
3.1.3 Tín ngưỡng thờ thần Núi 25
3.1.4 Ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đến đời sống tâm linh của
người Hàn 27


3.2 Phong tục-tập quán 37
3.2.1 Phong tục hôn nhân 37
3.2.2 Phong tục tang ma 41
3.2.3 Phong tục thờ cúng tổ tiên 43
3.2.4 Phong tục xem phong thủy 46
3.2.5 Phong tục ăn uống 48
3.3 Lễ hội dân gian - Trò chơi dân gian 53
3.3.1 Lễ hội “Cúng Phật” 54
3.3.2 Lễ hội “Múa mặt nạ” 56
3.3.3. Lễ hội “Nhân sâm Kumsan” 58
3.4 Những câu chuyện về động vật 63
Chương 4 67
TÍNH NHÂN VĂN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA DÂN TỘC HÀN 67
4.1 Quan niệm về „tính nhân văn” 67
4.2 Tính nhân văn trong truyện cổ tích Hàn Quốc 69
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia đồng văn- đồng chủng trong khu vực
Đông Á. Từ đầu thế kỷ XIII, Hoàng tử Đại Việt triều Lý là Lý Long Tường do một
nguyên cơ đã phiêu bạt tới bán đảo Triều Tiên, đất lành chim đậu đã định cư tại Hoa
Sơn- Triều Tiên, mở đầu cho mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc. Trong các thế
kỷ XVI-XVIII, sứ thần hai nước Đại Việt- Cao Ly cũng đã có những cuộc tao ngộ
đầy ý nghĩa ở Trung Quốc, góp phần cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Đặc
biệt, mối quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao

ngày 22/12/1992. Trong gần hai thập niên qua, quan hệ hai nước không ngừng củng
cố và phát triển tốt đẹp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục…
Mối quan hệ Hàn Việt còn biết đến là mối quan hệ của sự tương đồng về lịch sử,
văn hóa, phong tục tập quán và các ngày lễ. Đã có khá nhiều nhà nghiên cứu Việt
Nam dành nhiều công sức cho việc tìm hiểu mối quan hệ văn hóa giữa hai dân tộc
Việt- Hàn. Tuy nhiên về vấn đề “văn hóa dân gian của người Hàn” dường như vẫn
còn ít quan tâm. Vì vậy, việc tìm hiểu về“văn hóa dân gian của người Hàn” sẽ mang
lại một nhận thức hoàn chỉnh hơn về bức tranh văn hóa Hàn Quốc và cũng có thể
coi là một điều hết sức cần thiết để thắt chặt hơn mối quan hệ Việt - Hàn mỗi ngày
một thêm vững chắc.
Trong thời đại ngày nay, việc tìm hiểu về vấn đề văn hóa dân gian của một quốc gia
có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc sẽ rất khó khăn. Vì vậy mà người viết đã
mượn những câu chuyện cổ tích ngày xưa để tìm hiểu và khám phá ra những bí ẩn
của văn hóa dân gian của một dân tộc. Trong di sản văn hóa của nhân loại, truyện
cổ tích chiếm một vị trí độc đáo và có lẽ là loại nghệ thuật ngôn từ được nhiều
người biết đến nhất. Truyện cổ tích quen thuộc đối với mỗi người, nhiều khi ngay từ
thuở còn nhỏ. Truyện cổ tích có sức hấp dẫn đặc biệt đối với tuổi thơ, và thường để
lại những dấu vết không phai mờ trong sự hình thành tư tưởng và tình cảm.


2
Mỗi dân tộc đều có gia tài truyện cổ tích của mình. Từ những dân tộc còn đang ở
trình độ phát triển thấp, đến những dân tộc đã đạt được tới những nền văn minh rực
rỡ, dân tộc nào cũng có kho truyện cổ tích cực kỳ phong phú, nổi tiếng thế giới mà
theo các nhà nghiên cứu thuộc trường phái thần thoại học xem truyện cổ tích là
“những mảnh vỡ của thần thoại cổ”.
Trong nền văn học của mỗi nước, văn học truyền miệng được hình thành thông qua
câu chuyện được kể bằng miệng trong dân gian suốt thời gian dài nên có đặc tính
hình thành nên nền văn hóa cơ bản một dân tộc. Và đồng thời, truyện cổ cũng có
đặc tính biến đổi theo tâm tính của từng dân tộc và tín ngưỡng của bản địa nên có lẽ

yếu tố văn hóa bản địa xuất hiện trong truyện cổ tích là điều hiển nhiên. Ở đây,
người viết chọn những câu chuyện cổ tích làm đối tượng nghiên cứu là vì bối cảnh
tạo nên sự tích ấy là những câu chuyện xuất phát từ tinh thần khoa học buổi sơ khai
của thế hệ ông cha, hơn nữa những câu chuyện cổ tích ấy đều mang mô típ biến đổi
và mang đậm tín ngưỡng dân gian và cách suy nghĩ của người xưa.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề nghiên cứu về truyện cổ tích Korea không phải là ít. Đã có rất nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm về vấn đề này như “Nghiên cứu so sánh truyện cổ Hàn Quốc
và Việt Nam” của Jeon Hye Kyung, qua tác phẩm cho thấy tác giả đã nghiên cứu
khá sâu săc về sự truyền bá truyện cổ tích Hàn Quốc và Việt Nam nhưng lại chỉ so
sánh về truyện cổ tích động vật của Hàn Quốc và Việt Nam. Đề tài “Vài nét về sự
tương đồng trong văn hóa dân gian Hàn Quốc và Nhật Bản qua truyện cổ tích” của
tác giả Lưu Thị Hồng Việt. Qua đề tài này, tác giả đã cho người đọc thấy được
những nét tương đồng trong văn hóa dân gian giữa hai quốc gia là Hàn Quốc và
Nhật Bản trên các lĩnh vực về Tín ngưỡng, Phong tục và Lễ hội. Bài Nghiên cứu
khoa học của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh “Văn hoá Hàn Quốc qua truyện cổ tích”
khoá học: 2005- 2010. Tác giả không những đã nghiên cứu nhiều lĩnh vực của văn
hóa Hàn Quốc như về văn hóa ẩm thực, văn hóa thời trang, văn hóa phong tục và
văn hóa nghệ thuật của Hàn Quốc mà còn tìm ra được sự tương đồng và khác biệt
giữa văn hóa Hàn Quốc và văn hóa Việt Nam qua truyện cổ tích.


3
Trong đề tài “Văn hóa dân gian Hàn Quốc qua truyện cổ tích”, người viết sẽ tập
trung nghiên cứu về văn hóa dân gian Hàn Quốc qua các câu chuyện cổ tích có thể
khai thác được mà không phân biệt truyện cổ tích động vật, truyện cổ tích sinh hoạt
hay truyện cổ tích thần kỳ. Và sẽ có một số so sánh với văn hóa dân gian Việt Nam
qua truyện cổ tích.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:

Qua truyện cổ tích Korea, người viết mong muốn làm rõ vấn đề về văn hóa
dân gian của người Hàn nhằm mang lại cho sinh viên ngành Hàn Quốc học cái nhìn
cụ thể hơn về thế giới cổ tích của người Hàn cũng như mang lại sự hiểu biết về
những tín ngưỡng, phong tục tập quán, những lễ hội, các trò chơi dân gian hay như
một số nghề truyền thống của người Hàn trên bán đảo Triều Tiên xa xưa. Thông qua
thế giới truyện cổ tích của người Hàn, người viết mong muốn đề cao tính nhân đạo,
lòng hiếu thảo hay sự khoan dung của thế hệ ông cha.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Cũng như người Việt, người Hàn cũng có một kho tàng truyện cổ tích độc đáo,
thú vị, đa dạng và giàu ý nghĩa. Nhưng người viết chỉ tìm hiểu và khai thác các
truyện cổ tích cho thấy nét văn hóa dân gian ẩn mình trong truyện cổ tích mà người
Hàn đã dựng nên trải qua các thế hệ ông cha vẫn còn nguyên ý nghĩa. Quyển sách
mà người viết sử dụng để nghiên cứu nhiều nhất là “100 chuyện ngày xưa đặc sắc
Hàn Quốc” do Đỗ Ngọc Luyến dịch, NXB Hội Nhà Văn của tác giả Seo Jeong Oh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu người viết sử dụng trong đề tài này là: thu thập và đọc
tài liệu; dịch tài liệu và phân tích các chi tiết; tổng hợp và so sánh. Phương pháp
tổng hợp và phân tích được dùng để khảo sát nội dung cụ thể của các câu chuyện cổ
tích. Phương pháp so sánh dùng để làm rõ sự tương đồng và khác biệt trong quan hệ


4
giữa văn hóa tín ngưỡng hai nước Việt- Hàn cũng như trong cách suy nghĩ của
những con người buổi sơ khai qua các mẫu truyện cổ của Việt Nam và Korea.
Ngoài ra người viết còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác như phương pháp
liên ngành: Tôn giáo học, Xã hội học, Sử học, Tâm lý học…
5. Những đóng góp của đề tài
Với đề tài nghiên cứu này, người viết mong muốn mang đến cái nhìn cụ thể
hơn về xã hội người Hàn xa xưa cũng như về một số văn hóa dân gian của người
Hàn qua thế giới cổ tích, một số tín ngưỡng dân gian, phong tục dân gian, những lễ

hội và những trò chơi dân gian của người Hàn. Từ những thành quả nghiên cứu
được người viết mong muốn có thể đóng góp thêm một tài liệu tham khảo mới cho
những ai quan tâm đến bán đảo Triều Tiên nói chung và đất nước Hàn Quốc nói
riêng.
6. Cấu trúc:
Mở đầu
Chương 1 Truyện cổ tích và đặc điểm truyện cổ tích Korea
Chương 2 Văn hóa dân gian Korea
Chương 3 Truyện cổ tích Korea – Bức tranh về văn hóa dân gian
Chương 4 Tính nhân văn trong truyện cổ tích của dân tộc Hàn
Kết luận
Tài liệu tham khảo







5

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1
TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN CỔ TÍCH KOREA

1.1 Truyện cổ tích- đối tượng nghiên cứu khoa học hấp dẫn
Truyện cổ tích là gì?
Mới nghe, câu hỏi tưởng như thừa, vì chỉ bằng kinh nghiệm tiếp xúc với truyện
cổ tích, mọi người dường như đã có thể cảm nhận được truyện cổ tích là gì. Ngay cả
nhà bác học Phần Lan, H. Honti, đã từng nói: “Định nghĩa một cách phiến diện một

khái niệm mà ai nấy đều đã biết, thực ra là một việc thừa: mọi người đều biết
truyện cổ tích là gì và nhờ linh cảm đều có thể phân biệt được truyện cổ tích với các
thể loại gần gũi với nó như truyền thuyết, truyện truyền kỳ, giai thoại
1
”. Tuy nhiên
khoa học không thể chỉ dựa vào linh cảm. Chúng ta biết rằng, tài liệu truyện cổ tích
hết sức đa dạng, phức tạp nên việc xác định ranh giới giữa truyện cổ tích và một số
thể loại văn học dân gian là rất khó.
Cổ tích là một từ Hán Việt. “Cổ” có nghĩa là xưa, cũ. Ta có khái niệm “truyện
cổ” hoặc “truyện cổ dân gian”, “truyện đời xưa” dùng để chỉ nhiều loại truyện dân
gian khác nhau trong đó có truyện cổ tích. Tương đương với khái niệm này trong
tiếng Hán là “cố sự” (sự tích đời xưa) hoặc “dân gian cố sự”. Còn “tích” có nghĩa là
gì? Nguyễn Văn Khôn trong Từ điển Hán Việt đã có 29 định nghĩa về từ “tích”


1
V.Ia.Prop, Truyện cổ tích Nga, NXB Trường Đaị học tổng hợp Leeningrat, 1984, tr 23, Dẫn theo Chu Xuân
Diên, Nghiên cứu văn hóa dân gian, NXB Giáo dục, 2008, tr433


6
trong đó có hai nghĩa liên quan đến khái niệm truyện cổ tích. Thứ nhất “tích” là dấu
chân, vết tích. Thứ hai “tích” là dấu vết cũ, dấu chân
2
.
Truyện cổ tích là một trong những thể loại văn học dân gian quan trọng và được
phổ biến rộng rãi. Khái niệm “truyện cổ tích” có một nội dung khá rộng, thường
dùng để chỉ nhiều loại truyện khác nhau về đề tài và cả về phương pháp sáng tác.
Khác nhau về đề tài như truyện về loài vật, truyện về các nhân vật dũng sĩ hoặc các
nhân vật có khả năng phi thường về trí tuệ, về sức khỏe, truyện về số phận các nhân

vật có địa vị thấp kém trong gia đình và xã hội… Khác nhau về phương pháp sáng
tác như các truyện thần kỳ, truyện hiện thực. Vì vậy đã có khó khăn trong việc xác
định cho khái niệm “truyện cổ tích” một nội dung thật chặt chẽ. Trong Văn học
Korea đã nêu lên định nghĩa rằng: “Truyện cổ tích là một thể loại sáng tác dân gian
phổ biến của nhiều dân tộc trên thế giới. Nó bắt đầu xuất hiện vào cuối thời kỳ
nguyên thủy và phát triển chủ yếu trong xã hội phong kiến, khi xã hội đã có sự phân
chia giai cấp. Cho nên, quan hệ phổ biến nhất được đề cập trong cổ tích là quan hệ
giữa người với người”
3
.
1.2 Đặc điểm truyện cổ tích Korea
Qua hàng loạt các định nghĩa đã có về truyện cổ tích, người viết nêu lên mấy
nội dung nói chung về truyện cổ tích ít nhiều đã có sự thống nhất như sau:
Truyện cổ tích đã nảy sinh trong xã hội nguyên thủy, do có những yếu tố
phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng tự nhiên và xã hội
và có ý nghĩa ma thuật. Song truyện cổ tích phát triển chủ yếu trong xã hội có giai
cấp, nên chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội, phản ánh nhận thức của nhân dân
về cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các thời
kỳ lịch sử khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng, có mâu thuẫn giai cấp
và đấu tranh giai cấp. Đây là mâu thuẫn không dung hòa. Bởi vậy truyện cổ tích là
tiếng nói chống bất công trong xã hội, nêu cao tinh thần lạc quan, thể hiện mong


2
Chu Xuân Diên, Nghiên cứu văn hóa dân gian, NXB Giáo dục, 2008, tr 435-436
3
Trần Thúc Việt, Văn học Korea, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 32


7

ước một xã hội tốt đẹp. Truyện cổ tích Hàn đã phản ánh khá sinh động cuộc sống nô
lệ, làm thuê cuốc mướn của người nông dân, bị địa chủ bóc lột đàn áp (Cây bút
lông thần kỳ, Cối xay thần, Nhian và Torixi) các tác giả dân gian đã vạch trần thủ
đoạn bóc lột của bọn chúa đất, nhờ các lực lượng siêu nhiên phù trợ cuối cùng
người nghèo khổ đã chiến thắng, cái ác bị trừng phạt là một điều tất yếu. Những
người nông dân nghèo khổ, cần cù, chăm chỉ cuối cùng được hưởng hạnh phúc.
Người Tiều phu nghèo lấy được tiên nữ (Nàng ốc sên).
Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực tại,
đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về công lý xã hội và
ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại. Ở Korea, hai hệ tư tưởng
lớn ảnh hưởng mạnh vào dân gian là là Phật giáo và Nho giáo. Cho nên truyện cổ
tích thường đề cao những trật tự, phép tắt, nghi thức ứng xử trong quan hệ xã hội và
gia đình. Truyện Shim Ch’ong- cô gái hiếu thảo ca ngợi một cô gái sẵn sàng bán
mình làm vật hiến tế để có 600 bao gạo cúng chùa nhằm cứu mắt bố sáng lại.
Truyện Lòng hiếu thảo của Hổ khi Hổ tin mình cũng là con cái của mẹ chàng tiều
phu nên cứ một tháng hai lần bắt thịt heo rừng để trước nhà cho mẹ và em trai ăn.
Truyện Cá chép mùa đông ca ngợi chàng hiếu tử trong mùa Đông lạnh giá nhưng
vẫn quyết tâm đi tìm mua cá chép cho mẹ già đang đau ốm. Truyện Mối tình nàng
Bạch Hổ kể về một chàng trai trọn nghĩa vẹn tình với người mình yêu dù đó không
phải là người, chàng lập miếu thờ cầu cho linh hồn nàng Hổ được siêu linh, tịnh độ.
Truyện cổ tích Korea không chỉ thể hiện tính khoan dung, đức hy sinh, lòng
nhẫn nại của con người, ca ngợi cái tốt, khẳng định việc thiện mà còn phê phán cái
xấu, tố cáo cái ác, thể hiện xu thế tất thắng của cái thiện đối với cái ác. Chẳng hạn
ông Vua tham lam bị nhấm chìm trong lớp sóng hung dữ (Quà tặng của ông Tiên),
mụ dì ghẻ độc ác bị trừng trị đích đáng (Chiếc hài thêu, Con Bê Vàng), kẻ tham
lam bị trừng phạt đích đáng (Con Rùa biết nói, Cái Lồng bắt hổ).
Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân, và
ở một phần chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kỳ tạo nên một đặc trưng nổi bậc



8
trong phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ. Ở loại truyện cổ tích về loài vật,
có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng tượng nhân
cách hóa giới tự nhiên. Loại truyện này thời cổ xưa ở dân tộc nào cũng có. Với trí
tưởng tượng phong phú, trong truyện cổ tích Hàn Quốc, con vật cũng có thể hiểu và
nói chuyện với con người. Đặc biệt trong kho tàng truyện cổ Korea, truyện về con
hổ được phản ánh khá nhiều và được khai thác những phẩm chất khá đặc biệt so với
các truyện hổ ở nước khác. Thường thì hổ là biểu tượng của sức mạnh, của quyền
uy, của sự hung dữ tàn ác… nhưng đa số truyện hổ của Korea lại là những con vật
đại diện cho tình cảm cao thượng(Con hổ cao thượng), cho lòng hiếu thảo(Lòng
Hiếu thảo của hổ).
Truyện cổ tích có nội dung phong phú, phản ánh nhiều mặt của đời sống tự
nhiên xã hội. Đó là cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, lao động sản xuất và
chinh phục thiên nhiên; quan hệ xung đột giữa con người với con người từ xã hội
đến gia đình. Đặc biệt là sự xung đột giữa anh em trong việc chia tài sản sau khi cha
mẹ qua đời trong câu chuyện HungPu và NonPu. Những câu chuyện này kết thúc
đều có hậu. Những người ở hiền thì gặp lành, được sống một cuộc đời hạnh phúc.
Giống như nhiều dân tộc khác trên thế giới, ở bán đảo Triều Tiên, cổ tích là
thể loại văn truyền khẩu có nội dung rất phong phú, số lượng rất lớn và nội dung rất
rộng rãi. Kho tàng cổ tích Korea cũng bao gồm đủ các loại, nó vừa mang tính quốc
tế vừa thể hiện tính dân tộc, vừa mang yếu tố nội sinh vừa có những yếu tố ngoại
sinh thể hiện tính đại đồng trong các chủ đề và mô típ. Trong gia tài truyện cổ tích
của mỗi dân tộc, có phần sáng tạo riêng của dân tộc đó, có những cốt truyện của
riêng dân tộc đó. Nhưng trong gia tài truyện cổ tích của mỗi dân tộc, còn có những
cốt truyện có tính chất quốc tế, nghĩa là những cốt truyện mà một số dân tộc khác,
thậm chí hầu hết các dân tộc khác cũng đều có. Với mô típ mẹ kế hại con chồng, rồi
người con đó sau khi chết linh hồn được hóa thân vào một con vật, một sự vật hay
một cái cây nào đó. Với mô típ đó thì ở Việt Nam có truyện Tấm Cám, ở Hàn Quốc
có truyện Con Bê Vàng hay truyện Chiếc hài thêu. Cổ tích Việt Nam có truyện



9
Cây khế còn cổ tích Hàn Quốc có truyện Hungbu và Nonbu cũng có cùng một mô
típ giống nhau. Đó là sau khi cha mẹ mất, gia đình anh trai hất hủi đuổi cả gia đình
đứa em ra khỏi nhà, và gia đình người em sau khi giúp đỡ một con vật nào đó và
được đền đáp xứng đáng, còn gia đình người anh độc ác bị trừng trị đích đáng. Tuy
nhiên truyện cổ Korea dù có tiếp nhận bên ngoài hay vốn có sẵn trong nước, khi đã
lưu truyền trong dân gian đều mang màu sắc, phong cảnh thiên nhiên đất nước,
phong tục tập quán, suy nghĩ hoạt động của con người, cách xử lý cuộc sống của
con người Korea.
Như chúng ta biết, bán đảo Triều Tiên có trên ¾ diện tích núi rừng, cuộc
sống con người luôn gắn với núi non. Hình ảnh một con sông, khúc suối, ngon núi,
cây cỏ muông thú trở thành gần gũi thân thiết như là những biểu tượng thiêng liêng.
Vì vậy mà nhiều truyện cổ tích lấy cây cối, muông thú, các hiện tượng tự nhiên làm
đối tượng miêu tả và giải thích như kiểu truyện Sự tích chiếc cầu vồng, Sự tích cáo,
khỉ, thỏ và ngựa, Sự tích hòn đá hình con hổ Từ phản ánh những vấn đề thiên
nhiên, truyện cổ tích nói đến những vấn đề xã hội. Nhiều truyện phản ánh khá sinh
động lối sống của người dân bản xứ. Truyện Người thổi tiêu trên trời phản ánh việc
kiếm sống của người Hàn thời xưa chủ yếu dựa vào việc bắt cá; truyện Tình anh
em phản ánh kiểu cách làm nhà của người Hàn; truyện Chiếc hài thêu phản ánh
cách trồng lúa; truyện Chàng mục đồng và nàng thợ dệt nói về nghề dệt vải và
cách ăn mặc
Truyện cổ tích Korea đã cung cấp cho chúng ta một hình dung về đời sống
sinh hoạt vật chất, nói đúng hơn là cung cấp cho ta những thông tin về đời sống văn
hóa vật chất, đó là một chuỗi sự việc liên quan của con người từ dựng nhà ở, trồng
trọt,chăn nuôi săn bắt đến may mặc ăn uống Những thông tin về văn hóa vật chất
là chìa khóa để chúng ta tìm hiểu về văn hóa tinh thần, một nội dung lớn của truyện
cổ tích trên bán đảo Triều Tiên. Trong truyện Lòng hiếu thảo của Hổ nói về phong
tục để tang người chết. Đó chính là đeo khăn tang để tưởng nhớ đến người mới qua



10
đời: “Cha chúng tôi mất nên chúng tôi đã đeo khăn ở đuôi”
4
. Với truyện Tài sản kế
thừa của ba anh em trai là câu chuyện nói về phong tục cúng giỗ của người Hàn.
Sau khi cha qua đời, ba anh em chia tay nhau, mỗi người tự lập đi tìm cuộc sống
riêng nhưng “đến ngày giỗ cha thì ba anh em quay trở về nhà như đã hứa hẹn… Họ
ra viếng mộ cha, dựng một cái bia trước mộ ông và cùng nhau vái hai vái”
5
. Chúng
ta có thể tìm hiểu phong tục “đính ước” của người Hàn cổ ở truyện Đôi khuyên
vàng và Chiếc vòng đeo cổ.
Còn rất nhiều truyện khác phản ánh phong tục tập quán của người Hàn biểu hiện ở
trang phục, nhà cửa, đồ ăn thức uống, kiêng kị như Ngọn núi Oknan, Tay thợ săn
khôn khéo, Ba tháng mười ngày, Họ hàng nhà ếch
Qua tìm hiểu về đặc điểm truyện cổ tích Korea, người viết nhận thấy cổ tích
Korea rất đa dạng và phong phú….vì vậy trong khóa luận này em chỉ tập trung phân
tích văn hóa dân gian trong truyện cổ tích Lời phán xử của Thỏ, Cục bướu biết hát
để tìm hiểu về Tín ngưỡng vạn vật hữu linh; Tìm hiểu truyện Món quà của thần
núi, Con chuột huyền bí hay truyện Con hồ ly núi Kim Cương để thấy được Tín
ngưỡng thờ thần Núi của người Hàn; Truyện Vì sao mũi heo lại ngắn, Cá chép
mùa đông để hiểu rõ hơn về Tín ngưỡng thờ ông Trời của một dân tộc trên bán đảo
Triều Tiên vốn có nền văn minh Nông nghiệp lúa nước lâu đời; Để tìm hiểu về ảnh
hưởng của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đến đời sống tâm linh của người Hàn
người viết tìm hiểu thêm truyện Shim ch’ong- người con gái hiếu thảo, Nàng ốc
sên, Chàng tiều phu và nàng tiên, Cô út bị bỏ rơi Ngoài ra người viết còn tìm
hiểu thêm một số truyện cổ tích khác để tìm hiểu về phong tục- tập quán, các lễ hội
dân gian và một số trò chơi dân gian của người Hàn thời cổ xưa như truyện Lòng
hiếu thảo của Hổ, Sự tích người hóa bò, Chiếc mũ tàng hình, Tài sản kế thừa

của ba anh em trai


4
원장 고소웅, “
재미있는

한국어

읽기
” 연세대학교 출판부, 1998, tr 100
5
Lưu Thị Hồng Việt, “Vài nét về sự tương đồng trong văn hóa dân gian Hàn Quốc và Nhật Bản qua truyện
cổ tích”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5 (123) 5-2011, tr 65.


11
1.3 Về nghệ thuật truyện cổ tích Korea
Chúng ta biết rằng truyện cổ tích là một loại hình truyện kể dân gian được lưu
truyền trong nhân dân nên kết cấu cốt truyện, tính cách nhân vật, ngôn từ sử dụng
đều phản ánh trình độ nhận thức của người xưa. Truyện cổ tích Korea có kết cấu
truyện thường theo một trục thời gian và không gian thuận chiều, trình tự đầu- cuối,
trước- sau. Với đặc tính ước lệ và tượng trưng nên cốt truyện còn đơn giản. Mô típ
“ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” đã qui định sự kết thúc có hậu của tất cả các truyện
trong cổ tích Korea.
Tính cách nhân vật trong truyện cổ tích thế giới nói chung và ở Korea nói riêng
đều đại diện cho một loại người chung chung, chưa được cá thể hóa, chưa miêu tả
số phận và khai thác tâm lý. Do đó nhân vật trong truyện cổ tích thường chia thành
hai tuyến chính diện và phản diện. Điều này phù hợp với đặc điểm cốt truyện.
Hình tượng bọn quan lại, nhà giàu, thông thường là những nhân vật tham lam,

độc ác hay hại người lành. Kết cục các nhân vật này thường bị trừng trị đích đáng
hoặc phải chết. Nhân vật phản diện càng làm nổi bật nhân vật chính diện với phẩm
chất hiền lành, nhân nghĩa, vị tha, cần cù, chăm chỉ.
Nhân vật trong truyện cổ Korea đều được khái quát hóa và trừu tượng hóa, hư
cấu hóa, thần thánh hóa. Quá trình phát triển tính cách hoặc thay đổi thân phận đều
nhờ sự phù trợ của một sức mạnh kỳ diệu, siêu nhiên nên nhân vật mang tính lý
tưởng hóa. Nhờ có vai trò của yếu tố thần linh mà truyện cổ tích Korea càng trở nên
lung linh, hấp dẫn, có sức sống từ ngàn xưa cho đến bây giờ. Cũng như ở Việt Nam,
người Hàn Quốc cũng có những câu chuyện theo mô típ người mang lốt vật có rất
nhiều. Đó là Nàng Ốc sên, Chàng rể cóc hay Chồng Rắn. Những yếu tố kỳ ảo cấu
thành mô típ người mang lốt vật tạo vừa hàm chứa sự khát khao mơ ước của người
dân đồng thời cũng tạo nên sự hấp dẫn li kỳ cho người đọc muốn thoát khỏi lo âu
sầu khổ và hướng tới ước mơ của mình.


12

Chương 2
VĂN HÓA DÂN GIAN KOREA
2.1 Định nghĩa “Văn hóa” và “Văn hóa dân gian”
Về khái niệm văn hóa
“Văn hóa” là một từ Hán –Việt. Trong ngôn ngữ cổ của Trung Quốc, “văn” là
từ dùng để chỉ cái vẻ ngoài (cái được biểu hiện ra bên ngoài). Ví dụ như mặt trăng,
mặt trời, mây mưa sấm chớp…là “văn” của trời; vằn lông màu lông là “văn” của
muông thú; “Văn” của con người là lời nói hay, đẹp; “Văn” của xã hội là điển
chương, chế độ, phong tục, đạo đức…thể hiện trong quan hệ giữa con người với
con người trong một cộng đồng xã hội nhất định. “Hóa” là dạy dỗ, sửa đổi phong
tục (giáo hóa). Vậy “văn hóa” là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó do loài người sinh ra thích ứng nhu cầu đời sống và sự sinh tồn.
Ngày xưa, ông cha ta thường dùng thuật ngữ “văn hiến” hàm nghĩa văn chương,

sách vở và hiền tài. (Nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu).
Ngày nay, “văn hóa” được hiểu là văn trị và giáo hóa, sự chuyển hóa để thành
những nét văn vẻ, tốt đẹp. Suy rộng ra, có thể hiểu đó là sự cải biến làm cho con
người từ tình trạng thô mộc, tự nhiên trở thành con người hoàn thiện, có lễ giáo. Ở
phương Tây, thuật ngữ “văn hóa” bắt nguồn từ ngữ căn la tinh cultura, cultus có
nghĩa là vun trồng. Trong xã hội, có loại vun trồng vật chất, đó là sự trồng trọt cây
cối. Có loại vun trồng về tinh thần cho con người, đó chính là văn hóa.
Trong tiếng Việt, “văn hóa” được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức
(trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình
độ phát triển của một giai đoạn… Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm
tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tính ngưỡng, phong tục, lối sống,
lao động…Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con


13
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
6
.
Theo cuốn “Culture: A critical review of concepts and definitions” (Văn hóa,
một sự điểm duyệt các khái niệm và định nghĩa) thì có tới 164 định nghĩa về văn
hóa. Điều đó nói lên tính đa dạng của văn hóa và cách hiểu về văn hóa. Tuy có
nhiều định nghĩa về văn hóa nhưng các định nghĩa không mâu thuẫn bài trừ nhau
mà bổ sung cho nhau ở các khía cạnh hay các đặc trưng khác nhau của văn hóa.
Ngay ở những dòng đầu tiên của chương I trong cuốn sách “Primitive culture”,
đã viết rằng: “Văn hóa hay văn minh, được hiểu theo nghĩa rộng của dân tộc học, là
một toàn bộ phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
phong tục và mọi khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách một
thành viên của xã hội”
7

. Ở định nghĩa này ta thấy văn hóa được hiểu theo nghĩa
rộng, văn hóa là một phức thể nhiều mặt, văn hóa là một thành tựu do con người tạo
nên và con người có được xét trong bối cảnh xã hội.
Theo Từ điển “Oxford Dictionary of Philosophy” định nghĩa: “Văn hóa là lối
sống của một dân tộc, bao gồm những thái độ, giá trị, tín ngưỡng, nghệ thuật khoa
học, phương cách nhận thức, nếp nghĩ và hoạt động”
8
. Còn theo cách giải thích của
Lại Cao Nguyện trong Từ điển Từ Hán Việt: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu của con người
(như trình độ sản xuất khoa học, văn học- nghệ thuật, nếp sống, đạo đức, tập
quán…”
9

Tổng giám đốc UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tài. Qua các thế


6
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999, tr 10
7
& 8
Nguyễn Thừa Hỷ, Văn hóa Việt Nam truyền thống-Một góc nhìn, NXB Thông tin và Truyền thông, 2011,
tr 8

9
Lại Cao Nguyện, Từ điển Hán- Việt, NXB Khoa Học Xã hội, 2007, tr 524


14

kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền
thống và các thị hiếu- những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc”
10
.
Cũng theo tổ chức UNESCO của Liên Hợp Quốc, trong Hội nghị toàn thể khóa
thứ 31 họp ngày 02/11/2001, trong Bản “Tuyên ngôn phổ quát về Đa dạng văn hóa”,
trong đó có nêu lên định nghĩa chung về văn hóa như sau: “Văn hóa phải nên được
nhìn nhận như một tập hợp những nét khác biệt về đời sống tinh thần, vật chất, trí
tuệ và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm xã hội, nó bao gồm văn học nghệ
thuật, thêm vào là lối sống, phong cách chung sống, hệ giá trị, truyền thống và tín
ngưỡng”
11
.
Về khái niệm văn hóa dân gian
Thuật ngữ quốc tế “Folklore” - Văn hóa dân gian, được W J.Thom sử sụng đầu
tiên vào năm 1846 để chỉ “phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục
ngữ…của người đời trước”
12
. Ở Việt Nam, thuật ngữ “Folklore” đã được sử dụng từ
lâu và tùy theo mỗi thời kỳ được dịch ra tiếng Việt là “Văn học dân gian”, “Văn
nghệ dân gian” và nay là “Văn hóa dân gian”. Theo Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh
cho rằng: “Việc quan niệm rộng hẹp và chuyển sang tiếng Việt khác nhau như vậy
là do sự thay đổi nhận thức của chúng ta về văn hóa dân gian và cũng do sự tiếp
thu ảnh hưởng của các quan niệm Folklore từ các trường phái khác nhau trên thế
giới”
13
.
Và Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng ngày nay, ở Việt Nam, các
nhà nghiên cứu triển khai công tác sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa dân gian trên
các lĩnh vực sau: Ngữ văn dân gian, Nghệ thuật dân gian, Tri thức dân gian, Tín

ngưỡng, Phong tục và Lễ hội.


10
Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2002, tr 10.
11
Universal Declaration on Cultural Diversity, UNESCO, 2001, dẫn theo Nguyễn Thừa Hỷ, Văn hóa Việt
Nam truyền thống-Một góc nhìn, NXB Thông Tin và Truyền thông, 2011, tr 9
12
/>van-hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.html
13
/>van-hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.html


15
Ngữ văn dân gian bao gồm: Tự sự dân gian (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết,
truyện cười, ngụ ngôn, vè, sử thi, truyện thơ… Trữ tình dân gian (ca dao, dân ca);
Thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian
Nghệ thuật dân gian bao gồm: Nghệ thuật tạo hình dân gian (kiến trúc dân gian,
hội họa dân gian, trang trí dân gian…); nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm nhạc dân
gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn…)
Tri thức dân gian bao gồm: Tri thức về môi trường tự nhiên (địa lý, thời tiết, khí
hậu…); tri thức về con người (bản thân): y học dân gian và dưỡng sinh dân gian; tri
thức ứng xử xã hội (ứng xử cá nhân và ứng xử cộng đồng); tri thức sản xuất (kỹ
thuật và công cụ sản xuất)
Tín ngưỡng, phong tục và lễ hội: Các lĩnh vực nghiên cứu trên của văn hóa dân
gian nảy sinh, tồn tại và phát triển với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp, thể hiện
tính chưa chia tách giữa các bộ phận (ngữ văn, nghệ thuật, tri thức, tín ngưỡng
phong tục…), giữa hoạt động sáng tạo và hưởng thụ trong sinh hoạt văn hóa, giữa
sáng tạo văn hóa nghệ thuật và đời sống lao động của nhân dân. Để nghiên cứu văn

hóa dân gian với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp chúng ta cần phải có một quy
phạm nghiên cứu tổng hợp.
Văn hóa dân gian là một thực thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với
sinh hoạt văn hóa cộng đồng của quần chúng lao động. Vì vậy, khi nhận thức, lý
giải các hiện tượng văn hóa dân gian phải gắn liền với môi trường sinh hoạt văn hóa
của nó, tức là các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong đó cộng đồng gia tộc,
cộng đồng làng xã giữ vai trò quan trọng.
Người ta thường nói văn hóa dân gian là “cội nguồn của văn hóa dân tộc” là
„văn hóa gốc”, “văn hóa mẹ”. Điều đó hàm nghĩa văn hóa dân gian gắn với lịch sử
lâu đời của dân tộc, là nguồn sản sinh và tiếp tục nuôi dưỡng văn hóa dân tộc. Có
con người là có văn hóa, có dân tộc là có văn hóa dân tộc. Văn hóa đó trước hết là


16
văn hóa dân gian, văn hóa của quần chúng nhân dân. Qua văn hóa dân gian, nhân
dân lao động “tự biểu hiện mình, tự phản ánh cuộc sống của mình”.
2.2 Đôi nét về văn hóa dân gian Korea
Hàn Quốc là một trong những quốc gia của Đông Bắc Á nên Hàn Quốc cũng có
những nét văn hóa dân gian đặc trưng của nền văn hóa phương Đông. Trước đây
Korea là một nước nông nghiệp nên điều kiện địa lý- tự nhiên như đất đai, núi non,
sông suối, khí hậu thường xuyên tác động đến đời sống con người. Con người luôn
phải quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên và chinh phục tự nhiên. Cuộc sống
cộng đồng, đặc biệt tổ chức làng là một sự cố kết đời này qua đời khác tạo thành
truyền thống không chỉ cho quá khứ mà cả với hiện tại và tương lai. Nền văn hóa
Nông nghiệp- Làng đã tạo nên một bản sắc, một phong tục tập quán của người bản
xứ được thể hiện qua các lễ hội cổ truyền, từ việc đính ước, cưới xin, kiêng kỵ, ma
chay đến các biểu tượng hóa thần linh mang ý nghĩa tín ngưỡng và tôn giáo.
Lễ hội cổ truyền trở thành một di sản văn hóa phong phú ở bán đảo Triều Tiên. Trải
qua mấy nghìn năm thăng trầm của lịch sử, lễ hội vẫn tồn tại và trải rộng khắp mọi
miền của đất nước và suốt cả bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Lễ hội truyền thống

nhằm tái hiện cuộc sống nông nghiệp, tái hiện lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ
chủ quyền đất nước, giữ vững bản sắc dân tộc và phong tục tập quán. Hầu hết các lễ
hội được phản ánh trong các truyện cổ tích như truyện Cái chùy yêu quái, truyện
Cục bướu biết hát, truyện Sự ngạc nhiên của nhà sư.
Người Đông Á chúng ta thường quan niệm rằng sự kết hợp hài hòa giữa âm và
dương kiến tạo và làm biến đổi vạn vật trên thế gian. Âm là bóng râm, dương là ánh
nắng. Âm dương còn có nghĩa là nữ và nam, quần thần và quân vương. Vạn vật trên
thế gian đều mang trong mình vận khí âm dương, khi đối lập nhau, khi hài hòa, khi
biến đổi. Đối với các chữ số, số chẵn được gọi là âm, số lẻ là dương. Những ngày
trùng hai lần số dương đều là những ngày quan trọng đối với các dân tộc có nền văn
hóa nông nghiệp. Dù hiện nay, Hàn Quốc là một nước có nền công nghiệp phát triển
mạnh và đã có những ảnh hưởng hiện đại hóa phương Tây trong đời sống văn hóa,
song cho đến nay quốc gia này vẫn lưu giữ được nhiều nét đẹp Á Đông riêng có của


17
dân tộc Hàn. Một trong những nét đẹp văn hóa đặc sắc đó là văn hóa Tết. Ngày
mùng 1 tháng 1 âm lịch là ngày Tết Nguyên Đán. Văn hóa Tết âm lịch cổ truyền
của người Hàn cũng như người Việt Nam, không khí tết đã tràn ngập từ những ngày
cuối năm âm. Vào ngày 30 tết, các gia đình đều dọn vệ sinh sạch sẽ nhà cửa. Buổi
tối trước giao thừa, họ thường tắm bằng nước nóng đêt tẩy trần. Các thanh tre được
đốt trong nhà để xua đuổi tà ma vì tục truyền do tiếng nổ của các thanh tre sẽ làm
cho ma quỷ khiếp sợ bỏ chạy. Đêm giao thừa không ai ngủ cả, vì theo truyền thuyết
nếu ngủ thì sáng hôm sau sẽ bị bạc trắng cả lông mi và đầu óc kém minh mẫn khi
thức dậy. Vào ngày Tết mọi người mặc trang phục truyền thống Hanbok cùng cả
nhà cử hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Sau đó con cái bái lạy cha mẹ và cả nhà quây
quần cùng nhau thụ hưởng những đồ ăn vừa cúng tổ tiên. Truyện Bí mật về vẻ
ngoài của cóc cho ta thấy phong tục của người Hàn vào dịp năm mới “vào mùa
xuân con người thường làm bánh và đi leo núi, họ ăn bánh và ngắm phong cảnh”
Trong một năm thì ngoài Tết Nguyên Đán là Tết có ngày lẻ tháng lẻ thì Tết Đoan

Ngọ cũng nằm trong ngày lẻ tháng lẻ. Đó là mùng 5 tháng 5 âm lịch. Người Hàn
Quốc gọi ngày Tết Đoan Ngọ là Surinal. “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là
vị thần tối cao, ám chỉ Mặt Trời. Vào ngày này, người Hàn tổ chức nhiều trò chơi
dân gian và tập tục truyền thống nhằm cầu một năm mùa màng bội thu. Mỗi địa
phương đều có những tập quán truyền thống đặc trưng của mình như: người dân tổ
chức cúng tế lên đồng để cầu mong bình an và ấm no, còn các nô bộc thường ngày
lào động cật lực thì nay được đeo mặt nạ nhảy múa ca hát tưng bừng được gọi là
“Kịch mặt nạ của những người nô bộc”.Như chúng ta biết mặt nạ và múa mặt nạ là
một trong những đặc trưng văn hóa của người Hàn Quốc. Truyện Sự tích người
hóa bò cho chúng ta biết về nguồn gốc chiếc mặt nạ và con người đã đeo chiếc mặt
nạ trong trường hợp nào.Ngoài ra còn có ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch hằng năm ở
Hàn Quốc có một lễ hội rất có ý nghĩa cho những người yêu nhau mà phải xa nhau.
Khi gặp nhau nỗi xúc động dâng trào thành nước mắt. Nước mắt ấy cũng chính là
mưa. Ngày mưa hằng năm cũng được chọn làm Ngày Tình yêu của một số nước
Châu Á. Đây trở thành một ngày lễ hội mà người ta cho rằng đó là ngày của yêu


18
thương và xa cách. Nếu ở Trung Quốc gọi là lễ hội Qixi, Nhật Bản có Tanabata,
Việt Nam gọi là Ngày Thất tịch còn ở Hàn Quốc gọi là lễ hội Chilseok. Truyện cổ
Chàng mục đồng và nàng thợ dệt kể rất chi tiết về mối tình sâu đậm của hai người
yêu nhau nhưng phải cách xa. Mỗi năm chỉ được gặp một lần vào ngày mùng 7
tháng 7 âm lịch hằng năm.
Cũng như các nước có nền văn hóa phương Đông, Hàn Quốc từ xưa đã tồn tại
một tín ngưỡng dân gian lâu đời mà người ta gọi là Musok-kyo, đây là một thuật
ngữ mà nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo Hàn Quốc dùng để chỉ một hiện tượng dân
gian đa thần có mặt ở Hàn Quốc từ thời cổ xưa, tức là tập tục cúng tế, bói toán, lên
đồng. Musok-kyo vừa thể hiện những đặc thù của văn hóa Hàn Quốc vừa mang
nhiều nét phổ biến của truyền thống văn hóa phương Đông. Cũng như người Việt,
người Hàn tin rằng con người sau khi chết đi thì linh hồn vẫn tiếp tục tồn tại và có

thể phù hộ ban cho tài lộc hay đem lại điều ác, thậm chí trừng phạt những người
đang sống tùy vào cách cư xử của họ với những linh hồn này. Vì thế mà trong
Musok-kyo hình thành một loại người được tin là có khả năng đặc biệt giữ vai trò
trung gian giữa người sống và thế giới thần linh đo là thầy cúng, thầy tế, thầy bói.
Và trong tín ngưỡng dân gian Musok-kyo có rất nhiều vị thần khác nhau. Người
Hàn cho rằng các vị thần luôn có mặt ở khắp mọi nơi, trên trời, trên núi, ngoài cánh
đồng, trên những dòng sông và mọi ngóc ngách nơi căn phòng họ đang sống. Các
thần linh gần gũi và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống thường
ngày của người Hàn. Đó là thần tối cao, thần không gian, thần đất, thần nước, các vị
thần vô danh và linh hồn các tổ tiên. Truyện Lời hứa của quỷ thần, Shim Ch’ong –
cô gái hiếu thảo cho chúng ta thấy thế giới thần linh luôn tồn tại thật gần gũi và có
thể phù hộ cho con người. Truyện Tài sản kế thừa của ba anh em trai chứng minh
rằng Vu giáo đã tồn tại ở bán đảo Triều Tiên từ rất lâu.
Ở Hàn Quốc, những giai đoạn mà mỗi người phải trải qua trong cuộc đười và
đánh dấu những thay đổi cơ bản thường được gọi chung là “Gwanhongsangje”
(Quan-Hôn-Tang-Tế), bao gồm lễ trưởng thành, lễ thành hôn, tang lễ, và tế lễ tổ
tiên. Lễ trưởng thành thường rất đơn giản. Các chàng trai trưởng thành cuộn mái tóc


19
dài thành búi trên đỉnh đầu và được tặng một chiếc mũ truyền thống của dân tộc
Hàn Quốc làm từ đuôi ngựa. Các cô gái trưởng thành tết tóc thành hai bím và cài
vào tóc đồ trang sức được gọi là binyeo.
Lễ thành hôn được tổ chức tại gia đình cô dâu và vợ chồng mới cưới thường nghỉ
hai hay ba ngày tại gia đình cô dâu trước khi trở về nhà chú rể mà chúng ta có thể
tìm thấy ở truyện Lời hứa của quỷ thần. Truyện Chú rể cóc, truyện Vì sao lưng
kiến lại nhỏ, truyện Chàng mục đồng và nàng thợ dệt đề cập đến tập tục hôn nhân
như dạm hỏi, định ngày cưới và tổ chức lễ cưới. Tang lễ được cử hành theo nghi
thức truyền thống Hàn Quốc rất cầu kỳ. Thời gian để tang kéo dài trong hai năm,
sau hàng loạt các nghi lễ cầu khấn. Bên cạnh những nghi thức tang lễ cầu kỳ, người

Hàn Quốc còn thực hiện nhiều nghi lễ thờ cúng khác liên quan giữa sự sống và cái
chết. Truyện Lòng hiếu thảo của Hổ, truyện Tài sản kế thừa của ba anh em trai là
truyện nói về phong tục cúng giỗ; truyện Cái chết của một ông vua đề cập đến tập
tục lập đàn cúng tế.


20

Chương 3
TRUYỆN CỔ TÍCH KOREA - BỨC TRANH VỀ VĂN HÓA DÂN GIAN
3.1 Tín ngưỡng-tôn giáo
3.1.1 Tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”
Tín ngưỡng là một loại niềm tin, nó ra đời do trình độ nhận thức của con
người còn hạn chế. Nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và về chính bản thân con
người chưa thể lý giải, bên cạnh đó hiện thực cuộc sống còn nhiều đau khổ mà
người xưa không thể thoát ra được, do vậy họ đã nghĩ ra tín ngưỡng để gửi gắm ước
mơ và thỏa mãn nhu cầu nhận thức. Có một tác giả nói rằng: trước khi tin vào trí
tuệ, vào sức mạnh của chính mình, con người cần phải tìm một nguồn tin nào đó để
có thể sống; từ xa xưa, niềm tin đó không thể là cái gì khác ngoài sức mạnh siêu
nhiên
14
. Theo đó có thể thấy, tín ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ vào một lực
lượng siêu nhiên, lực lượng thần bí mà con người tin là có thật và tôn thờ. Ở bán
đảo Triều Tiên, tín ngưỡng xuất hiện từ thời cổ xưa và mang nhiều nét đặc thù của
nền văn hóa Korea.
Theo dòng lịch sử, con người thời đồ đá mới đã có tín ngưỡng vạn vật hữu
linh “mỗi vật thể trong thế giới tự nhiên đều có linh hồn” và đến giai đoạn các
vương quốc đầu tiên của Korea, con người cũng đã có sự sùng bái các lực lượng tự
nhiên và có niềm tin vào sự bất tử của linh hồn. Người Hàn xưa tin rằng: thiên
nhiên và con người không tách rời nhau và có ảnh hưởng tác động lẫn nhau.

15
.
Trong đời sống tinh thần của người Hàn xưa chúng ta thấy tồn tại quan niệm vạn
vật hữu linh, vạn vật tương giao cho nên trong nhiều truyện cổ tích Korea có hình
ảnh, đối thoại sinh động giữa người với vật. Ở truyện Lời phán xử của thỏ, người


14
Mai Thanh Hải, Từ điển Tín ngưỡng tôn giáo Thế giới và Việt Nam, NXB Văn hóa-Thông tin, 2006, tr 621
15

Nguyễn Trường Tân, Tìm hiểu Văn hóa Hàn Quốc, NXB Văn hóa-Thông tin,2011, tr 76


21
Hàn kể rằng “Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, từ khi loài vật còn biết nói như người” con
người có thể nói chuyện với các loài vật như hổ, bò, thỏ hay cũng có thể nói chuyện
với cây thông. Ở truyện Cục bướu biết hát, ông già có cục bướu nói chuyện được
với yêu tinh. Hay như ở truyện Lòng hiếu thảo của hổ, anh chàng tiểu phu và hổ đã
nói chuyện với nhau mừng mừng tủi tủi giống như hai anh em xa cách lâu ngày mới
gặp lại. Con hổ được mệnh danh là Chúa sơn lâm trong truyện cổ tích cũng biết
khóc, biết thương như con người “Cha của chúng tôi là người, cứ hai lần một tháng
đã bắt heo rừng dâng lên cho bà nội chúng tôi. Trước đây không lâu, từ ngày bà nội
mất, cha chúng tôi không ăn gì mà chỉ nằm trong hang vừa khóc vừa gọi mẹ nên đã
bị bệnh và đã qua đời”
16
. Không những biết nói tiếng người mà các loài vật cũng
biết làm những điều mà con người làm. Ngay lời mở đầu cho câu chuyện Cô út bị
bỏ rơi, người Hàn xưa đã từng khẳng định: “ngày xửa ngày xưa, xưa thật là xưa,
thuở cọp còn hút thuốc lá và chim khách còn biết nói tiếng người ”. Hay như lời

mở đầu của câu chuyện Anh tiều phu và cô tiên nữ cũng có câu mở đầu rằng:
“Ngày xửa ngày xưa, thời mà cọp còn ve vẩy hút thuốc lá và chim chóc còn biết nói
tiếng người thì ”. Ngoài ra còn có những truyện tuy động vật không biết nói nhưng
dân gian cho rằng chúng có thể hiểu được tất cả những gì con người nói về chúng.
Con người ứng xử với thiên nhiên, muông thú, cỏ cây như thế nào thì sẽ nhận lại sự
đáp trả từ thiên nhiên như thế ấy. Trong truyện Chim ác là báo ân, chàng thư sinh
trên đường đi đã giương cung bắn con rắn đang định ăn thịt một tổ chim ác là. Sau
đó, chàng thư sinh đã gặp nạn nên ba con chim ác là đã quyết định trả ơn chàng thư
sinh cứu mạng. Ba con chim đã đập đầu vào chuông làm chuông kêu lên 3 tiếng để
cứu chàng thư sinh. Con người đối xử tốt với con vật thì sẽ được con vật báo đáp là
như thế ấy. Còn câu chuyện Chó mèo tìm ngọc nói về chó và mèo vì muốn đền ơn
cho chủ của mình nên đã đi tìm lại ngọc bị mất cắp trả lại cho chủ, nhưng trên
đường đi chó mèo lại xảy ra mâu thuẫn và làm cho mối quan hệ của 2 con ngày
càng xấu đi. Truyện không chỉ cho chúng ta biết về nguồn gốc loài vật mà còn nhấn


16
원장 고소웅, “
재미있는

한국어

읽기
” 연세대학교 출판부, 1998, tr 100



22
mạnh đến sự báo đáp công ơn của 2 con vật. Đây là truyện kết hợp giữa câu chuyện
nhận được ngọc khi cứu sống cá chép và mâu thuẫn trong quá trình tìm ngọc của

chó với mèo. Câu chuyện “Chó mèo tìm ngọc” nhấn mạnh sự đền đáp của những
con vật với những người đã cứu giúp mình. Dù là con vật, nhưng khi chịu ơn thì
cũng sẽ trả ơn. Câu chuyện muốn nói đến đạo lí làm người, đó là khi mình nhận ơn
của ai thì phải biết trả ơn, và người càng làm nhiều việc thiện việc tốt thì sẽ gặp
điều tốt điều lành.
Trong đời sống tinh thần của người Việt chúng ta xưa kia cũng tồn tại quan
niệm “vạn vật hữu linh”, vạn vật tương giao cho nên trong nhiều truyện cổ tích Việt
Nam có hình ảnh, đối thoại sinh động giữa vật với vật, vật với người như truyện Voi
và Kiến, Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn hay truyện Con trâu, con hổ và bác nông
dân. Truyện cũng kể rằng:“ngày xưa loài vật và loài người sống gần gũi với nhau,
có thể nói chuyện được với nhau”.Trong quan niệm của người Việt từ ngàn xưa,
không chỉ con người mà vạn vật xung quanh cũng đều có linh hồn và có các thần
cai quản, như truyện Sự tích con Sam có sự xuất hiện của thần Cây.

3.1.2 Tín ngưỡng thờ ông Trời
Về tín ngưỡng, Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo, đạo shaman, phật
giáo, nho giáo, lão giáo và gần đây nhất là thiên chúa giáo. Shaman là tôn giáo cổ
xưa nhất Hàn Quốc, từng giữ vị trí hàng đầu trong vị trí tín ngưỡng của người dân,
đạo này thờ các thần linh, mà trên tất cả là Hanunim hay còn gọi là ông trời, theo
triết lí là người tốt sau nay sẽ được lên thượng giới, kẻ xấu sẽ bị đày xuống địa ngục.
Yêu tinh là vong hồn của người tốt nhưng vì lí do gì đó mà chưa được lên trời, còn
lang thang ở trần thế. Còn ma quỹ là linh hồn của kẻ xấu số, hay gian ác vẫn lẫn
quẫn bên người sống. Tôn giáo này hiện đã mai một nhưng ảnh hưởng của nó đã ăn
vào trong đời sống tâm linh người Hàn Quốc.


23
Hình 3.1
Trong các yếu tố tạo nên diện mạo văn hóa Hàn Quốc có sự ảnh hưởng tác động
to lớn của môi trường tự nhiên đã tạo nên tính cách và bản sắc văn hóa dân tộc. Yêu

và tôn thờ thiên nhiên nên trong truyện cổ tích, người Hàn thể hiện sự sùng bái vật
linh, tin vào những sức mạnh thần bí. Trước sự khắc nghiệt và tàn phá của thiên
nhiên, không riêng gì dân tộc Hàn mà toàn nhân loại thời cổ đại đều tin rằng có một
thế lực các thần linh đầy huyền bí với quyền lực vô song, con người chỉ biết phó
mặc cho số mạng, cầu phúc từ các đấng thần linh vô hình đó, với mong muốn được
sự che chở. Sự kiện mặt trời mọc hay lặn tạo nên ngày và đêm, sự kỳ vĩ của núi
rừng, những trận cuồng phong, lụt lội, bão tuyết, mây, mưa người xưa đều cho là
công việc của các thần. Và xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có linh hồn nên
trong tư duy của người Hàn cổ đâu đâu cũng có các vị thần cai trị. Nghĩa là trong
mỗi dòng sông, trong những cánh rừng rậm và hang núi… đang tồn tại những vị
thần. Và trong cuộc sống của người Hàn cổ bắt đầu xuất hiện tín ngưỡng thờ các vị
thần. Vị thần cao nhất trong các vị thần được gọi là Hanunim. Trong các truyện cổ
tích người Hàn đã thể hiện niềm tin của mình vào Hanunim. Hanunim chính là ông
Trời, mà Trời theo ý nghĩa tôn giáo - “như một vị thần tối cao, có ý chí, có nhân
cách, là chủ thể chi phối vận mệnh của vạn vật và quyết định mọi họa phúc của con
người”
17
. Có thể nói Trời là đấng tối cao, có thể chi phối, quyết định vận mệnh con
người và vạn vật: có thể phù hộ, che chở
nhân gian, quan sát và trừng phạt con
người.
Truyện Vì sao mũi heo lại ngắn kể rằng:
“Thuở rất xa xưa, Hanunim là đấng cai
quản cả thiên đình và hạ giới. Một ngày
kia, Hanunim cho gọi Gà, Chó và Heo
đến và truyền lệnh cho Gà, Chó và Heo
xuống trần gian giúp ích cho loài người”.


17

PGS.TS Doãn Chính, Từ điển Triết học Trung Quốc, NXB Chính Trị Quốc gia, 2010, tr 649-656

×