Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

360 Hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Bình Thuận theo hướng CNH - HĐH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 72 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa của đề tài
Ngày nay, ngân sách Nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ điều chỉnh
kinh tế vĩ mô cực kỳ quan trọng của Nhà nước, nó giữ vai trò quyết định chi phối
đến sự phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; để quản lý ngân sách một cách hiệu quả, trước
hết cần phải nhận thức lại những vấn đề lý luận về ngân sách Nhà nước, đổi mới
nội dung hoạt động của nó gắn với điều kiện của cơ chế thị trường và định hướng
phát triển kinh tế - xã hội.
Chi ngân sách là một trong hai nội dung cấu thành NSNN, giữ vai trò bảo
đảm cho các cấp chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế
- xã hội trên địa bàn. Trong quản lý, điều hành ngân sách, điều chỉnh tỷ trọng các
nội dung chi trong cơ cấu chi NSNN sẽ có tác động rất lớn đến mối tương quan
giữa tích lũy với tiêu dùng, giữa mục tiêu tăng trưởng với đảm bảo công bằng xã
hội. Do vậy, hoàn thiện cơ cấu chi NSNN là một trong những giải pháp quan trọng
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Thời gian qua, công tác điều hành cơ cấu chi NSNN của tỉnh Bình Thuận
đã có những thay đổi theo hướng tích cực, mặc dù cân đối ngân sách còn rất khó
khăn nhưng tỷ trọng cơ cấu chi đầu tư phát triển trong cơ cấu chi NSNN hàng năm
không ngừng tăng, góp phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo đà
cho tăng trưởng kinh tế, ổn định đời sống xã hội. Tuy vậy, bên cạnh mặt tích cực
vẫn còn bộc lộ những tồn tại trong điều hành cơ cấu chi NSNN, đó là: việc hoạch
định kế hoạch chi ngân sách còn chưa đãm bảo tình khoa học, một số nội dung
trong cơ cấu chi NSNN còn chưa phù hợp, chưa đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu chi NSNN
để đáp ứng những đòi hỏi phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới vẫn đang
là vấn đề mang tính cấp bách.
Xuất phát từ yêu cầu về thực tiễn quản lý NSNN tại địa phương đang công
tác, sau ba năm được học tập và trang bị những kiến thức lý luận sau đại học, tôi


chọn đề tài luận văn “Hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của tỉnh Bình Thuận theo hướng CNH - HĐH”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nội dung của đề tài tự bản thân nó đã mang ý nghĩa rộng lớn cả về mặt cơ
sở lý luận lẫn thực tiễn. Mục tiêu của đề tài là đề ra những phương hướng, giải

Trang
1


pháp và kiến nghị cụ thể về tiếp tục hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách tại tỉnh Bình
Thuận để quản lý và sử dụng các khoản chi ngân sách của tỉnh một cách hợp lý,
hiệu quả nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nhằm đạt được mục tiêu cơ bản trên đây, Luận văn tập trung nghiên cứu,
hệ thống lại những vấn đề cơ sở lý luận về ngân sách Nhà nước, lý luận về cơ cấu
chi NSNN, Luật NSNN; phân tích thực trạng về cơ cấu chi NSNN của tỉnh Bình
Thuận trong thời gian qua, rút ra những mặt tích cực, mặt còn hạn chế, tìm ra
những nguyên nhân tồn tại; đề xuất những giải pháp cơ bản tiếp tục hoàn thiện cơ
cấu chi NSNN của tỉnh để phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH – HĐH .
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xuyên suốt của Luận văn là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Với cơ sở phương pháp luận trên, NSNN được xem
như là một công cụ kinh tế của Nhà nước luôn biến đổi và phát triển; do vậy cần
được thường xuyên nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển. Các kết luận và giải pháp
đề xuất được đúc kết từ quá trình thu thập, khảo sát và tổng hợp các thông tin, tư
liệu; qua đó đối chiếu với cơ sở lý luận để làm sáng tỏ những nội dung nghiên cứu.
Ngoài ra để bảo đảm tính khoa học, Luận văn cũng tuân thủ một số nguyên
tắc và phương pháp cơ bản như nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện,

phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp hệ thống.
5. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài lời mở đầu và phần kết luận gồm có 3 chương :
Chương I: Lý thuyết cơ bản về NSNN và cơ cấu chi NSNN với chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
Chương II: Thực trạng về cơ cấu chi ngân sách của tỉnh Bình Thuận
Chương III: Các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của tỉnh Bình Thuận theo hướng CNH - HĐH.
Do khả năng và thời gian còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi còn
nhiều sai sót. Nhiều vấn đề trong Luận văn đặt ra nhưng chưa được nghiên cứu,
giải quyết thật thấu đáo. Kính mong các Thày, Cô, các đồng nghiệp quan tâm, cho
ý kiến để Luận văn được hoàn thành và mang ý nghĩa thiết thực hơn.
CHƯƠNG I

LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ NSNN VÀ CƠ CẤU CHI NSNN

Trang
2

VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1.1. Ngân sách Nhà nước
1.1.1. Bản chất NSNN
1.1.1.1. Khái niệm về NSNN
NSNN là một bộ phận quan trọng nhất của tài chính Nhà nước (TCNN).
Tuy nhiên, TCNN đã hình thành trước và từ rất lâu so với NSNN, nó gắn liền với
sự ra đời của Nhà nước và cùng với sự xuất hiện của tiền tệ, làm tiền tệ hóa các
khoản thuế và chi tiêu của Nhà nước.
Nguyên nhân xuất hiện của TCNN: Quá trình sản xuất xã hội trải qua bốn
khâu là sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Trong lịch sử phát triển của loài người, ở giai đoạn đầu chưa có sự phân

công lao động, mọi người trong cộng đồng làm chung và cùng hưởng sản phẩm
làm ra dưới hình thức phân phối bình quân trực tiếp. Đến giai đoạn sau của chế độ
cộng sản nguyên thủy, mặc dù đã có sự phân công lao động xã hội nhưng hình thức
phân phối vẫn là bình quân trực tiếp nên chưa xuất hiện trao đổi hàng hóa và chưa
cần thiết phải hình thành Nhà nước.
Khi phân công lao động xã hội đã phát triển, nền sản xuất hàng hóa giản
đơn ra đời cùng với sự xuất hiện sản phẩm thặng dư và yêu cầu trao đổi hàng hóa.
Xã hội phân hóa thành các tầng lớp giàu, nghèo, từ đó hình thành nên các giai cấp.
Sự xuất hiện của giai cấp và đấu tranh giai cấp đã làm Nhà nước xuất hiện với bộ
máy Nhà nước, mà Nhà nước muốn tồn tại được thì phải có TCNN.
Như vậy, sản xuất hàng hóa là nguồn gốc hay nguyên nhân sâu xa quyết
định sự ra đời của phạm trù TCNN. Nhà nước sử dụng TCNN để nuôi dưỡng bộ
máy Nhà nước và làm công cụ để thực hiện tốt chức năng cai trị, do đó Nhà nước
là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của phạm trù TCNN.
TCNN gắn liền với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa, gắn với sự ra
đời và tồn tại của Nhà nước nên TCNN là một phạm trù kinh tế lịch sử, chỉ khi sản
xuất hàng hóa không còn cần thiết và Nhà nước diệt vong thì mới không còn phạm
trù TCNN.
NSNN xuất hiện muộn hơn rất nhiều so với TCNN, nó chỉ ra đời và tồn tại
khi mà: TCNN đã tồn tại và hoạt động; vai trò của TCNN không chỉ còn bó hẹp
trong việc nuôi dưỡng bộ máy Nhà nước, mà còn thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ khác của xã hội; thể chế xã hội đã có sự biến đổi từ “Quân chủ” sang “Cộng
hòa”, tức là đã có sự tách rời giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp; luật
pháp đã được hoàn chỉnh ở mức độ nhất định.

Trang
3


Khi ra đời, chính NSNN đã tập hợp và cân đối thu - chi của Nhà nước, quy

định bắt buộc mọi khoản chi phải theo dự toán, mọi khoản thu phải theo luật định,
chấm dứt sự tùy tiện trong quản lý thu- chi của Nhà nước.
Khi nói về ngân sách Nhà nước, trên thế giới có nhiều cách định nghĩa về
ngân sách, chẳng hạn như:
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (cũ) viết: ngân sách là bảng liệt
kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước. Mọi
kế hoạch thu chi bằng tiền của bất kỳ một xí nghiệp, cơ quan hay một cá nhân nào
trong một giai đoạn nhất định.
Theo từ điển Novean Petit Lavosse của Pháp thì ngân sách được giải thích
là bảng liệt kê dự kiến các khoản thu nhập và chi trả của một cơ quan hay một công
xã.
Theo từ điển của nước Anh giải thích thuật ngữ ngân sách là bảng kế toán
về khả năng thu nhập (tiền thu vào) và chi tiêu (tiền xuất ra) trong một giai đoạn
nhất định của tương lai, thường là một năm.
Một nhà kinh tế học người Anh khác lại cho rằng NSNN là bảng kê các
khoản dự thu và dự chi trong thời kỳ nào đó, thường là một năm.
Ở nước ta, một số ý kiến trước đây cho rằng NSNN là kế hoạch tài chính cơ
bản của Nhà nước, là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, là bộ phận chủ
đạo trong hệ thống tài chính.
Tất cả những cách nhìn nhận như trên về NSNN là chưa thật sự đầy đủ cả
về mặt xác định khái niệm cũng như làm rõ bản chất NSNN.
Khái niệm về NSNN được hiểu đầy đủ theo Luật NSNN là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định
và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ
của Nhà nước.
1.1.1.2. Bản chất NSNN
Các biểu hiện của NSNN rất phong phú, đa dạng nhưng cũng rất rời rạc; đó
là bảng tổng hợp các khoản thu, khoản chi của Nhà nước, là mức động viên các
nguồn lực tài chính vào tay Nhà nước, những khoản đóng góp của các thành viên
trong xã hội cho Nhà nước và cấp phát kinh phí của Nhà nước cho mỗi thành viên,

mỗi tổ chức. NSNN tuy có những biểu hiện rời rạc, phân tán nhưng hoạt động của
nó không hề mang tính tự phát mà nằm trong sự kiểm soát của Nhà nước. Các nội
dung bên trong của NSNN có mối quan hệ ràng buộc rất chặt chẽ, các khoản thu

Trang
4


ngân sách phần lớn mang tính chất bắt buộc, còn các khoản chi lại mang tính cấp
phát. Chính những nội dung này đóng vai trò quyết định sự tồn tại của NSNN.
Hoạt động của NSNN là hoạt động phân phối các nguồn tài chính, là quá
trình giải quyết các quyền lợi kinh tế giữa Nhà nước với xã hội. Từ đó, các nguồn
tài chính được chia thành hai phần là phần nộp vào NSNN và phần để lại cho xã
hội. Phần nộp vào ngân sách tiếp tục được phân phối lại thông qua các khoản cấp
phát từ ngân sách cho tiêu dùng và đầu tư.
Quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân đã làm xuất hiện hệ thống các
quan hệ tài chính thể hiện ở phần thu và phần chi NSNN. Hệ thống các quan hệ tài
chính tạo nên bản chất của NSNN. Các quan hệ tài chính này bao gồm: Quan hệ
kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh; quan hệ kinh tế giữa
NSNN với các đơn vị thuộc lĩnh vực phi sản xuất vật chất; quan hệ kinh tế giữa
NSNN với hộ gia đình và dân cư; quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài
chính.
Như vậy, mặc dù các biểu hiện của NSNN rất phong phú và đa dạng nhưng
về thực chất chúng phản ảnh các nội dung cơ bản là:
Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, NSNN là một phạm trù kinh tế.
Thứ hai, xét theo nội dung vật chất NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất
của Nhà nước, được sử dụng để phục vụ các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Quỹ tiền tệ này thể hiện lượng tiền huy động từ thu nhập quốc dân để đáp
ứng cho các khoản chi tiêu của Nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả. Quỹ tiền
tệ tập trung của ngân sách Nhà nước có cả hai mặt là mặt tĩnh và mặt động. Mặt

tĩnh thể hiện số liệu các nguồn tài chính được tập trung vào ngân sách Nhà nước
mà chúng ta có thể xác định được vào bất kỳ thời điểm nào. Mặt động thể hiện các
quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị gắn liền với quỹ tiền tệ tập trung của ngân
sách Nhà nước, đó là số lượng các nguồn tài chính được tập trung vào ngân sách và
từ ngân sách phân bổ các nguồn tài chính cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, xét về nội dung quản lý thì NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản của
Chính phủ. NSNN là một kế hoạch tài chính bao gồm các khoản thu và chi của
Nhà nước được mô tả dưới hình thức cân đối bằng giá trị tiền tệ bao quát ba khu
vực chủ yếu của nền kinh tế là Nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia đình. Phần thu
thể hiện các nguồn tài chính được huy động vào ngân sách Nhà nước. Phần chi thể
hiện chính sách phân phối các nguồn tài chính đã huy động để thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô của quốc gia. Ngân sách Nhà nước được lập và thực hiện cho
một thời gian nhất định, thường là một năm, được Quốc hội phê chuẩn và thông qua.

Trang
5


Thứ tư, xét về mặt pháp lý thì NSNN là một đạo luật tài chính có thời hạn
trong thời gian là một năm.
Thứ năm, cơ sở quyết định của ngân sách là kết quả hoạt động của nền kinh
tế quốc dân.
Từ đó, có thể đi đến kết luận một cách toàn diện và khoa học: Bản chất của
NSNN, đó là tổng thể các mối quan hệ kinh tế được phát sinh trong quá trình phân
phối bằng giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình thành quỹ
tiền tệ tập trung nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ kinh tế - xã hội của
Nhà nước trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
1.1.2. Cơ cấu NSNN
NSNN là một chỉnh thể kinh tế - xã hội được hợp thành bởi hai nội dung cơ
bản là thu và chi; các nội dung lớn đó lại được hình thành từ các nội dung nhỏ. Do

vậy, có thể nói NSNN là một chỉnh thể kinh tế - xã hội bao gồm nhiều nội dung thu
- chi được sắp xếp theo một cơ cấu nhất định. Nói cách khác, cơ cấu NSNN chỉ
mối quan hệ giữa các nội dung thu – chi của NSNN trong những khoảng thời gian
nhất định nhằm phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Cơ cấu NSNN được thể hiện qua các mối quan hệ như sau:
Thứ nhất, cơ cấu NSNN được thể hiện qua các mối quan hệ dưới giác độ
tổng thể như quan hệ giữa tổng thu với tổng chi, giữa tổng thu và tổng chi với tổng
sản phẩm xã hội, giữa tổng thu và tổng chi với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu,
giữa tốc độ tăng thu và tăng chi với tốc độ tăng trưởng kinh tế ….
Mối quan hệ giữa tổng thu với tổng chi được xem là quan trọng và cơ bản
nhất. Trong điều hành NSNN, có nhiều quan điểm xử lý về mối quan hệ giữa tổng
thu với tổng chi, tùy theo giai đoạn và tình trạng phát triển kinh tế:
Quan điểm “một ngân sách tốt nhất là luôn luôn cân bằng” phù hợp với thời
kỳ nền kinh tế còn ở trình độ chưa phát triển, Nhà nước chưa can thiệp gì vào các
hoạt động kinh tế và ngân sách chủ yếu sử dụng cho nhiệm vụ hành chính và cai
trị.
Quan điểm “một ngân sách tốt nhất là ngân sách không cân bằng” lại phù
hợp với giai đoạn Nhà nước đã kiểm soát và làm chủ ngân sách, sử dụng NSNN
như một công cụ để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, do vậy quan điểm
điều hành ngân sách lúc này mang tính tích cực hơn. Cùng theo quan điểm này
nhưng khi xác định về mối tương quan giữa thu và chi ngân sách, mỗi nước lại đưa
ra những phương châm khác nhau:

Trang
6


Đối với những nước có nền kinh tế chưa phát triển, thu chưa đáp ứng đủ chi
thì thực hiện theo phương châm: thu quyết định chi, chi phụ thuộc vào thu. Trong
trường hợp này, bội chi ngân sách trước đây được các nước sử dụng biện pháp

khắc phục chủ yếu bằng cách in thêm tiền giấy phát hành vào lưu thông. Tuy nhiên
biện pháp này không những không giải quyết được nguồn gốc của vấn đề mà còn
làm cho đồng tiền mất giá nhanh, lạm phát cao và bội chi ngân sách ngày càng
tăng. Ngày nay, các nước thường sử dụng biện pháp thắt chặt chi tiêu, vay trong
nước hoặc nước ngoài để bù đắp thiếu hụt ngân sách thông qua tín dụng Nhà nước;
đây được coi như biện pháp tốt nhất để khắc phục bội chi ngân sách.
Đối với những nước có nền kinh tế đã phát triển, nguồn thu ngân sách dồi
dào, đã vượt quá nhu cầu chi thì lại thực hiện theo phương châm: chi quyết định
thu, thu bao nhiêu là do nhu cầu chi quyết định.
Mối quan hệ giữa tổng thu và tổng chi với tổng sản phẩm xã hội được thể
hiện thông qua tỷ lệ động viên vào NSNN trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay
tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Tổng thu NSNN càng lớn nếu GDP hay GNP và tỷ
lệ động viên càng cao. Tỷ lệ động viên vào NSNN ở mỗi nước trong từng thời kỳ
là không giống nhau. Tại các nước có nền kinh tế phát triển cao, tỷ lệ động viên
vào NSNN có thể lên tới trên 50%, tuy nhiên tại các nước kém phát triển thì tỉ lệ
này chỉ vào khoảng từ 10% – 25%.
Thứ hai, cơ cấu NSNN được xem xét trong các mối quan hệ bên trong với
các nội dung cơ bản của nó là thu và chi.
Thu NSNN là một số tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị
ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Phần lớn các
khoản thu NSNN đều mang tính chất cưỡng bức (bắt buộc), phần còn lại là các
nguồn thu khác của Nhà nước.
Thu NSNN được cấu thành bởi nhiều nội dung cụ thể khác nhau như thu từ
thuế, phí, lệ phí; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện
trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Trong đó, thuế là khoản thu
cơ bản và chủ yếu của NSNN.
Ở nước ta trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây,
nguồn thu từ thuế chưa được coi trọng nên kết quả thuế thường chỉ đóng góp dưới
50% trong tổng thu NSNN. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, chúng ta đã xác
định đúng vai trò của thuế và coi đây là nguồn thu chủ yếu của NSNN; các khoản

thu từ thuế đã chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu NSNN, góp phần làm
cho thu NSNN hàng năm tăng ổn định.

Trang
7


Chi NSNN bao gồm các khoản chi nhằm phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh quốc phòng, bảo đảm cho hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước,
chi trả nợ của Nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp
luật.
Cơ cấu chi NSNN là nội dung chủ yếu trong phần lý luận của đề tài nên sẽ
được trình bày cụ thể hơn tại mục 1.2 dưới đây.
1.1.3. Chức năng của NSNN
Bản chất của NSNN từ nhiều góc độ được thể hiện qua chức năng của nó,
do đó nghiên cứu chức năng của NSNN sẽ làm cho bản chất của nó được bộc lộ rõ
hơn.
Trước đây, các nhà kinh tế ở nước ta cho rằng TCNN nói chung và NSNN
nói riêng có hai chức năng là phân phối và giám đốc. Sau này đã có nhiều ý kiến
cho rằng phạm trù phân phối còn mang ý nghĩa rất chung chung, không thể hiện
đúng vị trí, chức năng của NSNN. Nhận định trên có phần đúng vì cho tới nay, khi
phân tích chức năng phân phối NSNN đa số chúng ta mới chỉ nhìn nhận nó ở ý
nghĩa số học của quá trình phân chia mà chưa chú ý đến ý nghĩa tổng hợp và bao
quát của nó.
Chức năng của NSNN bắt nguồn từ bản chất của NSNN, mà nguyên nhân
ra đời, tồn tại của NSNN lại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước. Một
Nhà nước muốn ra đời, tồn tại trước hết cần phải có các nguồn tài chính chi tiêu
cho bộ máy quản lý Nhà nước; chi phí cho cảnh sát và quân đội; các khoản chi
thực hiện các chức năng của Nhà nước như chi về văn hóa, giáo dục – đào tạo, y tế,
phúc lợi xã hội, chi đầu tư xây dựng cơ bản, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng,

đầu tư phát triển sản xuất …. Tất cả các nhu cầu chi tiêu tài chính này của Nhà
nước đều được đáp ứng bằng các nguồn thu từ thuế và các nguồn thu khác.
Như vậy, có thể thấy chức năng của NSNN gồm:
Thứ nhất, NSNN có chức năng huy động các nguồn tài chính và bảo đảm
các nhu cầu chi tiêu theo dự toán của NSNN.
Thứ hai, NSNN có chức năng thực hiện cân đối giữa các khoản thu và các
khoản chi bằng tiền của Nhà nước.
1.1.4. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường
Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở bản chất, chức năng và các
nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn. Nói một cách khác, vai trò của NSNN
chính là sự vận dụng các chức năng của nó vào hoạt động thực tiễn. Xuất phát từ

Trang
8


quan điểm trên, có thể thấy vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường hiện nay
như sau:
1.1.4.1. NSNN có vai trò khai thác các nguồn lực tài chính để đảm bảo
nguồn tài chính cho hoạt động của bộ máy Nhà nước và thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước.
Các nguồn lực tài chính mà NSNN cần khai thác hiệu quả bao gồm cả
những nguồn lực tài chính hữu hình lẫn các nguồn lực tài chính vô hình trong nền
kinh tế quốc dân.
Các nguồn lực tài chính hữu hình là những nguồn vốn bằng tiền hoặc đang
luân chuyển hoặc đang tích lũy cần khai thác có hiệu quả để đầu tư phát triển.
Trong đó, vốn đang luân chuyển gồm thuế, vốn lưu động, vốn cố định, vốn đang
luân chuyển trên thị trường tài chính của ngân hàng, các công ty tài chính, thị
trường chứng khoán. Vốn đang tích lũy gồm dự trữ quốc gia, dự trữ bắt buộc, tiền
tiết kiệm, các quỹ dự phòng, quỹ tích lũy của các doanh nghiệp, bảo hiểm phí của

các công ty bảo hiểm ….
Các nguồn lực tài chính vô hình là các nguồn tài chính đang ở dạng tiềm
tàng, khó nhận dạng. Nó tác động gián tiếp đến việc gia tăng nguồn lực tài chính
quốc gia một cách rất hiệu quả. Cụ thể, các nguồn lực tài chính vô hình như thương
hiệu, sở hữu trí tuệ, phần mềm tin học, kỹ năng lao động, khai thác các di tích lịch
sử, tận dụng thời cơ để đầu tư mạo hiểm, các chính sách đúng đắn và phù hợp,
năng lực và uy tín của các cá nhân, giáo dục và đào tạo ….
1.1.4.2. NSNN có vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phát triển theo nền kinh tế thị
trường, vai trò công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế của NSNN là hết sức quan
trọng. Nhà nước sử dụng NSNN để định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích
thích phát triển sản xuất, kinh doanh, chống độc quyền. Bằng công cụ thuế, giá
Nhà nước, trợ giá, tỷ giá hối đoái, dự trữ quốc gia, lãi suất tín dụng, chính sách tài
chính, Nhà nước có thể điều chỉnh được giá cả, thị trường một cách chủ động.
Thuế là công cụ điều tiết kinh tế đa diện và có hiệu quả cao vì nó là công cụ
cưỡng chế của mọi Nhà nước để hình thành cơ sở vật chất cho Nhà nước. Mặt
khác, thuế gắn với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, mà hoạt động sản xuất
kinh doanh lại là cốt lõi của hoạt động kinh tế. Vai trò quan trọng của thuế trong
điều tiết kinh tế vĩ mô thể hiện ở chỗ: thuế góp phần hiện thực hóa các định hướng
và chính sách kinh tế của Nhà nước; góp phần tổ chức lại cơ cấu kinh tế, phân công
lại lao động xã hội theo định hướng của Nhà nước; kích thích HĐH công nghệ, là

Trang
9


công cụ để bảo hộ sản xuất nội địa; nó hướng dẫn tiêu dùng, bảo đảm ổn định đời
sống, thực hiện công bằng xã hội cho các tầng lớp dân cư; nó là công cụ để can
thiệp vào cung cầu thị trường, kiểm soát lạm phát và ổn định giá cả; thuế kiểm tra
các hoạt động kinh tế về mặt số lượng và chất lượng.

Giá cả các hàng hóa do Nhà nước quy định cũng có vai trò quan trọng trong
điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Dựa theo nguyên lý trên từng mặt hàng cá biệt, giá cả
có thể tách rời giá trị; Nhà nước quy định giá một số mặt hàng quan trọng thiết yếu
thoát ly khỏi quan hệ cung cầu, hướng vào lợi ích quốc kế dân sinh nhằm ổn định
sản xuất và đời sống. Nhà nước quy định giá cả hàng hóa cao hơn giá trị khi cần
điều tiết lại thu nhập và thực hiện chuyển dịch tích lũy từ khu vực này sang khu
vực khác. Trường hợp cần ổn định sức mua của người dân, ổn định sản xuất, ổn
định tiền tệ thì Nhà nước quy định giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị.
Trợ giá là biện pháp Nhà nước mua hàng hóa của người sản xuất với giá có
lợi cho họ, mục đích là nhằm ổn định, phát triển sản xuất. Nhà nước bao tiêu sản
phẩm hàng hóa đối với những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề mới cần
khuyến khích để giúp tăng cường khả năng đứng vững, phát triển ổn định và nâng
cao sức cạnh tranh.
Tỷ giá hối đoái cũng là công cụ hữu hiệu để điều tiết kinh tế vĩ mô. Trên
thế giới có hai cơ chế hình thành tỷ giá là tỷ giá biến động trong một khung với
biên độ nhất định hay còn gọi là tỷ giá có sự quản lý của Nhà nước và tỷ giá thả
nổi do ngân hàng xác định linh hoạt. Ở VN, chúng ta thực hiện cơ chế tỷ giá thả
nổi có sự quản lý của Nhà nước, ngân hàng Nhà nước xác định và công bố tỷ giá
hối đoái của đồng VN. Thông qua chính sách tỷ giá hối đoái, Nhà nước có thể
khuyến khích nhập khẩu hay xuất khẩu trong từng giai đoạn.
Nhà nước sử dụng dự trữ quốc gia như một công cụ để bảo đảm an ninh
kinh tế. Dự trữ quốc gia có thể là ngoài tệ mạnh, vàng, đá quý và cả những hàng
hóa thiết yếu cho xã hội như lương thực, nguyên liệu, nhiên liệu …
Lãi suất tín dụng là công cụ để điều tiết lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả.
Trong nền kinh tế thị trường, công cụ lãi suất tín dụng được các Chính phủ sử dụng
khá phổ biến và hiệu quả. Với chính sách lãi suất tín dụng phù hợp, Chính phủ có
thể khuyến khích tích lũy hay tiêu dùng, thu hút nguồn vốn đầu tư từ trong nước và
ngoài nước.
1.1.4.3. NSNN cung cấp nguồn kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết
cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, để trên cơ sở

đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Trang
10


Thông qua NSNN, Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhằm bảo đảm
ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới cao hơn, điều hòa thị
trường hàng hóa và thị trường sức lao động giữa các vùng và các khu vực.
Sự tăng lên về vốn đầu tư làm cho nhu cầu chi tiêu tăng lên tác động đến
tổng cầu, làm tăng sản lượng hàng hóa, việc làm và kèm theo sự biến động tăng
giá. Đồng thời, tăng vốn đầu tư sẽ làm vốn sản xuất tăng lên, làm tăng năng lực sản
xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng tác động đến tổng cung bằng tăng
sản lượng và việc làm kéo theo mức giá giảm, tạo khả năng thu hút và sử dụng có
hiệu quả các nhân tố tài nguyên, lao động.
Bên cạnh đó, Nhà nước thông qua các chính sách thuế bảo đảm thực hiện
vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất, kinh doanh. Một chính
sách thuế có lợi sẽ thu hút được doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết,
ngược lại một chính sách thuế khắt khe sẽ giảm bớt luồng di chuyển vốn vào nơi
cần hạn chế tăng trưởng. Vì vậy, chính sách ngân sách phải gắn liền với chính sách
phát triển kinh tế - xã hội và nó phục vụ trực tiếp cho chính sách này.
1.1.4.4. NSNN có vai trò góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Hậu quả nặng nề của đất nước ta sau chiến tranh và những mặt trái của cơ
chế thị trường chỉ có thể sửa chữa và khắc phục bằng sự điều tiết của Nhà nước
thông qua các công cụ thuế, trợ cấp và chi tiêu ngân sách.
Thuế trở thành công cụ tài chính quan trọng để điều tiết và phân phối lại
một cách thỏa đáng những đối tượng có thu nhập cao để phân phối lại cho các đối
tượng thu nhập thấp, ngoài ra thuế còn đóng vai trò hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.
Thông qua các khoản chi và trợ cấp ngân sách, Nhà nước giải quyết những

vấn đề xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa, xóa đói giảm nghèo, trợ cấp cho các đối
tượng chính sách và chi cho các nhiệm vụ xã hội khác.


1.2. Cơ cấu chi NSNN
1.2.1. Khái niệm về cơ cấu chi NSNN
Chi NSNN là một chỉnh thể kinh tế - xã hội phản ánh một trong hai mặt
hoạt động chủ yếu của NSNN với nhiều nội dung chi cụ thể hợp thành một cơ cấu
nhất định.
Cơ cấu chi NSNN là chỉ trình tự và các quan hệ (tỷ lệ, tỷ trọng …) giữa các
nội dung chi NSNN trong từng khoảng thời gian, điều kiện và hoàn cảnh nhất định

Trang
11


nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước
trong từng thời kỳ.
1.2.2. Nội dung cơ cấu chi NSNN
Nội dung cơ cấu chi NSNN bao gồm: các yếu tố cấu thành chi NSNN và
trình tự, tỷ trọng của các nội dung chi trong cơ cấu chi NSNN.
1.2.2.1. Các yếu tố cấu thành chi NSNN
Các nội dung chi NSNN chính là các yếu tố cấu thành chi NSNN. Trong
đó, có những nội dung chi luôn luôn được duy trì ổn định trong suốt lịch sử ra đời
và phát triển của NSNN như chi duy trì bộ máy Nhà nước, chi an ninh quốc phòng;
tuy nhiên cũng có nội dung chi NSNN chỉ phát sinh và tồn tại trong một thời gian
nhất định, đó là những nội dung chi có tính chất xã hội như chi trợ cấp, hỗ trợ ….
Căn cứ vào những nguyên tắc khác nhau, có thể phân loại về chi NSNN
theo những cách khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chi NSNN chủ yếu:
a) Phân loại chi ngân sách theo tính chất phát sinh

Căn cứ vào tính chất phát sinh của các khoản chi ngân sách thì NSNN được
phân thành hai loại là chi thường xuyên và chi không thường xuyên.
Chi thường xuyên: là những khoản chi mang tính tương đối đều đặn về quy
mô, số lượng, không gian và thời gian. Những khoản chi này nhằm bảo đảm cho sự
duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước và chi về an ninh chính trị, trật tự xã hội.
Các khoản chi thường xuyên thường được sử dụng hết trong thời gian ngắn.
Quy mô của chi thường xuyên phụ thuộc vào các yếu tố như:
- Tổ chức và năng lực bộ máy quản lý Nhà nước.
- Vai trò và chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế - xã hội.
- Quy mô của NSNN với khả năng tích lũy và khả năng phát triển của nền
kinh tế.
- Chính sách chi tiêu của Nhà nước từng thời kỳ.
Theo Luật Ngân sách của VN được Quốc hội thông qua năm 2002, các
khoản chi thường xuyên NSNN bao gồm:
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa, thông
tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học và công nghệ, môi trường, các hoạt động
sự nghiệp khác;
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;

Trang
12


- Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội;
- Hoạt động của các cơ quan Nhà nước, Đảng Cộng sản VN và các tổ chức
chính trị - xã hội;
- Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
- Các chương trình quốc gia;
- Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội;
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;

- Tài trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp theo quy định của pháp luật;
- Chi trả lãi tiền vay của Chính phủ;
- Chi viện trợ;
- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Chi không thường xuyên: Là những khoản chi phát sinh không có tính chất
thường xuyên và phần lớn chúng phát sinh và được sử dụng trong thời gian dài.
Quy mô của chi không thường xuyên phụ thuộc vào quy mô của NSNN và
quy mô của chi thường xuyên.
Theo Luật Ngân sách năm 2002, chi không thường xuyên bao gồm các nội
dung:
- Chi đầu tư phát triển: Các khoản đầu tư xây dựng các công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn; đầu tư hỗ trợ cho các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ
phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của
Nhà nước; chi bổ sung dự trữ Nhà nước.
- Chi cho vay, hỗ trợ quỹ và tham gia góp vốn của Chính phủ;
- Chi trả nợ gốc các khoản tiền vay trong nước và vay nước ngoài của
Chính phủ.
- Các khoản chi không thường xuyên khác.
Cách phân loại chi ngân sách theo tính chất phát sinh có ưu điểm là giúp
công tác điều hành ngân sách có thể tổng hợp, khái quát các khoản chi phát sinh, từ
đó sắp xếp trật tự ưu tiên cho phù hợp. Nhược điểm là cách phân loại này chưa
giúp thấy rõ nội dung của từng khoản chi.
b) Phân loại chi ngân sách theo mục đích sử dụng cuối cùng

Trang
13



Căn cứ vào mục đích sử dụng cuối cùng của các khoản chi ngân sách thì
NSNN được phân thành hai loại là chi tích lũy và chi tiêu dùng.
Chi tích lũy: là các khoản chi NSNN dùng vào việc tái sản xuất mở rộng xã
hội, phát triển cơ sở vật chất của các lĩnh vực phi sản xuất và tăng thêm phần dự
trữ cho Chính phủ. Như vậy chi tích lũy không chỉ mang tính đầu tư phát triển sản
xuất mà còn bộ phận mang tính phi sản xuất.
Chi tích lũy không những chỉ mở rộng vốn sản xuất kinh doanh mà xét về
hình thái hiện vật, chi tích lũy còn được biểu hiện thành tái sản xuất mở rộng xã
hội của tài sản cố định, tư liệu sản xuất, nguồn lực dự trữ và nâng cao các điều kiện
vật chất cho quản lý Nhà nước và phát triển các lĩnh vực xã hội. Đây là yếu tố rất
quan trọng trong việc phát triển, tăng trưởng kinh tế và nâng cao cơ sở vật chất cho
quốc gia.
Chi tiêu dùng: là các khoản chi dùng để mua sắm tư liệu tiêu dùng nhằm
thỏa mãn nhu cầu con người. Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi
NSNN nhằm phục vụ cho nhu cầu trước mắt và hầu như được sử dụng hết sau khi
đã chi.
Nội dung của chi tiêu dùng bao gồm cả tiêu dùng có tính chất cá nhân (như
tiền lương, trợ cấp …) và tiêu dùng có tính chất xã hội để hòa nhập con người vào
cộng đồng xã hội.
Giữa chi tích lũy và chi tiêu dùng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cụ thể
như sau:
Trong điều kiện thu NSNN không thay đổi, nếu chi tiêu dùng tăng thì chi
tích lũy sẽ giảm và ngược lại.
Trong điều kiện thu NSNN tăng, chi tích lũy và chi tiêu dùng cũng sẽ tăng.
Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng của chúng có khác nhau theo mối tương quan nếu chi
tích lũy tăng nhiều thì chi tiêu dùng sẽ tăng ít và ngược lại.
Nếu xét về lâu dài, tăng chi tích lũy cũng chính là điều kiện để tăng chi tiêu
dùng trong tương lai. Chính vì vậy, mục tiêu của mỗi quốc gia trong điều hành
ngân sách là cố gắng tăng chi tích lũy trong cơ cấu chi NSNN trong khả năng có
thể.

Phân loại chi NSNN theo mục đích sử dụng cuối cùng có ưu điểm là có thể
thấy khá rõ nội dung kinh tế của các khoản chi. Tuy nhiên, hạn chế của cách phân
loại này là độ chính xác không cao do có những nội dung khó phân định được là
chi tích lũy hay chi tiêu dùng.
c) Phân loại chi NSNN theo tính chất cung cấp hàng hóa dịch vụ cho xã hội.

Trang
14


Theo tiêu chí này, chi NSNN được phân loại theo tính chất cung cấp hàng
hóa dịch vụ cá nhân và hàng hóa dịch vụ công cộng.
Hàng hóa dịch vụ cá nhân là những hàng hóa chủ yếu được cung cấp riêng
rẽ cho từng cá nhân và mang tính loại trừ cao.
Hàng hóa dịch vụ công cộng là những hàng hóa phục vụ cho nhiều người
cùng sử dụng và khó hoặc không thể loại trừ việc sử dụng chúng của một người
nào đó. Hàng hóa dịch vụ công cộng lại được phân loại thành hàng hóa dịch vụ
công cộng thuần túy và hàng hóa dịch vụ công cộng không thuần túy.
Hàng hóa dịch vụ công cộng thuần túy có đặc tính: không thể thực hiện
được định xuất sử dụng chúng, tức là không thể phân bổ theo khẩu phần để sử
dụng; không cần thiết việc định xuất sử dụng, tức là không cần thiết loại trừ bất cứ
người tiêu dùng nào vì tiêu dùng của một cá nhân không ảnh hưởng và làm giảm
tiêu dùng của người khác.
Hàng hóa dịch vụ công cộng không thuần túy là những loại hàng hóa dịch
vụ công cộng không có những đặc tính trên.
1.2.2.2. Trình tự và tỷ trọng của các nội dung chi trong cơ cấu chi NSNN
a) Trình tự sắp xếp của các nội dung chi trong cơ cấu chi NSNN
Trong cơ cấu chi NSNN, các nội dung chi được sắp xếp theo trình tự:
Trước hết là những nội dung chi mang tính chất bắt buộc để duy trì sự tồn tại và
hoạt động bình thường của bộ máy Nhà nước. Tiếp theo là những nội dung chi cho

việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội.
Vấn đề đặt ra trong công tác quản lý, điều hành ngân sách là phải xác định
thứ tự ưu tiên những nội chi cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đây là nhiệm vụ rất khó khăn vì các nội
dung chi trong cơ cấu chi NSNN có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Chúng ta hãy
xét mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên trong cơ cấu chi
NSNN:
Xem xét mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên mang
ý nghĩa quan trọng nhất trong việc xác định trình tự, vị trí các nội dung trong cơ
cấu chi NSNN. Trong điều kiện ở các quốc gia mà thu ngân sách còn chưa đủ đáp
ứng nhu cầu chi thì nhiệm vụ vừa phải đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy Nhà
nước, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, vừa phải tập trung nguồn lực đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội là bài toán nan giải.

Trang
15


Đối với VN, quan điểm hiện nay của Nhà nước ta là trong cơ cấu chi
NSNN, cần ưu tiên chi đầu tư phát triển hơn chi thường xuyên. Quan điểm này thể
hiện bằng các biện pháp cắt giảm chi thường xuyên để ưu tiên cho chi đầu tư. Nghị
quyết của Quốc hội nhiệm kỳ 1996 – 2000 cũng quy định tốc độ tăng chi thường
xuyên không được phép vượt quá tốc độ tăng chi đầu tư phát triển.
b) Tỷ trọng của các nội dung chi trong cơ cấu chi NSNN
Tỷ trọng của các nội dung chi giúp xác định rõ phạm vi, quy mô từng nội
dung chi NSNN; nó phản ánh được vai trò của Nhà nước trong thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, có thể nói đây là yếu tố
thể hiện rõ nét nhất cơ cấu chi NSNN.
Tỷ trọng của các nội dung chi trong cơ cấu chi NSNN không cố định mà

được thay đổi liên tục tùy theo thời kỳ, tùy thuộc quy mô ngân sách và nhu cầu chi
NSNN. Trong điều kiện của nước ta hiện nay nguồn thu còn chưa đáp ứng đủ nhu
cầu chi, việc xác định tỷ trọng hợp lý của các nội dung chi là một nhiệm vụ rất khó
khăn nhưng cũng rất cần thiết, mang ý nghĩa to lớn trong công tác điều hành và
quản lý ngân sách.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu chi NSNN
Để có những chính sách đúng đắn trong xác định cơ cấu chi ngân sách
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần phải nghiên cứu các nhân tố tác động và ảnh
hưởng tới cơ cấu chi ngân sách. Có rất nhiều yếu tố tác động đến cơ cấu chi
NSNN, trong đó có thể kể đến một số nhân tố có tầm ảnh hưởng chủ yếu đến cơ
cấu chi NSNN là:
1.2.3.1. Nhân tố chính trị
Nguồn gốc ra đời và quá trình phát triển của NSNN gắn liền với sự tồn tại
và vai trò của Nhà nước trong từng thời kỳ lịch sử, NSNN là do Nhà nước toàn
quyền quyết định. Nhà nước ngoài việc duy trì ngân sách để đảm bảo cho sự tồn tại
của mình, còn động viên động viên tất cả các thành viên của xã hội tham gia vào
phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ cho lợi ích chung của xã hội.
Tất cả các hình thức Nhà nước đều bao gồm chính thể, cấu trúc Nhà nước
và chế độ chính trị; trong đó, chế độ chính trị mang tính đặc trung cho mỗi loại
hình Nhà nước và giữ vai trò quan trọng nhất. Mỗi chế độ chính trị khác nhau thì
có những chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau; theo đó, cơ cấu chi NSNN
phụ thuộc rất nhiều vào hình thức tổ chức Nhà nước và các chức năng, nhiệm vụ
mà nó phải thực hiện. Do vậy NSNN nói chung và cơ cấu chi NSNN nói riêng chịu
ảnh hưởng trực tiếp bởi nhân tố chính trị trong từng giai đoạn.

Trang
16


1.2.3.2. Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội

Các nhân tố kinh tế - xã hội có tác động mạnh mẽ đến cơ cấu chi NSNN
trên hai phương diện là quy mô ngân sách và yêu cầu chi ngân sách.
Quy mô NSNN phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn thu do nền kinh tế tạo ra.
Mỗi quy mô ngân sách khác nhau sẽ có đường giới hạn ngân sách khác nhau và do
vậy, cơ cấu chi và nội dung chi NSNN cũng khác nhau.
Mỗi một nền kinh tế - xã hội khác nhau thì nhu cầu đảm bảo nguồn vốn từ
NSNN cũng rất khác nhau. Do đó, có thể nói nhóm nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh
hưởng đến cơ cấu chi ngân sách, trong đó các yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất
là con người và khoa học kỹ thuật.
1.2.3.3. Nhóm nhân tố các nguồn lực quốc gia
Một trong những vai trò quan trọng của NSNN là khai thác các nguồn lực
quốc gia một cách có hiệu quả và phân bổ chúng một cách hợp lý để phát triển
kinh tế - xã hội. Nguồn lực quốc gia bao gồm cả các nguồn lực kinh tế và các
nguồn lực phi kinh tế.
Nguồn lực kinh tế của một đất nước bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý và nguồn lực tài chính. Các quốc gia phải căn cứ vào nguồn lực kinh tế của
mình để quyết định quy mô NSNN. Mặt khác, cơ cấu chi NSNN cũng phải được
bố trí một cách hợp lý để khai thác các nguồn lực này một cách hiệu quả phục vụ
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn lực phi kinh tế chủ yếu bao gồm các nguồn lực phi vật chất như
trình độ dân trí, truyền thống văn hóa – xã hội của dân tộc, cơ chế quản lý điều
hành xã hội … Đối với tất cả các quốc gia, càng ngày người ta càng nhận thức
đúng vai trò quan trọng của việc phát huy nguồn lực phi kinh tế để phát triển; từ đó
việc đầu tư vào lĩnh vực nâng cao dân trí, phát huy tính chủ động sang tạo của các
thành viên trong xã hội, khơi dậy các truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp đang
trở thành những quốc sách của mỗi quốc gia, nhất là những nước đang phát triển.
Để đáp ứng yêu cầu trên, cơ cầu chi NSNN cũng phải được sắp xếp lại cho thỏa
đáng và phù hợp trong từng giai đoạn phát triển.
1.2.3.4. Nhân tố về nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi về hàng
hóa, dịch vụ công cộng

Vai trò của Nhà nước trong khu vực kinh tế công cộng ngày càng trở lên
quan trọng theo quá trình phát triển của nền kinh tế. Đối với các quốc gia phát
triển, Chi NSNN chủ yếu là để đầu tư cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng
cho đời sống kinh tế - xã hội.

Trang
17


Đối với VN, trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chúng ta
mới chỉ chủ yếu xác định tiêu thức phân bổ theo đối tượng hưởng thụ NSNN mà
chưa chú trọng đúng mức đến hiệu quả cuối cùng của chi NSNN, đó là thỏa mãn
nhu cầu đời sống kinh tế - xã hội về hàng hóa, dịch vụ công cộng. Ngày nay cùng
với tiến trình đổi mới, trong điều kiện các nguồn lực quốc gia còn giới hạn, cơ cấu
chi NSNN cũng phải được sắp xếp lại theo định hướng đáp ứng yêu cầu ngày càng
tăng của đời sống kinh tế - xã hội về nhu cầu hàng hóa, dịch vụ công cộng.
Như vậy, có thể nói nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi về hàng
hóa, dịch vụ công cộng có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu chi NSNN.
1.2.4. Tác động của cơ cấu chi NSNN với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
Một trong những vai trò quan trọng của NSNN là góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Cơ cấu kinh tế có thể được hiểu là tổng thể các yếu tố, các bộ phận hợp
thành với các vị trí, tỷ trọng tương ứng giữa các bộ phận và mối quan hệ qua lại
giữa các bộ phận trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế có thể là
cơ cấu ngành, cơ cấu các vùng kinh tế và cơ cấu giữa các thành phần kinh tế.
Vai trò quan trọng của ngân sách trong tác động đến cơ cấu chi NSNN thể
hiện qua việc Nhà nước định hướng, xác định tỷ trọng các nội dung chi ngân sách
một cách hợp lý. Tác động của cơ cấu chi NSNN với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH – HĐH được thể hiện trong từng lĩnh vực như sau:

1.2.4.1. Cơ cấu chi NSNN có vai trò tạo điều kiện cho cơ cấu giữa các
ngành kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH tức là xây dựng một
cơ cấu kinh tế hợp lý, tiên tiến và hiện đại. Nếu xét theo nghĩa rộng thì đó là việc
xây dựng mối quan hệ giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế. Nếu xét
theo nghĩa hẹp thì đó là mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, trong đó mối quan hệ
giữa công nghiệp với nông nghiệp và với dịch vụ là quan trọng nhất.
Thông qua chính sách điều hành chi ngân sách, Nhà nước có thể tập trung
các khoản chi ngân sách cho ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ trên
cơ sở định hướng: giá trị sản lượng của ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm ưu thế
về tăng tỷ lệ tương đối và tuyệt đối, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; giá trị sản

Trang
18


lượng của ngành nông nghiệp giảm tỷ lệ tương đối nhưng vẫn tăng lên tuyệt đối,
chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP.
Các khoản chi ngân sách cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH - HĐH chủ yếu là chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế, đầu tư hỗ trợ cho doanh nghiệp, trợ giá, cho vay … Tuy nhiên, để sử dụng
các khoản chi NSNN một cách hiệu quả nhất phải xác định Nhà nước cần đầu tư
vào lĩnh vực nào, khâu nào một cách hợp lý. Trong cơ chế thị trường hiện nay, vai
trò của Nhà nước chỉ nên định hướng, dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác tham gia.
1.2.4.2. Cơ cấu chi NSNN có vai trò hỗ trợ và tạo điều kiện cho các vùng
phát triển cân đối
Giữa các vùng trong một tỉnh hay giữa các vùng trên phạm vi của một quốc
gia, do điều kiện về tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau nên mức độ phát
triển về kinh tế - xã hội luôn có sự chênh lệch. Nhiệm vụ của Nhà nước là thông

qua điều chỉnh cơ cấu chi NSNN, ưu tiên đầu tư, hỗ trợ cho các cùng có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Các khoản chi ngân sách của Nhà
nước nếu bố trí hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách
từ những khu vực khác, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khai thác các
lợi thế, tiềm năng của mỗi vùng để phát triển kinh tế - xã hội.
Bản thân nền kinh tế thị trường với tính tự phát của nó luôn dẫn đến xu thế
phân hóa giàu - nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc, khoảng cách về trình độ
phát triển kinh tế - xã hội giữa thành thị với nông thôn, giữa đồng bằng với miền
núi ngày càng tăng. Chính vì vậy, vai trò định hướng của Nhà nước thông qua điều
hành cơ cấu chi NSNN có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho
các vùng phát triển cân đối.
1.2.4.4. Cơ cấu chi NSNN có vai trò bảo đảm cho kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng
định hướng

Trang
19


Trong công cuộc đổi mới, quan điểm của Đảng ta là khuyến khích và tạo
điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, tuy nhiên kinh tế Nhà
nước phải giữ vai trò chủ đạo.
Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước thể hiện ở chỗ các doanh
nghiệp Nhà nước phải nắm giữ những lĩnh vực quan trọng thiết yếu có tính quyết
định đến phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Để thực hiện
nhiệm vụ trên, cơ cấu chi NSNN được điều hành thông qua những khoản chi hỗ trợ
về vốn, trợ giá để giúp doanh nghiệp đứng vững và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bên cạnh việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước, chi NSNN cũng
nhằm vào mục tiêu hỗ trợ, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu tư
vào những ngành, những lĩnh vực, những vùng cần khuyến khích theo chiến lược

chung về phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.4.1. Bố trí hợp lý các nội dung trong cơ cấu chi NSNN sẽ góp phần thúc
đẩy đổi mới trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến hiện đại.
Tỷ trọng bố trí khoản chi đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp và chi cho
vay trong cơ cấu chi NSNN càng cao thì càng có tác dụng thúc đẩy các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến, hiện đại. Thông qua
đó, từng bước nâng cao trình độ, quy mô kỹ thuật của nền kinh tế theo hướng CNH
– HĐH, tăng năng suất lao động, tạo điều kiện cho tăng trưởng và phát triển.
Cũng phải thấy rằng, chúng ta xây dựng, phát triển nền kinh tế với một xuất
phát điểm thấp, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, nguồn vốn đầu tư luôn bị
thiếu hụt; do vậy, trong điều hành ngân sách cần xác định rõ đầu tư vốn vào những
ngành quan trọng, những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, những ngành hàng xuất
khẩu mũi nhọn theo định hướng từng thời kỳ.

Kết luận chương I:
Trong Chương I, những lý thuyết cơ bản về NSNN và cơ cấu chi NSNN
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được trình bày, hệ thống hóa lại nhằm làm rõ
các nội dung:

Trang
20


- Phân tích và làm rõ khái niệm, bản chất, cơ cấu của NSNN; từ đó nêu một
cách khái quát về chức năng và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường.
- Trình bày khái niệm, nội dung của cơ cấu chi NSNN, các nhân tố ảnh
hưởng đến cơ cấu chi NSNN. Trong đó, đi sâu vào nghiên cứu các nội dung cơ bản
của cơ cấu chi NSNN bao gồm nội dung chi, trình tự sắp xếp và tỷ trọng của các
nội dung chi NSNN. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu chi NSNN, tác
động của cơ cấu chi NSNN đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là cơ sở cho

việc phân tích hiện trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN tỉnh
Bình Thuận nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tỉnh theo hướng CNH – HĐH.










CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU CHI NSNN TẠI TỈNH BÌNH THUẬN
2.1. Vài nét về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý: Bình Thuận là một tỉnh nằm ven biển của cực Nam
Trung bộ, có mối liên hệ chặt chẽ với vùng Đông Nam bộ; phía Đông Bắc và Bắc
giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây giáp
tỉnh Đồng Nai, phía Tây Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, phía Đông và Đông
Nam giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 192 Km. Ngoài khơi tỉnh Bình Thuận
có đảo Phú Qúy cách thành phố Phan Thiết 120 Km.

Tỉnh Bình Thuận nằm giữa 2 thành phố lớn là thành phố Hồ Chí Minh và
thành phố Nha Trang, có quốc lộ 1A, đường sắt thống nhất Bắc Nam chạy qua nối
liền với các tỉnh phía Bắc và phía Nam của cả nước, có quốc lộ 28 nối liền thành

Trang
21


phố Phan Thiết với các tỉnh Nam Tây Nguyên và có quốc lộ 55 nối liền với tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
2.1.1.2. Địa hình: Địa hình tỉnh Bình Thuận tương đối hẹp, chiều ngang
kéo dài theo hướng Đông Bắc - Tây Nam được chia thành bốn dạng địa hình là đồi
cát, cồn cát ven biển; vùng đồng bằng phù sa; vùng đồi gò; vùng núi. Tổng diện tích
đất tự nhiên là 782.846 ha.
2.1.1.3. Khí hậu : Tỉnh Bình Thuận nằm trong khu vực có vùng khô hạn
nhất nước, nhiều gió, nhiều nắng, nhiệt độ trung bình khoảng 27,5
0
C; lượng mưa
trung bình 930 - 1.700 mm/năm.
2.1.1.4. Tài nguyên khoáng sản: Bình Thuận với 192 Km bờ biển, có các
cửa biển Phan Thiết, La Gi, Tuy Phong và đảo Phú Quý. Diện tích vùng lãnh hải là
52.000 km
2
, là một trong những vùng biển giàu nguồn lợi về các loại hải sản, có
nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp du lịch, khai thác khoáng sản.
Nguồn nước ngầm ít, bị nhiễm mặn và phèn, không đủ đáp ứng nhu cầu sản
xuất nông nghiệp. Nguồn thủy năng lớn với tổng trữ năng khoảng 450.000 Kw.
Khoáng sản của Bình Thuận bao gồm: nước khoáng với khả năng khai thác
300 triệu lít/năm; sa khoáng IlMevít với trữ lượng 1,08 triệu tấn; cát trắng thủy tinh
với trữ lượng 496 triệu m
3
cấp P
2
; cát kết vôi với trữ lượng 3,9 triệu m
3
cấp P
2
; đá

xây dựng với trữ lượng 75 triệu m
3
.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Tình hình xã hội
Cấp hành chính: Tỉnh Bình Thuận (cùng với tỉnh Ninh Thuận) trước đây là
tỉnh Thuận Hải, được tách ra từ năm 1992 hiện gồm có thành phố Phan Thiết và 8
huyện, trong đó có 1 huyện đảo là Phú Quý. Do địa hình tự nhiên vừa có núi, vừa
có biển nên Bình Thuận được thiên nhiên ưu đãi nhiều đặc sản riêng có, tuy nhiên
toàn tỉnh có đến 5 huyện được công nhận là huyện miền núi với những khó khăn
trong công tác quản lý xã hội và đầu tư phát triển kinh tế.
Dân số và nguồn nhân lực: Theo số liệu thống kê 2004, dân số của tỉnh
Bình Thuận là 1.140.429 người, trong đó dân số sống tại thành thị là 395.381
người (chiếm 34,67%), dân số sống tại nông thôn là 745.048 người (chiếm
65,33%). Toàn tỉnh có hơn 30 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 93%, còn lại
các dân tộc khác như Chăm, Hoa, Tày, Nùng .... Mật độ dân cư là 146 người/km
2
.
Tổng số người trong độ tuổi lao động của tỉnh là 652.990 người, chiếm
57,25% dân số; trong đó, số lao động có khả năng làm việc là 640.844 người, số
lao động trong độ tuổi lao động chưa có việc làm là 26.996 người.

Trang
22


Thu nhập bình quân trên đầu người của tỉnh Bình Thuận hiện nay khoảng
400 USD/người .
2.1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế của tỉnh 10 năm qua
Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000:

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã gặt hái được những thành
tựu to lớn, tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục ổn định, nền kinh tế
trong bối cảnh chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, thiên
tai nặng nề nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển
dịch đúng hướng. Nền kinh tế bước đầu có tích lũy nội bộ, cơ sở vật chất được tăng
cường, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết tốt hơn, đời sống nhân dân được cải
thiện.
Với vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hóa, kỹ thuật với các
tỉnh, thành phố trong vùng, với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng về đất đai,
rừng, biển, khoáng sản; tỉnh Bình Thuận có đầy đủ các điều kiện để đẩy mạnh quá
trình phân bố lại sản xuất và phân công lao động, trao đổi văn hóa, khoa học kỹ
thuật, tạo tiền đề phát triển và hội nhập nhanh vào khu vực.
Trong giai đoạn 1996 – 2000, cùng với cả nước công cuộc đổi mới kinh tế
tại tỉnh Bình Thuận bắt đầu được thực hiện và mang lại những kết quả ban đầu rất
khả quan. Tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm là 10,16%
(Trong đó: ngành Nông lâm thủy sản tăng bình quân 8,08%; ngành công nghiệp
xây dựng tăng bình quân 12,6%; khu vực dịch vụ tăng bình quân 11,95%. Trong
giai đoạn này cơ cấu kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tiến bộ,
tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp từ 49,9% giảm dần xuống còn 42,4%, tỷ trọng
ngành công nghiệp xây dựng tăng từ 20,5% lên 23%, tỷ trọng ngành dịch vụ tăng
từ 29,6% lên 34,6%.
Sản lượng lương thực và khai thác hải sản của Tỉnh đạt khá, đến năm 2000
sản lượng lương thực toàn tỉnh đạt mức 356.500 tấn (bình quân mỗi năm tăng
24.500 tấn), sản lượng khai thác hải sản năm 2000 đạt 128.000 tấn.
Bảng 2.1: GDP theo các nhóm ngành kinh tế năm 1996 – 2000
Đ.V tính: tỷ đồng
Ngành kinh tế 1995 1996 1997 1998 1999 2000
GDP – Giá 1994 1.337 1.509 1.689 1.839 1.961 2.171
Nông lâm, ngư nghiệp 689 759 836 875 925 1.007
Công nghiệp, xây dựng 265 309 346 385 415 481

Thương mại, dịch vụ 383 441 507 579 621 683

Trang
23


GDP – Giá thực tế 1.659 1.879 2.139 2.490 2.723 3.101
Nông lâm, ngư nghiệp 827 888 974 1.113 1190 1301
Công nghiệp, xây dựng 340 405 465 534 597 701
Thương mại, dịch vụ 492 586 700 843 936 1099
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Thuận).
Nhìn chung trong giai đoạn này, nền kinh tế tăng trưởng đạt yêu cầu so với
kế hoạch đề ra, cơ cấu kinh tế đã có chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng
ngành công nghiệp, dịch vụ nhưng còn chậm. Nền kinh tế chưa ổn định vững chắc,
chưa thoát khỏi tình trạng của nền sản xuất nhỏ, tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp
trong cơ cấu kinh tế còn chiếm cao so với cả nước và khu vực. Kết cấu hạ tầng còn
yếu kém và thấp xa so với yêu cầu phát triển. Đời sống của nhân dân, nhất là đồng
bào ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến vẫn còn
gặp nhiều khó khăn. Nguồn nhân lực tại chỗ mất cân đối về số lượng, chất lượng.
Trình độ chuyên môn, trình độ quản lý còn thiếu và yếu ở nhiều lĩnh vực. Tỷ lệ
thất nghiệp còn ở mức cao (năm 2000 là 6,17%).
Tài chính, tiền tệ còn mất cân đối và thiếu hụt, tích lũy từ nội bộ nền kinh
tế mới chỉ giải quyết mức tối thiểu nhu cầu chi thường xuyên. Thị trường tiêu thụ
sản phẩm không ổn định.
Giai đoạn từ năm 2001 đến nay:
Trong 5 năm 2001 – 2005, nền kinh tế của tỉnh Bình Thuận đã tăng trưởng
khá, chất lượng tăng trưởng một số ngành và lĩnh vực kinh tế - xã hội đã được cải
thiện so với thời gian trước đây.
Tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) bình quân tăng 12,05%, cao hơn so với
Nghị quyết của HĐND tỉnh đề ra là 12%.

Sản lượng lương thực và sản lượng khai thác hải sản tăng khá, năm 2004
tổng sản lượng lương thực đã đạt 428.000 tấn, tổng sản lượng khai thác hải sản đạt
140.000 tấn.
Xuất khẩu của tỉnh tăng bình quân hàng năm15,55%.
Tỉnh cũng đã triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách huy động các
nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển với kết quả đạt khá. Tổng vốn đầu tư
phát triển trên địa bàn trong 5 năm 2000 – 2005 ước đạt khoảng 10.500 tỷ đồng,
tăng 3,24 lần so với giai đoạn 1996 – 2000; trong đó nguồn vốn ngoài ngân sách
ước đạt 8.400 tỷ đồng
Bảng 2.2: GDP theo các nhóm ngành kinh tế năm 2001 – 2005

Trang
24


Đ.V tính: tỷ đồng
Ngành kinh tế 2000 2001 2002 2003 2004
GDP – Giá 1994 2.171 2.397 2.662 2.987 3.376
Nông lâm, ngư nghiệp 1.007 1.074 1.144 1.240 1.338
Công nghiệp, xây dựng 481 553 634 727 846
Thương mại, dịch vụ 683 770 884 1020 1.192
GDP – Giá thực tế 3.101 3.426 3.973 4.678 6.147
Nông lâm, ngư nghiệp 1301 1.376 1.558 1.707 2.102
Công nghiệp, xây dựng 701 801 945 1.209 1.707
Thương mại, dịch vụ 1099 1.249 1.470 1.762 2.338
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Thuận 2000 – 2004).
Đánh giá chung: trong giai đoạn này cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng, giá trị sản xuất tăng thêm ở các ngành khá cao. Về cơ bản, tỉnh đã xây dựng
được quy hoạch phát triển cho từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực. Cơ cấu vốn
đầu tư xã hội và cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng CNH

– HĐH.
Mặt tồn tại là nền kinh tế phát triển vẫn chưa vững chắc, chưa tạo được sự
bứt phá và chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của địa phương. Nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng chất lượng tăng trưởng thấp. Hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu. Địa phương chưa khai thác, phát huy thế mạnh
về kinh tế biển và dịch vụ du lịch.
2.1.2.3. Quá trình chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế những năm qua
Cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh Bình Thuận còn lạc hậu, tỷ trọng ngành
nông, lâm, ngư nghiệp còn rất lớn trong cơ cấu GDP. Tuy nhiên, trong những năm
qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có bước tích cực, đúng theo định hướng
CNH - HĐH (Xem bảng 2.3).
Bảng 2.3: Cơ cấu GDP theo các nhóm ngành kinh tế năm 2001–2005
ĐV tính: %
Ngành kinh tế 2000 2001 2002 2003 2004
Nông lâm, ngư nghiệp 41,96 39,50 39,50 36,49 34,19
Công nghiệp, xây dựng 22,61 23,38 24,25 25,84 27,78
Thương mại, dịch vụ 35,43 36,25 36,25 37,66 38,03
Tổng cộng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Thuận 2000 – 2004).

Trang
25

×