MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là hướng phát triển
tất yếu của mọi quốc gia nông nghiệp, đó là một đòi hỏi cấp bách trong quá
trình CNH, HĐH. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một
vấn đề cơ bản, cốt lõi của quá trình CNH, HĐH của bất cứ quốc gia nào không
muốn đứng vào danh sách các nước nghèo nhất trên thế giới. Bởi lẽ, từ một
nước lạc hậu, chậm phát triển đi lên sản xuất lớn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra tiền đề vật chất cho quá trình cơ cấu kinh tế
của toàn bộ nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cũng chính quá trình chuyển
dịch này sẽ thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển một cách toàn diện, phát huy
được thế mạnh của từng ngành, từng vùng kinh tế, rút ngắn được sự cách biệt
giữa các vùng kinh tế trong nước.
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là một nước đang phát triển, kinh tế
nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân.Trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp còn thấp, phương thức canh
tác lạc hậu, nghèo đói trong nông thôn còn phổ biến. Hiện nay vẫn còn tồn tại
cơ cấu kinh tế mang tính tự cấp, tự túc.
Do vậy, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng NDCM Lào đã tiếp tục lấy chủ
trương, chính sách xây dựng cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp và dịch vụ làm
nội dung trọng tâm trong đường lối phát triển, ngay từ đầu coi nông - lâm
nghiệp là cơ bản, lấy việc xây dựng công nghiệp là hàng đầu.
Xiêng Khoảng là một tỉnh nằm ở phía Bắc Lào. Tỉnh có vị trí chiến lược về
kinh tế, chính trị, quân sự của Lào, là khu vực có giao lưu thương mại và dịch
vụ trực tiếp với các nước và với các tỉnh miền Bắc Lào, có tiềm năng phát triển
nông - lâm nghiệp, thương mại, dịch vụ. Trong những năm qua tỉnh Xiêng
Khoảng đó chú trọng đầu tư nhiều trong việc phát triển toàn diện kinh tế - xã
hội nông thôn. Đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế những năm đổi mới vừa qua,
1
cùng sự vươn lên của cả nước, tỉnh Xiêng Khoảng đã có những chuyển biến
đáng khích lệ. Trên thực tế, những kết quả đạt được trong sản xuất nông nghiệp,
xây dựng và phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng trong thời
gian qua đã làm thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn, tạo ra động lực mới cho sự
phát triển toàn diện về kinh tế-xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, những kết quả đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn còn chậm đổi mới.
Xuất phát từ thực trạng hiện nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn nhằm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, từng bước gia
nhập vào nền kinh tế thị trường ở tỉnh Xiêng Khoảng trở nên cấp bách.
Vì vậy, em chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng CNH, HĐH ở tỉnh Xiêng khoảng nước CHDCND Lào từ nay
đến năm 2015” làm khoá luận tốt nghiệp Đại học, mong đóng góp một phần
nhỏ cùng với tỉnh giải quyết vấn đề thực tiễn mang tính cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tê nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn nói riêng là đề tài đối với các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học
Lào quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đã được
công bố trên các sách, báo, tạp chí khoa học chuyên ngành, đây chính là một cơ
sở thuận lợi để khoá luận nghiên cứu, phân tích chuyển cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ở tinh Xiêng Khoảng.
Tuy nhiên, ở mỗi đề tài thì góc độ nghiên cứu và phương pháp tiếp cận lại
khác nhau để các tác giả phân tích, luận giải vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Song đến nay vấn đề này ở tỉnh Xiêng Khoảng vẫn còn mới mẻ, chưa có công
trình đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống dưới góc độ của kinh tế
chính trị. Vì vậy, đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng CNH, HĐH ở tỉnh Xiêng khoảng nước CHDCND Lào từ nay đến
năm 2015” không trùng lắp và cần được nghiên cứu.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nhận thức lại những vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, khoá luận đi sâu phân tích
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Xiêng
Khoảng, tìm ra những thành tựu và hạn chế của quá trình này. Từ đó, đề xuất
những phương hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn nhằm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn
tỉnh Xiêng Khoảng trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Phân tích thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn tỉnh Xiêng khoảng từ 2006 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Xiêng Khoảng theo
hướng CNH, HĐH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu: Khoá luận tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn tỉnh Xiêng Khoảng
trên các mặt: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu các thành phần kinh tế trong
nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh từ 2006 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Xiêng Khoảng từ năm 2006 đến nay.
Tuy nhiên, do cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn rất đa dạng và phức
tạp nên để tập trung, khóa luận chủ yếu đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp với tư cách là cơ cấu chủ yếu trong cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Khoá luận thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng NDCM Lào
3
về phát triển nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá -
hiện đại hoá.
- Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu của toán học và kinh tế chính trị như: phương pháp thống kê;
phương pháp nghiên cứu điển hình; phương pháp điều tra; phương pháp phân
tích, xử lý số liệu và phân tích tổng hợp,
6. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khoá
luận gồm 3:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn.
Chương II: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Xiêng Khoảng từ năm 2006 đến nay.
Chương III: Phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh từ nay đến năm 2015.
CHƯƠNG I
4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN.
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn.
1.1.1. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động xã
hội. Các ngành, lĩnh vực được phân chia theo tính chất sản phẩm, chuyên môn
kỹ thuật. Khi các ngành, lĩnh vực kinh tế hình thành, nó đòi hỏi phải giải quyết
mối quan hệ giữa chúng với nhau. Mối quan hệ đó vừa thể hiện sự hợp tác, hỗ
trợ nhau, song cũng cạnh tranh với nhau để phát triển. Sự phân công và mối
quan hệ hợp tác trong hệ thống thống nhất là tiền đề cho quá trình hình thành cơ
cấu kinh tế.
Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C. Mác đã viết: “Cơ
cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình
phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất”. C. Mác cũng nhấn
mạnh: “ Khi phân tích cơ cấu kinh tế phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất
lượng và số lượng. Theo ông, cơ cấu là một sự phân chia về chất và một tỷ lệ về
số lượng của những quá trình sản xuất xã hội”.
Như vậy, cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế, với
tỷ lệ phân chia nhất định về lượng cũng như về chất và mối quan hệ tác động
qua lại giữa các bộ phận ấy.
Xác định cơ cấu kinh tế của một quốc gia (hay địa phương) đó là xác định
tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế với vị trí và tỷ lệ tương ứng của mỗi
bộ phận cũng như mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Việc xác định được tổng thể các bộ phận hợp cơ cấu kinh tế quốc dân và
mối tương tác giữa các bộ phận ấy ở một giai đoạn lịch sử trong quá trình phát
5
triển kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì khi nền kinh tế cũng như cơ
thể con người nó bao gồm nhiều bộ phận, yếu tố hợp thành. Mỗi bộ phận, yếu tố
có vị trí, vai trò khác nhau, có bộ phận đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, để phát
triển kinh tế, cần được xác định được tỷ lệ cân đối giữa các bộ phận trên cơ sở
khách quan chứ không được áp đặt một cách chủ quan, tuỳ tiện, bất chấp quy
luật khách quan, vì điều đó sẽ phá vỡ sự tương ứng giữa các bộ phận trong một
chỉnh thể và như thế không những không làm cho chỉnh thể đó phát triển mà nó
còn kìm hãm, thậm chí làm tan rã chỉnh thể đó. Song, việc xác định các bộ phận
và quan hệ tương tác giữa các bộ phận trong cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc
dân trong từng giai đoạn không phải là dễ dàng; việc xây dựng được các tỷ lệ
phù hợp giữa các bộ phận để có một cơ cấu kinh tế hợp lý là hết sức khó khăn,
phức tạp. Sự hợp lý của cơ cấu kinh tế được đánh giá qua thực tế phát triển kinh
tế - xã hội của một quốc gia, một vùng, một địa phương cụ thể. Xét về mặt định
tính, một cơ cấu kinh tế phù hợp phải đạt được 3 tiêu chí sau:
+ Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế phải phản ánh được trình độ của sự phát triển
kinh tế.
+ Thứ hai: Cơ cấu kinh tế cho phép khai thác sử dụng hiệu quả nguồn lực
kinh tế trong nước.
+Thứ ba: Cơ cấu kinh tế phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập với quốc tế
và khu vực nhằm tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững.
Ba tiêu chí trên tuy mang tính định tính nhưng có khả năng phản ánh đầy
đủ tính chất của cơ cấu kinh tế.
1.1.1.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Là tổng thể các bộ phận hợp thành nội bộ nông nghiệp và mối quan hệ
tương tác giữa các yếu tố kinh tế, các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất gắn với không gian và thời gian nhất định cả về mặt số lượng
và chất lượng.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có các loại hình: Cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh
thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu khoa học kỹ thuật công nghệ.
Ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm: nông nghiệp (trồng trọt,
chăn nuôi), lâm nghiệp, ngư nghiệp…vì vậy khi nói đến cơ cấu nông nghiệp là
nói đến cơ cấu cây trồng,vật nuôi…và việc bố trí chúng theo tỷ lệ nhất định,
6
phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Về lý luận cũng như thực tiễn,
trong quá trình phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một quốc gia, vùng,
địa phương luôn vận động, biến đổi chuyển dịch. Sự chuyển dịch ấy thể hiện ở
sự thay đổi chủng loại và tỷ lệ cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp trong lĩnh vực
nông lâm - ngư nghiệp để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh với
hiệu qủa cao nhằn cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng mang những nét đặc trưng của cơ cấu
kinh tế nói chung, nó vừa ổn định vừa biến đổi phù hợp với trình độ phát triển
của nền kinh tế nông nghiệp trong từng thời kỳ. Đồng thời, do ảnh hưởng của
các đặc điểm sản xuất nông nghiệp nên nó cũng có những nét đặc thù riêng:
-Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan và được
hình thành do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội.
- Thứ hai: Cơ cấu nông nghiệp không ổn định mà luôn biến đổi, chuyển
dịch phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, với sự phát triển của khoa học công
nghệ diễn ra trong từng thời kỳ.
- Thứ ba: cơ cấu kinh tế của một quốc gia, một địa phương luôn là cơ cấu
kinh tế “mở”, có mối quan hệ với bên ngoài. Điều đó, theo sự phân công lao
động xã hội quy định. Vậy khi xây dựng cơ cấu kinh tế phải đặt đó trong tổng
các mối quan hệ bên trong và bên ngoài để vừa phát huy, vừa khai thác các
nguồn lực bên trong, vừa huy động tận dụng được các nguồn lực từ bên ngoài.
* Cơ cấu kinh tế nông thôn:
Là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, các mối quan
hệ kinh tế trên địa bàn nông thôn, theo những tỷ lệ nhất định về lượng và liên
quan chặt chẽ về chất. Các bộ phận, các ngành, các lĩnh vực kinh tế, thành phần
kinh tế trong khu vực nông thôn tác động qua lại lẫn nhau qua những không
gian và thời gian nhất định, tạo nên hệ thống kinh tế nông thôn một bộ phận hợp
thành không thể tách rời và giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế nông thôn gồm nhiều nội dung rất đa dạng, phức tạp. Nó
bao gồm tất cả các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế quốc dân nhưng được thể
7
hiện ở địa bàn nông thôn như: cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế.
* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn:
Là tổng thể các yếu tố, bộ phận cấu thành của nông nghiệp, kinh tế nông
thôn và mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó trong quá trình phát triển của
nó.
Như vậy, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là tổng hòa các mối quan
hệ của các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông
thôn. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một cấu trúc phức hợp cảu nhiều
yếu tố cấu thành, bao gồm cả cơ cấu ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế
khác trên địa bàn nông thôn; cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế
trong nông thôn. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế trong nông thôn đóng vai trò
quan trọng nhất.
1.1.1.3. Chuyển dịnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình làm biến đổi các yếu tố cấu thành
cơ cấu kinh tế, bao gồm các yếu tố về mặt kỹ thuật và các yếu tố về mặt xã hội,
theo mục tiêu và phương hướng nhất định. Nói cách khác chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là quá trình thay đổi các quan hệ tỷ lệ về lượng và mối quan hệ tương tác
giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Là quá trình biến đổi từ cơ cấu kinh tế
bất hợp lý, lạc hậu thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ, có hiệu quả, đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối quan
hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế theo hướng nhất định, nhằm khai thác có
hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đòi hỏi khách quan của quá trình
phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ. Phát triển với
các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các
ngành, các vùng, các thành phần hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các bộ
phần đó, do sự xuất hiện và bến mất của một số ngành và tộc độ tăng trưởng
giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều. Vậy chuyển dịch cơ
8
cấu kinh tế thực chất là quá trình phân chia lại về lượng trong nền kinh tế, trong
đó các quan hệ giữa những các nhân tố hợp thành nền kinh tế được thay đổi dần
dần. Việc chhuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có, do đó
nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tái tạo cơ cấu lạc hậu chưa phù hợp,
hoàn thiện và bổ sung nhằm cải biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và
phù hợp với sự phát triển đã đạt được. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực
chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên ba mặt: số lượng, chất lượng và quan hệ tỷ lệ
giữa các bộ phận trong nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế khác với sự thay
đổi cơ cấu kinh tế, mỗi sự phat triển kinh tế đều có thể đưa đến sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, nhưng không phải sự phát triển kinh tế nào cũng dẫn đến thay
đổi cơ cấu kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi dần dần về quan
hệ tỷ lệ giữa các ngành, các bộ phận, thay đổi cơ cấu kinh tế là sự đảo lộn về tỷ
lệ giữa các bộ phận, nó đòi hỏi có sự phát triển kinh tế đến một trình độ nhất
định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH là quá trình làm thay
đổi nền kinh tế từ chỗ cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại. Đó là quá trình tăng thêm tốc độ
và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế gắn liền với đổi mới căn bản
về công nghiệp tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn làm thay đổi cơ cấu kinh
tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng lãnh thổ và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân theo hướng công nghệ, tiến bộ, không chỉ tuần tự qua các bước thủ
công đi lên cơ khí hoá, tự động hoá, mà còn phải phát triển để đi tắt, đón đầu
không chỉ áp dụng công nghệ tiên tiến mà còn biết tận dụng mà hiện hoá công
nghệ truyền thống.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa, nâng cao
hiệu quả sản xuất, và năng suất lao động ngày càng tương xứng với tiềm năng
về sinh thái cũng như khả năng áp dụng công nghệ mới. Trong quá trình đó sẽ
9
dẫn đến sự tích tụ về ruộng đất, tạo ra nhiều doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp
lớn, hình thành trang trại và các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp; Đồng
thời, giải phóng một bộ phận nông dân ra khỏi các hoạt động sản xuất nông
nghiệp truyền thống phân tán, quy mô nhỏ, tự túc, tự cấp để tìm kiếm thu nhập
cao hơn ở các lĩnh vực phi nông nghiệp, làm công ăn lương, tăng năng suất lao
động, góp phần tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống
nhân dân.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra trong nhiều lĩnh vực mà
trước tiên và quan trọng nhất là chuyển dịch cơ cấu về cây con, cơ cấu giữa cây
và con, giữa lao động trong trồng trọt và lao động trong chăn nuôi, bao gồm cả
nuôi trồng thủy sản, giữa lao động chế biến và dịch vụ…Đó cũng là quá trình
phá bỏ tình trạng độc canh trong nông nghiệp và khai thác được lợi thế tiềm
năng của từng vùng sinh thái. Một nền nông nghiệp có hiệu quả là nền nông
nghiệp mà năng suất cây trồng vật nuôi đạt cao nhất với chi phí thấp nhất.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là quá trình làm thay đổi cơ cấu
các yếu tố chính cấu thành nền kinh tế nông thôn bao gồm cơ cấu lao động, thu
nhập, thu nhập từ sản xuất kinh doanh, theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị
sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp: đó cũng là quá trình đưa công nghiệp hóa vào
nông thôn, giải quyết việc làm trong nông thôn.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng xác lập quan hệ
cân đối gắn bó giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ để khai thác có hiệu quả tiềm năng, nguồn lực của các thành phần
kinh tế trên địa bàn nông thôn là vấn đề quan ttrọng và cấp thiết nhằm thúc đẩy
nền kinh tế - xã hội nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình làm cho tổng thể các bộ phận các quan
hệ kinh tế ở địa bàn nông thôn thay đổi theo hướng tỷ trọng của các ngành
10
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên trong tổng giá
trị hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trên địa bàn nông thôn.
Tuy nhiên cần phải thấy rằng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng phát triển nhanh ngành công nghiệp, dịch vụ chỉ có thể
diễn ra một cách nhanh chóng, bền vững trên cơ sở cơ cấu kinh tế nông nghiệp
đã được chuyển dịch, giữa 3 ngành trên có sự tác động, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn
nhau gắn với sự phân công, tổ chức lại và sử dụng có hiệu qủa lao đông trên địa
bàn nông thôn. Từ đó nông nghiệp phát triển, đảm bảo sự ổn định kinh tế - xã
hội ở nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến…
Là một bộ phần hợp thành cơ cấu của nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn một mặt thể hiện những đặc điểm chung của cơ cấu
kinh tế, mặt khác chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có những
đặc điểm riêng:
- Sản xuất nông nghiệp gắn với điều kiện tự nhiên, do đó, cơ cấu kinh tế
ngành và nhất là cơ cấu kinh tế vùng trong nông nghiệp được hình thành theo
đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và điều kiện tự nhiên, xã hội.
- Do sản xuất nông nghiệp gắn chặt với tự nhiên, phụ thuộc vào cả những
tập quán canh tác cổ truyền, lâu đời, trình độ lực lượng sản xuất còn lạc hậu do
quá trình điện khí hoá, hiện đại hoá nông nghiệp thường diễn ra sau quá trình
hình thành công nghiệp, vì vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn chậm chạp, khó khăn.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có xu hướng chuyển
dịch và phát triển phụ thuộc vào quá trình phát triển của công nghiệp và sự phát
triển của cơ cấu kinh tế chung cả nước, trong đó bao gồm cả sự phụ thuộc vào
quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Những đặc điểm trên đây thể hiện tính phức tạp của sản xuất nông nghiệp,
đồng thời cũng là căn cứ khoa học để phân tích tìm ra giải pháp với những
chính sách cụ thể kết hợp cả khoa học - kỹ thuật, cả quản lý vĩ mô, quản lý vi
mô và thực hiện công tác giáo dục và chính trị, nâng cao dân trí bảo đảm cho
quá trình chuyển dịch, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn có hiệu quả.
11
Ở tỉnh Xiêng Khoảng hiện nay, kinh tế nông nghiệp, nông thôn vẫn là lĩnh
vực bao trùm. Tuy nhiên, tương quan giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế nông
thôn ở tỉnh Xiêng Khoảng sẽ có những chuyển biến quan trọng theo hướng đa
dạng hoá, sản xuất hàng hoá. Cơ cấu ngành kinh tế nông thôn của CHDCND
Lào nói chung và ở Xiêng Khoảng nói riêng hình thành và biến đổi là một tất
yếu do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội của
nông thôn cả nước cũng như trong tỉnh. Vấn đề đặt ra là nhận rõ sự tất yếu đó
để Nhà nước và chính quyền các cấp, các tổ chức kinh tế, “từ các tổ chức kinh
tế lớn cho tới các hộ nông thôn” có được định hướng cơ cấu kinh tế hợp lý, có
các bước đi thích hợp cho từng thời kỳ phát triển kinh tế nông thôn.
1.1.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp, nông thôn.
1.1.2.1. Vai trò của nông nghiệp, nông thôn đối với quá trình CNH,
HĐH.
Thực tiễn chứng minh rằng đã có không ít nước đi lên bằng xuất khẩu
nông sản như Australia, Arhentina, Canada…, một số nước thì phát triển nông
nghiệp là biện pháp chủ yếu để hình thành thị trường trong nước; cũng có nước
lấy phát triển nông nghiệp và công nghiệp nông thôn là biện pháp cơ bản giải
quyết phần tất yếu của đời sống kinh tế trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa…
thông qua thương mại quốc tế nước ta đổi hàng nông – lâm – thuỷ hải sản để lấy
ngoại tệ nhập máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho tái sản xuất mở rộng trong
nước.
Đối với một nước đi lên CNXH từ nông nghiệp lạc hậu thì vấn đề mấu
chốt là phát triển nền nông nghiệp hàng hóa để cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng sản xuất lớn XHCN. Tình hình thực tế của Lào cũng như bài học của một
số nước Đông Nam á càng khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của nông
nghiệp và kinh tế nông thôn đối với sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của
mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, đi lên từ nông nghiệp. Trước
mắt cũng như lâu dài, sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
12
hướng CNH, HĐH là cơ sở để đẩy mạnh phát triển kinh tế nước CHDCND Lào
theo định hướng XHCN.
Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn của CNH, HĐH. Thị
trường này ở Lào đa dạng và phong phú nhưng sức mua hiện nay còn thấp thì
tiềm năng có thể khai thác là rất lớn. Vì vậy, CNH, HĐH nền kinh tế muốn dựa
vào thị trường trong nước, thì trước hết phải là thị trường nông nghiệp, nông
thôn.
Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực quan trọng để thực
hiện CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ thì cũng là quá trình chuyển lao
động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ, theo xu hướng
lao động công nghiệp, dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, còn lao động nông
nghiệp giảm tuyệt đối và tương đối.
1.1.2.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở các nước đang phát
triển là một tất yếu xuất phát từ vị trí, vai trò của nông nghiệp - nông thôn trong
đời sống kinh tế - xã hội, từ thực trạng cơ cấu kinh tế nông thôn, từ yêu cầu của
công nghiệp hoá hiện đại hoá và yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Nông thôn Lào hiện nay có khoảng 80% dân cư sinh sống và chiếm gần
95% lực lượng lao động xã hội, là khu vực kinh tế lớn,là nơi cung cấp nguồn
nhân lực của cả nước. Vì vậy, việc xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý có ý
nghĩa quan trọng trong việc sử dụng lao động phù hợp để phát triển kinh tế của
đất nước nói chung và khu vực kinh tế nông thôn nói riêng. Lực lượng lao động
ở nông thôn nếu được đào tạo, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật,
được trang bị công cụ lao động thích hợp sẽ góp phần đáng kể nâng cao năng
suất lao động trong nông nghiệp nông thôn. Trên cơ sở đó cho phép giải phóng
một số lượng đáng kể lao động khỏi nông nghiệp và cung cấp cho các ngành
trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện phân công lao động trên địa bàn nông
thôn và trên phạm vi cả nước.
13
Từ một nền công nghiệp lạc hậu mang nặng tính chất tự cung tự cấp,
trước hết cơ cấu ngành nông nghiệp phải chuyển dịch theo hướng phát triển
nông nghiệp hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến. Do đó, quá trình chuyển
dịch CCKT nông nghiệp cần thực hiện các nội dung sau:
- Đối với cơ cấu kinh tế ngành
+ Xoá bỏ quảng canh, tăng diện tích thâm canh cây lương thực, bảo đảm sản
xuất lương thực đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cư dân trong nước.
+ Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ độc canh cây lương thực
sang cơ cấu đa canh bao gồm cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp và
cây ăn quả có giá trị kinh tế cao phục vụ đời sống và tạo nguồn nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến. Đây là một hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn hết sức quan trọng.
+ Phát triển mạnh chăn nuôi và thuỷ sản cũng là một vẫn đề quan trọng
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
+ Phát triển ngành lâm nghiệp, đảm bảo cân đối giữa khai thác, nuôi trồng
và bảo vệ rừng. Phát triển lâm nghiệp tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vừa tạo ra nguồn thu nhập
quốc dân,vừa góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Thúc đẩy sự hình thành và phát triển các ngành dịch vụ, các ngành
nghề nông nghiệp có quy mô nhỏ, thủ công nghiệp ở nông thôn; kinh tế nông
thôn có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ thuần nông sang nông - công - dịch vụ
nhằm nâng cao mức thu nhập của dân cư.
- Đối với cơ cấu vùng lãnh thổ.
Cơ cấu kinh tế vùng được phân chia theo lãnh thổ dựa trên cơ sở về điều
kiện tự nhiên, khi hậu, thời tiết, đất đai và phong tục tập quán của từng địa
phương. Về nguyên tắc cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ cũng được hình thành trên
cơ sở lực lượng sản xuất và cơ chế quản lý cũng như các điều kiện có liên quan
đến sự phát triển của Nhà nước. Lấy việc phát triển các vùng mũi chọn, có ưu
thế về điều kiện tự nhiên, kinh nghiệm sản xuất và thị trường tiêu thụ kết hợp
với các ngành khác để tận dụng lao động và đất đai, phát huy hiệu quả của sản
14
xuất kinh doanh. Thực hiện xây dựng các vùng chuyên canh cây lương thực,
thực phẩm,vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả.
Đồng thời, thực hiện bố trí lại lao động và dân cư trên các vùng lãnh thổ.
Lao động và đất đai là hai yếu tố cơ bản để sản xuất ra của cải vật chất cho xã
hội. Như W.Petty - nhà kinh tế học người Anh nói: “Lao động là cha còn đất đai
là mẹ của của cải vật chất”. Việc thực hiện bố trí, sắp xếp lại lao động và dân cư
giữa các vùng nhằm khai thác lực lượng lao động và giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động. Thực hiện quá trình phân công lao động tại chỗ và kế
hoạch tiếp nhận lao động từ nơi khác đến (kể cả trong và ngoài tỉnh). Đồng thời,
thực hiện phân công lại lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng
lao động trong trồng cây lương thực có tỷ trọng giảm tương đối và tuyệt đối; lao
động nông nghiệp khác có tỷ trọng tăng lên tương đối và tuyệt đối được xem là
khâu có ý nghĩa quyết định. Trong quá trình phân công lại lao động đòi hỏi sự
phát triển và mở mang đa dạng hóa các ngành nghề để tạo công ăn việc làm,
khôi phục và phát triển ngành nghề thủ công truyền thống, mở rộng các trung
tâm dạy nghề, dịch vụ việc làm, nhằm thu hút, nâng cao chiến lược lao động ở
mỗi vùng kinh tế.
- Đối với thành phần kinh tế trong nông thôn.
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và đa dạng hoá hình
thức sở hữu nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có. Thực sự coi kinh tế
hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ và sẽ được nâng dần về quy mô canh tác
thong qua quá trình tập trung sản xuất chuyển đổi các hợp tác xã theo mô hình
tập thể hoá, phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác trong tất cả các
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Khuyến khích phát triển đối với thành
phần kinh tế cá thể, tư nhân theo quy định của luật pháp. Mở rộng hình thức
trang trại, bảo đảm về mặt pháp lý sự bình đẳng giứa các thành phần kinh tế với
nhau.
- Chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá: là sự kết hợp giữa phương thức sản xuất truyền thống với
phương thức sản xuất hiện đại. Đó là sự áp dụng thành tựu của cách mạng sinh
học vào quá trình trồng,chăm sóc và bảo quản. Vì vậy, quá trình chuyển dịch cơ
15
cấu kinh tế nông nghiệp nói trên đồng thời phải gắn chặt với bảo vệ môi trường
tự nhiên,bảo đảm cho sự phát triển lâu dài của toàn xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là vấn đề có tính quy luật và là xu hướng tất yếu hiện
nay đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển. Tuy nhiên, do điều kiện cụ thể ở
mỗi quốc gia khác nhau nên hình thức biện pháp và bứơc đi khác nhau nhằm
hoàn thành sự nghiệp nông nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa nền kinh tế phát triển
và bền vững có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có
năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, đời sống vật chất và tình thần của
dân cư nông thôn được nâng cao, đưa nông thôn trở thành nông thôn giàu đẹp,
tiến bộ, văn minh, hiện đại.
Tóm lại: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình điều chỉnh
nền kinh tế nông thôn làm cho nó phong phú và sôi động,thích hợp với khu vực
nông thôn nhằm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ nét và phù hợp với các quy
luật kinh tế trong điều kiện hiện nay.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn.
Trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn thì việc chuyển dịch giữa các yếu tố nông - lâm - ngư - nghiệp được biểu
hiện bằng sự tương quan về số lượng và chất lượng của mối quan hệ giữa các
yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp
trong khoảng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu này phụ
thuộc và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố cả về chủ quan và khách quan.
Thứ nhất, về vị trí địa lý, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên.
Cơ cấu kinh tế của một nước, một vùng bao giờ cũng dựa trên những ưu
thế về địa lý và khí hậu. Vì vậy, ở những vị trí địa lý khác nhau, vùng khí hậu
khác nhau, việc xác định cơ cấu kinh tế cũng khác nhau. Nếu điều kiện tự nhiên
thuận lợi, sẽ trở thành yếu tố đầu vào miễn phí để tạo ra những sản phẩm với chi
phí thấp nhất và chất lượng cao nhất.
16
Do đó, vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên là những nhân tố mang tính khách
quan quan trọng để thiết lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, phát huy thế
mạnh của từng địa phương; phù hợp với xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Thứ hai, về trình độ khoa học và công nghệ.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ tới quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá. Bởi nó đã mở ra một
triển vọng to lớn trong việc áp dụng vào sản xuất canh tác, tạo ra bước đột phá
về giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng đồng thời tạo ra sự phát
triển mạnh mẽ của các ngành chế biến, bảo quản các sản phẩm nông sản với giá
trị xuất khẩu cao trên thị trường; làm thay đổi vị trí của các ngành trong nền
kinh tế quốc dân, làm thay đổi cơ cấu, yếu tố đầu vào của quá trình lao động sản
xuất.
Thứ ba, về người lao động.
Con người là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành cơ cấu
kinh tế. Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan song quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, phù hợp hay không phù hợp lại do sự tác
động mang tính chủ quan của con nguời. Điều này bắt nguồn từ trình độ học
vấn, sự tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ; quá trình phân
công lao động thế nào sẽ có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh
hay chậm.
Mặt khác, lực lượng lao động cũng chịu ảnh hưởng bởi yếu tố xã hội,
điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán và truyền thống của cộng đồng. Tất cả
các yếu tố đó đều có sự đan xen, tác động trên cả hai mặt là vừa thúc đẩy, vừa
kìm hãm đến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Trong quy luật chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, đối với chúng ta nhân tố con người vừa có những thuận lợi, vừa có
những khó khăn, trở ngại. Do khu vực nông nghiệp, nông thôn là nơi tập trung
phần lớn lực lượng lao động nhưng trình độ học vấn còn thấp, trình độ kĩ thuật,
17
chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, về cơ cấu lao động theo
độ tuổi là trẻ, có khả năng tiếp thu, nhạy bén trước cái mới, luôn cần cù, sáng
tạo và năng động trước các yếu tố mới. Vì vậy, để thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới, đòi hỏi cần khắc
phục những mặt hạn chế và phát huy thế mạnh của lực lượng lao động nông
thôn .
Thứ tư, về đường lối chính sách kinh tế.
Xác định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là nội dung
trọng tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Đảng và
Nhà nước CHDCND Lào đã và đang có những hệ thống chính sách tích cực
khuyến khích phát triển sản xuất, tháo gỡ khó khăn cả về cơ chế, chính sách,
khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngày càng thể hiện rõ sự phối hợp
chặt chẽ giữa các xí nghiệp tư nhân, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần
kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh phát triển. Nhà nước CHDCND Lào
khuyến khích nhập công nghệ tiên tiến, tự chế tạo công nghệ trong nước và thực
hiện trợ cấp thông qua chương trình kinh tế, dự án đầu tư cho nông nghiệp,
nông thôn.
Tóm lại: việc xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hợp lý là
bước ngoặt quan trọng trong quá trình chuyển đối từ nền kinh tế mang tính tự
cung, tự cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá thúc đẩy quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và đồng thời đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân
các dân tộc ở nông thôn.
1.2. Yêu cầu và xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn.
1.2.1. Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đối với tỉnh Xiêng Khoảng nói riêng và nước CHDCND Lào nói chung,
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm tăng tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành
18
công nghiệp, xây dựng ( gọi chung là công nghiệp ) và thương mại – dịch vụ,
đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp ( gọi chung là nông nghiệp ).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo sự ổn
định tạo sự cân đối trong phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng ngày
càng cao của xã hội. Đồng thời phải gắn chặt với thị trường và từng bước
chuyển đổi phải phù hợp với các quy luật khách quan của kinh tế thị trường.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải được thực hiện
trong một tổng thể chiến lược phát triển kinh tế – xã hội lâu dài của đất nước và
phù hợp với xu thế chung của thế giới đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nhằm khai thác triệt để tiềm lực kinh tế, tài nguyên, lao động
kỹ thuật có trong nước, ngành, vùng, địa phương nhanh chóng thích ứng với
nhu cầu hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế, đồng thời phải kết hợp hài hoà
giữa truyền thống và hiện đại
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải gắn mục tiêu
xoá đói giảm ngèo, thực hiện công bằng xã hội, giải quyết tốt việc làm trong
nông nghiệp, nông thôn và gắn với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hóa nông
thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo điều
kiện tốt nhất để thực hiện nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
1.2.2. Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất
hàng hóa để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Đẩy mạnh
chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm chuyển nhanh nền nông nghiệp tự cung, tự
cấp sang nền nông nghiệp hàng hóa. Bởi nền nông nghiệp hàng hóa đòi hỏi phải
có khối lượng hàng hóa đủ lớn và chất lượng hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị
trường. Muốn như vậy phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phải tăng cơ cấu
những cây trồng đang có thị trường và những cây trồng triển vọng có thị trường
đồng thời phải hình thành vùng chuyên canh sản xuất, đầu tư KHCN để nâng
19
cao năng suất, chất lượng giảm giá thành thì nông sản mới có sức cạnh tranh,
mới trở thành hàng hóa.
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa sẽ phát
sinh nhiều yêu cầu mới như thâm canh chiều sâu, tăng vụ, ứng dụng công nghệ
mới …Do đó đòi hỏi phải tăng cường quản lý Nhà nước trên lĩnh vực nông
nghiệp nói chung và chuyển đổi cơ cấu cây trồng nói riêng. Quá trình chuyển
đổi cơ cấu cây trồng cũng sẽ là tiền đề mở mang phát triển ngành nghề như chăn
nuôi, thủy sản, làng nghề thủ công truyền thống, công nghiệp chế biến nông sản.
Bởi vì, chuyển đổi cơ cấu cây trồng sẽ tăng thu nhập cho các hộ nông dân, từ đó
tăng sức mua của thị trường hàng hóa trong khu vực nông thôn, tạo điều kiện
cho thương nghiệp dịch vụ phát triển, góp phần cơ cấu lại lao động trong nông
thôn.
Tóm lại, trong một nền kinh tế mở, chỉ có gắn với thị trường, gắn với
xuất khẩu thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới nhanh chóng vượt qua ngưỡng tự
cấp, tự túc, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, chuyển từ sản xuất độc canh
sang chuyên canh và đa canh, từ chất lượng thấp sang chất lượng cao, hiệu quả
thấp sang hiệu quả cao. Hình thành cơ cấu các ngành sản xuất, các vùng sản
xuất nông nghiệp một cách hợp lý, thiết thực và hiệu quả.
Trong thời gian tới, một xu hướng sẽ diễn ra là giảm dần tỷ trọng nông
nghiệp (theo nghĩa hẹp) và tăng tỷ trọng ngành lâm nghiệp và thủy sản; bảo
đảm sự phát triển cân đối, hài hòa và khai thác tốt hơn tiềm năng của mỗi ngành
nông - lâm - ngư nghiệp. Ngoài ra, có những xu hướng chuyển dịch trong nội bộ
ngành nông nghiệp như tỷ lệ ngành trồng trọt giảm dần và tỷ lệ ngành chăn nuôi
sẽ tăng lên. Trong bản thân ngành trồng trọt thì tỷ trọng cây lương thực (cả giá
trị sản lượng và diện tích gieo trồng) sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng cơ cấu cây
công nghiệp, cây ăn quả sẽ tăng lên, theo xu hướng này sẽ tăng hàm lượng giá
trị trên một đơn vị sản phẩm, nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp.
Sản xuất ở nông thôn sẽ chuyển dịch theo hướng từ thuần nông sang cơ
cấu nông nghiệp - công nghiệp và dịch vụ; đưa kỹ thuật và công nghệ hiện đại
20
vào nông nghiệp, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, thực hiện sự phân
công lại lao động trong nông thôn, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn.
Chỉ có phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn chúng ta mới nhanh
chóng thực hiện được CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; mới làm cho bộ
mặt nông thôn nhanh chóng thay đổi, cuộc sống người dân nông thôn không còn
cách biệt lớn so với người dân thành thị. Như vậy, CNH, HĐH là điều kiện cần
thiết thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn và
ngược lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn vừa là
mục tiêu của CNH, HĐH vừa là động lực thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn.
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
của một số địa phương trong và ngoài nước
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu khách
quan trong quá trình vận động phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, và đã
được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Do những điều kiện tự nhiên, xã hội
ở mỗi quốc gia có sự khác nhau, nên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ở mỗi nước cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên, đó chỉ là sự
khác nhau về biện pháp, bước đi và thời gian cũng như điểm xuất phát, còn về
bản chất thì phải tuân theo những nguyên tắc và những vấn đề có tính quy luật.
Vì vậy, để có những quyết định chính xác về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của quốc gia cần phải nghiên cứu kinh nghiệm của một số nhất là những nước
láng giềng có điều kiện tài nguyên, khí hậu, thời đất đai tương đối khác nhau -
trước hết và chủ yếu là Việt Nam.
1.3.1. Kinh nghiệm của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh
Hà Tĩnh Việt Nam.
Hà Tĩnh là tỉnh miền Trung của Việt Nam, nằm giáp ranh với Lào. Vì vậy,
Hà Tĩnh có nhiều điều kiện tương đồng với Lào, đặc biệt là Xiêng Khoảng.
Trong những năm vừa qua, nhờ sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ và các cấp, các
ban ngành của tỉnh nên công tác phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn được
21
chú trọng và đạt được nhiều kết quả đáng kể. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
trung bình 10%/ năm giai đoạn 2005 – 2010, trong đó: khu vực công nghiệp -
xây dựng tăng 16,9%, thương mại dịch vụ tăng 10,1%; khu vực nông - lâm -
ngư nghiệp tăng 3,6%. Những thành tựu đó cũng chính là kết quả của việc thực
hiện kiên trì chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng CNH, HĐH. Đây sẽ là kinh nghiệm quá báu cho Xiêng Khoảng của Lào
học tập trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Cụ
thể:
Một là, phải coi trọng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn trong đó đặc biệt chú ý đổi mới cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ. Trong cơ
cấu cây trồng giảm diện tích cây lương thực tăng diện tích cây công nghiệp, cây
ăn trái và cây lâm nghiệp.
Hai là, để chuyện dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả cần phải đẩy mạnh sản
xuất hàng hoá. Phải chuyển nhanh nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá.
Ba là, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả cần phải dựa trên cơ sở
các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng, phải phát huy cao độ những lợi
thế của vùng so với cả nước và so với vùng khác.
Bốn là, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông, điện, thuỷ
lợi. Từ ba nhân tố tiền đề trên đảm bảo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng tiến bộ.
Năm là, cần phải hoàn thiện dần hệ thống chính sách tác động tạo môi
trường và điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sáu là, khuyến khích các hộ nông dân, hợp tác xã, nông lâm trường quốc
doanh, các doanh trại ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ nhằm
tạo ra sản phẩm hàng hoá đủ chất lượng xuất khẩu.
Bảy là, đa dạng hoá các hình thức sản xuất, kinh doanh nông thôn, cần coi
trọng mô hình kinh tế hộ và và kinh tế trang trại. Trên cơ sở phát triển kinh tế
hộ, kinh tế trang trại mà thúc đẩy sự hình thành các hợp tác xã.
1.3.2. Kinh nghiệm của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh SaVăn Na Khệt Lào.
22
Tỉnh Sa Văn Na Khệt là một tỉnh thuộc phía Tây Trung của CHDCND
Lào (với diện tích 1.852.600 héc ta là 18.410 km
2
). Đây là một tỉnh miền núi
của Lào, điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi nhưng đã rất thành công trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của tỉnh Sa Văn Na Khệt có thể đúc kết thành những bài học kinh nghiệm quý
báu như:
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo
định hướng XHCN. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần phải đảm bảo định hướng XHCN. Thị trường là người hướng
dẫn các đơn vị lựa chọn lĩnh vực và phương án kinh doanh hiệu quả nhưng phải
có sự quản lý của nhà nước; phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng thành
phần kinh tế phải giữ vai trò chủ đạo.
Hai là, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu cơ bản chi phối quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, vì hiệu quả kinh tế - xã
hội phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội,
liên quan đến sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
phát triển kinh tế theo chiều sâu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, giải quyết
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân nó được giải quyết hài hoà trong quan
hệ kinh tế và xã hội.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH mà trước hết là
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phải có bước đi thích hợp
cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với tình hình đất nước và
quốc tế; đồng thời phải kiên định mục tiêu phát triển bền vững đi đôi với đảm
bảo công bằng và phúc lợi cho con người. Phải nhanh chóng ứng dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất, đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nước phát
triển, vượt qua những nguy cơ và thách thức, đưa tỉnh Xa Văn Na Khệt trở
23
thành một tỉnh công nghiệp, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác với tỉnh
khác và nước ngoài.
Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
CNH, HĐH phải gắn với quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là hình thái kinh tế phản ánh thành tựu văn minh đã đạt
được của nhân loại, phản ánh mối quan hệ về sự phát triển của lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất thông qua mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, là điểm căn
bản giúp ta phân biệt sự khác nhau của công nghiệp hoá trong cơ chế cũ trước
đây với công cuộc CNH, HĐH ngày nay.
Năm là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải đặt
trong sự gắn bó tác động qua lại lẫn nhau giữa cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh
thổ, cơ cấu giữa nông thôn và đô thị, giữa các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế
mở trong và ngoài nước Điều này bắt nguồn từ yêu cầu phát triển ngày càng
tăng của các ngành dịch vụ và khai thác lợi thế so sánh giữa các vùng; chủ động
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác dần
dần trở thành nền tảng của chế độ xã hội mới. Mở rộng hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài
nước. áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, tạo sự gắn bó
hữu cơ nhằm đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải
quyết tốt các vấn đề xã hội.
Và cuối cùng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng hội nhập quốc tế nhưng phải được tiến hành một cách chủ động, có lộ
trình và bước đi thích hợp, đảm bảo khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và giữ
vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
24
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH XIÊNG KHOẢNG TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NAY .
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Xiêng Khoảng.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
*Vị trí địa lý.
Tỉnh Xiêng Khoảng là một tỉnh miền núi và cao nguyên nằm ở Đông Bắc
của đất nước Lào,có diện tích tự nhiên 16.850 km
2
với độ cao trung bình từ
5000 – 2.820 mét so với mực nước biển, trong đó tỉnh có độ cao 1.000 mét.
25