Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Kiểm toán căn bản Rủi Ro kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.95 KB, 14 trang )

RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
1

KIỂM TOÁN CĂN BẢN
ĐỀ TÀI: RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
THỰC HIỆN: NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 PHÒNG D3

1. KHÁI NIỆM RỦI RO KIỂM TOÁN
Rủi ro kiểm toán là rủi ro (khả năng) mà KTV đưa ra ý kiến nhận xét
không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu.
Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu (gồm rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện. Việc đánh giá rủi ro được thực hiện
dựa trên các thủ tục kiểm toán để thu thập thông tin cần thiết phục vụ mục đích
đánh giá rủi ro và dựa vào bằng chứng thu thập trong suốt quá trình kiểm toán.
Việc đánh giá rủi ro gắn với xét đoán chuyên môn nhiều hơn là đo lường chính
xác.
Do đó, trong thực tiễn, khi kiểm toán, KTV không phải lúc nào cũng đưa ra
một báo cáo kiểm toán đúng đắn. Trong kiểm toán luôn chứa đựng những rủi ro
tiềm ẩn không thể lường trước. Đế thận trọng và giảm mức rủi ro kiểm toán đến
mức có thể chấp nhận được KTV thường mở rộng phạm vi kiểm toán và áp dụng
thêm các thủ tục kiểm toán so với kế hoạch (hay dự kiến ban đầu) của KTV.
Rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được là khả năng trong BCTC đã được
kiểm toán còn chứa đựng những sai phạm mà những sai phạm này có thể chấp
nhận được (sai sót có thể bỏ qua) chưa đến mức độ là những sai sót trọng yếu.

2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH RỦI RO KIỂM TOÁN
2.1. Rủi ro có sai sót trọng yếu:
Rủi ro có sai sót trọng yếu có thể tồn tại ở hai cấp độ:
(1) Cấp độ tổng thể báo cáo tài chính.
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
2



(2) Cấp độ cơ sở dẫn liệu của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin
thuyết minh.

- Rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ tổng thể báo cáo tài chính là những rủi ro có
sai sót trọng yếu có ảnh hưởng lan tỏa đối với tổng thể báo cáo tài chính và có thể
ảnh hưởng tiềm tàng tới nhiều cơ sở dẫn liệu.
Việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu giúp kiểm toán
viên xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thực hiện
tiếp theo nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Bằng chứng này
cho phép kiểm toán viên đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính ở mức độ rủi ro kiểm
toán thấp có thể chấp nhận được. Kiểm toán viên có thể sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau để đạt được mục tiêu đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu.
Ví dụ: Để làm cho rủi ro phát hiện ở mức độ có thể chấp nhận được, kiểm toán
viên có thể sử dụng một mô hình toán học để thể hiện mối liên hệ giữa các thành
phần của rủi ro kiểm toán. Một kiểm toán viên khác lại thấy mô hình đó là hữu ích
khi lập kế hoạch về các thủ tục kiểm toán.

- Rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu bao gồm hai bộ phận:
+ Rủi ro tiềm tàng.
+ Rủi ro kiểm soát.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là rủi ro của đơn vị được kiểm toán và tồn
tại một cách độc lập đối với cuộc kiểm toán báo cáo tài chính.




RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
3


2.1.1. Rủi ro tiềm tàng
2.1.1.1. Khái niệm:
Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong
báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính
gộp, cho dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Trách nhiệm KTV: Khi lập chương trình kiểm toán, KTV phải xác định cụ thể
mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ
sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định được thì kiểm toán viên phải giả định
rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi
ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các
nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên các BCTC hoặc các nghiệp vụ, các
khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi ro tiềm năng cao.

2.1.1.2. Cơ sở đánh giá rủi ro tiềm tàng:
Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đoán chuyên môn của mình để đánh
giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:
* Trên phương diện báo cáo tài chính:
- Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi
thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
- Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế
toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ.
- Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là
những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo
tài chính không trung thực;
- Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn
vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
4

- Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: các biến động

về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay
đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
* Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
- Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có
những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo cáo tài chính có nhiều ước tính
kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
- Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế, như:
Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau ghi
nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá TSCĐ, ;
- Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi
tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài ;
- Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến
của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp ;
- Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm
kết thúc niên độ;
- Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
2.1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng:
- Bản chất kinh doanh của khách hàng: như công việc sản xuất kinh
doanh, các loại sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra được cung cấp
cho thị trường, các yếu tố có tác động của ngành nghề, môi trường kinh tế, địa
điểm hoạt động, cơ cấu vốn, tính chất thời vụ, sự biến động của thị trường mua và
bán…
Ví dụ: Đơn vị kinh doanh là Ngân hàng A , khách hàng B của đơn vị A vay tiền
kinh doanh bất động sản, trong thời kì thị trường bất động sản đóng băng, khách
hàng B ko bán được hàng => rủi ro ko thu hồi đước khoản cho vay.
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
5

- Bản chất của các bộ phận, khoản mục được kiểm toán, như: các khoản mục
khác nhau trên BCTC thì khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu sẽ khác

nhau, như khoản mục hàng tồn kho có khả năng chứa đựng những sai phạm trọng
yếu nhiều hơn là khoản mục tiền mặt vì hàng tồn kho phải thông qua nhiều khâu
tính toán, đánh giá, tính nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho, phương
pháp lập dự phòng giảm giá…
Ví dụ: Siêu thị Big C buôn bán rất nhiều các mặt hàng sản phẩm với số lượng lớn
và liên tục nhập xuất hàng trong kỳ kinh doanh => rất dễ xảy ra rủi ro trong tính
toán, đánh giá hàng tồn kho, nhập xuất trong kỳ.
- Bản chất hệ thống kế toán và thông tin trong đơn vị như mức độ, tính chất phức
tạp, phạm vi và tính hiệu quả của hệ thống điện toán hay của các phương tiện, thiết
bị thông tin tính toán áp dụng trong doanh nghiệp.
Ví dụ: Doanh nghiệp kinh doanh lưu trữ thông tin mọi hoạt động trên máy tính
=> rủi ro bị mất cắp thông tin, lỗi thông tin do máy móc hỏng hóc











RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
6

2.1.1.4. Quy trình tự đánh giá rủi ro tiềm năng:




Công ty A Công ty B Công ty C








Khách hàng A Khách hàng B Khách hàng C

2.1.1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu rủi ro tiềm tàng:
Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Mức rủi ro tiềm tàng ở mỗi doanh
nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác
định về khối lượng, quy mô, phạm vi công việc kiểm toán cần thực hiện. Đây sẽ là
căn cứ để KTV dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và các phương tiện cần thiết
khác cho một cuộc kiểm toán. Khi phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng ở một doanh
nghiệp mà KTV kiểm toán đòi hỏi KTV phải có một sự hiểu biết sâu sắc, toàn
diện và đầy đủ về thực trạng hoạt động của doanh nghiệp và các yếu tố tác động
TỔNG CÔNG TY
Toàn bộ BCTC
Khoản phải thu
Phải thu từ bán lẻ
Phải thu từ bán buôn khó đòi
Dự phòng phải thu khó đòi
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
7

đến rủi ro tiềm tàng, cũng như đòi hỏi KTV phải có một sự xét đoán nghề nghiệp

với những kinh nghiệp khá tốt mới có thể có được một kết quả sát thực.

2.1.2. Rủi ro kiểm soát.
2.1.2.1. Khái niệm
Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, đối với cơ sở
dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh mà
kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa
chữa kịp thời
2.1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng
- Tính chất mới mẻ và phức tạp của các laoij giao dịch.
- Khối lượng và cường độ của giao dịch nhiều hay ít, mạnh hay yếu
- Số lượng và chất lượng của hệ thống nhân lực tham gia kiểm soát trong doanh
nghiệp
- Tính hiệu lực, hợp lí, hiệu quả của các thủ tục kiểm soát và trình tự kiểm soát
trong doanh nghiệp.
- Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của các thủ tục kiểm soát và trình tự
kiểm soát trong doanh nghiệp.
- Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ như việc
sắp xếp phân công đúng người đúng việc, việc bố trí sử dụng một cách tối ưu
các phương tiện, thiết bị kết hợp với con người trong quá trình kiểm soát.

2.1.2.3. Đặc điểm rủi ro kiểm soát.
- Kiểm toán viên không tạo ra rủi ro kiểm soát và cũng không kiểm soát được
chúng. Họ chỉ có thể đánh giá hhệ thống kiểm soát của đơn vị và từ đó đưa ra
mức rủi ro kiểm soát dự kiến.
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
8

- Rủi ro kiểm soát phải được xây dựng cho từng bộ phận và có thể khác nhau đối
với các tài khoản khác nhau. Ví dụ như: Rủi ro kiểm soát ở bộ phận hàng tồn

kho sẽ lớn hơn rủi ro kiểm soát đối với các khoản phải thu.Cách thức đánh giá
2.1.2.4. Cách thức đánh giá.
Ta có các bước tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát như sau:
Bước 1: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc định giá hiệu quả hệ thống
kiểm soát nội bộ đơn vị trong việc ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai
sót trọng yếu. Rủi ro kiểm soát thường không hoàn được loại trừ do sự hạn chế
tiềm tàng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Dựa trên sự hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ,
KTV và công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát cho từng cơ
dở dẫn liệu với từng số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.

Bước 2: Lưu giữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát.
- Kiểm toán viên phải ghi chép, lưu giữ trong hồ sơ kiểm toán
- KTV có quyền lựa chọn kỹ thuật khác nhau để lưu trữ thông tin liên quan hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ

Bước 3: Thử nghiệm kiểm soát bao gồm
- Kiểm tra chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế để thu được bằng chứng kiểm
toán về hoạt động hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
VD kiểm tra các chứng từ liên quan đến chi phiếu chi tiền có được phê duyệt
đầy đủ hay không.
- Phỏng vấn, quan sát thực tế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm soát của
những người thực thi công việc kiểm soát nội bộ xem có để lại bằng chứng
kiểm soát hay không.
- Kiểm tra lại việc thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ VD: kiểm tra lại bảng cân
đối tiền gửi của đơn vị với ngân hàng, xem xét lại biên lai kiểm kê quỹ, hàng
tồn kho,…
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
9


Bước 4: Đánh giá cuối cùng về rủi ro kiểm soát.
Trước khi rút ra kết luận kiểm toán, KTV phải dựa vào kết quả các thử
nghiệm cơ bản và những bằng chứng kiểm toán khác để khẳng định lại quá trình
đánh giá của mình về rủi ro kiểm soát.

2.2. Rủi ro phát hiện
2.2.1. Khái niệm
Rủi ro phát hiện là rủi ro mà trong quá trình kiểm toán, các thủ tục mà kiểm
toán viên thực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới mức thấp có thể
chấp nhận được nhưng vẫn không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu khi xét
riêng lẻ hoặc tổng hợp lại.

2.2.2. Nhân tố ảnh hưởng
- Phạm vi kiểm toán: Nếu phạm vi kiểm toán càng rộng thì khả năng phát hiện ra
gian lận, sai sót tăng lên, rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
- Phương pháp kiểm toán: Nếu phương pháp kiểm toán càng khoa học, thích hợp
và hiệu quả thì khả năng phát hiện các gian lận, sai sót tăng lên tức là các gian
lận, sai sót không phát hiện được sẽ giảm xuống, có nghĩa là rủi ro phát hiện
giảm và ngược lại.
- Trình độ, kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp của KTV: KTV có
trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm và khả năng xét đoán tốt thì dễ
phát hiện được nhiều gian lận, sai sót và do đó rủi ro phát hiện giảm và ngược
lại.
2.2.3. Đặc điểm rủi ro phát hiện
- Rủi ro phát hiện liên qua đến nội dung, lịch trình, phạm vi các thủ tục được
KTV xác định để giảm rủi ro kiểm toán xuống mức độ thấp có thể chấp nhận
được.
- Rủi ro phát hiên thể hiện tính hiệu quả của các thủ tục kiểm toán và việc thực
hiện của KTV. (VAS 200, A43)
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3

10

- Với 1 mức rủi ro kiểm toán xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện được chấp
nhận ở mối quan hệ trái chiều với rủi ro có sai sót trọng yếu được đánh giá ở
cấp độ cơ sở dữ liệu.

2.2.4. Cách thức đánh giá
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV có thể xác định được mức rủi
ro phát hiện có thể chấp nhận được (rủi ro phát hiện mong muốn), đây là mức rủi
ro mà không ảnh hưởng tới việc ra quyết định của KTV dựa trên mức độ rủi ro
mong muốn được xác đinh cùng với đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát.

Theo mô hình Rủi ro kiểm toán: DR = AR/(IR*CR)

Giả định rằng, KTV mong muốn đạt được 1 mức rủi ro kiểm toán thấp nhất
và mức rủi ro kiểm toán đạt được có thể bằng hoặc thấp hơn mức rủi ro kiểm toán
mong muốn thì mức rủi ro kiểm toán mong muốn có thể được thay thế cho mức
rủi ro kiểm toán đạt được nhằm xác định mức độ của rủi ro phát hiện có thể chấp
nhận được, vì khi đó rủi ro phát hiện sẽ được xác định ở mức cao nhất.
Tuy nhiên thì việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát không chỉ
được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, các loại rủi ro này có thể
được KTV đánh giá tăng lên hay giảm đi trong suốt quá trình kiểm toán vì sự hiểu
biết về hoạt động kinh doanh của khách hàng, về hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ thay
đổi trong quá trình kiểm toán. Ví dụ những sai sót được phát hiện trong thử
nghiệm cơ bản có thể buộc KTV phải xem xét lại đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm
soát. Và do vậy, KTV cũng phải điều chỉnh lại mức độ rủi ro kiểm toán mong
muốn.



RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
11

3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH RỦI RO KIỂM TOÁN
Rủi ro kiểm toán do 2 bộ phận cấu thành là: rủi ro có sai sót trọng yếu (bao
gồm rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện, giữa chúng có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là hai loại rủi ro vẫn luôn tồn tại trong
hoạt động và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tồn tại trong bản
chất của các khoản mục, nghiệp vụ kinh tế. KTV không tạo ra và cũng không thể
kiểm soát được chúng. KTV chỉ có thể thông qua thu thập bằng chứng kiểm toán
tại đơn vị khách hàng và bằng kinh nghiệm của mình để đánh giá mức độ của
chúng.
Ngược lại, KTV có thể kiểm soát và điều chỉnh mức độ rủi ro phát hiện
thông qua việc lập kế hoạch kiểm toán phù hợp, định hướng, giám sát và kiểm tra
chặt chẽ, điều chỉnh nội dung, thời gian, phạm vi và thực hiện có hiệu quả các thủ
tục kiểm toán.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát quyết định đến khối lượng, quy mô,
phạm vi và chi phí kiểm toán. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì
KTV phải dự kiến rủi ro phát hiện là thấp. Có nghĩa là, trong trường hợp này,
KTV phải làm nhiều công việc kiểm toán với quy mô, chi phí kiểm toán lớn.
Mức độ rủi ro phát hiện luôn có quan hệ ngược chiều với rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát. Mối quan hệ giữa 3 bộ phận này được thể hiện thông qua 2
dạng mô hình định tính và định lượng.




RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
12


3.1. Mô hình định tính
Dựa trên cơ sở đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát,
mức rủi ro phát hiện được xác định theo ma trận sau:


Đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng (IR)
Cao
Trung bình
Thấp
Đánh giá của
KTV về rủi ro
kiểm soát
(CR)
Cao
Thấp nhất
Thấp
Trung bình
Trung bình
Thấp
Trung bình
Cao
Thấp
Trung bình
Cao
Cao nhất

Trong đó:
- Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành 3 mức: cao
trung bình và thấp.

- Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
- Loại rủi ro phát hiện được chia thành 5 mức: cao nhất, cao, trung bình, thấp, thấp
nhất.
Ma trận minh hoạ về mối quan hệ giữa các loại RR do KTV dự kiến thường
được thực hiện ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, khi thực hành kiểm toán, nếu KTV có bằng chứng để điều chỉnh lại RR tiềm
tàng và RR kiểm soát thì RR phát hiện cũng được KTV điều chỉnh lại.
Theo chuẩn mực kiểm toán số 200 (A42): Với một mức rủi ro kiểm toán
xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện được chấp nhận có mối quan hệ trái chiều
với rủi ro có sai sót trọng yếu được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu. Ví dụ, nếu
kiểm toán viên xác định là rủi ro có sai sót trọng yếu ở mức độ càng cao thì rủi ro
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
13

phát hiện có thể chấp nhận ở mức càng thấp, và càng cần các bằng chứng kiểm
toán có tính thuyết phục cao hơn.
 Mức độ rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát.
Ví dụ: Trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được KTV đánh giá là cao và mức dộ
rủi ro kiểm soát được KTV đánh giá là thấp thì mức độ rủi ro phát hiện có thể
đánh giá là trung bình nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể
chấp nhận được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro tiềm tàng là thấp và rủi ro kiểm
soát được đánh giá là trung bình thì có thể xác định mức độ rủi ro phát hiện là
cao nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán là thấp có thể chấp nhận được.
3.2. Phương trình rủi ro kiểm toán (Định lượng)
Về mặt định lượng, mối quan hệ giữa các loại rủi ro được thể hiện qua công thức
sau: AR = IR*CR*DR
Trong đó, AR: rủi ro kiểm toán
IR: rủi ro tiềm tàng
CR: rủi ro kiểm soát

DR: rủi ro phát hiện.
Theo chuẩn mực kiểm toán 200 (A40): Các chuẩn mực kiểm toán thường
không hướng dẫn riêng về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát mà thường hướng
dẫn sự đánh giá kết hợp về “rủi ro có sai sót trọng yếu”. Tuy nhiên, kiểm toán viên
có thể đánh giá riêng hoặc đánh giá kết hợp cả rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát,
tùy theo kỹ thuật hoặc phương pháp luận kiểm toán và các phương pháp thực hành
kiểm toán mà kiểm toán viên lựa chọn. Việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu có
thể được thể hiện bằng các thuật ngữ có tính định lượng như tỷ lệ phần trăm, hoặc
các thuật ngữ phi định lượng. Trong mọi trường hợp, sự cần thiết phải thực hiện
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN – NHÓM 8 – CA 3 THỨ 4 D3
14

đánh giá rủi ro một cách thích hợp còn quan trọng hơn so với việc sử dụng phương
pháp nào để đánh giá rủi ro.
Tuy được biểu thị bằng công thức nhưng cần phải lưu ý rằng đây không
phải là công thức thuần tuý về mặt toán học mà là mô hình để trợ giúp KTV trong
việc phán đoán và xác định mức độ sai sót có thể chấp nhận được để làm cơ sở
thiết kế các thủ tục kiểm toán. Việc đánh giá RR kiểm toán (bao gồm cả đánh giá
RR tiềm tàng, RR kiểm soát, RR phát hiện) có thể được thay đổi trong quá trình
thực hiện kiểm toán. VD: Khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, KTV phải thay
đổi kế hoạch thực hiện thử nghiệm cơ bản cho phù hợp với RR tiềm tàng và RR
kiểm soát đã được KTV điều chỉnh lại).


HẾT

CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 8:
1. Vũ Tuyên Hoàng (Nhóm trưởng)
2. Phạm Tiến Dũng
3. Đinh Xuân Minh

4. Nguyễn Thị Thương
5. Vũ Thị Thanh Huyền
6. Bùi Thị Ngọc

×