1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯
DƯƠNG THỊ LỆ HUYỀN
HUY ĐỘNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006
2
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng, đồ thò
Lời mở đầu
Chương 1 – LÝ LUẬN CHUNG VỀ KTTN VÀ HUY ĐỘNG VỐN NƯỚC
NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KHU VỰC KTTN
1.1 Tổng quan về khu vực KTTN
1.1.1 Khái niệm về KTTN
1.1.2 Các hình thức của KTTN
1.1.3 Tính tất yếu phát triển khu vực KTTN trong nền kinh tế thò trường
1.2 Huy động vốn nước ngoài đối với phát triển khu vực KTTN
1.2.1 Các hình thức huy động vốn nước ngoài cho phát triển khu vực KTTN
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn nước ngoài cho KV KTTN
1.3 Tác động của vốn nước ngoài đối với phát triển KTTN
1.4 Sự cần thiết phải nâng cao khả năng thu hút vốn nước ngoài đối với sự
phát triển khu vực KTTN
Chương 2 – THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT
TRIỂN KTTN TẠI VIỆT NAM
2.1 Khái quát thực trạng hoạt động của khu vực KTTN tại Việt Nam
2.1.1 Tình hình hoạt động của khu vực KTTN tại Việt Nam thời gian qua
2.1.2 Những thành tựu đạt được của khu vực KTTN tại Việt Nam thời gian qua
2.1.2.1 Đóng góp vào tăng trưởng GDP và chuyển dòch cơ cấu kinh tế
2.1.2.2 Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển
2.1.2.3 Đóng góp to lớn cho ngân sách
2.1.2.4 Tạo việc làm cho người lao động
3
2.1.2.5 Phát triển kinh tế đối ngoại
2.1.2.6 Quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất
2.1.3 Những hạn chế chủ yếu của khu vực KTTN tại Việt Nam thời gian qua
2.2 Thực trạng huy động vốn nước ngoài cho phát triển khu vực KTTN tại
Việt Nam thời gian qua
2.2.1 Thực trạng huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2.2 Thực trạng huy động vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
2.2.2.1 Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
2.2.2.2 Huy động vốn đầu tư gián tiếp qua thò trường tài chính (FPI)
2.2.2.3 Thu hút kiều hối
2.3 Đánh giá thực trạng huy động vốn nước ngoài cho phát triển khu vực
KTTN tại Việt Nam thời gian qua
2.3.1 Ưu điểm
2.3.2 Hạn chế
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế
Chương 3 – CÁC BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN HUY ĐỘNG VỐN NƯỚC
NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KTTN TẠI VIỆT NAM
3.1 Đònh hướng phát triển khu vực KTTN tại Việt Nam đến năm 2010
3.2 Các biện pháp hoàn thiện huy động vốn nước ngoài cho phát triển
KTTN tại Việt Nam
3.2.1 Các giải pháp vó mô
3.2.2 Các giải pháp vi mô
3.2.2.1 Các giải pháp thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.2.2.2 Các giải pháp thu hút và sử dụng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
3.2.3 Các giải pháp hỗ trợ
Kết luận
Tài liệu tham khảo
4
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
KTTN : Kinh tế tư nhân
KTNN : Kinh tế nhà nước
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
DN : Doanh nghiệp
DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XHCN : Xã hội chủ nghóa
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FPT : Đầu tư gián tiếp nước ngoài qua thò trường tài chính
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức
BOT : Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao
BTO : Xây dựng – Chuyển giao - Kinh doanh
BT : Xây dựng – Chuyển giao
WB : Ngân hàng thế giới
ADB : Ngân hàng phát triển Châu Á
IMF : Q tiền tệ quốc tế
IFDA : Q quốc tế về phát triển nông nghiệp của Liên hiệp quốc
NGO : Tổ chức phi Chính phủ
CG : Nhóm tư vấn các nhà tài trợ
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
5
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng
Bảng 1: GDP trong nước phân theo thành phần kinh tế.......................................32
Bảng 2: Giá trò sản xuất công nghiệp cả nước.....................................................33
Bảng 3: Số DN hoạt động sản xuất kinh doanh có đến 31/12 .............................34
Bảng 4: Nguồn vốn của DN có đến 31/12 ...........................................................36
Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn DN có đến 31/12.......................................................36
Bảng 6: Thu ngân sách trên đòa bàn TP.HCM.....................................................38
Bảng 7: Số lao động trong DN có đến 31/12........................................................38
Bảng 8: Cơ cấu lao động trong DN có đến 31/12 ................................................39
Bảng 9: FDI theo ngành 1988-2005-chỉ tính các dự án còn hiệu lực...................49
Bảng 10: FDI theo hình thức đầu tư 1988-2005-chỉ tính các dự án còn hiệu lực..50
Bảng 11: FDI theo nước 1988-2005-chỉ tính các dự án còn hiệu lực.....................51
Bảng 12: FDI theo đòa phương 1988-2005-chỉ tính các dự án còn hiệu lực...........52
Bảng 13: Cam kết và thực hiện ODA thời kỳ 1993-2005......................................54
Bảng 14: Danh sách các Q đầu tư nước ngoài trong làn sóng đầu tư thứ nhất ..61
Bảng 15: Các Q đang hoạt động tại Việt Nam tính đến tháng 6/2006 ...............62
Biểu đồ
Biểu số 1: Số lượng các DN thuộc khu vực KTTN đăng ký giai đoạn 1991-
2005 ..................................................................................................29
Biểu đồ 2: So sánh số DN đăng ký hai giai đoạn: 1991 - 1999 và 2000 - 2005 ...29
Biểu số 3: Tăng trưởng GDP cả nước...................................................................32
Biểu số 4: Cơ cấu DN có đến 31/12/2005............................................................35
Biểu số 5: Cơ cấu DN khu vực KTTN có đến 31/12/2006...................................35
Biểu số 6: Tăng trưởng DN ..................................................................................35
Biểu số 7: Tăng trưởng nguồn vốn DN ................................................................37
Biểu đồ 8: Cơ cấu lao động có đến 31/12/2005 ...................................................39
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Để tiến hành nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần huy động
tối đa các thành phần kinh tế tham gia, trong đó có thành phần KTTN là một tất
yếu khách quan và đây là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được trong
nền kinh tế nước ta cũng như các nước trên thế giới. Phát triển KTTN góp phần
giải phóng mọi lực lượng sản xuất, huy động khai thác các tiềm lực dồi dào về
vốn, kinh nghiệm quản lý, ngành nghề truyền thống…….thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, phát triển đất nước.
Những nỗ lực của khu vực KTTN trong thời gian qua ở nước ta đã và đang
góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lượng lực sản xuất
phát triển, thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình trưởng thành,
KTTN đứng trước nhiều khó khăn và thách thức, cần có những giải pháp đồng
bộ tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, khai thác tối ưu tiềm năng của khu vực
này cho phát triển kinh tế quốc gia.
Trong đó, huy động và sử dụng vốn nước ngoài, một nguồn vốn có ưu thế
cho đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và doanh
nghiệp Việt Nam trên thò trường quốc tế, đang là khó khăn lớn nhất đối với khu
vực KTTN Việt Nam, do những bất cập từ cơ chế chính sách và khả năng tiếp
cận vốn từ khu vực KTTN. Vì lẽ đó, vần đề huy động vốn nước ngoài cho phát
triển KTTN đang trở thành vấn đề mà nhiều người và xã hội quan tâm trong giai
đoạn hiện nay.
Với mong muốn tìm hiểu để góp phần giúp các nhà hoạch đònh chính sách,
các cơ quan quản lý nhà nươc, các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước, các
doanh nghiệp có sự quan tâm, hiểu rõ hơn về một khu vực kinh tế quan trọng đối
7
với kinh tế thò trường, học viên mạnh dạn chọn đề tài “ Huy động vốn nước
ngoài cho sự phát triển khu vực KTTN tại Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Mục đích của luận văn
Luận văn này nhằm đến các mục đích sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu lý luận chung về các loại hình kinh tế thuộc khu vực
KTTN và các lý luận cơ bản về vốn nước ngoài. Từ đó, thấy được sự
cần thiết phải nâng cao khả năng thu hút vốn nước ngoài đối với sự
phát triển khu vực KTTN.
Thứ hai: Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển KTTN ở Việt Nam và khả
năng huy động vốn nước ngoài của khu vực KTTN trong thời gian
qua. Thấy được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế trong việc huy động vốn nước ngoài của khu vực KTTN.
Thứ ba: Đề xuất một số biện pháp hoàn thiện huy động vốn nước ngoài cho sự
phát triển KTTN tại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, nội dung của luận văn hướng tập
trung vào các vấn đề lý thuyết và thực tiễn của các doanh nghiệp thuộc khu vực
KTTN tại Việt Nam, không đi sâu vào một ngành hay một số ngành cụ thể.
Luận văn sử dụng số liệu tổng hợp có nguồn gốc bóc tách từ năm 2000 đến năm
2006 để có số liệu sát với thực tiễn làm cơ sở cho phân tích và đánh giá thực
trạng và kiến nghò các biện pháp hoàn thiện huy động vốn nước ngoài cho phát
triển KTTN tại Việt Nam.
Tuy nhiên dù học viên đã rất cố gắng trong việc thu thập số liệu, song kết
quả cũng chỉ dừng lại ở mức độ mà luận văn đạt được.
4. Phương pháp nghiên cứu
8
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp phân tích và
tổng hợp. Nhờ phương pháp này có thể nghiên cứu được những thành tựu cũng
như thấy được những hạn chế trong quá trình phát triển của KTTN và khả năng
huy động vốn nước ngoài của khu vực này. Từ đó đề xuất những biện pháp hoàn
thiện và nâng cao khả năng huy động vốn nước ngoài cho sự phát triển khu vực
KTTN tại Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp
thống kê, phương pháp diễn giải và qui nạp, phương pháp so sánh…….
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng, chữ viết tắt, luận văn có
96 trang với kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận chung về KTTN và huy động vốn nước ngoài đối với sự phát
triển khu vực KTTN.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn nước ngoài cho phát triển KTTN tại Việt
Nam.
Chương 3: Các biện pháp hoàn thiện huy động vốn nước ngoài cho phát triển
KTTN tại Việt Nam.
9
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KTTN VÀ HUY ĐỘNG VỐN
NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KHU VỰC KTTN
1.1 Tổng quan về khu vực KTTN
1.1.1 Khái niệm về KTTN
Sở hữu tư nhân là hình thức chiếm hữu, trong đó tư liệu sản xuất và vật
phẩm tiêu dùng là của riêng cá nhân. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở
nảy sinh KTTN.
Ở Việt Nam, theo Luật DN năm 2005 thì DN được hiểu là tổ chức kinh
tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dòch ổn đònh, được đăng ký kinh doanh
theo quy đònh của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Như vậy, xuất phát từ bản chất của chế độ sở hữu tư nhân, có thể hiểu
KTTN là tổng thể các DN, tổ chức kinh tế ra đời và tồn tại trên cơ sở sở hữu tư
nhân về vốn và tư liệu sản xuất và được gọi là khu vực KTTN. KTTN hoàn toàn
tự chủ, tự chòu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh dòch vụ.
Cụ thể như tự chủ về vốn, về quy mô hoạt động, về phân phối sản phẩm, về
phương hướng huy động vốn, tự chủ lựa chọn phương thức sản xuất kinh doanh,
hình thức tổ chức quản lý………và tự chòu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
1.1.2 Các hình thức của KTTN
Tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau mà KTTN có các hình thức khác nhau.
- Nếu tiếp cận dưới gốc độ sở hữu tư nhân thì KTTN được hiểu theo nghóa hẹp
gồm có: DN tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần. Với cách hiểu này chúng
ta thấy có hai nhược điểm:
Một là, về phương pháp luận vô tình đã phân cắt khu vực sở hữu tư nhân
– KTTN ra hai mảng tách rời nhau (mảng kinh tế cá thể – tiểu chủ và mảng kinh
10
tế tư bản tư nhân). Nhưng trong thực tế sự ra đời, tồn tại, phát triển của chúng lại
có sự quan hệ chặt chẽ với nhau, cụ thể: chúng đều hình thành, phát triển dựa
trên sở hữu tư nhân, vì thế chúng có cùng một kiểu quan hệ quản lý, quan hệ
phân phối, chỉ khác nhau về quy mô và trình độ phát triển. Chúng vận động và
phát triển theo một logic từ thấp đến cao, từ kinh tế hộ cá thể – tiểu chủ lên DN
tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần theo quy luật tích tụ và tập trung sản
xuất và quy luật quan hệ sản xuất nhất đònh phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là, với quan niệm trên đây sẽ không đánh giá đúng tiềm lực to lớn về
vai trò, vò trí của khu vực KTTN trong nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội
chủ nghóa.
- Nếu tiếp cận theo cách phân đònh thành phần kinh tế thì KTTN gồm có: kinh tế
cá thể – tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân và một phần kinh tế có vốn đầu tư của
nước ngoài. Cách tiếp cận này trên thực tế chỉ có ý nghóa về mặt chính trò phục
vụ cho việc phân đònh các thành phần giai cấp trong xã hội mà thôi. Mà ngày
nay việc phân đònh này cũng chỉ có ý nghóa tương đối, bởi vì giữa thành phần
kinh tế và giai cấp nó không hoàn toàn tương đồng, cụ thể một giai cấp có thể
nằm ở hai hay ba thành phần kinh tế, chẳng hạn giai cấp nông nhân hiện nay
gắn liền với ba thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước (nông dân nhận khoán của
nông lâm trường), kinh tế tập thể (nông dân trong hợp tác xã), kinh tế cá thể –
tiểu chủ (nông dân cá thể).
- Nếu tiếp cận dưới góc độ tổ chức sản xuất kinh doanh thì khu vực KTTN bao
gồm: các hộ kinh tế cá thể, hộ tiểu chủ (trang trại trong nông nghiệp), các DN tư
nhân (cả trong và ngoài nước) và các hình thức kinh tế hỗn hợp của chúng như:
Công ty TNHH, Công ty cổ phần hoạt động trong tất cả các lónh vực nông
nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, dòch
11
vụ, thương mại………..Với quan niệm rộng lớn như trên các loại hình DN thuộc khu
vực KTTN có một số lợi thế như: có khả năng thích ứng với mọi ngành nghề từ
nông nghiệp đến công nghiệp, thương mại, dòch vụ; với mọi trình độ phát triển từ
thủ công đến cơ khí, tự động hóa, tin học hóa; với quy mô từ nhỏ, vừa đến lớn;
phù hợp với mọi đòa bàn từ thành thò đến nông thôn; từ vùng sâu, vùng xa đến
biên giới hải đảo.
Tóm lại, trong nền kinh tế thò trường ở nước ta tồn tại nhiều hình thức sỡ
hữu khác nhau, tương ứng với mỗi hình thức sở hữu có thể chia cấu trúc nền kinh
tế thành ba khu vực chính: đó là khu vực KTNN, khu vực KTTN và khu vực
ĐTNN. Còn một khu vực kinh tế khác đó là khu vực kinh tế hỗn hợp giữa nhà
nước và tư nhân. Khu vực này khi xét vốn đầu tư của bên nào chiếm tỷ lệ khống
chế thì có thể xếp vào khu vực nhà nước hay khu vực tư nhân. Cách chia cơ cấu
kinh tế như vậy chỉ mang tính tương đối và tương ứng với mỗi khu vực kinh tế có
các loại hình DN khác nhau. Riêng khu vực KTTN bao gồm các loại hình DN:
Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh, DN tư nhân và các nhóm,
cá thể kinh doanh.
Theo Luật DN năm 2005, ta có thể hiểu:
- Công ty TNHH là DN, trong đó: thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
thành viên không vượt quá năm mươi; thành viên chòu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghóa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn cam kết góp vào
DN; phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy đònh; có tư
cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; công
ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần.
- Công ty cổ phần là DN, trong đó: vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối
thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông chỉ chòu trách nhiệm về nợ
12
và các nghóa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã góp vào DN; cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy đònh không được chuyển nhượng trong Luật này; có quyền phát
hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
- Công ty hợp danh là DN, trong đó: phải có ít nhất hai thành viên hợp danh (là
chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung), ngoài
các thành viên hợp danh có thể có các thành viên góp vốn, thành viên hợp danh
phải là cá nhân chòu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghóa vụ
của công ty, thành viên góp vốn chỉ chòu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh danh và không được
phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
- DN tư nhân là DN do một cá nhân làm chủ và tự chòu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. DN tư nhân không được phát hành
bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một DN tư
nhân.
- Các nhóm, cá thể kinh doanh không cần vốn pháp đònh, đó chính là sự khác
nhau cơ bản với chủ DN tư nhân và công ty.
1.1.3 Tính tất yếu phát triển khu vực KTTN trong nền kinh tế thò trường
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều nhận thức được vai trò quan
trọng của khu vực KTTN trong nền kinh tế quốc gia. Nhận thức này không phải
ngay một lúc mà có được, nó là kết quả thực tiễn của một quá trình tương đối dài
về sự tồn tại và phát triển sống động của KTTN.
Có một thời kỳ dài người ta đánh giá không đúng vai trò của khu vực
KTTN. Do e ngại KTTN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
“Hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghóa tư bản” nên chúng ta đã tìm mọi cách để
13
triệt tiêu khu vực kinh tế này và chỉ tạo điều kiện để KTNN, kinh tế tập thể phát
triển. Hậu quả là nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng
khó khăn. Trong khi đó ở các nước phát triển theo mô hình kinh tế thò trường,
KTTN phát triển song song và bổ trợ với KTNN. Thậm chí KTTN phát triển
nhanh, mạnh mẽ, góp phần quan trọng làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
Người ta nhận thấy rõ ràng tác dụng không thể phủ nhận là khu vực KTTN có
thể thúc đẩy cạnh tranh, thực hiện phân bổ tài nguyên một cách hợp lý hơn so
với khu vực KTNN vì những lý do xuất phát từ lợi ích trực tiếp do tính chất sở
hữu của KTTN so với KTNN.
Ngay ở trong khu vực, các con Rồng Châu Á như Đài Loan, Hồng Kông,
Singgapo, Hàn Quốc….. đạt được sự tăng trưởng thần kỳ về kinh tế chính là nhờ
các nước này đã thành công trong việc phát triển khu vực KTTN, đồng thời tạo
ra sự kết hợp hài hòa, bổ sung lẫn nhau giữa KTTN và KTNN.
Hiện nay ở hầu hết các nước, KTTN đóng vai trò rất quan trọng chi phối
rất lớn đến công cuộc phát triển kinh tế – xã hội.
Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều
kiện tiềm lực và khả năng của KTNN, kinh tế tập thể chưa đủ mạnh để có thể
đảm đương được việc đáp ứng nhu cầu của xã hội, trong khi đó các thành phần
KTTN, kinh tế cá thể, tiểu chủ….. có khả năng phát triển mạnh, sự có mặt của
khu vực KTTN tạo động lực mới trong nền kinh tế, tiếp tục giải phóng mọi lực
lượng sản xuất, huy động khai thác các tiềm lực dồi dào về vốn, kinh nghiệm
quản lý, ngành nghề truyền thống ….. thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển đất
nước. Vì vậy, khuyến khích phát triển KTTN là nội dung quan trọng của đổi mới
kinh tế ở nước ta. Do vậy, để tiến hành nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa cần huy động tối đa các thành phần kinh tế tham gia, trong đó có thành
phần KTTN là một tất yếu khách quan, là một bộ phận cấu thành không thể
14
thiếu được trong nền kinh tế nước ta cũng như các nước khác trên thế giới. Điều
này dựa trên cả cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:
- Về cơ sở lý luận: học thuyết của Lênin cũng như các học thuyết kinh tế học
hiện đại đều chỉ ra rằng các nước cần phải phát triển KTTN, tạo động lực để
thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
- Về cơ sở thực tiễn: sự cần thiết phát triển KTTN bộc lộ rõ ở vai trò, cụ thể:
Thứ nhất, huy động mọi nguồn lực trong dân để phát triển kinh tế
Một trong những mục tiêu của nền kinh tế thò trường đònh hướng XHCN mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân chủ trương thực hiện trong thời kỳ quá độ lên
CNXH là giải phóng mọi sức sản xuất để làm ra nhiều của cải vật chất và tinh
thần nhằm cải thiện không ngừng đời sống của nhân dân. Mục tiêu ấy chỉ có thể
thực hiện khi huy động được các nguồn lực trong nước, khai thác có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động tiền vốn để mở rộng sản xuất. Phát triển
KTTN là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu này là vì
cho phép khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước.
KTTN có vai trò to lớn trong việc huy động vốn đầu tư rộng rãi trong nhân
dân cho phát triển sản xuất, tạo động lực và môi trường cạnh tranh sống động,
linh hoạt, sáng tạo cho sự phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo
ra nhiều của cải hàng hóa cho xã hội, đóng góp vào ngân sách nhà nước, góp
phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành sản xuất. Theo
ước tính của các chuyên gia tài chính ngân hàng thì nguồn vốn dưới các dạng
trong dân còn rất lớn khoảng trên 20 tỷ USD, vì thế phát triển KTTN mới có thể
khai thác tốt được nguồn vốn trong dân.
Vậy, sự tồn tại KTTN ở nước ta là một đòi hỏi bức thiết của thực tiễn xây
dựng, phát triển đất nước nhằm khơi dậy và phát huy các tiềm năng về vốn, sức
lao động, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, tính năng động, nhạy
15
bén linh hoạt, sáng tạo của KTTN. Góp phần giải phóng đáng kể lực lượng sản
xuất xã hội, tăng trưởng kinh tế, từng bước khắc phục sự nghèo đói, cải thiện đời
sống nhân dân.
Thứ hai, tạo sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
Khu vực KTTN phát triển về hình thức sở hữu, về quản lý và phân phối
tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở các ngành,
các lónh vực sản xuất, từ đó tạo khả năng huy động rộng rãi tiềm năng nguồn lực
trong toàn xã hội để đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải làm giàu cho mình
và cho đất nước. Các loại hình tổ chức của KTTN được tự do phát triển, Nhà
nước tạo điều kiện và khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh, được luật pháp
bảo hộ và là biểu hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế trong xã hội ta. Từ đó khơi
dậy và phát huy tính năng động , nhạy bén, cần cù sáng tạo của quần chúng
nhân dân trong lao động và sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển,
góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mặt
khác quá trình dân chủ hóa đời sống kinh tế được mở rộng nói trên sẽ tác động
và đòi hỏi sự cải tiến về tổ chức, quản lý của nhà nước theo hướng hiện đại, văn
minh, tiến bộ cũng như thúc đẩy nâng cao đời sống văn hóa dân trí và tinh thần
trong toàn xã hội.
Phát triển khu vực KTTN đặt ra yêu cầu đối với bộ máy quản lý nhà nước
phải chuyển đổi và thích nghi. Sự chuyển đổi bộ máy và chức năng quản lý của
nhà nước phải theo hướng tăng cường quản lý vó mô và giảm thiểu tối đa sự can
thiệp của nhà nước vào hoạt động của DN.
Sự có mặt của khu vực KTTN đòi hỏi phải có sự hoàn chỉnh hệ thống luật
pháp, trước hết là hệ thống pháp luật về kinh tế. Hệ thống luật pháp vừa đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thò trường đònh hướng XHCN vừa phải phù hợp với
thông lệ quốc tế hiện chưa có đầy đủ ở nước ta. Sự tồn tại khu vực KTTN buộc
16
nhà nước phải xây dựng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, đồng bộ, một yêu cầu
cấp bách của quản lý vó mô của nhà nước.
Thứ ba, tạo động lực cho các thành phần kinh tế khác phát triển
Phát triển khu vực KTTN theo cơ chế thò trường dưới sự quản lý của nhà
nước sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong xã hội nỗ lực đầu tư năng động trong việc
khai thác mọi nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu cho mình và đóng góp
cho xã hội. Tác động tích cực này tác động nhiều đến khu vực KTNN. Giá thành
sản phẩm rẻ, mẫu mã hàng hóa đa dạng và luôn luôn đổi mới của khu vực sản
xuất tư nhân có sức cạnh tranh mạnh mẽ và là động lực thúc đẩy KTNN năng
động lên.
Vậy, sự hợp tác liên doanh của KTTN với KTNN và kinh tế tập thể như
một tất yếu nảy sinh, khi phát triển KTTN sẽ tạo thêm động lực cho hai thành
phần kinh tế này phát triển vượt qua năng lực của nó, khắc phục những hạn chế
của khu vực quốc doanh, nhờ đó sẽ phát huy hết tiềm năng.
Thứ tư , góp phần tích cực vào sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế
Phát triển KTTN góp phần tích cực vào sự chuyển dòch theo hướng hợp lý,
hiệu quả, hiện đại. Ưu thế nổi trội của KTTN là năng động, nhạy bén, linh hoạt
trong đầu tư sản xuất kinh doanh, nắm bắt và đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu thò
trường để tìm kiếm hiệu quả, lợi nhuận. Do vậy họ luôn tìm kiếm phát hiện
ngành, lónh vực mặt hàng xã hội đang thiếu, đang cần đầu tư sản xuất, đồng thời
không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm để có ưu thế trong cạnh tranh và thu được lợi nhuận, từ đó thúc đẩy sự dòch
chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, ngày càng hiện đại.
Ngoài ra phát triển KTTN sẽ tạo ra một đội ngũ những nhà DN năng động,
nhạy bén dám nghó, dám làm, chấp nhận thách thức của thò trường. Góp phần
17
đồng bộ và hoàn thiện những tiền đề, điều kiện cho sự phát triển kinh tế thò
trường đònh hướng XHCN.
Thứ năm, giải quyết việc làm, chuyển dòch cơ cấu lao động và phát triển
nguồn nhân lực
Khu vực KTTN phát triển khắp các vùng của đất nước tạo khả năng to lớn
trong giải quyết việc làm và đời sống của người lao động. Trong cơ chế cạnh
tranh thò trường, để nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh, KTTN
phải tìm mọi cách tuyển chọn, bồi dưỡng, đạo tạo, nâng cao trình độ, năng lực,
tay nghề của người lao động, cũng như bố trí sử dụng hợp lý, khoa học….. từ đó
góp phần to lớn vào sự phát triển lực lượng lao động xã hội, đáp ứng yêu cầu
kinh tế thò trường hội nhập kinh tế quốc tế.
Các DN thuộc KTTN đông đảo với nhiều qui mô, nhiều ngành nghề không
những thu hút nhiều lao động, giải quyết nhiều việc làm mà còn là lò luyện đội
ngũ các nhà DN sau khi họ tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học và các
trường khác.
Thứ sáu, phát triển kinh tế đối ngoại
Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hóa cùng với xu thế và đặc điểm
thời đại về mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là môi trường và điều kiện cho
KTTN phát huy các ưu thế, hiệu quả của mình cho nền kinh tế. KTTN góp phần
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hiện đại hóa sản xuất: sự phát triển của
KTTN tạo ra khối lượng lớn về hàng xuất khẩu đồng thời mở rộng khả năng và
là đối tác thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, nhập về
máy móc thiết bò công nghệ tiên tiến…..qua đó tạo tiền đề khai thác, tận dụng
các tiềm năng, nguồn lực rộng lớn trong nhân dân cho phát triển sản xuất, góp
phần hiện đại hóa nền kinh tế. Vậy, phát triển KTTN sẽ tạo ra môi trường kinh
tế thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa của đất nước.
18
Tóm lại, mặc dù còn những cách nhìn nhận khác nhau về vai trò của khu
vực KTTN, nhưng rõ ràng là KTTN đang từng bước trở thành động lực chính cho
sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tạo sự ổn đònh xã hội, là công cụ quan
trọng để tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải biến nền công nghiệp lạc
hậu, tiếp nhận những tri thức, công nghệ, phương pháp quản lý mới, đáp ứng nhu
cầu đa dạng của thò trừơng, chuyển dòch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn nhàn rỗi, tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tạo động lực cạnh tranh và phát triển kinh
tế. Nói một cách khác, phát triển KTTN là tất yếu trong nền kinh tế thò trường.
1.2 Huy động vốn nước ngoài đối với phát triển khu vực KTTN
1.2.1 Các hình thức huy động vốn nước ngoài cho phát triển khu vực
KTTN
Các nguồn vốn nước ngoài vào một quốc gia thông qua quá trình trao đổi
vốn quốc tế. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, vốn được trao
đổi giữa các quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau, với nhiều chủ thể khác
nhau. Quá trình trao đổi vốn quốc tế đã làm tăng lợi ích của các chủ thể kinh tế
vì vốn được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Nhìn từ góc độ lợi ích của một
quốc gia, tham gia vào trao đổi vốn quốc tế sẽ tạo điều kiện để các nguồn lực
trong nước được khai thác một cách tối ưu, các tiềm năng chuyển thành hiện
thực tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho nền kinh tế.
Vốn nước ngoài vào một quốc gia thường đi kèm với công nghệ, vì vậy nó
đóng vai trò cực kỳ quan trọng không chỉ với tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia, với chuyển dòch cơ cấu kinh tế, mà còn tạo cơ hội cho các DN sản xuất –
kinh doanh đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa để tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa trên thò trường trong nước và quốc tế.
Các nguồn vốn nước ngoài thuộc nhiều chủ sở hữu được đưa vào một
quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nhiều tiêu thức phân loại, tuy
19
nhiên, thông thường sử dụng 2 tiêu thức phân loại các nguồn vốn nước ngoài vào
một quốc gia:
Tiêu thức 1: Căn cứ vào nội dung vận động của các nguồn vốn nước ngoài,
với mục đích xác đònh quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn thì vốn nước ngoài có
các hình thức sau:
- Các nguồn vốn từ quan hệ thanh toán quốc tế, bao gồm: các quan hệ trả tiền
đối ứng với các luồng hàng hóa, dòch vụ mà trong nước đã cung cấp cho nước
ngoài. Nguồn vốn này gắn liền với hoạt động ngoại thương (xuất – nhập khẩu
hàng hóa), du lòch quốc tế, hợp tác lao động quốc tế, các quan hệ quốc tế về
văn hóa – xã hội, quân sự, chính trò, ngoại giao…. Trong đó liên quan trực tiếp
đến vốn cung cấp cho hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh là các
nguồn vốn có được từ hoạt động xuất – nhập khẩu, vốn được gửi về từ các
người thân đi lao động ở nước ngoài (kiều hối).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), là dòng vốn mà chủ đầu tư nước ngoài đưa
vốn đầu tư vào một quốc gia khác và trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động sử
dụng vốn. Các chủ đầu tư trực tiếp có thể là mọi tổ chức và cá nhân của nước
ngoài dưới các hình thức đầu tư khác nhau tùy theo luật pháp nước chủ nhà.
Hiện nay, ở Việt Nam cho phép áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài là hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, DN liên doanh, DN 100% vốn
nước ngoài. Bên nhận đầu tư có thể là mọi tổ chức và cá nhân trong nước.
FDI là một hình thức đầu tư mang đến nhiều tác động có lợi cho cả hai
bên. Đối với các nước nhận đầu tư sẽ tạo cơ hội thu hút công nghệ tiên tiến, kinh
nghiệm quản lý kinh doanh nước ngoài, khai thác tốt lợi thế trong nước, có thể
nâng cao hiệu quả phần vốn đóng góp, tăng tích luỹ, mở rộng cạnh tranh….thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, mặt trái của việc tiếp nhận FDI là nước chủ
nhà khó chủ động bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ, tài nguyên
20
bò khai thác quá mức, có thể du nhập công nghệ thứ yếu và ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
Đối với các DN sản xuất kinh doanh, khi liên kết liên doanh với các chủ
đầu tư nước ngoài sẽ có thêm nguồn vốn để đổi mới công nghệ vì quyền lợi của
nhà đầu tư nước ngoài gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh nên có nhiều
khả năng thu hút công nghệ tiến bộ hơn so với việc nhập khẩu, học tập được các
kinh nghiệm về tổ chức kinh doanh, về tiếp cận thò trường ….tăng thêm sức mạnh
cạnh tranh trên thò trường. Nhưng nếu không có một cơ chế trách nhiệm và kiểm
soát tốt, thì phần lợi ích mang lại cho các nhà đầu tư trong nước sẽ không tương
xứng, vì các chủ đầu tư nước ngoài vừa giàu kinh nghiệm vừa mạnh về tiềm lực
sẽ lấn át bạn liên doanh của mình, chẳng hạn vốn góp của họ chỉ là công nghệ
thải loại trong khi xác đònh giá trò đóng góp lại quá cao so với giá trò thực.
Khai thác tính hai mặt của FDI vào mục đích tìm ra mặt tích cực của dòng
vốn này, hỗ trợ cho sự lớn mạnh của các DN sản xuất kinh doanh trong nước.
- Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư
nhưng không trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Tất cả các
chủ thể kinh tế – xã hội của mọi quốc gia đều có thể tham gia đầu tư gián tiếp
nước ngoài, đó là các chương trình và các dự án của các ngành được thực hiện
bằng nguồn vốn tín dụng của Chính phủ; các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
như WB, ADB, IMF, IFDA….; các tổ chức phi Chính Phủ, các chủ đầu tư tư
nhân…….Trong điều kiện thò trường tài chính phát triển với tốc độ nhanh chóng
như hiện nay, các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ ngày càng phong
phú và đa dạng, gồm: viện trợ quốc tế không hoàn lại, ODA, đầu tư chứng
khoán quốc tế. Tương ứng với mỗi một hình thức đầu tư thì chủ thể đầu tư và
nhận đầu tư, cũng như mục đích đầu tư có khác nhau. Cụ thể:
21
+ Nguồn vốn có từ viện trợ quốc tế không hoàn lại, có thể là viện trợ song
phương (vốn của một Chính phủ nước ngoài), viện trợ đa phương (vốn từ một tổ
chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hiệp quốc, của các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế ), viện trợ của NGO. Tiếp nhận nguồn vốn này có thể là Chính phủ hoặc
các tổ chức kinh tế – xã hội, đòa phương. Phần lớn nguồn vốn viện trợ quốc tế
không hoàn lại vào các nước đang phát triển với mục tiêu từ thiện. Quốc gia
nhận vốn không phải lo hoàn trả mà chỉ cần sử dụng đúng mục đích, tạo niềm tin
với các nhà tài trợ. Nguồn vốn viện trợ quốc tế không hoàn lại chiếm một tỷ
trọng nhỏ trong tổng các dòng vốn trao đổi giữa các quốc gia.
+ ODA, chủ yếu là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của các tổ chức quốc tế và
các Chính phủ vào các nước đang phát triển dưới hình thức tín dụng ưu đãi quốc
tế, số lượng vốn vay lớn, thời gian vay dài ( có khoản vay sau 30 – 40 năm mới
phải trả gốc), lãi suất thấp hơn lãi suất thò trừơng , thậm chí có thời gian ân hạn.
Chủ đầu tư thường không coi trọng lợi ích kinh tế, mà họ quan tâm nhiều hơn
đến mục tiêu chính trò – xã hội. Vì vậy để có được nguồn vốn này, các nước
đang phát triển phải xây dựng các chương trình, dự án đầu tư rõ ràng, thuyết
minh tiến độ và sau đó là đánh giá hiệu quả đầu tư. Chủ tiếp nhận nguồn vốn
ODA thường là Chính phủ, sử dụng vào những lónh vực mà tư nhân không muốn
hoặc tư nhân không có khả năng đầu tư (xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội)
tạo hàng hóa công cộng. Trách nhiệm trả nợ nguồn vốn này thuộc về Chính phủ,
trong đó Bộ tài chính đàm phán vay và trả các khoản nợ này.
+ Nguồn vốn từ đầu tư chứng khoán quốc tế, do các chủ đầu tư dưới hình thức
mua chứng khoán trên các thò trường tiền tệ, thò trường trái phiếu và thò trường
cổ phiếu quốc tế hoặc đầu tư thông qua Q đầu tư chứng khoán và thông qua
các đònh chế tài chính trung gian. Chủ đầu tư có thể là tất cả các chủ thể kinh tế
– xã hội của mọi quốc gia, hưởng lợi tức nhưng không tham gia điều hành đối
22
tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chủ thể nhận đầu tư thông qua các loại chứng khoán
phát hành trên thò trường: Chính phủ nhận vốn đầu tư quốc tế qua phát hành trái
phiếu quốc tế; các DN nhận vốn đầu tư quốc tế qua phát hành trái phiếu công ty
hoặc cổ phiếu công ty. Đây là nguồn vốn đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn cho
bên nhận đầu tư, thông qua sự phát triển của thò trường chứng khoán, nguồn vốn
đầu tư này góp phần tích cực cho tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên, hình thức
này luôn tiềm ẩn những yếu tố rủi ro cho bên nhận đầu tư nếu các nhà đầu tư
đồng loạt rút vốn trong thời gian ngắn thông qua việc bán cổ phiếu trên thò
trường chứng khoán.
Rõ ràng, nếu đứng trên chủ thể tiếp nhận vốn nước ngoài bao giờ cũng
phải nhận rõ cả 2 mặt: lợi ích và bất lợi của từng loại vốn, để tùy theo từng điều
kiện cụ thể lựa chọn hình thức huy động vốn có lợi nhất.
Tiêu thức 2: căn cứ vào chủ thể tiếp nhận vốn nước ngoài, với mục đích
xác nhận trách nhiệm hoàn trả vốn, có vốn nước ngoài chuyển vào khu vực
Chính phủ và vốn nước ngoài chuyển vào khu vực tư nhân. Vẫn là các nguồn
vốn nước ngoài đã nói đến ở cách phân loại thứ nhất, nhưng theo cách phân loại
này người ta nhìn thấy ngay dòng chảy vốn nứơc ngoài vào 2 khu vực kinh tế
khác nhau, và do đó quyền sử dụng và trách nhiệm hoàn trả cũng khác nhau.
Đây là cách phân loại mà các nhà quản lý tài chính thường áp dụng để xem xét
gánh nặng nợ và khả năng hoàn trả nợ của các Chính phủ trong các thời kỳ kinh
tế.
-Các nguồn vốn nước ngoài vào khu vực Chính phủ, bao gồm tất cả các nguồn
vốn nước ngoài vào một nước mà Chính phủ nước đó là người tiếp nhận, sử
dụng và thực hiện nghóa vụ thanh toán, đó là: chênh lệch (+) thanh toán quốc
tế từ các hợp tác kinh tế giữa Chính phủ với nước ngoài; viện trợ nước ngoài
không hoàn lại; các khoản tín dụng ưu đãi (ODA) và không ưu đãi (vay thương
23
mại) từ các Chính phủ nước ngoài (nợ song phương) hoặc các tổ chức quốc tế
(nợ đa phương); nguồn vốn có được từ phát hành trái phiếu Chính phủ ra nứơc
ngoài (nợ các cá nhân, nợ các tổ chức nứơc ngoài). Tất cả các nguồn vốn này
đều thuộc quyền sử dụng của Chính phủ, hiệu quả sử dụng phụ thuộc vào khả
năng điều hành và quản lý kinh tế của từng quốc gia.
-Các nguồn vốn nước ngoài vào khu vực tư nhân, bao gồm tất cả các nguồn vốn
nước ngoài vào một nước mà tư nhân là người tiếp nhận, sử dụng và thực hiện
nghóa vụ thanh toán, đó là: chênh lệch (+) từ các khoản thanh toán thương mại
và dòch vụ quốc tế; tín dụng thương mại quốc tế; kiều hối; FDI dưới 2 hình thức
: hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng và hình thức liên doanh; nợ
tư nhân nước ngoài (nợ thương mại, nợ phi Chính phủ); nguồn vốn có được từ
phát hành cổ phiếu doanh nghiệp hay trái phiếu công ty thông qua thò trường
chứng khoán; nguồn vốn có được thông qua các loại q như Q đầu tư mạo
hiểm nước ngoài, Ngân hàng phát triển (trước đây là Q hỗ trợ phát triển) và
các loại q khác của nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Những nguồn vốn vào khu vực tư nhân rất đa dạng, tuy Chính phủ không
có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với phần lớn nguồn vốn này, nhưng
hiệu quả sử dụng vốn ở khu vực tư nhân cũng sẽ tác động rất lớn đến tăng
trưởng kinh tế (nếu sử dụng với hiệu quả cao) hay suy giảm kinh tế (nếu sử dụng
kém hiệu quả). Vì vậy Chính phủ vẫn phải giám sát và sử dụng các công cụ điều
hành vó mô tác động tích cực đến việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn đó ở
khu vực KTTN nhằm khai thác mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của nó.
Ngoài hai dòng vốn kể trên, còn vốn nước ngoài vào một quốc gia nhưng
vẫn do chủ thể nước ngoài trực tiếp sử dụng, đó là vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài dứơi hình thức 100% vốn nước ngoài. Tuy các chủ thể kinh tế trong nước
không sử dụng nguồn vốn này, nhưng nó vẫn có lợi ích chung cho quốc gia nhận
24
vốn (tạo việc làm, tăng thu nhập…), đồng thời nó cũng bộc lộ những tiêu cực,
nên các Chính phủ một mặt khuyến khích thu hút vốn, mặt khác kiểm soát hạn
chế tiêu cực.
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn nước ngoài cho khu vực
KTTN
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn nước ngoài cho khu vực kinh
tế nói chung và khu vực KTTN nói riêng, tuy nhiên ở đây chỉ nêu một số nhân tố
điển hình:
Thứ nhất, vấn đề tiếp cận vốn. Theo quy luật, nguồn vốn được luân
chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu với chi phí sử dụng vốn ấn đònh. Và để thực
hiện được việc luân chuyển này thì phải có một bàn tay vô hình tác động đó
chính là Nhà nước. Tùy thuộc vào chính sách chế độ của Nhà nước cho phép khu
vực KTTN tiếp cận với nhà đầu tư nước ngoài mà lượng vốn huy động được có
đủ đáp ứng nhu cầu cho phát triển khu vực KTTN.
Thứ hai, vần đề tiếp cận về đất đai. Mặt bằng kinh doanh là yếu tố mà
nhà đầu tư cần phải nghiên cứu khi ra quyết đònh đầu tư. Nếu vấn đề tiếp cận đất
đai gặp khó khăn do cơ chế, chính sách tạo ra thì họ sẽ không đầu tư hoặc nếu
họ đầu tư theo hình thức liên doanh một bên có đất và một bên có vốn nhưng cả
mặt bằng không có hoặc diện tích mặt bằng không đủ hoặc giá thuê mặt bằng
quá cao thì việc đầu tư không thành công. Cuối cùng, việc huy động vốn nước
ngoài cho khu vực KTTN mất đi cơ hội.
Thứ ba, vần đề về kỹ năng lao động và giáo dục đối với lao động cũng là
một trong các vấn đề quan trọng bậc nhất. Trong kinh doanh có ba yếu tố: vốn,
đất đai và nhân công. Nếu nhân công vừa chất lượng cao vừa rẻ vừa có chất xám
thì là yếu tố mạnh mẽ thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
25
Thứ tư, lónh vực hạ tầng giao thông. Các nhà đầu tư nước ngoài gặp phải
những khó khăn nhiều nhất. Điều này cho thấy nhu cầu của các nhà đầu tư này
cao hơn rất nhiều, đặc biệt là việc đáp ứng nhu cầu chuyên chở phân phát kòp
thời những sản phẩm của họ đến các thò trừơng thế giới. Các doanh nghiệp hoạt
động chủ yếu trên thò trường trong nước có thể sẽ đương đầu tốt hơn đối với
những trở ngại do cơ sở hạ tầng nghèo nàn.
Thứ năm, các quy đònh của Nhà nước về hành chính liên quan đến đầu tư
nước ngoài.
- Ở nước ta, Luật DN có mâu thuẫn với các Luật chuyên ngành. Chính trong
Luật chuyên ngành lại có những “tư tưởng độc quyền”, khiến sự thống nhất
trong qui hoạch giấy phép con gặp nhiều khó khăn. Luật DN năm 2000 được
xem là một sự đột phá về cải cách hành chánh, nhưng trong đó có nạn bùng
phát giấy phép con. Ngày 1 tháng 7 năm 2006, luật DN năm 2005 có hiệu lực.
Luật mới, nhưng sẽ khó để tạo ra thay đổi mới trong việc khống chế làn sóng
giấy phép kinh doanh. Tham nhũng làm tăng chi phí kinh doanh và có thể làm
méo mó các chính sách phát triển kinh tế. Đồng thời, nhà đầu tư nước ngoài
khó tiên liệu về khả năng thay đổi của Chính sách, thông tin kém minh bạch
và công khai, thủ tục thành lập DN phức tạp và tốn nhiều thời gian là những
yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Ngoài ra, năng lực và trách nhiệm của chính quyền một số đòa phương còn
hạn chế. Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn
đầu tư nước ngoài ở DN của từng tỉnh, từng thành phố. Chính quyền đòa
phương chính là người trực tiếp tiếp xúc và giải quyết nhiều vấn đề liên quan
đến nhà đầu tư. Và hành vi của đội ngũ công chức của từng chính quyền đòa
phương ảnh hưởng không nhỏ đến quyết đònh đầu tư của các nhà đầu tư nước
ngoài.