Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

cơ sở lý luận chung về chiến lược sản phẩm trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.63 KB, 13 trang )

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC SẢN PHẨM
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM VỀ CHIẾN LƯỢC SẢN PHẨM
. Sản Phẩm Hàng Hóa Là Gì?
Khi nói về sản phẩm – hàng hóa, người ta thường quy nó về một hình thức
tồn tại vật chất cụ thể và do đó nó chỉ bao hàm những thành phần hoặc yếu
tố có thể quan sát được. Đối với các chuyên gia Marketting, họ hiểu sản
phẩm – hàng hóa ở một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, cụ thể là:
Sản phẩm – hàng hóa là tất cả những cái, những yếu tố có thể thõa mãn nhu
cầu hay ước muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có
khả năng đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua
sắm, sử dụng hay tiêu dùng.
2. Vai Trò, Vị Trí Của Chiến Lược Sản Phẩm
Chiến lược sản phẩm có một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng . Nó là nền
tảng là xương sống của chiến lược chung marketting. Chiến lược sản phẩm
là một vũ khí sắc bén nhất trong cạnh tranh trên thị trường.
Chiến lược sản phẩm giúp doanh nghiệp xác định phương hướng đầu tư,
thiết kế sản phẩm phù hợp thị hiếu, hạn chế rủi ro, thất bại, chỉ đạo thực hiện
hiệu quả các P còn lại trong marketting hỗn hợp
Yếu tố quyết định vị trí của một hãng trên thị trường là ở chỗ:
- Liệu sản phẩm của hãng có vượt lên được sản phẩm cạnh tranh không?
- Vượt lên như thế nào?
- Làm thế nào để khách hàng mua hàng của mình?
Tất cả những điều trên chỉ thực hiện được khi hãng có một chiến lược sản
phẩm đúng đắn, tạo ra sản phẩm mới với chất lượng tốt. Nhân tố quyết định
sự thành công của doanh nghiệp chính là bản thân sản phẩm của họ. Việc
xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn
tại của doanh nghiệp.
3. Cấp Độ Các Yếu Tố Cấu Thành Đơn Vị Sản Phẩm –
Hàng Hóa
Khi tạo ra một mặt hàng người ta thường xếp các yếu tố đặc tính và thông


tin đó theo ba cấp độ với những chức năng marketting khác nhau.
Cấp độ cơ bản nhất là sản phẩm – hàng hóa theo ý tưởng. Cấp độ này có
chức năng cơ bản là trả lời câu hỏi: về thực chất, sản phẩm – hàng hóa này
thỏa mãn những điểm lợi ích cốt yếu nhất mà khách hàng sẽ theo đuổi là gì?
Và đó chính là giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho khách hàng.
Cấp độ thứ 2 cấu thành một sản phẩm – hàng hóa là hàng hóa hiện thực. Đó
chính là yếu tố phản ánh sự có mặt trên thực tế của sản phẩm hàng hóa. Các
yếu tố đó bao gồm: các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục
bên ngoài, đặc thù, tên nhãn hiệu cụ thể và đặc trưng của bao gói. Trong
thực tế, khi tìm mua những lợi ích cơ bản, khách hàng dựa vào những yếu tố
này. Và cũng nhờ hàng loạt những loạt yếu tố này nhà sản xuất khẳng định
sự hiện diện của mình trên thị trường, để người mua tìm đến doanh nghiệp,
họ phân biệt hàng hóa của hãng này so với hãng khác.
Cấp độ cuối cùng là hàng hóa bổ sung. Đó là những yếu tố như: tính tiện lợi
cho việc lắp đặt, những dịch vụ bổ sung sau khi bán, những điều kiện bảo
hành và điều kiện hình thức tín dụng… chính nhờ những yếu tố này đã tạo ra
sự đánh giá mức độ hoàn chỉnh khác nhau, trong sự nhận thức của người tiêu
dùng, về mặt hàng về mặt hàng hay nhãn hiệu cụ thể.
4. Phân Loại Hàng Hóa
Muốn có chiến lược marketting thích hợp và hoạt động marketting có hiệu
quả, các nhà quản trị marketting cần phải biết hàng hóa mà doanh nghiệp
kinh doanh thuộc loại nào. Sau đây là các cách phân loại có ý nghĩa đáng
chú ý:
a. Phân Loại Theo Thời Gian Sử Dụng Và Hình Thái Tồn Tại
Theo cách phân loại này thì thế giới hàng hóa có:
Hàng hóa lâu bền: là những vật phẩm thường được sử dụng nhiều lần.
Hàng hóa sử dụng ngắn hạn: là những vật phẩm được sử dụng một lần hay
một vài lần.
Dịch vụ: là những đối tượng được bán dưới dạng hoạt động, ích lợi hay sự
thỏa mãn.

b. Phân Loại Hàng Tiêu Dùng Theo Thói Quen Mua Hàng
Thói quen mua hàng là yếu tố rất cơ bản ảnh hưởng đến cách thức hoạt động
marketting. Theo đặc điểm này hàng hóa tiêu dùng được phân thành các loại
sau:
Hàng hóa sử dụng thường ngày: Đó là hàng hóa mà người tiêu dùng mua
cho việc sử dụng thường xuyên trong sinh hoạt. Đối với hàng hóa này, vì
được sử dụng và mua sắm thường xuyên nên nó là nhu cầu thiết yếu, khách
hàng hiểu biết hàng hóa và thị trường của chúng.
Hàng hóa mua ngẫu nhiên: Đó là những hàng hóa được mua không có kế
hoạch trước và khách hàng cũng không có chủ ý tìm mua. Đối với những
hàng hóa loại này, khi khách hàng gặp cộng với khả nun thuyết phục của
người bán, khách hàng mới nảy ý định mua.
Hàng hóa mua khẩn cấp: Đó là những hàng hóa được mua khi xuất hiện nhu
cầu cấp bách vì một lý do bất thường nào đó. Việc mua những hàng hóa này
không suy tính nhiều.
Hàng hóa mua có lựa chọn: Đó là những hàng hóa mà việc mua diễn ra lâu
hơn, đồng thời khi mua khách hàng thường lựa chọn, so sánh, cân nhắc về
công dụng, kiểu dáng, chất lượng, giá cả của chúng.
Hàng hóa cho các nhu cầu đặc thù: Đó là những hàng hóa có những tính
chất đặc biệt hay hàng hóa đặc biệt mà khi mua người ta sẵn sàng bỏ thêm
sức lực, thời gian để tìm kiếm và lựa chọn chúng.
Hàng hóa cho các nhu cầu thụ động: Đó là những hàng hóa mà người tiêu
dùng không hay biết và thường cũng không nghĩ đến mua chúng. Trường
hợp này thường là những hàng hóa không có liên quan trực tiếp, tích cực đến
cuộc sống hằng ngày. Ví dụ: bảo hiểm.
c. Phân Loại Hàng Tư Liệu Sản Xuất
Tư liệu sản xuất là những hàng hóa được mua bởi các doanh nghiệp hay các
tổ chức. Người ta chia thành các loại
Vật tư và chi tiết: đó là những hàng hóa được sử dụng thường xuyên và toàn
bộ vào cấu thành sản phẩm được sản xuất ra bởi nhà sản xuất.

Nhóm này có nhiều mặt hàng khác nhau: có loại có nguồn gốc từ nông
nghiệp, từ trong thiên nhiên hoặc vật liệu đã qua chế biến.
Tài sản cố định: đó là những hàng hóa tham gia toàn bộ , nhiều lần vào quá
trình sản xuất và giá trị của chúngđược dịch chuyển dần vào giá trị sản phẩm
do doanh nghiệp chúng tạo ra.
Vật tư phụ và dịch vụ: đó là những hàng hóa dùng để hỗ trợ cho quá trình
kinh doanh hay hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp.
II. CÁC QUYẾT ĐỊNH VỀ NHÃN HIỆU SẢN PHẨM HÀNG HÓA
1. Nhãn Hiệu Và Các Bộ Phận Cấu Thành
Quyết định về nhãn hiệu cho những hàng hóa cụ thể là một trong những
quyết định quan trọng khi soạn thảo chiến lược marketting cho chúng.
2. Các Quyết Định Có Liên Quan Đến Nhãn Hiệu
Khi thực hiện các chiến lược sản phẩm của mình, các doanh nghiệp phải
quyết định hàng loạt vấn đề có liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa.
• Có gắn nhãn hiệu cho hàng hóa của mình hay không?
• Ai là chủ nhãn hiệu hàng hóa?
• Tương ứng với nhãn hiệu đã chọn chất lượng hàng hóa có những đặc
trưng gì?
• Đặt tên cho nhãn hiệu như thế nào?
• Có nên mở rộng giới hạn sử dụng tên nhãn hiệu hay không?
• Sử dụng một hay nhiều nhãn hiệu cho những hàng hóa có những đặc
tính khác nhau của cùng một mặt hàng?
• Năm tiêu chí thường dùng để đặt tên cho nhãn hiệu
1. Dễ nhớ: Ðơn giản, dễ phát âm, dễ đánh vần
2. Có ý nghĩa: gần gũi, có ý nghĩa, có khả năng liên tưởng
3. Dễ chuyển đổi: tên nhãn hiệu có thể dùng cho nhiều sản phẩm trong
cùng một chủng loại; dễ chấp nhận giữa các lãnh thổ và nền văn hoá khác
nhau
4. Dễ thích nghi: dễ dàng trẻ hoá, hiện đại hoá
5. Ðáp ứng yêu cầu bảo hộ: có khả năng phân biệt, không trùng, không

tương tự với nhãn hiệu của người khác đã nộp đơn hoặc bảo hộ.
4 cách đặt tên nhãn hiệu:
1. Sử dụng từ tự tạo: từ tự tạo được tổ hợp từ những ký tự, tạo thành một
từ mới phát âm được và không có trong từ điển (Elead, yahoo…)
2. Sử dụng từ thông dụng: từ thông dụng là những từ hiện dùng, thực sự
có nghĩa trong một ngôn ngữ nào đó (Future, Rạng Ðông, Thống Nhất,
Trung Thành…)
3. Sử dụng từ ghép: từ ghép là sự kết hợp các từ hiện dùng và các âm tiết
dễ nhận biết (VINAMILK, Thinkpad…)
4. Sử dụng từ viết tắt: thông thường từ viết tắt được tạo thành từ những
chữ cáI đầu của tên công ty, từ viết tắt cũng có thể phát âm được và mang
một thông điệp nào đó (VNPT, FPT, IBM, LG…)
III. QUYẾT ĐỊNH VỀ BAO GÓI VÀ DỊCH VỤ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM
HÀNG HÓA
1. Quyết Định Về Bao Gói
Đa số hàng hóa, bao gói là yếu tố rất quan trọng về các phương diện khác
nhau.
Bao gói thường có bốn yếu tố cấu thành điển hình: lớp tiếp xúc trực tiếp với
sản phẩm, lớp bảo vệ lớp tiếp xúc, bao bì vận chuyển, nhãn hiệu và các
thông tin mô tả hàng hóa trên bao gói.
Ngày nay bao gói trở thành công cụ đắc lực của hoạt động marketting, bởi
vì: Một là, sự phát triển của hệ thống cửa hàng tự phục vụ, tự chọn ngày
càng tăng; hai là, mức giàu sang và khả năng mua sắm của người tiêu dùng
càng tăng; ba là, bao bì góp phần tạo ra hình ảnh về công ty và nhãn
hiệu; bốn là, tạo ra khả năng và ý niệm về sự cải tiến sản phẩm hàng hóa.
Để tạo ra bao gói có hiệu quả cho một hàng hóa nhà quản trị marketting phải
thông qua hàng loạt quyết định kế tiếp nhau như sau:
- Xây dựng quan niệm về bao gói: bao bì phải tuân thủ nguyên tắc nào? Nó
đóng vai trò như thế nào đối với một mặt hàng cụ thể? Nó phải cung cấp
những thông tin gì về hàng hóa?…

- Quyết định về các khía cạnh: kích thước, hình dáng, vật liệu, màu sắc,
nội dung trình bày và có nhãn hiệu hay không? Khi thông qua các quyết định
này phải gắn với các công cụ khác của marketting.
- Quyết định về thử nghiệm bao gói bao gồm: thử nghiệm về kỹ thuật, thử
nghiệm về hình thức. thử nghiệm về kinh doanh, thử nghiệm về khả năng
chấp nhận của người tiêu dùng.
- Cân nhắc các khía cạnh lợi ích xã hội, lợi ích của người tiêu dùng và lợi
ích của bản thân công ty.
- Quyết định về các thông tin trên bao gói. Tùy vào những điều kiện cụ thể
mà các nhà sản xuất bao gói quyết định đưa thông tin gì lên bao gói và đưa
chúng như thế nào? Thông thường những thông tin chủ yếu được thể hiện
qua bao gói là:
• Thông tin về hàng hóa, chĩ rõ đó là hàng gì?
• Thông tin về phẩm chất hàng hóa.
• Thông tin về ngày, người, nơi sản xuất và các đặc tính của hàng hóa.
• Thông tin về kỹ thuật an toàn khi sử dụng.
• Thông tin về nhãn hiệu thương mại và các hình thức hấp dẫn để kích
thích tiêu thụ.
• Các thông tin do luật quy định.
Các thông tin được đưa ra có thể bằng cách in trực tiếp lên bao bì hoặc in rồi
rồi dán lên bao bì. Gần đây cách thứ nhất được sử dụng phổ biến hơn.
2. Quyết Định Về Dịch Vụ Khách Hàng:
Một yếu tố khác cấu thành sản phẩm – hàng hóa hoàn chỉnh là dịch vụ khách
hàng. Tùy vào từng loại hàng mà tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng sẽ
khác nhau. Các nhà quản trị marketting phải quyết định ba vấn đề liên quan
đến việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Nội dung hay các yếu tố dịch vụ mà khách hàng đòi hỏi và khả năng công ty
có thể cung cấp là gì? Tầm quan trọng tương đối của từng yếu tố dịch vụ đó.
- Chất lượng dịch vụ và công ty phải đảm bảo cho khách hàng đến mức
độ nào so với đối thủ cạnh tranh.

- Chi phí dịch vụ, tức là khách hàng được cung cấp dịch vụ miễn phí
hay theo mức giá cả nào.
Lựa chọn hình thức cung cấp dịch vụ: công ty tự tổ chức lực lượng cung cấp
dịch vụ, dịch vụ được cung cấp bởi các trung gian buôn bán, dịch vụ do tổ
chức độc lập bên ngoài công ty cung cấp.
IV. QUYẾT ĐỊNH VỀ CHỦNG LOẠI VÀ DANH MỤC HÀNG HÓA.
1. Định Nghĩa Về Chủng Loại Hàng Hóa:
Chủng loại hàng hóa là một nhóm hàng hóa có liên quan chặt chẽ với nhau
do giống nhau về chức nun hay do bán chung cho cùng một nhóm khách
hàng, hay thông qua cùng những kiểu tổ chức thương mại, hay trong khuôn
khổ cùng một dãy giá.
2. Quyết Định Về Bề Rộng Của Chủng Loại Hàng Hóa:
Mỗi công ty thường có cách thức lựa chọn bề rộng chủng loại hàng hóa khác
nhau. Những lựa chọn này tuỳ thuộc vào mục đích mà công ty theo đuổi.
Các công ty thiên về theo đuổi mục tiêu cung cấp một chủng loại đầy đủ hay
phấn đấu để chiếm lĩnh phần lớn thị trường hoặc mở rộng thị trường thường
có chủng loại hàng hóa rộng. trong trường hợp này họ sản xuất cả những
hàng hóa sinh lời ít. Ngược lại có những công ty quan tâm trước hết đến sinh
lời cao của hàng hóa. Nhưng dù quyết định ban đầu của công ty như thế nào
thì hiện tại công ty cũng vẫn gặp phải vấn đề đặt ra là mở rộng và duy trì bề
rộng của chủng loại hàng hóa bằng cách nào? Giải quyết vấn đề này công
ty có hai hướng lựa chọn
Một là, phát triển chủng loại. phát triển chủng loại có thể được thực hiện
bằng các cách thức sau:
- Phát triển hướng xuống dưới.
- Phát triển hướng lên trên.
- Phát triển theo cả hai hướng trên.
Hai là, bổ sung chủng loại hàng hóa. Cách làm này có nghĩa là theo bề rộng
mà công ty đã lựa chọn, công ty cố gắng đưa thêm những mặt hàng mới
trong khuôn khổ đó. Việc bổ sung hàng hóa được đặt ra xuất phát từ các

mục đích sau:
- Mong muốn có thêm lợi nhuận.
- Để lấp chỗ trống trong chủng loại hiện có.
- Tận dụng năng lực sản xuất dịch vụ dư thừa.
- Mưu toan trở thành công ty chủ chốt với chủng loại đầy đủ.
Khi bổ sung những sản phẩm mới trong cùng một chủng loại công ty phải
tính đến khả năng giảm mức tiêu thụ của sản phẩm khác. Để làm giảm bớt
ảnh hưởng này công ty phải đảm bảo chắc chắn rằng sản phẩm mới khác hẳn
so với sản phẩm đã có.
3. Quyết Định Về Danh Mục Hàng Hóa:
Danh mục hàng hóa là tập hợp tất cả các nhóm chủng loại hàng hóa và các
đơn vị hàng hóa do một người bán cụ thể đem chào bán cho người mua.
Danh mục hàng hóa được phản ánh qua bề rộng, mức độ phong phú, bề sâu
và mức độ hài hoà của nó.
- Bề rộng của danh mục hàng hóa là tổng số các nhóm chủng loại hàng hóa
do công ty sản xuất.
- Mức độ phong phú của danh mục hàng hóa là tổng số những mặt hàng
thành phần của nó.
- Bề sâu của danh mục hàng hóa là tổng số các hàng hóa cụ thể được chào
bán trong từng mặt hàng riêng của nhóm chủng loại. Ví dụ: thuốc đánh răng
“Crset” là một mặt hàng thuốc nhóm chủng loại thuốc đánh răng. Thuốc
đánh răng “Crest” được chào bán trong ba kiểu đóng gói với hai loại hương
vị (loại thường và bạc hà). Khi đó bề sâu của danh mục hàng hóa có sáu
hàng hóa cụ thể.
- Mức độ hài hoà của danh mục hàng hóa phản ánh mức độ gần gũi của hàng
hóa thuộc các nhóm chủng loại khác nhau xét theo góc độ mục đích cuối
cùng, hoặc những yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh phân phối một tiêu
chuẩn nào đó.
Bốn thông số đặc trưng cho danh mục hàng hóa mở ra cho công ty bốn
hướng chiến lược mở rộng danh mục hàng hóa.

VI. CHU KỲ SỐNG CỦA SẢN PHẨM HÀNG HÓA
1. Khái quát về chu kỳ sống của sản phẩm.
Sau khi giới thịêu sản phẩm mới vào thị trường, doanh nghiệp muốn sản
phẩm của mình có một cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Mặc dù không ai
mong đợi sản phẩm của mình sẽ trường tồn vĩnh cữu trên thị trường, doanh
nghiệp nào muốn thu lại được nhiều lợi nhuận để bù lại những chi phí đã bỏ
ra trong quá trình nghiên cứu phát triển sản phẩm và chi phí tịêu tốn trong
giai đoạn đưa sản phẩm vào thị trường. Mặc dù không ai biết trước chu kỳ
sống của sản phẩm sẽ như thế nào và sẽ kéo dài bao lâu, các nhà quản trị biết
rằng sản phẩm nào cũng sẽ có một chu kỳ thị trường.
2. Các giai đoạn trong chu kỳ sống của sp
Vấn đề khá quan trọng cho các nhà quản lý là việc nhận ra sản phẩm của họ
đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống, ở một thời điểm được đưa ra. Môi
trường cạnh tranh và những chiến lược marketing tổng hợp thường sẽ khác
nhau trong mỗi giai đoạn.
Giai Đoạn Giới Thiệu
Suốt giai đoạn đầu tiên của chu kỳ sống, sản phẩm được tung vào thị trường
với chương trình marketing và sự sản xuất hoàn chỉnh. Đã đi qua những
bước phôi thai của việc đánh giá ý kiến, và trắc nghiệm thị trường. Sản
phẩm này có thể là mới. Hoặc là, sản phẩm có thể đã được biết nhưng có
một đặc điểm mới hay được thêm vào trong giai đoạn giới thiệu. Hoặc là, nó
có thể được chấp nhận ở một số khúc thị trường, nhưng ở trong giai đoạn
đầu của những khúc thị trường khác.
Tỷ lệ thất bại của sản phẩm trong giai đoạn này thì cao. Bởi chi phí cao,
cường độ doanh số thấp, thiệt hại cao, và sự phân phối hạn chế. Theo kinh
nghiệm, giai đoạn ban đầu này là giai đoạn tốn kém và rủi ro nhất. Tuy
nhiên, thực tế đối với những sản phẩm mới, có rất ít sự cạnh tranh. Chương
trình chiêu thị được tạo ra để kích thích nhu cầu trước tiên, và chủ yếu là
nhấn mạnh loại sản phẩm.
Giai Đoạn Tăng Trưởng

Trong giai đoạn tăng trưởng, hoặc giai đoạn được thị trường chấp nhận, cả
doanh số và lợi nhuận đều tăng ở tốc độ nhanh. Những đối thủ cạnh tranh
tham gia vào thị trường càng đông nếu như triển vọng lợi nhuận đặc biệt hấp
dẫn. Những người bán chuyển tới một chiến lược chiêu thị cho việc mua sản
phẩm hơn là thử sản phẩm. Số thị trường tiêu thụ tăng lên, giá cả có thể đi
xuống một ít.
Giai Đoạn Trưởng Thành
Suốt thời gian đầu của giai đoạn này, doanh số tiếp tục tăng lên, nhưng ở
một tốc độ giảm dần. Trong khi doanh số đang được ổn định, thì lợi nhuận
của nhà sản xuất và những nhà buôn lẻ giảm xuống. Sự cạnh tranh giá cả trở
nên gay gắt hơn. Nhà sản xuất gánh vác một phần lớn hơn cho những cố
gắng chiêu thị chung trong việc đấu tranh để duy trì những người bán và
những sản phẩm ở trong cửa hàng của họ. Những kiểu mẫu mới được giới
thiệu khi nhà chế tạo mở rộng những tuyến sản phẩm của họ, và doanh số
trong thương mại trở nên đáng chú ý.
Giai Đoạn Suy thoái
Thật sự đối với tất cả những sản phẩm thì sự cũ đi là không thể tránh khỏi
khi những sản phẩm mới bắt đầu chu kỳ sống của chúng, và sẽ thay thế cho
những sản phẩm cũ. Sự kiểm soát chi phí trở nên càng quan trọng khi nhu
cầu giảm xuống. Quảng cáo giảm xuống, và một số đối thủ cạnh tranh rút ra
khỏi thị trường. Sản phẩm có bị diệt vong hay không, hoặc là những người
bán có thể cứu sống được sản phẩm hay không, tuỳ thuộc vào khả năng quản
lý của xí nghiệp.
Bảng tóm tắt các đặc điểm và chiến lược marketting tương ứng trong
từng giai đoạn trong chu kỳ đời sống sản phẩm
Giai đoạn Đặc điểm Các chiến lược và nổ lực
Giới thiệu - Doanh thu tăng chậm,
khách hàng chưa biết nhiều
đến sản phẩm- Lợi nhuận là
số âm, thấp- Sản phẩm mới

tỷ lệ thất bại khá lớn- Cần
có chi phí để hoàn thiện sản
phẩm và nghiên cứu thị
trường
- Chuẩn bị vốn cho giai đoạn sau- Cũng
cố chất lượng sản phẩm- Có thể dùng
giá thâm nhập hoặc giá qua thị trường-
Hệ thống phân phối vừa đủ để phân
phối và giới thiệu sản phẩm- Quảng cáo
mang tín thông tin có trọng điểm,
người tiêu thụ, thương lái trung gian
Tăng
trưởng
- Doanh thu tăng nhanh, lợi
nhuận tăng khá- Chi phí
phát hành giảm- Lợi dụng
để tấn công vào thị trường
mới nhằm nâng cao thị
phần- Cần chi phí nghiên
cứu
- Cần tranh thủ kéo dài các chiến lược
và nổ lực+ Nhanh chóng mở rộng thị
trường+ Duy trì công dụng và chất
lượng sản phẩm+ Giữ giá hoặc giảm
nhẹ giá+ Mở rộng kênh phân phối mới+
Chú ý các biện pháp kích thích tiên thụ
như quảng cáo chiều sâu, tặng phẩm,
thưởng, hội chợ triển lãm
Trưởng
thành

- Doanh thu tăng chậm, lợi
nhuận giảm dần Hàng hóa
bị ứ đọng ở một số kênh
phân phối Cạnh tranh với
đối thủ trở nên gay gắt
- Cải tiến, biến đổi sản phẩm, chủng
loại bao bì, tăng uy tín, chất lượng sản
phẩm Cố gắng giảm giá thành để có
thể giảm giá mà không bị lỗ Cũng cố
hệ thống phân phối trong từng thị
Giai đoạn trưởng thành cần
tranh thủ
trường mới Tăng cường quảng cáo,
nhắc nhở và các mạng lưới khuyến mãi
để giữ chân khách hàng.
Suy thoái - Doanh thu và lợi nhuận
giảm mạnh. Nếu không có
biện pháp tích cực dể dẫn
đến phá sản Hàng hóa bị
tẩy chai không bán được
Đối thủ rút khỏi thị trường.
- Chuẩn bị tung sản phẩm mới thay
thế Theo dõi và kiểm tra thường
xuyên hệ thống phân phối, người sản
xuất kịp thời đổi mới…- Có thể… chết
bằng cải tiến sản phẩm mô phỏng, hạ
giá, tìm thị trường mới để thu hồi vốn.
Sau đây là chiến lược sản phẩm của Nokia

×