Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

393 Khơi thông nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.5 KB, 79 trang )


1




MỞ ĐẦU
Cơ sở khoa học và nhu cầu thực tiễn của đề tài
Hòa với xu thế của cả nước, Bình Thuận là một tỉnh đang thực hiện công
cuộc đổi mới, phát triển toàn diện dân sinh kinh tế, xây dựng nền tảng cơ sở vật
chất, kỹ thuật và hạ tầng đồng bộ, đẩy mạnh chuyển dòch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển vững chắc, hòa nhập vào sự phát triển chung của kinh
tế trọng điểm phía nam, thực hiện có kết quả mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
Vốn đầu tư là một yếu tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển và tăng
trưởng kinh tế, ở Việt Nam yếu tố về vốn đã đóng góp đến 45% tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Tỉnh Bình Thuận tuy có tốc độ phát triển kinh tế ở mức tương đối cao so
mức trung bình của cả nước, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của
tỉnh. Nằm ở cực Nam Trung Bộ, khu vực Duyên hải Miền Trung; giáp ranh với
các tỉnh miền Đông Nam Bộ, khu vực kinh tế trọng điểm và năng động của cả
nước, mức đầu tư xã hội vào Khu vực kinh tế trọng điểm phía nam chiếm trên
40% của cả nước. Tỉnh Bình Thuận có nhiều tiềm năng và lợi thế, song so với
các tỉnh trong khu vực như Đồng Nai, Bà Ròa Vũng Tàu, Bình Dương thì tốc độ
phát triển kinh tế vẫn còn kém xa.
Với quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, công nghiệp kém phát triển, công
nghệ lạc hậu; GDP của tỉnh năm 2005 chỉ ở mức trên 7.000 tỷ đồng (giá thực
tế); GDP bình quân đầu người chỉ đạt 400 USD, thấp hơn nhiều so với bình quân
cả nước là 640 USD. Do đó, tốc độ phát triển phải gia tăng với mức độ nhanh
hơn nữa mới bắt kòp và không bò tụt hậu so với cả nước và các tỉnh trong khu
vực.
Với mục tiêu và ý nghóa đó, cần phải phân tích, đánh giá một cách


nghiêm túc, xác đònh nguyên nhân để tìm ra giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy
tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế, mà trong đó vốn đầu tư là yếu tố vô
cùng quan trọng. Mặc dù nguồn nội lực cũng như ngoại lực vẫn còn nhiều tiềm
năng nhưng Bình Thuận thực sự chưa có các giải pháp hữu hiệu để khơi thông
các dòng vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

2




Mục đích nghiên cứu
Thông qua tình hình đầu tư và tăng trưởng kinh tế trên đòa bàn tỉnh trong
những năm vừa qua; phân tích, đánh giá, nhận đònh để đưa ra một số giải pháp
khơi thông, thu hút và huy động mọi nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đồng
thời sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư này nhằm phục vụ cho yêu cầu phát
triển kinh tế tỉnh Bình Thuận nhanh và bền vững.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Giới hạn của Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vốn đầu tư trong và
ngoài nước tại tỉnh Bình Thuận.
Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài được chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của khoa học kinh tế, chú trọng phương pháp lòch sử, thống kê, phân
tích, đánh giá để rút ra kết luận mang tính lý luận và thực tiễn phù hợp với điều
kiện thực tế tại tỉnh Bình Thuận.

Nội dung của Luận văn “Khơi thông nguồn vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế tỉnh Bình Thuận” bao gồm lời mở đầu, phần kết luận và 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư và vốn đầu tư.
- Chương 2: Thực trạng về đầu tư và tăng trưởng kinh tế trên đòa bàn tỉnh

Bình Thuận.
- Chương 3: Khơi thông nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh
Bình Thuận.





3




Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ

1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ
1.1.1. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư
1.1.1.1 Khái niệm
Đầu tư theo nghóa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả
nhất đònh trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả
đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí
tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác …) và nguồn nhân
lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã
hội.
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có
thể phân biệt các loại đầu tư sau đây:

- Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người
có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất đònh
trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tùy thuộc vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái
phiếu công ty). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
(nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lónh vực này) mà chỉ làm tăng giá trò
tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư.
- Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch
giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của
người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác
dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ

4




đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích lũy vốn cho phát
triển sản xuất, kinh doanh dòch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
- Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền
ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ
yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó
chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng,
mua sắm trang thiết bò lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các
tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo
tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư

phát triển.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì
sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền
kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong dài
hạn.
Vốn (hay tư bản – capital) trong nền kinh tế tại một thời điểm nào đó
được đònh nghóa bằng giá trò tổng các đầu tư qua các năm, tính đến thời điểm đó.
Trong thực tế, để tính toán giá trò vốn tại một thời điểm nào đó người ta cộng tất
cả các đầu tư trước đó, rồi trừ đi khấu hao hàng năm.
Căn cứ vào quan hệ sở hữu, có thể chia nguồn vốn đầu tư làm 2 loại là
đầu tư của khu vực nhà nước (các dự án công) và đầu tư của khu vực tư nhân
(các dự án sinh lời).
1.1.1.2. Đầu tư của khu vực nhà nước
Nguồn đầu tư thuộc khu vực nhà nước được xác đònh theo đẳng thức sau:
I
g
= PSBR + (T – C
g
) + F
g
(1.1)
Trong đó:
PSBR là khả năng đi vay của Chính phủ (public sector borrowing
requirement).
T là các khoản thu của khu vực nhà nước.

5





C
g
là các khoản chi tiêu của khu vực nhà nước không kể chi đầu tư,
chênh lệch các khoản thu và chi này là tiết kiệm của khu vực nhà nước.
F
g
là các khoản viện trợ và vay nợ từ nước ngoài vào khu vực nhà nước.
Dựa vào đẳng thức trên ta thấy đầu tư của khu vực nhà nước được tài trợ
bởi ba nguồn:
* Thứ nhất là khả năng huy động vốn của khu vực nhà nước từ khu vực
doanh nghiệp (bao gồm cả cá nhân) hoặc các tổ chức tài chính trung gian. Hình
thức huy động này được thực hiện bằng việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của
nhà nước.
* Thứ hai là tiết kiệm của khu vực nhà nước bằng các khoản thu về từ
ngân sách nhà nước trừ cho các khoản chi thường xuyên. Trong trường hợp các
nước kém phát triển thì khoản tiết kiệm này rất khiêm tốn, không đủ đáp ứng
nguồn vốn đầu tư lớn cho phát triển, nhất là đầu tư vào lónh vực hạ tầng cơ sở.
* Thứ ba là nguồn vốn giúp đỡ từ nước ngoài, đây là nguồn vốn có vai
trò khá quan trọng. Các nguồn từ nước ngoài thường ở dưới dạng viện trợ hoặc
vay nợ.
1.1.1.3. Đầu tư của khu vực tư nhân
Trên lý thuyết thì nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân được hình thành
từ tiết kiệm của doanh nghiệp (bao gồm cả cá nhân) (S
p
) và luồng vốn của nước
ngoài đổ vào khu vực (F
p
)
I

p
= S
p
+ F
p
(1.2)
S
p
= Y
p
d
- C
p
(1.3)
Trong đó: Y
p
d
là thu nhập khả dụng.
C
p
là tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình.
Luồng vốn của nước ngoài đổ vào khu vực này ở các dạng như đầu tư
trực tiếp (FDI) và các khoản nợ. Nguồn tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp
(gồm cả cá nhân) thường là nguồn chủ yếu trong nền kinh tế. Tuy nhiên, theo
thực tế của Việt Nam thì lượng tiết kiệm của nước ta là tiết kiệm phi sản xuất
được cất giấu dưới dạng q kim (vàng, bạc) hoặc ngoại tệ (USD) khá nhiều.

6





1.1.2. Nguồn vốn đầu tư
Xét trên tổng thể nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư được hình thành từ
tích lũy nội bộ của nền kinh tế và nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đưa vào.
1.1.2.1. Nguồn vốn trong nước
1.1.2.1.1. Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư
phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
- Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của
ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường
được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh,
hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lónh vực cần sự tham gia của
nhà nước; chi cho các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng,
lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thò và nông thôn.
Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không
ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Đi cùng với sự mở rộng
quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia
tăng đáng kể.
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi
mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò
đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ
quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã
có mức tăng trương đáng kể và bắt đầu có vò trí quan trọng trong chính sách đầu
tư của chính phủ. Nếu như giai đoạn 1991-1995 nguồn vốn này chiếm 5,6%, giai
đoạn 1996-1999 chiếm 14,5% thì riêng năm 2000 đã đạt đến 17% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội.

- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Được xác đònh là thành
phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một

7




khối lượng vốn nhà nước khá lớn và nắm giữ một số ngành quan trọng của nhà
nước. Mặc dù trong thời gian qua vẫn còn tình trạng quản lý sử dụng vốn kém
hiệu quả tại một số doanh nghiệp, nhưng với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này đã được khẳng
đònh, tích lũy của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng và đóng góp đáng
kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
1.1.2.1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ,
khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà
chưa được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ
trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích
lũy truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải
là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … Nguồn vốn này xấp xỉ bằng
80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát
hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc
doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và
hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.
Với 15 triệu hộ gia đình đóng góp khoảng 1/3 GDP, trong giai đoạn
1996-2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia
đình thực sự đã trở thành các đơn vò kinh tế năng động trong nhiều lónh vực. Ở

mức độ nhất đònh, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung
và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư
nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã) đã và sẽ đi
vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng
kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn
lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh
nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu

8




vự này gia tăng mạnh mẽ.
1.1.2.1.3. Thò trường vốn
Thò trường vốn có ý nghóa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế
của các nước có nền kinh tế thò trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung
và dài hạn cho các chủ đầu tư – bao gồm cả nhà nước và các loại hình doanh
nghiệp. Thò trường vốn bao gồm thò trường chứng khoán, hệ thống tín dụng, các
ngân hàng trong nước và đònh chế tài chính trung gian hình thành dòng chu
chuyển, thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi
nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung
ương và chính quyền đòa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền
kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn
nào có thể làm được.
Với sự hiện diện của thò trường vốn, các khoản vốn manh mún, rải rác
trong dân cư và các tổ chức kinh tế chưa có nhu cầu sử dụng sẽ được huy động
nhằm đáp ứng những nhu cầu về đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.

Thông qua thò trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền đòa phương cũng
có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình
bằng việc phát hành các loại chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái … Xét về
mặt kinh tế, hình thức huy động vốn này của nhà nước là rất tích cực. Nó góp
phần vào việc kiềm chế lạm phát do chính phủ không phải phát hành thêm tiền
giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu quả, thò trường vốn thực sự trở thành
một cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang
nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Thò trường vốn không chỉ được coi là một kênh huy
động vốn của nền kinh tế mà nó còn góp phần tích cực trong việc khắc phụctình
trạng khan hiếm vốn và sự lãng phí trong quá trình sử dụng vốn của toàn xã hội.
1.1.2.2. Nguồn vốn ngoài nước
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các
dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thò quá trình chuyển giao nguồn lực tài
chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế,

9




dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các
nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều
hình thức, mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng,
không hoàn toàn giống nhau.
Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể bao gồm các nguồn vốn nước
ngoài chính như sau:
1.1.2.2.1. Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance – Viện trợ
phát triển chính thức)

Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các
hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn tài trợ phát
triển nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài,
khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố không hoàn lại
đạt ít nhất 25%.
Thời gian qua, việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất
nhiều thuận lợi. Kể từ năm 1993 đến năm 2000, chính phủ Việt Nam đã tổ chức
hội nghò với các nhà tài trợ với tổng số vốn cam kết là 17,54 tỷ USD, với trên 45
đối tác hợp tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính
phủ đang hoạt động.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi
kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án,
thủ tục chuyển giao vốn và thò trường …). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp
dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính
tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần
lâu dài cho nền kinh tế.
1.1.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với
các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư
nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc
tiếp nhận các nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận.

10




Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhận

thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc
đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,
công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn
đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dòch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng
trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông á cho thấy rằng
đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của
các quốc gia này. Đối với Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện chính sách mở
cửa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp phần bổ sung vốn quan
trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện … Tính đến năm 2000,
Việt Nam đã thu hút được trên 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư,
trên 3200 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký khoảng 45 tỷ USD. Các
năm 2003 – 2004 – 2005 thu hút được lần lượt là 3,2 – 4,2 – 5,8 tỷ USD.
Đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài cũng
rất đáng kể. Đặc biệt, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào
việc hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông… Bước đầu hình thành và đẩy nhanh tốc độ phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao góp phần thực hiện công nghiệp hóa
hiện đại hóa và đô thò hóa các khu vực phát triển, tạo việc làm cho hàng vạn lao
động tại các đòa phương.
1.1.2.2.3. Các nguồn vốn khác từ bên ngoài
- Thò trường vốn quốc tế: Với xu thế toàn cầu hóa, mối liên kết ngày
càng tăng của các thò trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo
nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn
lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm
qua tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu
tư qua thò trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác.
Đối với Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững,


11




nhằm mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Nhà nước rất coi trọng việc
huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo
thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động
qua thò trường vốn cũng được chính phủ rất quan tâm, như phát hành trái phiếu
chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài.
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại: Đối với nguồn vốn
này, điều kiện ưu đãi không dễ dàng như nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó
có ưu điểm rõ ràng là không có gắng với ràng buộc về chính trò, xã hội. Mặc dù
vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian
trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các
nước nghèo. Chính vì vậy, nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại
thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là
ngắn hạn. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận nguồn vốn này vẫn còn hạn chế.
- Nguồn vốn từ kiều hối và bổ sung từ thu nhập hợp tác và xuất khẩu
lao động: Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã có chính sách thích hợp quan tâm
đến kiều bào ở nước ngoài, từ đó thu hút không ít nguồn lực từ các kiều bào yêu
nước chuyển vốn về cho thân nhân cũng như tìm cơ hội làm ăn ở chốn quê nhà.
Cùng với nguồn vốn kiều hối, nguồn vốn thu về từ hợp tác lao động và xuất
khẩu lao động cũng mang về một lượng đáng kể vốn phục vụ cho phát triển
nước nhà.
1.2. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ
Để đánh giá hiệu quả vốn đầu tư người ta sử dụng nhiều chỉ tiêu khác
nhau sau đây:
1.2.1. Hệ số ICOR (Incremental Capital – Output Ratio)

Hệ số ICOR là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một quốc gia hay
một ngành, cho thấy cần thêm bao nhiêu đồng cho đầu tư để tăng thêm một đơn
vò sản lượng. Ta có:
Tốc độ tăng trưởng = Lượng đầu tư x Hiệu quả đầu tư
Lượng đầu tư ở đây được tính bằng tỉ lệ đầu tư trên GDP và hiệu quả của
đầu tư là hệ số ICOR. Hệ số ICOR bằng:

12
Vốn đầu tư Vốn đầu tư
ICOR = =
GDP do vốn tạo ra GDP





Vốn đầu tư
Từ đó suy ra: Mức tăng GDP =
ICOR
Trong đó: I là đầu tư.
GDP là tổng sản phẩm quốc nội.
Các công thức trên cho thấy mối tương quan tỉ lệ nghòch giữa hệ số
ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với tỉ lệ đầu tư /GDP giống nhau, nước nào
có hệ số ICOR thấp hơn thì sẽ tạo ra một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Số
liệu thực tế từ các nước cho thấy sự khác biệt trong hệ số ICOR giữa các nước
đóng vai trò lớn trong việc giải thích sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng giữa các
nước.
Như vậy hệ số ICOR càng thấp thì chứng tỏ là đầu tư càng hiệu quả. Hệ
số ICOR thấp hơn có nghóa là cần một tỉ lệ đầu tư GDP thấp hơn để duy trì cùng
một tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, theo quy luật về lợi tức biên giảm dần

(diminishing marginal return of capital) nên khi nền kinh tế càng phát triển
(GDP/đầu người tăng lên) thì hệ số ICOR sẽ gia tăng, lúc này tiền lương sẽ tăng
cao. Nền kinh tế cần một tỉ lệ đầu tư/GDP cao hơn để duy trì cùng một tốc độ
tăng trưởng. Hệ số ICOR trung bình trong thập kỷ 80 của Mỹ là 5,6; Nhật là 5,1;
Hàn Quốc 4,0; ICOR của Việt Nam trong vòng 1 thập kỷ qua dao động ở mức 3
– 3,5.
Trong nội bộ nền kinh tế, việc so sánh hệ số ICOR giữa các ngành sẽ
thấy được ngành nào có hiệu quả đầu tư cao hơn.
1.2.2. Tổng các yếu tố năng suất TFP (Total Factor Productivity)
Một phần của tăng trưởng không giải thích được bằng sự gia tăng của
vốn và lao động và do đó được coi là đóng góp của TFP. TFP bao gồm những
yếu tố nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động (ổn đònh kinh tế vó mô, kiến
thức, tay nghề, trình độ tổ chức quản lý, trình độ chuyên môn hóa, khả năng tìm

13




kiếm thò trường, giảm bớt tắc nghẽn lưu thông ...)
Tổng năng suất các nhân tố (TFP) được tính từ phương pháp ước lượng
nguồn tăng trưởng từ hàm sản xuất. Sau khi trừ đi các yếu tố đóng góp về lượng
(lao động, vốn) cho tăng trưởng, phần còn lại của tăng trưởng là do đóng góp về
sự gia tăng hiệu quả trong nền kinh tế, gọi là tổng các yếu tố năng suất, viết tắt
là TFP. Hệ số TFP càng cao thì chứng tỏ nền kinh tế càng hiệu quả và ngược lại.
Phương pháp luận để ước lượng nguồn tăng trưởng trong khuôn khổ của
lý thuyết kinh tế tân cổ điển đã được dựa trên cơ sở công trình nghiên cứu của
Solow (1957). Hàm sản xuất tổng thể được giả đònh có dạng tổng quát như sau:
GDP = f (K, L, t) (1.4)
Trong đó: GDP là tổng sản phẩm trong nước.

K và L là các tổng nhập lượng vốn và lao động; t là thời gian.
Một giả đònh đơn giản nhất về tác động của thời gian là sự tiến bộ về
hiệu quả kinh tế như công nghệ và phương pháp quản lý, trong đó cho rằng tác
động này làm tăng khối lượng sản phẩm, sản xuất ra từ một sự kết hợp nhất đònh
của hai nhân tố sản xuất là vốn và lao động. Với giả đònh này, hàm sản xuất có
thể được viết như sau:
GDP
t
= A
t
f (K
t
, L
t
) (1.5)
Với A là tiến bộ về hiệu quả kinh tế như công nghệ, phương pháp quản
lý, điều hành . . . (được gọi chung là tổng các yếu tố năng suất).
Vậy ba nguồn gốc tăng trưởng tổng sản phẩm là sự gia tăng tổng các
yếu tố năng suất (A), vốn (K), và lao động (L) theo thời gian t.
1.2.3. Các chỉ tiêu về hiệu quả tài chính
- Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án: Đây là chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần phản ánh
hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư (quy mô lãi của cả đời dự án).
Chỉ tiêu này có thể tính chuyển về mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai.
- Chỉ tiêu suất sinh lời vốn tự có: Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận
thuần từng năm tính trên một đơn vò vốn tự có bình quân của năm đó. Nếu tính

14





cho cả đời dự án, chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập thuần của cả đời dự án
tính cho một đơn vò vốn tự có bình quân năm của cả đời dự án.
- Chỉ tiêu tỷ số lợi ích – chi phí (ký hiệu là B/C): Chỉ tiêu này phản ánh
tỷ số giữa lợi ích thu được với chi phí bỏ ra. Dự án có hiệu quả khi B/C>1 và
không có hiệu quả khi B/C<1.
- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư (ký hiệu là T): Chỉ tiêu này cho
biết thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra từ lợi
nhuận và khấu hao thu được hàng năm. Dự án có hiệu quả khi T<= tuổi thọ của
dự án hoặc T<= T đònh mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì hiệu quả của
dự án càng cao.
- Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (ký hiệu IRR): Hệ số hoàn vốn nội bộ
là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản
thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu cân bằng với tổng
chi. Dự án có hiệu quả khi IRR>= r giới hạn. Tỷ suất giới hạn được xác đònh
căn cứ vào các nguồn vốn huy động của dự án.
- Chỉ tiêu điểm hòa vốn: Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa
đủ để trang trải các khoản chi phí đã bỏ ra. Điểm hòa vốn được biểu hiện bằng
chỉ tiêu hiện vật (sản lượng tại điểm hòa vốn) và chỉ tiêu giá trò (doanh thu tại
điểm hòa vốn). Nếu sản lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản
lượng hoặc doanh thu hòa vốn thì dự án có lãi (có hiệu quả) và ngược lại, nếu
nhỏ hơn, dự án bò lỗ. Điểm hòa vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự
án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng ngắn.
1.2.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư
Trong điều kiện nền kinh tế thò trường có sự điều tiết vó mô của Nhà
nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải
được xem xét từ hai góc độ, người đầu tư và nền kinh tế.
Trên góc độ người đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể có nhiều,
nhưng quy tụ lại là lợi nhuận. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư có

khả năng sinh lời đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế và xã
hội. Do đó trên góc độ quản lý vó mô phải xem xét mặt kinh tế - xã hội của đầu
tư, xem xét những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện đầu tư đem lại. Điều

15




này giữ vai trò quyết đònh để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép
đầu tư, các đònh chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa
phương tài trợ cho hoạt động đầu tư.. Những lợi ích kinh tế - xã hội có thể được
xem xét mang tính chất đònh tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế,
phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần chống
ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh… , hoặc đo lường bằng cách tính toán đònh
lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng số người có việc làm, mức
tăng thu ngoại tệ. Một số tiêu chuẩn phổ biến để đánh giá hiệu quả kinh tế - xã
hội của của hoạt động đầu tư ở một số nước hiện nay là:
- Nâng cao mức sống của dân cư: Được thể hiện gián tiếp thông qua các
số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đóng góp
của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy
mạnh công bằng xã hội.
- Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu
chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước thừa lao động,
thiếu việc làm.
- Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ
nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tại các

quốc gia này.
- Thực hiện các mục tiêu kinh tế quốc dân khác: Đó là tận dụng hay
khai thác tài nguyên; nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có tay nghề
cao, tiếp nhận hay chuyển giao kỹ thuật; phát triển các ngành công nghiệp chủ
đạo; phát triển kinh tế ở các đòa phương nghèo, vùng xa xôi hẻo lánh…
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.3.1. Tốc độ tăng đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở cả hai mặt: tổng cung và tổng
cầu. Trong hàm tổng cầu thì đầu tư là một thành phần của tổng cầu. Hàm tổng

16




cầu có dạng như sau:
Y = C + I + G + X – M (1.6)
Trong đó:
Y là sản lượng hay thu nhập quốc dân.
C là tiêu dùng dân cư.
I là đầu tư.
G là chi tiêu của nhà nước.
X là xuất khẩu.
M là nhập khầu.
Từ đẳng thức (1.6) ở trên chúng ta thấy rằng khi đầu tư I tăng lên thì trực
tiếp làm cho thu nhập quốc dân Y tăng lên. Theo lý thuyết Kenyes thì khi đầu tư
tăng lên một đơn vò thì làm cho Y tăng hơn một đơn vò. Thật vậy, khi thay thế C
= a + bY và M = u + vY là hàm tiêu dùng và hàm nhập khẩu biểu diễn theo Y
thì đẳng thức (1.6) có dạng:
Y = (a + I +G + X – u) / (1 – b + v) (1.7)

Vì b là hệ số thiên hướng tiêu dùng biên (marginal presensity to
consume), bao gồm tiêu dùng trong nước và tiêu dùng nhập khẩu; v là hệ số
thiên hướng tiêu dùng nhập khẩu (marginal presensity to import). Do đó, (b – v)
sẽ lớn hơn 0 và (1 – b + v) sẽ nhỏ hơn 1, tức là 1/(1 –b +v) sẽ lớn hơn 1. Và từ
đẳng thức (1.7) cho thấy: với các điều kiện khác không đổi thì khi đầu tư I gia
tăng 1 đơn vò thì thu nhập Y sẽ gia tăng hơn 1 đơn vò. Ảnh hưởng trên gọi là ảnh
hưởng hệ số nhân (Multiplier effect).
Ảnh hưởng khác của đầu tư lên tăng trưởng kinh tế thông qua tổng cung
thể hiện ở chỗ là: vốn là yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn
được kết hợp với lao động và tài nguyên, thông qua quá trình sản xuất, sẽ tạo ra
của cải vật chất trong xã hội. Nhiều nghiên cứu đi đến kết luận vốn là nhân tố
quan trọng nhất tạo ra tăng trưởng kinh tế. Vốn không chỉ đóng góp trực tiếp
vào tăng trưởng kinh tế với tư cách là đầu vào của sản xuất (đóng góp về mặt
lượng) mà còn đóng góp một cách gián tiếp thông qua việc thúc đẩy tiến bộ kỹ

17




thuật do các đầu tư mới mang lại, do lợi thế kinh tế nhờ quy mô lớn (tức là với
một ngành, việc đầu tư mở rộng quy mô sẽ làm giảm chi phí sản xuất – do
chuyên môn hóa…). Đây là những đóng góp về “chất” của đầu tư, tức là hiệu
quả của nền kinh tế đã được nâng cao.
1.3.2. Mối quan hệ giữa cơ cấu đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trong khi các nhà kinh tế đều thừa nhận đầu tư là một trong những nhân
tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế: Muốn có tăng trưởng kinh tế thì
phải có đầu tư, tuy nhiên vấn đề hình thành cơ cấu đầu tư là một vấn đề gây
nhiều tranh cãi.
Các nhà kinh tế đều đồng ý với nhau rằng nền kinh tế cần có một cơ cấu

đầu tư hợp lý, để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý. Thuật ngữ hợp lý ở đây được
hiểu là cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế như thế nào đó để đảm bảo được tốc độ
tăng trưởng nhanh và bền vững. Nếu cơ cấu đầu tư không hợp lý sẽ tạo ra một
cơ cấu kinh tế không hợp lý, làm giảm năng lực cạnh tranh chung của nền kinh
tế, đến lượt nó làm giảm tốc độ tăng trưởng. Mặc dù đồng ý với nhau như vậy
nhưng các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về cách thức tạo ra một cơ
cấu đầu tư, cũng như cơ cấu kinh tế “hợp lý”
1.4. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI ĐẦU TƯ
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một vài nhân tố có thể ảnh hưởng đến
hành vi đầu tư. Các yếu tố này có thể phân thành 3 nhóm. Nhóm thứ nhất là các
tác động do chính việc đầu tư mang lại. Nhóm thứ hai là các tiến bộ và thay đổi
về công nghệ. Nhóm thứ ba là các yếu tố liên quan đến môi trường đầu tư.
1.4.1. Tác động có tính chất liên ngành của đầu tư
Cho tới giờ chúng ta chỉ xét tới lợi ích của đầu tư trên phương diện tài
chính và các lợi ích này có thể tách biệt rõ ràng thuộc về chủ đầu tư. Tuy nhiên,
các dự án đầu tư bao giờ cũng đem lại sự thay đổi ở mức độ nào đó đối với môi
trường kinh tế. Do đó ngoài các lợi ích và chi phí rõ ràng, các dự án đầu tư còn
có thể gây ra các chi phí hay đem lại các lợi ích vượt ra ngoài khuôn khổ của dự
án. Các tác động này không thể qui cho dự án đầu tư cụ thể nào và có thể tác
động rất rộng. Không chỉ vượt ra ngoài phạm vi của dự án, các tác động này có

18
thể vượt ra ngoài phạm vi của ngành, hay thậm chí vùng lãnh thổ và sẽ ảnh
hưởng tới các dự án đầu tư khác.
1.4.2. Tiến bộ công nghệ
Các đặc điểm công nghệ và tiến bộ công nghệ cũng là một nhân tố ảnh
hưởng tới hành vi đầu tư. Trong cách tiếp cận tân cổ điển, ta đã thấy tích lũy tư
bản đạt mức tối ưu khi:
r = P ( Y/ K ) (1.8)
Trong đó, r là chi phí của mỗi đơn vò tư bản

P là giá bán mỗi đơn vò sản phẩm
Y là sản lượng tăng thêm khi doanh nghiệp đầu tư thêm một lượng tư
bản
K là khối lượng tư bản tích lũy tăng thêm
Công thức trên chính là diều kiện đầu tư tối ưu theo lý thuyết tân cổ điển
và thường được phát biểu: Tích lũy tư bản đạt mức tối ưu khi doanh thu biên tế
của tư bản bằng chi phí của đơn vò tư bản.
Một khi tích lũy tư bản đã được điều chỉnh để đạt tới mức tối ưu, quá
trình đầu tư nói chung sẽ chậm lại và chủ yếu chỉ còn việc duy trì mức tư bản đã
tích lũy. Tuy nhiên, nếu có sự thay đổi công nghệ, việc thay thế máy móc thiết
bò mới sẽ làm tăng khả năng sản xuất, tức Y/ K. Việc tăng khả năng sản
xuất này xảy ra ngay cho dù việc thay thế hoàn toàn không làm tăng tích lũy tư
bản. Điều này có nghóa là mức tích tối ưu trong điều kiện công nghệ mới có xu
hướng cao hơn. Do đó, cải tiến công nghệ làm phát sinh nhu cầu đầu tư.
Tiến bộ công nghệ cũng có thể tạo ra cơ hội cho đầu tư mới. Ví dụ
những công nghệ mới có thể làm giảm chi phí sản xuất, nhờ vậy nhiều dự án trở
nên khả thi. Công nghệ mới cũng có thể tạo ra những nhu cầu mới, do đó thu hút
đầu tư vào lónh vực sản xuất các hàng hóa đó. Nhưng cũng cần lưu ý là tiến bộ
công nghệ cũng có thể làm thay đổi nhu cầu. Các loại sản phẩm mới có thể thay
thế các sản phẩm cũ. Do đó nhu cầu đầu tư ở một số ngành có thể giảm đi.






19





1.4.3. Môi trường đầu tư
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một số nhân tố liên quan tới môi
trường đầu tư có thể tác động tới hành vi đầu tư.
Trước hết, sự không chắc chắn trong hoạt động thò trường là một nguyên
nhân gây ra rủi ro đối với việc đầu tư. Sự không chắc chắn này có nhiều nguyên
do, và không thể loại bỏ hoàn toàn được. Tuy nhiên một trong các nguyên nhân
quan trọng gây nên tình trạng không chắc chắn là sự thiếu thông tin đã được
phát triển nhiều năm gần đây. Tuy nhiên các lý thuyết này khá phức tạp nên
chúng ta không đi sâu ở đây.
Tương tự như đối với thò trường, tình trạng không chắc chắn trong các
chính sách và môi trường đầu tư là một nguyên nhân có ảnh hưởng xấu tới đầu
tư. Việc thiếu thông tin về môi trường đầu tư, chính sách đầu tư, và các dự án
đầu tư liên quan cũng là yếu tố khiến cho các nhà đầu tư ngần ngại, hay không
nhận ra cơ hội đầu tư. Giải quyết được các cản trở này sẽ góp phần đáng kể vào
việc thúc đẩy đầu tư.
Một lý thuyết mới cũng được phát triển trong những năm gần đây và có
liên hệ tới việc nghiên cứu hành vi đầu tư là lý thuyết về chi phí giao dòch. Quan
điểm căn bản của lý thuyết này là các chi phí liên quan đến các thủ tục giấy tờ
trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp có thể rất cao, và do đó làm giảm
mong muốn đầu tư. Các chi phí này liên quan tới thời gian đi lại, chờ duyệt xét
... và thường không được tính thành tiền. Tuy vậy, các chi phí này gây tốn kém
cho doanh nghiệp. Ví dụ, lãi suất vay chính thức có thể thấp; nhưng để vay được
vốn, doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian để tìm các giấy tờ cần thiết cho
việc vay vốn. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ nhận thấy rằng chi phí mà
họ thật sự phải mất có thể quá cao và do đó họ sẽ không đầu tư. Cách tiếp cận
này ngụ ý để thúc đẩy đầu tư, không chỉ đơn thuần là tạo ra nguồn vốn cần thiết
để cho các dự án vay và giữ lại lãi suất thấp hợp lý mà đôi khi cần chú ý giải
quyết các vướng mắc về thủ tục. Vì đôi khi, lãi suất có thể thấp nhưng nếu các
chi phí giao dòch là cao (dù các chi phí này không biểu hiện cụ thể) thì doanh

nghiệp có thể vẫn không đầu tư. Trong bối cảnh của cách tiếp cận này, thông tin
cũng là một yếu tố quan trọng. Việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính sách về

20




các thủ tục cũng là một cách để góp phần làm giảm chi phí giao dòch.
1.5. KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ Ở CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ
VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN TRÊN THẾ GIỚI
Ở các tỉnh, thành phố trong nước cũng như ở các quốc gia trên thế giới
đều rất quan tâm đến vấn đề thu hút và tạo vốn cho đầu tư phát triển.
Ngoài việc huy động tối đa nguồn nội lực, việc thu hút, lôi kéo các nhà
đầu tư từ bên ngoài đến đầu tư tại quốc gia, đòa phương mình bằng một hệ thống
các giải pháp đồng bộ, bằng sự nỗ lực của các ngành, các cấp, từ nhà lãnh đạo
cao cấp cho đến cả người dân bản đòa.
Thành công thu hút đầu tư và phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Bình
Dương bắt nguồn từ suy nghó và quyết tâm tạo môi trường kinh doanh minh bạch
và thuận lợi cho nhà đầu tư, thực hiện chính sách “một cửa” (thay vì nhà đầu tư
phải liên hệ giao dòch với nhiều sở, ban, ngành để hoàn tất thủ tục đầu tư), tinh
giản và rút ngắn thủ tục, chủ động làm những công việc như khảo sát đòa điểm,
quy hoạch, đền bù và giải phóng mặt bằng cho các nhà đầu tư. Nhằm tháo gỡ
những vướng mắc khó khăn cũng như giải quyết những vấn đề chưa rõ ràng
trong các quy đònh, tỉnh Bình Dương đã chủ động báo cáo đề xuất, đồng thời có
biện pháp thực thi linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật. Nhờ vậy một số dự án,
ngành nghề thay vì ngừng trệ như các nơi khác thì ở Bình Dương vẫn được triển
khai (Ô. Lê Việt Dũng – Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Bình Dương –
bản tin Môi trường kinh doanh, tháng 8/2004).
Để xúc tiến và kêu gọi đầu tư, tỉnh Đồng Nai đã cử một đoàn quan chức

sang Mỹ với lòch trình kéo dài hơn hai tuần để tổ chức các hội thảo tại New
York, Washington D.C, Chicago, Minneapolis và San Francisco với một số
lượng lớn các nhà đầu tư Mỹ đã đến tham dự và quan tâm rất cụ thể và chi tiết.
Theo lời bà Đặng Thò Kim Nguyên, Phó Chủ tòch UBND tỉnh Đồng Nai, Phó
Đoàn Xúc tiến đầu tư Đồng Nai, là “vượt hơn cả mong đợi” (Kim Loan, Thời
báo kinh tế Sài Gòn)
Theo ông Nguyễn Văn Chính, Phó Ban quản lý các Khu công nghiệp Bà
Ròa – Vũng Tàu thì “Kinh nghiệm cho thấy chúng ta cứ tạo môi trường đầu tư
thông thoáng, thường xuyên gặp gỡ và tháo gỡ những khó khăn cho nhà đầu tư

21




đang hoạt động thì chính họ sẽ là những người “môi giới” tốt nhất cho những
nhà đầu tư tiếp theo”.
Đánh giá lại sau 15 năm mở cửa đón nhận thu hút FDI, TP Hồ Chí Minh
đặt trọng tâm vào các dự án đầu tư công nghệ cao, sử dụng nhiều chất xám. TP
Hồ Chí Minh đã thành lập một tổ liên ngành để hình thành một danh mục dự án
đầu tư cùng các lónh vực ưu tiên để kêu gọi đầu tư (Ô. Lương Văn Lý – Phó
Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.Hồ chí Minh – Tuổi trẻ, 8/9/2005).
Trong khi đó nhiều tỉnh đã liên tục “xé rào” ưu đãi đầu tư. Theo Bộ Tài
chính, có đến 33 đòa phương với 47 văn bản ban hành chính sách ưu đãi đầu tư
cao hơn mức hoặc ngoài những quy đònh của Chính phủ. Như tỉnh Vónh Phúc qua
đó đã thu hút được 391 dự án với tổng vốn gần 1,7 tỷ USD; các dự án này tạo
đến 80% tổng thu ngân sách trên đòa bàn (năm 2004 tổng thu đạt 2.400 tỷ
đồng), tốc độ tăng trưởng bình quân qua 4 năm đạt 14,3%/năm. Điều này không
tránh khỏi ảnh hưởng môi trường đầu tư chung (không nhất quán giữa các đòa
phương) nhưng nó cũng nói lên rằng chính sách vó mô chưa bắt kòp với thực tiễn.

Trong thời gian qua, Việt Nam có nhiều nổ lực trong việc cải cách hệ
thống pháp lý, cải thiện môi trường đầu tư, đạt được những tiến bộ đáng kể,
được các tổ chức quốc tế công nhận. Song so với các nước trong khu vực thì vẫn
còn kém xa. Bảng so sánh sau đây cho ta hình dung:

Thời gian hoàn
tất thủ tục đăng
ký tài sản (ngày)
Số lượng thủ
tục đăng ký
thành lập
Doanh nghiệp
Thời gian hoàn tất
các thủ tục thành
lập Doanh nghiệp
(ngày)
Việt Nam
Singapore
Thái Lan
Malaysia
67
9
2
143
11
6
8
9
50
6

33
30
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (WB) và Công ty Tài chính quốc tế (IFC), 2005
Trung Quốc hay Thái Lan là những quốc gia lân cận với chúng ta, họ rất
quan tâm đến việc thu hút các luồng vốn đầu tư. Bằng việc tích cực cải thiện
môi trường đầu tư và chính sách quảng bá hình ảnh về đất nước và con người
của họ, tăng cường công tác xúc tiến thương mại. Chính những nhà lãnh đạo cao

22




cấp của họ cũng thường xuyên tiếp xúc với các nhà đầu tư, các tập đoàn kinh tế
lớn để tìm hiểu những mong muốn cũng như nhu cầu của các nhà đầu tư, từ đó
đưa ra những quyết sách thích hợp. Đối với các nhà đầu tư, họ tin rằng việc đầu
tư sẽ được thuận lợi khi đã làm việc và được quyết đònh bởi người có thẩm
quyền cao nhất.

Kết luận chương 1
Nội dung chương 1 tập trung khái quát lý luận về đầu tư và vốn đầu tư.
Với khái niệm, cách phân loại nguồn vốn theo chủ sở hữu để nắm rõ nguồn gốc
hình thành, mục đích sử dụng và khả năng đáp ứng của từng nguồn vốn. Mặt
khác, xét trên tổng thể nền kinh tế cho ta biết năng lực nội tại và các dòng vốn
từ bên ngoài đưa vào, mỗi loại có đặc điểm và yêu cầu là tương đối khác nhau.
Nhưng nói chung, vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội. Hiệu quả và mức độ tác động, ảnh hưởng của vốn đầu tư không
chỉ phục vụ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, chuyển dòch cơ cấu kinh tế mà
còn tác động hiệu quả đến môi trường xã hội, tạo công ăn việc làm, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.

Ngược lại, hành vi đầu tư cũng bò tác động bởi nhiều yếu tố về kinh tế,
kỹ thuật và môi trường xã hội.
Song song với lý luận, kinh nghiệm thực tiễn là vấn về không thể thiếu
trong quá trình nghiên cứu. Do đó, trong chương 1 chúng tôi đã tổng hợp một số
kinh nghiệm trong việc khơi thông, tạo lập và thu hút các dòng vốn đầu tư được
đúc kết từ các tỉnh, thành phố và một số quốc gia có nền kinh tế năng động như
TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Ròa-Vũng Tàu, Vónh Phúc và các
nước lân cận như Trung quốc, Thái Lan.
Trên cơ sở lý luận và một số kinh nghiệm thu thập được, nội dung
chương 1 là nền tảng xuyên suốt của đề tài trong quá trình nghiên cứu, phân
tích, đánh giá thực trạng về đầu tư và tăng trưởng kinh tế trên đòa bàn Bình
Thuận trong thời gian qua.


23




Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN

2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN
2.1.1. Lợi thế và tiềm năng
- Về vò trí đòa lý: Với vò trí đòa lý thuận lợi, nằm trên tuyến Quốc lộ IA,
liền kề với vùng Đông Nam Bộ (là vùng có tiềm lực kinh tế lớn và tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao nhất nước), gần đường hàng hải quốc tế, có hệ thống giao
thông quan trọng cả về đường sắt lẫn đường bộ… tạo cho Bình Thuận khả năng
thuận lợi để phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng giao lưu kinh tế với cả nước

và quốc tế. Hình thành các ngành sản xuất bổ trợ và dòch vụ (đặc biệt là du lòch)
cho các tỉnh vùng Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên, cả nước và quốc tế.
Nằm liền kề với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhất là thành phố
Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Ròa-Vũng Tàu là những đòa phương
thu hút mạnh nguồn vốn FDI, vốn các doanh nghiệp ngoài nhà nước; có cơ chế
thông thoáng và hiệu quả trong việc thu hút vốn đầu tư; có tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở mức cao trong nhiều năm liền.
- Về tài nguyên: Bình Thuận có bờ biển dài trên 200 km, có nhiều bãi
tắm đẹp, cảnh quan thiên nhiên, rừng sinh thái tự nhiên, di tích lòch sử, văn hóa,
có các loại hình du lòch phong phú hấp dẫn; có hệ thống cơ sở hạ tầng giao
thông liên lạc, nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, các cơ sở dòch vụ tương đối đáp
ứng cho nhu cầu phục vụ du lòch … Với khoảng cách trên dưới 200 km đường bộ
(mất khoảng 3-3,5 giờ đi bằng phương tiện giao thông đường bộ) với thành phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Đông, miền Tây Nam bộ; với các tỉnh miền trung
và Tây nguyên. Hình thành các tour du lòch, Bình Thuận có đầy đủ điều kiện và
là nơi nghỉ dưỡng cuối tuần (với 2 ngày nghỉ) rất thích hợp cho phần đông đối
tượng với một thò trường đầy tiềm năng.
Với một vùng biển có thềm lục đòa rộng, cùng với Khu kinh tế đảo Phú
Quý, Bình Thuận có đủ điều kiện phát triển ngành kinh tế khai thác và chế biến

24




hải sản, công nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thuyền, phát triển các loại hình
dòch vụ phục vụ cho ngành kinh tế thủy sản.
Vùng biển ngoài khơi và vùng thềm lục đòa của tỉnh nằm gần trọn trong
bồn trũng Cửu Long, nơi được đánh giá có triển vọng khá về trữ lượng dầu mỏ.
Hiện nay đang thăm dò 6 mỏ (Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen, Sư Tử

Trắng, Sư Tử Vàng và Sư Tử Nâu), trong đó có 3 mỏ đã đưa vào khai thác
(Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen) với sản lượng hàng năm khoảng 8 triệu
tấn. Đây là điều kiện và là cơ hội tốt cho Bình Thuận phát triển hạ tầng và dòch
vụ để khai thác, sử dụng sản phẩm từ dầu khí, phục vụ cho các hoạt động từ
công nghiệp và dòch vụ dầu khí.
Với diện tích đất liền gần 8 ngàn km
2
, Bình Thuận cũng có nhiều loại
khoáng sản có giá trò thương mại và công nghiệp cao có khả năng khai thác hiệu
quả như: Sa khoáng Ilmenit, cát thủy tinh, nước khoáng, đá ốp lát và đá xây
dựng, sét,…
Trong điều kiện đô thò hóa diễn ra nhanh chóng như hiện nay, đất đai
được quy hoạch phát triển đô thò được xem là tài sản rất lớn mà ở Bình Thuận
cũng là một lợi thế không nhỏ.
- Về con người: Với dân số hơn một triệu người, gần 60% trong độ tuổi
lao động, người dân chòu khó và năng động. Do nằm cạnh thành phố Hồ Chí
Minh nên mặt bằng dân trí tương đối cao so bình quân chung cả nước và có đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý đã tiếp cận với công nghệ hiện
đại, công nghệ thông tin và những quy luật của nền kinh tế thò trường. Ngoài ra,
còn có một lực lượng lao động có tay nghề khéo léo trong một số ngành nghề
truyền thống, khai thác các sản phẩm lợi thế, giải quyết nhiều lao động. Con
người là yếu tố quan trọng để thúc đẩy và điều hành sự phát triển kinh tế của
tỉnh nhà, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tiếp cận nền kinh
tế thò trường, học tập và nâng cao các kỹ năng, … đủ sức đáp ứng một lực lượng
lao động phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới.
Cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của các nhà lãnh đạo tỉnh, biến những
tiềm năng và cơ hội thành hiện thực, đẩy nền kinh tế của tỉnh nhà phát triển
nhanh, mạnh, cân đối, vững chắc và ổn đònh để bám kòp kinh tế của các tỉnh

25





trong khu vực kinh tế trọng điểm.
2.1.2. Cơ hội, thách thức và những hạn chế trong thu hút các dòng
vốn cho đầu tư phát triển
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra với cường độ ngày càng
mạnh là tất yếu khách quan trong đời sống của thế giới ngày nay, nó không chỉ
tạo ra thời cơ và thuận lợi mà cả thách thức và rủi ro.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mang lại cơ hội cho Bình Thuận
tiếp cận với thông tin, những thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và dòch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của thò trường trong nước và quốc tế.
Hội nhập là cơ hội nâng cao thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài trong
tiến trình phát triển kinh tế xã hội nói chung, đặc biệt phát triển cơ sở hạ tầng,
công nghiệp chế biến và dòch vụ, du lòch của tỉnh. Bởi vì FDI thường có tác dụng
là yếu tố “mồi” trong huy động các nguồn đầu tư trong nước và góp phần tăng
trưởng GDP và GDP/người. Xu hướng di chuyển của các dòng FDI là hướng tới
những vùng lãnh thổ có môi trường đầu tư thuận lợi và hướng vào các ngành
công nghiệp và các ngành sản xuất, dòch vụ mà các nhà đầu tư mong đợi có hiệu
quả cao, đặc biệt là tại các nước công nghiệp mới (NICs) và các nước ASEAN.
Song phải thấy rằng trong giai đoạn tới, khi Việt Nam và các nước trong vùng
tham gia đầy đủ vào các thể chế khu vực và quốc tế sẽ dẫn đến cạnh tranh trong
thu hút nguồn vốn này và buộc chúng ta phải thường xuyên cải thiện môi trường
đầu tư để vượt lên các nước khác trong cuộc cạnh tranh này.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mang lại cơ hội cho Bình Thuận mở
rộng thò trường và giao lưu quốc tế. Các quan hệ song phương và đa phương
được mở rộng nhờ chính sách đối ngoại chung của đất nước cũng như quá trình
toàn cầu hóa kinh tế sẽ mở ra một thò trường rộng lớn không chỉ với cả nước mà

còn cho từng đòa phương. Song việc cạnh tranh lại diễn ra khá gay gắt, với quy
mô nền kinh tế nhỏ, trình độ phát triển thấp, khả năng cạnh tranh yếu cùng với
chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, hệ thống chính sách chưa đồng bộ, chưa
linh hoạt là những khó khăn trong quá trình hội nhập.

×