Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện phú vang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.77 KB, 58 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, khi đời sống vật chất của con người ngày càng được nâng cao
thì nhu cầu thoả mãn đời sống tinh thần của con người cũng trở nên quan trọng.
Vì vậy, du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nhiều quốc gia trên
thế giới và theo nhận định thì ngành du lịch hiện nay chỉ đứng sau ngành công
nghiệp ô tô, công nghiệp dầu khí.
Những năm gần đây, hoạt động du lịch trên thế giới đang có sự thay đổi
khi số lượng khách du lịch ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các loại hình du
lịch bền vững như: du lịch sinh thái, du lịch văn hoá .Trong đó du lịch văn hoá
được quan tâm nhiều nhất. Du khách muốn khám phá, tìm hiểu những giá trị
truyền thống của dân tộc mình cũng như của các dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một nước có ngành du lịch đang phát triển nhưng là nước có
nguồn tài nguyên du lịch hết sức phong phú. Ngoài những thế mạnh về cảnh
quan tự nhiên, những nét văn hoá truyền thống đặc sắc của dân tộc thì làng
nghề truyền thống cũng là một trong những thế mạnh cho Việt Nam phát triển
du lịch. Đến với làng nghề, du khách được chứng kiến tận mắt những công
đoạn tạo ra một sản phẩm thủ công mỹ nghệ qua bàn tay khéo léo của người
nghệ nhân dân gian để họ hiểu hơn về quá trình tạo ra sản phẩm, để được nghe
kể về lịch sử làng nghề, để từ đó trân trọng hơn những giá trị truyền thống của
dân tộc, góp phần trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị đó.
Các làng nghề truyền thống với các sản phẩm độc đáo thiết thực luôn đem
lại lợi ích kinh tế cho người lao động. Sản phẩm làng nghề không chỉ phục vụ
đắc lực cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân mà giờ đây chúng đã
trở thành những sản phẩm có giá trị xuất khẩu, mang lại thu nhập cao hơn cho
người lao động, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay, công việc
khôi phục và bảo vệ các làng nghề là rất quan trọng. Đó không phải là công
1
việc riêng của từng cá nhân của từng làng nghề mà là công việc chung của các
cấp, các ngành có liên quan vì thực trạng làng nghề Việt Nam nói chung đang
gặp nhiều khó khăn, cần có sự quan tâm giúp đỡ để giữ gìn, phát huy một nét


đẹp văn hoá trong kho tàng văn hoá truyền thống của dân tộc.
Việt Nam có rất nhiều làng nghề truyền thống,những địa phương có nhiều
làng nghề truyền thống phải kể đến Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình,
Nam Định, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Đã nẵng… trong đó các làng nghề ở
Thừa Thiên - Huế đã trải qua nhiều bước thăng trầm, gắn liền với những biến
động của lịch sử.Một số làng nghề và ngành nghề truyền thống đã được bảo
tồn,các làng nghề thủ công truyền thống đã lưu giữ lại những bản sắc, dấu ấn
của vùng văn hóa Huế, thể hiện sự khéo léo, tài hoa và óc sáng tạo của những
cư dân vùng đất giàu văn hóa.
Đặc biệt, với vị thế là một trong những trung tâm du lịch quan trọng của
quốc gia, là thành phố Festival của cả nước, sản phẩm thủ công nghiệp truyền
thống Huế có một vị trí quan trọng để tạo nên tính hấp dẫn và ấn tượng đối với
khách du lịch đến Huế. Những sản phẩm thủ công truyền thống Huế thường
tinh xảo, đẹp mắt và mang đậm tính thương hiệu Huế.Và các làng nghề thủ
công truyền thống ở Phú Vang là một trong những làng nghề mang lại nhiều
giá trị quan trọng trong quá trình phát triển du lịch đối với Huế nói chung và
Phú Vang nói riêng.Điển hình là làng nghề hoa giấy Thanh Tiên,Tranh Làng
Sình,làng chằm nón lá Mỹ Lam,mộc mỹ nghệ Phú Thượng Trong tình hình
hiện nay vị trí của nhiều mặt hàng thủ công đã có sự hồi sinh và cải biến rất
hợp lí nhưng cũng có những mặt hàng thủ công dần dần bị mai một.
Tuy có lịch sử phát triển lâu đời cùng với lợi ích mà nghề sẽ đem lại kinh
tế cho cá nhân, cho địa phương và cho đất nước nhưng các làng nghề vẫn chưa
được quan tâm đúng mức để phát triển và phục vụ cho hoạt động du lịch của
tỉnh.
Việc khôi phục và phát triển các làng nghề sẽ tạo công ăn việc làm cho
người dân địa phương, giải quyết khó khăn cho địa phương trong việc giảm
2
thiểu thất nghiệp, giảm thiểu tệ nạn xã hội. Phát triển du lịch làng nghề là một
loại hình du lịch phát triển bền vững thúc đẩy làng nghề phát triển, góp phần
bảo lưư những giá trị văn hoá vốn có của làng nghề truyền thống. Trong những

năm gần đây, sở Văn Hoá - Thể Thao - Du Lịch Huế và phòng Văn Hóa Thông
Tin huyện Phú Vang đă quan tâm tới sự phát triển của các làng nghề, phục vụ
cho hoạt động du lịch của tỉnh: nghiên cứu, xây dựng các tour, các tuyến du
lịch đưa du khách về với làng nghề. Đây là bước mở đầu có ý nghĩa đối với các
làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Vang.
Với hy vọng các làng nghề truyền thống không bị mai một và phát triển,
vừa là ngành kinh tế quan trọng của dân địa phương, vừa là sản phẩm du lịch
độc đáo của ngành du lịch Huế em đã chọn đề tài báo cáo tôt nghiệp của mình
là “du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Vang- Thừa Thiên
Huế".Với đề tài này em hy vọng các làng nghề truyền thống ở Phú vang sẽ
được mọi người sẽ biết đến nhiều hơn nữa, các cấp chính quyền có sự quan tâm
hơn nữa để các làng nghề phát triển hơn nữa hòa nhịp với tốc độ phát triển
chung của du lịch Huế.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Các làng nghề thủ công truyền thống từ lúc thành lập qua quá trình tồn tại
và phát triển với những tiến triển mới,những sự thay đổi thích nghi của các làng
nghể để tạo ra những mặt hàng thủ công truyền thống góp phần phát triển hoạt
động du lịch ở Phú Vang-Thừa Thiên Huế.
Những định hướng và giải pháp để bảo tồn và phát triển các làng nghề thủ
công truyền thống trong hoạt động du lịch Huế nói chung và Phú Vang nói
riêng.
3.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
+Đối tượng nghiên cứu: du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở
huyện Phú Vang-Thừa Thiên Huế.
+Phạm vi nghiên cứu: các làng nghề thủ công truyền thống trên địa
bànhuyện Phú Vang,tỉnh Thừa Thiên Huế.
3
4.Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình làm báo cáo, các phương pháp nghiên cứu đã được sử
dụng:

Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu.
Phương pháp thống kê, phân tích.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
5.Đóng góp của đề tài:
Với đề tài “du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú
Vang" em nhằm mục đích sau:
Tìm hiểu giá trị của làng nghề truyền thống góp phần cho sự phát triển của
du lịch của Phú Vang bằng cách tạo ra sản phẩm du lịch mới cho du lịch trên
địa bàn huyện đó là sản phẩm du lịch làng nghề.
6.Bố cục đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung bài báo cáo
gồm có ba chương
+Chương 1: Giới thiệu chung về huyện Phú Vang-tỉnh Thừa Thiên Huế
+Chương 2: Một số làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú
Vang.Đánh giá tiềm năng du lịch.
+Chương 3: Thực trạng và giải pháp khai thác các làng nghề thủ công
truyền
thống phục vụ du lịch hiện nay trên địa bàn huyện Phú Vang.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HUYỆN PHÚ VANG -
THỪA THIÊN HUẾ
1.1.Vài nét về huyện Phú Vang
1.1.1.Điều kiện tự nhiên
a.Vị trí địa - Đặc điểm địa hình:
Phú vang là huyện vùng đầm phá ven biển, địa hình bị chia cắt bởi nhiều
sông đầm, gò cát. Phia bắc giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Hương Trà và
thành phố Huế, phía Nam giáp huyện Hương Thủy và phía Đông giáp huyện
Phú Lộc.
Toàn huyện có diện tích đất tự nhiên 28,031ha, chiếm 5,6% diện tích đất
tự nhiên cả Tỉnh. Phú Vang thuộc vùng địa đình đất trũng, diện tích đềm phá

lớn, đất đai bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông ngòi, doi cát.
Đất đai thổ nhưỡng Phú Vang đa dạng, mặt nước chưa sử dụng còn
nhiều.
Với chiều dài 45km bờ biển và Cảng biển Thuận An; 8,626ha diện tích
mặt nước đầm phá nước sẽ rất thuận lợi cho việc phát triển tiềm năng du lịch
sinh thái biển và đầm phá trên địa bàn toàn Huyện.
b.Đặc điểm khí hậu và thời tiết:
Phú Vang nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm của vùng ven biển, có
hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 8 năm trước đến tháng giêng năm
sau; Lượng mưa hàng năm khá lớn, trung bình khoảng 3000mm. Mưa phân bố
không đồng đều trong năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 9, 10, 11 và 12
chiếm 75-80% lượng mưa cả năm gây úng lụt.
Mùa nắng gió Tây Nam khô nóng oi bức, bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8,
lượng bốc hơi cao nhất từ tháng 2 đến tháng 4( đúng lúc nước thủy triều thấp).
5
Nhiệt độ không khí trung bình năm tương đối cao, dao động từ 24,9
o
C
đến 26,4
o
C, ít thay đổi theo mùa. Thủy triều có hai chế độ, từ bán nhật triều đều
đến bán nhật triều không đều, biên độ thủy triều dưới 0,5m-2m. Tại Thuận An
có độ cao thủy Triều trung bình khoảng 0,4m-0,5m. Vùng Bắc và Nam Thuận
An có độ cao thủy triều trung bình 0,6m-1,2m. Độ cao thủy triều trong các
đầm, phá vũng, vịnh thường nhỏ hơn các vùng biển.
Là huyện ven biển, đầm phá nên Phú Vang còn có đặc thù của hệ sinh
thái ven bờ, hàng năm có mưa to, gió bão nên cần chú ý khai thác Du lịch ở
mùa nắng khô.
c.Đặc điểm thủy văn:
Trong phạm vi huyện Phú Vang, hệ thống sông ngòi trải dài và ôm kín

khắp địa bàn của Huyện, bắt nguồn từ sông Hương, sông Như ý, sông Phổ Lợi
chảy qua các xã Phú Thượng, Phú Dương, Phú Mậu, Phú Thanh và Thị trấn
Thuận An đỗ ra biển. Sông An Cựu, Lợi Nông, Thiệu Hóa và sông Đại Giang
chảy qua các xã Phú Mỹ, Phú Hồ, Phú Lương, Phú Đa, Vinh Thái, Vinh Hà,
xuôi về đầm Cầu Hai trước khi tưới mát cho các đồng ruộng của các xã.
Ngoài hệ thống sông ngòi, Phú Vang còn có nhiều đầm phá nước lợ như:
Đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú, đầm Sam, đầm Chuồng và một phần phía Bắc
đầm Cầu Hai nối liền nhau thông qua Phá Tam Giang rộng lớn.
d.Tài nguyên khoáng sản:
Phú Vang tài nguyên khoáng sản không nhiều, một số loại điển hình như
Titan ở xã Phú Diên, có chất lượng tốt đang được khai thác, xong quy mô
không được lớn.
Ngoài ra, ở xã Phú Đa – Phú Thứ, huyện Phú Vang còn có cát trắng và
đặc biệt là nguồn tài nguyên nước khoáng nóng Mỹ An là nguồn tiềm năng cho
việc phát triển dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh.
e.Điều kiện môi trường sinh thái:
Huyện Phú Vang là huyện giáp biển, có diện tích đầm phá lớn, mức độ
khai thác và quy mô sản xuất còn nhỏ, chủ yếu là sản xuất lúa, hoa màu, đánh
6
bắt, nuôi trồng thủy hải sản; Việc khai thác các ngành công nghiệp khác còn rất
hạn chế nên môi trường tự nhiên của Phú Vang rất trong sạch, ô nhiễm không
khí ít, môi trường sống còn rất trong lành, phù hợp cho việc khai thác tiềm
năng phát triển du lịch tự nhiên, đặc biệt là loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du
lich sinh thái biển và đầm phá.
Tuy vậy, Phú Vang cũng là một vùng đất hội tụ nhiều điều kiện bất lợi
như bão lụt, hậu quả của chiến tranh tàn phá, là điểm cuối của các con sông đổ
về nên môi trường có phần bị ảnh hưởng xấu. Chính vì vậy, vấn đề khai thác
tiềm năng du lịch biển và đầm phá cần phải được quy hoạch để bảo vệ môi
trường và môi sinh.
*Đánh giá chung về tài nguyên tự nhiên:

Phú Vang là mảnh đất còn hoang sơ: các bãi biển và đầm phá còn nhiều
tiềm năng chưa được khai thác, đây là một hạn chế, song dưới góc độ môi
trường du lịch thì đây lại là một lợi thế vì tất cả tài nguyên thiên nhiên còn ở
dạng nguyên sơ. Tài nguyên thiên nhiên của Phú Vang tuy không đặc sắc
nhưng khá dầy đặc và nói chung tương đối dễ tiếp cận, dễ khai thác cho tuyến
du lịch Huế và vùng phụ cận.
1.1.2.Điều kiện nhân văn:
Để đánh giá nguồn tài nguyên du lịch nhân văn của Phú Vang, cần xem
xét một số vấn đề sau:
a.Dân số và nguồn nhân lực:
Dân số trung bình toàn huyện năm 2006 là 186.000 người ( chiếm
khoảng 16,6% dân số toàn tỉnh ). Tỷ lệ tăng dân số bình quân là 1,3%. Dân số
thành thị chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 11,2% dân số toàn huyện. Mật độ dân số
trung bình là 650 người/km
2

, nhưng phân bố không đồng đều giữa các xã, dân
cư tập trung đông nhất là ở thị trấn Thuận An, Xã Phú Thượng, Phú Mỹ, Phú
Diên, Phú Đa; thấp nhất là ở Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Lương, Phú Hồ và Phú
Thanh.
Năm 2006, nguồn lao động của huyện có khoảng người chiếm
7
khoảng % dân số. Trong đó lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông,
lâm nghiệp chiếm khoảng %, dịch vụ chiếm khoảng % còn lại là hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.
Nhìn chung, huyện có nguồn nhân lực dồi dào, tuy nhiên trình độ chuyên
môn kỹ thuật, tay nghề cao còn hạn chế. Trình độ dân trí còn thấp, số lượng lao
động được đào tạo ngành nghề chính qui còn it. Nhưng hạn chế trên đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của toàn huyện trong đó có phát triển du
lịch.

b.Đặc điểm kinh tế xã hội:
Trong báo cáo rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế dự thảo lần 3 vào tháng 3-2001; phương
hướng phát triển ngành Dịch vụ Du lịch là phát triển bền vững ngành Du lịch
nhằm đạt được các mục tiêu cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, đưa
du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh.
Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, xây dựng chiến
lược phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch theo nhu cầu thị trường
vùng đầm phá định hướng 2001-2010 phát huy mọi tiềm lực và lợi thế, tập
trung xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và đầm phá trở thành
vùng phát triển năng động toàn diện bao gồm thủy sản, du lịch, nông lâm công
nghiệp chế biến.
Mặc dù còn có nhiều khó khăn về vốn đầu tư, song sau khi Quy hoạch
Tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội Huyện Phú Vang thời kỳ 2001 – 2010
được phê duyệt, huyện Phú Vang dần dần có được những thành tựu quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật không ngừng được củng
cố, đời sống xã hội được nâng cao là cơ hội để nhân dân tham gia du lịch, trực
tiếp đầu tư phát triển du lịch.
Nền kinh tế của huyện đã phát triển với tốc độ khá cao, bình quân giai
đoạn 2000 – 2005 đạt 11,7%, cao hơn mức tăng 4,5% của 5 năm trước. Trong
đó, khu vực công nghiệp, TTCN – Xây dựng đạt 14,4% năm; Các ngành Dịch
8
vụ đạt 9,5%/năm và khu vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp đạt 12,2%/năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tỷ trọng khu vực công nghiệp, TTCN - xây dựng trong GDP tăng từ 16,77%
( năm 2000 ) lên 23,8% ( năm 2005 ); Các ngành Dịch vụ duy trì mức đóng góp
25,2% ( trong đó, du lịch đóng góp 6% ); Khu vực Nông - Lâm – Ngư nghiệp
giảm tương ứng 56% xuống còn 51% nhưng tổng số sản phẩm vẫn tăng cao.
Cơ cấu ngành nghề trong nông thôn có những thay đổi cơ bản, phát triển
đa dạng, sản phẩm nông nghiệp đang có bước phát triển theo hướng sản xuất

hàng hóa, số hộ thuần nông giảm từ 63,8% ( năm 2000 ) xuống còn 59,1%
( năm 2005 ); Hộ Thương nghiệp – Dịch vụ tăng từ 8,95% lên 15,1%.
Đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu tiên đầu tư cho giao thông, thủy
lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện quá trình đô thị hóa diễn ra
nhanh ở Phú Thượng, thị trấn Thuận An, Phú Đa đáp ứng ngay càng tốt hơn
nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống cho nhân dân.
1.1.3.Các nguồn tài nguyên du lịch
* Tài nguyên du lịch tự nhiên
- Khu nước khoáng chữa bệnh Mỹ An:
Mạch suối khoáng Mỹ An nằm cách thành phố Huế 6km về phía Đông, tại
Làng Mỹ An, thuộc xã Phú Tân, huyện Phú Vang. Suối nằm ngay cạnh đường
Quốc lộ, trong một vùng đất khá bằng phẳng và rộng. Đặc điểm địa chất của
khu vực và tính chất lý hóa của nước khoáng ở đây có công dụng chữa các
bệnh về khớp, cột sống, viêm dây thần kinh, Nước khoáng Mỹ An được xác
định đạt tiêu chuẩn quy định quốc tế về chữa bệnh.
Con suối này đã có từ rất lâu, hiện nay đang được Công ty Du lịch Hương
Giang khai thác cho người dân để tắm và chữa bệnh rất hiệu quả.
- Bãi biển Thuận An thuộc thị trấn Thuận An là nơi nghỉ mát lý tưởng cho
các du khách trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn có các bãi tắm thuộc xã Phú
Thuận và Phú Diên đã và đang được khai thác có hiệu quả.
Bãi tắm Thuận An nằm cách thành phố Huế 13km. Đây là một nơi tắm
9
biển thú vị cho mọi du khách sau một ngà tham quan lăng tẩm, chùa chiền,
phong cảnh ở Huế. Từ trung tâm thành phố Huế khách chỉ mất 15 phút là đến
được bãi tắm Thuận An. Mùa hoạt động của bãi tắm từ tháng 4 đến tháng 8.
* Tài nguyên du lịch nhân văn:
- Khu Đình Làng Dương Nỗ: Khu này thuộc Làng Dương Nổ, Xã Phú
Dương, huyện Phú Vang.
Trong hệ thống di tích Đình Làng Dương Nổ có cụm di tích lưu niệm Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở Làng Dương Nổ, cụm di tích bao gồm Nhà lưu niệm.

Đình Làng, Bến Đá, Am Bà trong đó có 2 di tích được công nhận là di tích
quốc gia:
- Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh nơi người đã sống và học tập những
năm 1898 - 1990; Đình Làng Dương Nổ, ngoài ý nghĩa là nơi lưu niệm dấu ấn
danh nhân còn là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo của thiết chế làng xã
Việt Nam.
Với vai trò vị trí đó, nhiều năm qua cụm di tích này đã được từng bước
quan tâm đầu tư và phát huy tác dụng. Hằng năm, cụm di tích này đã thu hút
hàng vạn lượt khách trong và ngoài nước, góp phần tích cực trong việc tuyên
truyền giáo dục tư tưởng, thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nhà lưu niệm Nguyễn Chí Diễu thuộc Làng Thanh Tiên Xã Phú Mậu,
nơi đây lưu niệm những dấu tích của cụ Nguyễn Chí Diễu.
Trấn Hải Đài, nằm ở thị trấn Thuận An, là một di tích văn hóa lịch sử
trong thời gian khách chiến. Hiện nay, Trấn Hải Đài không được bảo vệ và gìn
giữ nên đã xuống cấp nhiều, cần được quan tâm tu bổ tôn tạo và bảo vệ.
Tháp Chàm ở xã Phú Diên.
- Căn cứ địa Cách mạng Thanh Lam Bồ, nằm ở xã Vinh Thái, là nơi xảy
ra những cuộc chiến ác liệt của quân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống
xâm lược.
- Căn cứ địa Cách mạng Phú Thứ, nằm ở xã Phú Đa, huyện Phú Vang, nay
quy hoạch là trung tâm huyện lỵ Phú Đa, là nơi xảy ra những cuộc chiến ác liệt
10
của quân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Làng chài Thuận An nằm thôn Hải Tiến; Làng chài Đồng Miệu ở xã Phú
An và Làng chài Phú Mỹ.
- Khu Đình Làng An Tuyền: Nằm trên đương Tỉnh lộ10A thuộc xã Phú
An, đây là Di tích Văn Hóa Lịch sử Quốc gia, nơi diễn ra Lễ hội Thu tế Làng
Chuồng hàng năm vaò ngày 15/8 âm lịch.
1.2.Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1.Khái niệm du lịch

Khái niệm du lịch:Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại du lịch đã được ghi
nhận là một sở thích, một hoạt động tích cực nghỉ ngơi của con người. Ngày
nay trên phạm vi toàn thế giới du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu
được trong đời sống văn hóa – xã hội của nhiều nước, hoạt động du lịch đang
phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng ở
nhiều nước trên thế giới.
Ngày nay thuật ngữ "Du Lịch " đã trở nên rất thông dụng, nó được bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp , có nghĩa là đi một vòng, trong tiếng việt thuật ngữ này
được dịch thông qua tiếng Hán: "Du "có nghĩa là đi chơi," Lịch": có nghĩa là
từng trải. Tuy nhiên người Trung Quốc gọi du lịch là du lãm với nghĩa là đi
chơi để nâng cao nhận thức.Du lịch là một hoạt động kinh tế mang tính xã hội
cao thu hút hàng tỷ người trên thế gới, bản chất kinh tế của du lịch là ở chỗ sản
xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất tinh thần
cho khách. Bên cạnh đó du lịch còn góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu các
nghành kinh tế như: giao thông, công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng… theo
hướng tăng tỷ trọng của khối dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Hoạt động du
lịch thường gắn liền với đi chơi, giải trí nhằm phục hồi nâng cao sức khỏe và
khả năng lao động của con người, nhưng các chuyến đi du lịch không chỉ dừng
lại ở việc nghỉ ngơi, giải trí mà còn thỏa mãn rất lớn nhu cầu về tinh thần. Bởi
mỗi vùng, mỗi quốc gia lại cho những đăc trưng riêng về tự nhiên, lịch sử, văn
hóa truyền thống, nhưng trước hết hoạt động du lịch liên quan mật thiết đến
11
việc di chuyển chỗ tạm thời của khách du lịch. Trong lịch sử xã hội loài người
có rất nhiều hoạt động, nhiều chuyến đi mà người ta còn gọi là các hoạt động
sơ khai như các cuộc hành hương tôn giáo,các cuộc thám
hiểmChritopher,Colombo,Termand Majillan…. Cho đến nay có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về du lịch, do hoàn cảnh ( thời gian, khu vực) dưới góc độ
nghiên cứu khác nhau, mỗi người lại có cách hiểu khác nhau về du lịch.
Năm 1963, tại hội nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch ở RoMa các chuyên gia
đã đưa ra định nghĩa về du lịch:" Du lịch là tổng hợp các mối liên hệ hiện tượng

và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá
nhân hay tập thể bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với
mục đích hòa bình. Nơi đến lưu trú không phải là nơi ở thường xuyên của họ".
Theo quan điểm của tổ chức du lịch thế giới ( WTO – 1999):" Du lịch là
một tập hợp các hoạt động và các dịch vụ đa dạng liên quan đến việc di chuyển
tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm mục đích
tiêu khiển, nghỉ ngơi văn hóa, nghỉ dưỡng và nhìn chung là nhiều lý do không
phải kiếm sống".
Luật Du lịch của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
ngày 01 tháng 01 năm 2006, tại chương 1, điều 10 định nghĩa:" Du lịch là hoạt
động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng nhu
cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong thời gian nhất định ".
1.2.2. Khái niệm khách du lịch.
Có nhiều khái niệm về khách du lịch. Tuy nhiên do hoàn cảnh thực tế mỗi
nước, theo quan điểm khác nhau của các tác giả nên các khái niệm đưa ra
không hoàn toàn như nhau. Nhưng hầu như tất cả các khái niệm, khách du lịch
đều được coi là người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình.Ở nước ta theo
luật du lịch Việt Nam thì khách du lịch được định nghĩa như sau: " Khách du
lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc
hoặc hành nghề để nhận thu nhập từ nơi đến". Cũng theo luật du lịch Việt Nam
2006 về khách du lịch: Bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế
12
được hiểu như sau: " Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước
ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam". " Khách du
lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào
Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt
nam ra nước ngoài đi du lịch".
1.2.3. Khái niệm về tài nguyên du lịch.
* Tài nguyên du lịch. Theo Luật Du lịch( 2006): " Tài nguyên du lịch là
cảnh quan tự nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao

động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng
nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch,
điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch."
* Tài nguyên du lịch nhân văn Theo luật du lịch Việt Nam, tại điều 13 đưa
ra: “ Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm truyền thống, các yếu tố văn hóa,
văn nghệ dân gian, di tích lịch sử cách mạng, các công trình lao động nghệ
thuật sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có
thể sử dụng phục vụ cho mục đích du lịch”. Tài nguyên du lịch nhân văn bao
gồm di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Theo Luật di sản văn
hóa Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2002 tại điều 4 giải thích từ
ngữ: Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật cổ vật,
bảo vật quốc gia. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch
sử, văn hóa khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng
truyền miệng, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm
tiếng nói, chưc viết, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn
truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề
thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về trang phục truyền
thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. Di tích lịch sử văn hóa là công
trình xây dựng, địa điểm có giá trị lịch sử,văn hóa khoa học.
* Tài nguyên du lịch tự nhiên: Theo Luật Du Lịch Việt Nam: “Tài nguyên
13
du lịch tự nhiên là hiện tượng trong môi trường tự nhiên được phục vụ cho mục
đích du lịch”. Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: Các thành phần tự nhiên:
địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật… Các cảnh quan tự nhiên. Các di sản thiên
nhiên thế giới
1.2.4. Khái niệm về làng nghề truyền thống
Theo tiến sỹ Phạm Côn Sơn trong cuốn“ Làng nghề truyền thống
ViệtNam” làng nghề được định nghĩa như sau" Làng là một đơn vị hành chính
cổ xưa mà cũng có nghĩa là một đơn vị quần cư đông người, sinh hoạt có tổ

chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là
một làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống
hợp quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là
sự vừa làm ăn tập thể vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và cá
biệt của địa phương".
Xem xét định nghĩa ở dưới góc độ kinh tế theo Dương Bá Phượng trong:
"Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa” thì " làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công tách
ra khỏi thủ công nghiệp và kinh doanh độc lập". Thu nhập từ các nghề đó
chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị của toàn làng” Làng nghề theo cách phân
loại về thời gian gồm có: Làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
Theo tiến sỹ Phạm Côn Sơn trong cuốn "Làng nghề truyền thống Việt
Nam" thì làng nghề được định nghĩa như sau: Làng nghề truyền thống là làng
nghề cổ truyền làm nghề thủ công truyền thống. Ở đây không nhất thiết dân
làng đều sản xuất thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng là nông
dân. Nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản
xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình.
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn
trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác
như đan lát, gốm sứ, làm tương song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo
với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có
14
phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã
chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra
những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở
thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng
xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể
xuất khẩu ra cả nước ngoài”.
Báo cáo xin được đi sâu vào tìm hiểu các làng nghề truyền thống Phú

Vang - Thừa Thiên Huế.
15
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG Ở
HUYỆN PHÚ VANG - ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG DU LỊCH
2.1.Vai trò của làng nghề đối với hoạt động du lịch Phú Vang
Giữa hoạt động du lịch và làng nghề có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ tác
động qua lại lẫn nhau. Phát triển du lịch tại các làng nghề truyền thống là một
giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế xã hội làng nghề truyền thống nói
chung theo hướng tích cực và bền vững.Ngược lại làng nghề truyền thống cũng
là trung tâm thu hút khách du lịch và có tác động mạnh mẽ trở lại khách du lịch
trong mục tiêu phát triển chung. Làng nghề truyền thống là một không gian văn
hóa – kinh tế - xã hội lâu đời, nó bảo lưu tinh hoa văn hóa từ đời này sang đời
khác đúc kết bởi nghệ nhân tài hoa.Môi trường văn hóa làng quê với cây đa bến
nước sân đình, các hoạt động lễ hội và phường hội, phong tục tập quán nếp
sống đậm nét văn hoá truyền thống.Tất cả những điều đó luôn luôn gắn kết với
sự hình thành và phát triển của làng nghề truyền thống. Và tạo ra nét văn hóa
rất riêng của mỗi làng nghề truyền thống. Phong cảnh làng nghề cùng với
những giá trị chứa đựng bên trong làng nghề truyền thống sẽ là điểm du lịch lý
tưởng cho du khách, đặc biệt là khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, mua
sắm tại các làng nghề. Làng nghề truyền thống còn là nơi sản xuất ra những
hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu độc đáo cho mỗi
vùng miền, địa phương. Vì vậy du khách đến với các điểm du lịch làng nghề
truyền thống còn mong muốn chiêm ngưỡng, mua sắm các sản phẩm thủ công
làm vật kỷ niệm trong chuyến đi của mình. Thực tế nhu cầu mua sắm của du
khách là rất lớn, làng nghề truyền thống sẽ đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu
tinh tế và đa dạng của du khách.Với sự đa dạng các làng nghề đã góp phần
quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống văn hóa, đồng thời là cơ
sở để phát triển ngành du lịch vốn thừa hưởng những thế mạnh về văn
hóa.Vùng đất Phú Vang như nhiều miền quê khác trong cả nước, trải qua nhiều
16

thế hệ dựng nước và giữ nước, thông qua quá trình lao động sản xuất phục vụ
cho đời sống hàng ngày của người dân, làm nảy sinh nhu cầu tiêu dùng về các
sản phẩm thủ công. Làng nghề ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu trước đó
của con người . Các sản phẩm thủ công truyền thống của mỗi làng nghề luôn
tạo ra sự hấp dẫn đối với du khách khi họ tới thăm mỗi làng nghề truyền thống
của Phú Vang. Đến với làng nghề, du khách có thể cảm nhận một cách thực thụ
về các sản phẩm truyền thống. Có thể tận mắt chứng kiến quá trình tạo ra mỗi
sản phẩm. Từ đó du khách sẽ tìm thấy cảm giác thích thú, thích khám phá sự
mới mẻ và có thể trực tiếp trải nghiệm, tham gia vào hoạt động sản xuất cùng
với mỗi người dân, người thợ thủ công. Và có thể mua về những sản phẩm đặc
trưng làm quà tặng cho mỗi người thân trong gia đình. Chính vì vậy, du lịch
thăm quan làng nghề truyền thống là một trong những loại hình du lịch mới
đang được đưa vào khai thác cho các tour du lịch. Bởi vậy làng nghề truyền
thống có một ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động du lịch
của Phú Vang. Du lịch làng nghề truyền thống đã góp phần phát triển loại hình
du lịch “Du khảo đồng quê”. Đây là một loại hình du lịch có thể giúp cho du
khách có được sự khám phá mới mẻ, sự trải nghiệm và sự gần gũi với thiên
nhiên hoang sơ. Đặc biệt trong loại hình du lịch “ du khảo đồng quê” thì làng
nghề truyền thống cũng góp phần quan trọng trong việc giúp cho du khách trải
nghiệm, tham gia vào hoạt động sản xuất. Mỗi làng nghề truyền thống đều chứa
đựng trong đó những yếu tố văn hoá của mỗi làng nghề. Và chỉ khi tham gia
vào những tour du lịch như vậy thì du khách mới có thể cảm nhận được những
yếu tố văn hoá của mỗi vùng miền . Làng nghề truyền thống Phú Vang còn góp
phần làm tăng doanh thu không chỉ cho nhân dân mỗi làng nghề thông qua tiêu
thụ sản phẩm mà nó còn góp phần làm tăng doanh thu cho ngành du lịch Phú
Vang khi mà khách du lịch mua tour, tham gia vào hoạt động du lịch tại các
làng nghề truyền thốn.Phát triển làng nghề truyền thống không chỉ mang lại lợi
ích kinh tế góp phần phát triển hoạt động du lịch mà còn là cơ hội để quảng bá
hình ảnh con người và đất nước Việt Nam trong đó có Phú Vang - Huế.
17

2.2.Một số làng nghề tiêu biểu
2.2.1.Làng hoa giấy Thanh Tiên xã Phú Mậu
a.Nguồn gốc và quá trình phát triển
Theo Gia phả họ Trần (Phụng tu ngày 4-5 năm Tự Đức 33), ngài khai
canh của làng là Võ Đình Tiên, từ Sơn Tây phò chúa Nguyễn đến đóng đô ở
Phú Xuân, đã có công khai canh 83 mẫu ruộng tại làng. Vì vậy làng vốn có
truyền thống làm nghề nông, tuy nhiên, vào tháng chạp, Thanh Tiên lại rộn rã
với nghề làm hoa giấy. Nghề hoa giấy Thanh Tiên có danh mục thống kê của
các nghề thủ công từ thế kỷ XVI-XIX của Đại Nam nhất thống chí.
Làng Thanh Tiên thuộc tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong.
Nay thuộc xã Phú Mậu, Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Làng Thanh Tiên
nằm vào một vị trí khá đặc biệt bên bờ nam hạ lưu sông Hương, phía bắc giáp
thôn Mậu Tài, nam giáp Thế Vinh, đông giáp Vọng Trì, đông tây giáp sông
Hương.
Nghề hoa giấy của Phú Mậu đã có khá lâu, xuất phát từ thôn Thanh Tiên và
Tiên Nộn sau đó lan rộng ra các vùng lân cận, tuy nhiên trước đây người dân
chỉ dùng các loại giấy ca rô để nhuộm màu, khác với hiện nay còn dùng thêm
một số giấy màu thủ công khác. So với các loại hoa mà người ta dùng các
nguyên liệu khác giấy bóng, nhựa, thì nét đẹp của loại hoa này vẫn trội hơn,
đó là tính thủ công tạo cho loại hoa này mang vẻ đẹp tự nhiên.
Điểm thuận lợi khác của Phú Mậu là giáp ranh với thành phố Huế nên
sớm nhận được nhiều tác động tích cực về kinh tế, xã hội, khoa học - công
nghệ, tạo cơ hội phát triển nhanh và toàn diện hơn. Hiện nay, Phú Mậu đã
xây dựng được kết cấu hạ tầng khá hợp lý giúp cho việc giao thương trong nội
bộ xã và với bên ngoài dễ dàng hơn. Nhu cầu phát triển các ngành sản xuất của
Phú Mậu còn lớn, là điều kiện tốt để thu hút nguồn vốn của các nhà đầu tư.
Nhân dân Phú Mậu nói riêng và huyện Phú Vang nói chung vốn có truyền
thống yêu nước và cách mạng, cần cù, hiếu học, yêu quê hương đất nước, yêu
18
lao động, luôn biết vươn lên làm giàu, không cam chịu đói nghèo. Nếu được

đào tạo, đây sẽ là một trong những yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế
cũng như sự khởi sắc trong lĩnh vực văn hóa - xã hội của xã Nhà.
b.Chức năng và ý nghĩa
Ngành nghề sản xuất hoa giấy ở làng Thanh Tiên là một trong những nghề
truyền thống lâu đời của địa phương chiếm một bộ phận lao động khá lớn. Đây
là một bộ phận lao động chiếm tỷ lệ khá lớn và tận dụng được lao động nhàn rỗi,
đã tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tăng thu nhập
cho hộ gia đình.
Nghề sản xuất hoa giấy là một trong những nghề thủ công, dễ tiếp thu và học
tập nên nhiều người trong độ tuổi từ 10 đến 70 tuổi có thể tham gia làm được, nhiều
hộ có trên 05 lao động cùng sản xuất, với đặc điểm lấy công làm lãi, chí phí sản
xuất ít nên cũng mang lại thu nhập đáng kể cho người lao động, bình quân thu nhập
từ 300.000 đồng - 1.000.000 đồng/lao động/tháng. Tuy nhiên thời gian sản xuất chủ
yếu trong khoảng 03 tháng giáp tết, hoa giấy truyền thống chỉ chủ yếu phục vụ cho
thờ cúng góp phần tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cải thiện đời sống góp phần
xoá đói giảm nghèo, đồng thời khắc phục sự mai một của các Làng nghề truyền
thống, góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Sản phẩm hoa giấy thường được trang trí ở những nơi thờ tự trong nhà,
các miếu, trang bà, am, bàn thờ ông địa, táo quân, thần bếp Ưu điểm của hoa
giấy Thanh Tiên chính là sự phong phú về màu sắc và có nhiều loại hoa khác
nhau trên một cây bông, hình thức đẹp, để được lâu lại thể hiện sự trang
nghiêm, một năm chỉ thay một lần vào dịp tết nên nó dễ được chấp nhận và tồn
tại dài lâu. Cũng chính những đặc điểm đó mà thời gian sản xuất chính thức của
nghề thủ công này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn vào cuối năm, chủ
yếu vào tháng Chạp.
Với sự phong phú và đa dạng, hoa giấy Thanh Tiên đã đáp ứng được nhu
cầu về tín ngưỡng dân gian của người dân xứ Huế.
19
2.1.2.Tranh ảnh Làng Sình
a.Nguồn gốc và quá trình phát triển

Xét trên mặt kỹ thuật,tranh làng Sình có nhiều điểm tương đồng với tranh
Đông Hồ nhưng xét về mặt thời gian thì tranh làng Sình ra đời muộn
hơn.Khoảng thế kỉ XVI tranh làng Sình mới được du nhập vào trong quá trình
di cư vào đàng trong của những nghệ nhân Thanh Hóa,họ mang theo nghề
tranh để có thể kiếm cớ sinh nhai và từ một may mắn nào đó mà tranh làng
Sình được chọn làm nghề truyền nhân.
Đứng về mặt lịch sử,thế kỉ XVI là mốc thời gian đánh dấu sự đi vào ổn
định xã hội và bắt đầu phát triển kinh tế của xứ Thuận Hóa và hầu hết các làng
nghề thủ công truyền thống ra đời vào khoảng thời gian này.Tồn tại và phát
triển về mọi mặt,trở thành một trong những vệ tinh của khu thương cảng Thanh
Hà,cho đến nay ở vung đất Thuận Hóa,ngoài làng Sình chưa có một làng xã
nào từng làm nghề in tranh tín ngưỡng đã bị mất đi.Tranh làng Sình trong suốt
quá trình tồn tại và phát triển,trước và sau thời kì phong kiến không bị cạnh
tranh bởi một làng nghề nào tương tự.Đó cũng là một trong những điều kiện
khá thuận lợi cho tranh làng Sình phát triển mạnh và ngày càng mở rộng,mặt
khác do nhu cầu tín ngưỡng nhất là tầng lớp quan lại quý tộc phong kiến đã
thúc đẩy tranh làng Sình có những bước phát triển có thể nói là đạt đến đỉnh
cao.
Trải qua quá trình tồn tại và phát triển,nghề tranh làng Sình có nhiều tên
gọi khá nhau như: nghề giấy,nghề bồi,nghề hồ điệp,nghề tranh,nghề Sình Sự
phát triển của nghề tranh làng Sình còn được đánh dấu bởi sự trưởng thành lớn
mạnh của tầng lớp nghệ nhân trong làng từ bị động đã tự túc được nguyên liệu
giấy,màu và nhất là đã sáng tác được những mẫu tranh,khắc ván in theo ý
tưởng của mình.Trong làng sự phân hóa các lớp người trở nên tất yếu,hình
thành nên những bộ phận chuyên biệt trong hệ thống dây chuyền sản xuất tranh
như:chủ bồi,tự bồi và con bồi.
20
+Chủ bồi: là những người bỏ vốn ra thuê người khác in tranh
+Tự bồi: là người trực tiếp đứng ra sản xuất tranh.
+Con bồi: là những người làm thuê cho chủ bồi hoặc là bỏ sức ra đi khai

thác nguyên liệu về bán cho chủ bồi.
Nhưng dù cho là chủ bồi hay con bồi thì họ cũng có đóng góp rất lớn
trong việc phát triển nghề tranh cũng như hình thành nên ý thức tôn trọng về
nghề và tự hào về làng trong mọi người dân làng Sình.
Sau ngày đất nước giải phóng,tranh làng Sình bị xem là văn hóa phẩm dị
đoan tiếp tay cho những hình thức mê tín Nghề tranh bị cấm đoán,ván khắc bị
thu hồi,đố phá,dân cư bỏ nghề làng ra đi hoặc chuyển sang hành nghề khác.Mặt
khác,cuộc sống càng ngày càng thay đổi,ý thức con ngưới tiến bộ hơn và những
thế lực thần linh bị giảm xuống.Khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới,cũng
như bao làng nghề khác được hồi sinh,nghề tranh làng Sình cũng có cơ hội
phục hồi,không còn bị cấm đoán,những vì những nhân tố trên mà tranh làng
Sình có xu hướng co lại cả về số lượng lẫn đề tài,ngoài việc làm tranh không có
sự sáng tạo trong khi đó thì tính dan gian được bảo lưu một cách quá nguyên
tắc.
Nhưng dù ở góc độ nào để suy xét về vai trò nghề tranh làng Sình phải
thừa nhận rằng quá trình tồn tại và phát triển của tranh làng Sình là cuộc khẳng
định của dòng mỹ thuật dan gian của một vùng đất gắn liền với tập tục tín
ngưỡng truyền thống,phản ánh một nhu cầu vốn có từ xa xưa và trở nên thân
thiết trong một thời kì lịch sử của xứ đàng trong.Đến thế kỉ XVIII,XIX nghề
tranh làng Sình phát triển cùng với những làng nghề khác tạo nên một chỉnh
hợp của cảng Thanh Hà- Bao Vinh.Có lẽ điều đáng nói nhất là tranh làng Sình
đã mang lại những đặc trưng tiêu biểu cho loại hình hội họa dân gian của một
vùng đất.
b.Chức năng của tranh làng Sình
Nếu chúng ta tìm hiểu nền tảng chi phối đến tâm thức người dân xứ Thuận
Hóa sẽ cho ta nhìn chính xác về chức năng chính của tranh làng Lai Ân.Điều
21
đó được thể hiện khá rõ trong nội dung của tranh làng Sình: Bộ tranh thế mạng
trong lễ tế cô hồn trong phật giáo,lễ nhương sao,giải hạn cầu an đạo giáo,tranh
ông,bà trong lễ cùng bà,tiên ông Cũng như tranh làng Sình đã góp phần làm

tăng thêm sự phong phú đa dạng trong các hình thức tín ngưỡng dân gian.
Tranh làng Sình với chức năng đặc trưng là tín ngưỡng.Sinh ra và lớn lên
trên một vùng đất khá đậm nét màu sắc tín ngưỡng dân gian,tranh làng Sình có
một nhiệm vụ hết sức thiết thực là đáp ứng nhu cầu của tập tục thờ cúng không
chỉ cư dân Thuận Hóa mà cả vùng Trung Trung Bộ.Tranh làng Sình mang đặc
trưng hoàn toàn của thể loại tranh cúng lễ,phục vụ tín ngưỡng,chuyên chở
những niềm kính cẩn,nỗi sợ hãi của người dâng cúng gửi về một cõi thiêng mơ
hồ,điều này được phản ánh trong việc hình tượng của tranh đều xoay quanh nội
dung cầu cúng và khi làm xong chức năng đó thì tranh được đốt đi.
Tranh làng Sình không nhiều nhưng mỗi bộ tranh đều mang một bố
cục,một giá trị riêng trong chức năng chung.Dựa vào chủ đề ta có thể phân chia
thành những loại sau:
- Chủ đề về người gồm có: tượng bà ( tượng chùa,tượng đế,tượng ngang),
con ảnh ( ảnh xiêm vẽ hình người đàn ông và đàn bà,ảnh phền vẽ hình bé trai
và bé gái và tờ bếp ).
- Chủ đề về đồ vật gồm có: khí dụng,cung tên,áo lông,áo bà,áo binh.
- Chủ đề về động vật gồm có: trâu,bò,lợn ngựa,voi,hổ
Cũng có thể phân loại tranh làng Sình thành những "bộ" gắn với từng chức
năng riêng như sau:
- Bộ tranh cầu an cho người gồm có "tờ bếp",bộ khí dụng.
- Bộ tranh cúng thế mạng gồm có "con ảnh" xiêm cho người lớn,"con ảnh"
phền cho trẻ con.
- Bộ tranh cúng lễ cầu cho "mẹ tròn con vuông" gồm: Trang Diêm
Vương,Mẫu Thoải,tam vị Phạm Tinh,ông Đốc,Đức ông và bộ phường bát âm
- Bộ tranh cúng thần bảo hộ trẻ con gồm có: "Tranh bà,tranh ông,tranh 12
con giáp.
22
- Bộ tranh cúng thế mạng cho những người đi rừng,đi biển: tranh cọp, áo
ông, áo bà
- Bộ tranh cúng giải hạn cho các vật nuôi: con ảnh trâu,lợn,gà bộ ngũ hổ

và các loại khí dụng như cung tên,ngoài ra còn kèm theo vàng bạc,giấy tiền.
c. Nội dung và ý nghĩa của tranh làng Sình
Môi trường đích thực của tranh làng Sình là không khí trang nghiêm,
hướng về cõi âm,nhưng bên cạnh cái chất trang trọng trong tranh hay trên
khuôn mặt các "thần nhân" ta vẫn bắt gặp những nét hồn nhiên,vui tươi,khoan
dung,vẫn cảm nhận được sự an ủi,được xoa dịu những khó khăn đầy rẫy trong
cuộc sống đời thường.
+ Tranh bếp và việc thờ cúng táo quân:
Nhân dân ta thường có câu:
"Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà"
Theo tục lệ,hàng năm đến ngày 23 tháng chạp âm lịch gia chủ làm lễ cúng
tiễn đưa ông Táo về chầu Ngọc Hoàng ngoài đồ ma ra còn có tranh thờ.Tranh
thờ bao gồm 1 tờ bếp,bộ ba tờ "áo binh", 1 tờ "ngựa bay" và 100 quan tiền.
Mảng bố cục chính của "tờ bếp" là hình ảnh ba vị táo quân nổi lên ở giữa
như "3 ngọn lửa thiêng", xung quanh là những sản phẩm mà gia chủ làm ra
được sắp xếp theo bố cục đối xứng,tuần tự theo nội dung của một bản báo cáo
mà ba vị thổ công sẽ trình lên Ngọc Hoàng.
Bố cục nội dung của "tờ bếp" trên cơ sỏ dụng ý của các nghệ nhân Sình
muốn thể hiện sự tôn kính cũng như tầm quan trọng của ba vị thổ thần đối với
gia chủ qua hình ảnh ba vị Táo quân tư thế trang nghiêm,đồng thời gới gắm
những ước vọng về một cuộc sống đầm ấm,thuận hòa,sung túc qua hình ảnh
các vật nuôi,mâm quả,các vật dụng sinh hoạt.
+ Bộ tranh thể mạng và lễ cầu an:
Thoạt nhìn bộ "thế mạng" như bày ra trước mắt ta một cuộc "hành linh"
với những nhiệm vụ hết sức quan trọng là giải cứu con người.Bộ tranh "thế
23
mạng" truyền thống do làng Sình sản xuất gồm có 2 "con ảnh" đi kèm là 2 "ông
Điệu",1 con "ngựa bay",1 bộ "khí dụng", "cung tên" và "con tiền" tùy theo đối
tượng được thế mạng mà có sự thay đổi các "con ảnh".

"Con ảnh thế mạng cho đàn ông
"Con ảnh" thế mạng của phụ nữ
"Con ảnh" thế mạng cho em trai
"Con ảnh" thế mạng của em gái.
Bộ "khí dụng" được bố cục làm hai phần: phần trên gồm có 2 ông điệu,2
chiếc thuyền,2 nhà kho,2 con voi,1 con ngựa; phần dưới gồm những đồ dùng
cần thiết cho người phụ nữ nhu gương,lược,trâm cài,hoa tai
+ Tranh Tượng Bà với tục cúng trừ giải bệnh tật,ốm đau và trong sinh đẻ.
Khi gia đình gặp nạn hay có ai ốm đau,bệnh tật,kể cả khi sinh đẻ khó
khăn, người ta thường khấn vái cầu cúng bà giúp đỡ,giải hạn. Trong tranh Sình
hình ảnh "Bà" cưỡi trên một con voi tư thế phục chứng tỏ uy lực của "Bà" đối
với bổn mạng,vì thế có tên gọi là "tượng voi,tượng chùa".
Nếu đàn bà thờ "Trang Bà" thì đàn ông thờ "Trang Ông".Thờ "Trang
Ông" có vai trò khá quan trọng cúng thần bảo hộ ngôi nhà thần Đất và thần
nghề nghiệp.
+ Tranh "Áo Bà", "Áo Ông", "Áo Binh" là những sản phẩm tranh Sình
được người đi biển dùng để cầu an cho mình trước đe dọa của biển cả,sóng cao
gió lớn và thường được đốt trong lễ cúng đất.Tranh "Ông Cọp","Áo Binh" cúng
"ông" để khi đi rừng không gặp nguy hiểm.Thực ra xét về bản chất đây cũng là
một hình thức thế mạng: cúng cho thần biển,thần rừng để được phù hộ tai qua
nạn khỏi.
+ Bộ tranh động vật và lễ giải hạn các vật nuôi
Quan niệm linh hồn không chỉ dừng lại ở con người mà nó còn có cả trong
vật nuôi.Con người muốn vật nuôi của mình tai qua nạn khỏi mau an chóng
lớn.Tranh thường được dùng trong lễ cúng đầu năm,ngoài "con Ảnh" cho vật
nuôi như tranh lợn,trâu,bò,gà,vịt,chó còn có thêm tiền giấy,áo binh cho ông bà
24
chuồng.
2.1.3.Làng nghề chằm nón lá Mỹ Lam xã Phú Mỹ
a.Nguồn gốc,xuất xứ và quá trình phát triển:

Thuộc xã Phú Mỹ,huyện Phú Vang,tỉnh Thừa Thiên Huế.Phú Mỹ có tiềm
năng lớn để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Lợi thế so sánh này
đã thúc đẩy một số ngành nghề TTCN phát triển như: Sửa chữa cơ khí, máy
móc phục vụ nông nghiệp; mộc dân dụng - mỹ nghê; may mặc; Trong đó,
làng nghề sản xuất nón lá truyền thống phát triển lâu đời. Trên địa bàn toàn xã
có rất nhiều hộ tham gia chằm nón lá, nhưng tập trung chủ yếu ở làng nghề Mỹ
Lam và An Lưu.
Điểm thuận lợi khác của Phú Mỹ là giáp ranh với xã Phú Thượng, gần
thành phố Huế nên sớm nhận được nhiều tác động tích cực về kinh tế, xã hội,
khoa học - công nghệ, tạo cơ hội phát triển nhanh và toàn diện hơn. Hiện nay
Phú Mỹ đã xây dựng được kết cấu hạ tầng khá hợp lý giúp cho việc giao
thương trong nội bộ xã và với bên ngoài dễ dàng hơn. Đó là tỉnh lộ 10A và các
tuyến trục ngang nối với tỉnh lộ An Vân Dương đi qua, với quốc lộ 49A. Phú
Mỹ đã được quy hoạch nằm trong khu Đô thị Mỹ Thượng và được UBND tỉnh
quy hoạch tổng thể Cụm Công nghiệp làng nghề Phú Mỹ (Thôn Mỹ Lam). Đó
là những điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ của
Phú Mỹ nói riêng và huyện Phú Vang nói chung.
Ngành nghề chằm nón lá là một trong những nghề truyền thống lâu đời của
địa phương chiếm một bộ phận lao động khá lớn, tận dụng được lao động nông
nhàn, đã tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tăng thu
nhập cho hộ gia đình. Một số hộ gia đình bắt đầu sản xuất theo sự phân công lao
động, có cơ sở cung cấp nguyên liệu lá, vành, có đầu mối thu gom sản phẩm
của các hộ để đi tiêu thụ các thị trường trong và ngoài tỉnh.
Làng nghề nón lá Mỹ Lam phát triển cách đây khoảng 70 - 80 năm có nhiều
thợ có kinh nghiệm và tay nghề cao, sản phẩm của làng nghề khá nổi tiếng trên
25

×