Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Nghề thủ công truyền thống mây tre Phú Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.05 KB, 32 trang )

Tài liệu: Docs.vn

Hỗ trợ : Y!M minhu888

Bìa chính
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ

HỒNG GIA Q
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG MÂY - TRE
PHÚ VINH - PHÚ NGHĨA – CHƯƠNG MỸ - HÀ NỘI.
<tiểu luận chuyên nghành>

Vinh, 03 tháng 03 năm 2010

bìa phụ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ


HỒNG GIA Q
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU LÀNG NGHỀ THỦ CƠNG TRUYỀN THỐNG MÂY - TRE
PHÚ VINH - PHÚ NGHĨA – CHƯƠNG MỸ - HÀ NỘI
<tiểu luận chuyên nghành>
Lớp 47b2
Giáo viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Duyên

Vinh, ngày 03 tháng 03 năm 2010

MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU
1. lý do chọn đề tài..................................................................................................4
2.lịch sử vấn đề nghiên cứu...................................................5
3.Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................6
4.nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu......................................................7
5. đóng góp của đề tài............................................................................................8


6.Bố cục tiểu luận: ngoài phần mục lục, mở đầu và tài liệu tham khảo thì bố cục
gồm 3 chương:
Chương 1: Chương 1 - khái quát điều kiện phát triển và đặc điểm của nghề thủ
công Mây - Tre phú vinh........................................................11
Chương 2: làng nghề thủ công truyền thống Mây - Tre Phú Vinh...................16
Chương 3: những đóng góp của nghề Mây - Tre và một số giải pháp, hướng đi cho
nghề Mây Tre..........................................................................29
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 - KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỀ
THỦ CÔNG MÂY - TRE PHÚ VINH.
1.1 : Mấy vấn đề về điều kiện tự nhiên và con người:.........8
1.1.1 : Điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội của xã phú nghĩa nói chung.8
1.1.2 : sự ra đời của làng nghề Mây - Tre phú vinh............10
1.1.3 : Cuộc sống và con người nơi làng nghề.....................................................12
1.1.4 :đặc điểm nghề thủ công truyền thống Mây - Tre Phú Vinh.....................12
1.1.5 :Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề Mây tre.............
.................................................14
CHƯƠNG 2 - LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG MÂY - TRE PHÚ
VINH.
2.1 : nguyên liệu và vấn đề về kỹ thuật :...............................................................16
2.1.1: nguyên liệu...................................................................................................16
2.1.2 : vấn đề kỹ thuật............................................................................................16

2.1.3 : dụng cụ.........................................................................................................29
2.1.4 : các loại hình sản phẩm...............................................................................29
CHƯƠNG 3 - NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NGHỀ MÂY - TRE VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP, HƯỚNG ĐI CHO NGHỀ MÂY TRE.
3.1 : những đóng góp của nghề mây tre phú vinh thể hiện trên các lĩnh vực văn
hóa :.........................................................................................................................29
3.1.2 tạo việc làm, tăng thu nhập và ổn định xã hội............30
3.1.3 "phú" và "vinh" cho những con người sống chết vì nghề Mây - Tre Phú
Vinh..........................................................................................................................32


3.2 : những giải pháp, hướng đi cho nghề mây tre.............................................34
3.2.1 : đa rạng hóa loại hình sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm
3.2.2 : vấn đề công nghệ và cải tiến công nghệ....................................................34
3.3 : Những kiện nghị tới các cấp - ban - ngành nhằm tạo điều kiện cho sự phát
triển của nghề Mây - Tre.......................................................35
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................36
D. TÀI KIỆU THAM KHẢO..................................................37
E. PHỤ LỤC..............................................................................................................

A. MỞ ĐẦU.
1. lý do chọn đề tài:
Hà Tây(nay là Hà Nội) vốn được xem là mảnh đất trăm nghề thế nhưng biết được
tên trăm nghề thì dễ cịn hiểu được trăm nghề thì dễ có mấy ai, mọi người cũng chỉ như
"cưỡi ngựa xem hoa" mà thơi chính vì lẽ đó mà vấn đề nghề và làng nghề vốn được
xem như là vấn đề "cơm áo gạo tiền" của những người nông dân lại chẳng mấy khi
được quan tâm, coi trọng và hiểu hết cho nên trong những năm gần đây có những làng
nghề đã từng tồn tại cả mấy trăm năm đang có nguy cơ bị "bốc hơi", nó mất đi ngay cả
khi nó đang cịn có những cơ hội để phát triển bởi những lý do rất đơn giản: Nhà nước
thì thiếu đầu tư, thiếu qui hoạch, chưa quan tâm đúng mức, xã hội thờ ơ với những sản

phẩm thủ công, người dân chỉ thích "chuộng đồ ngoại", lúc nào cũng chỉ coi đồ ngoại
là tốt cho nên dần coi nhẹ những thứ vốn gần gũi và thân thiện với mình. cịn người
trong nghề thì dẫu có tâm huyết với nghề nhưng vẫn cần phải lo cơm áo với bản thân
và gia đình cho nên dễ lung lay, phải chuyển nghề khi khơng tự "mị mẫm" tìm được
hướng đi cho sản phẩm của mình, khơng nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ, được
trợ giá như khi bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế tác động như năm vừa rồi và còn
rất nhiều lý do khiến nghề ngày càng bị mai một.
Với mong muốn góp chút sức mọn và thêm một tiếng nói đồng thuận với người
dân làng nghề, Là một sinh viên thuộc chuyên ngành lịch sử văn hoá lại được sinh ra
trên mảnh đất trăm nghề (Hà Tây) ,lại có điều kiện gần gũi với nghề nên tơi quyết định


chọn "nghề thủ công truyền thống mây tre phú vinh" làm đề tài để tìm hiểu và
nghiên cứu để mọi người biết tầm quan trọng của nghề, trân trọng những giá trị đồng
thời có những quan tâm đầu tư đúng mức tạo động lực cho sự tồn tại và phát triển lâu
dài của nghề thủ công Mây Tre phú vinh.
2: lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghề thủ công truyền thống Mây Tre mặc dù đã có lịch sử mấy trăm năm (khoảng
thế kỷ XVI, XVII) thế nhưng phải thừa nhận rằng mức độ quan tâm của các nhà
chuyên môn cũng như sự đầu tư cho việc đi sâu nghiên cứu để có thể đưa ra những
cơng trình, những đầu sách mang tính chun sâu hay giáo trình giảng dạy thì hầu như
là chưa có, nếu có thì cũng chỉ là những bài viết lẻ tẻ mang tính giới thiệu và quảng bá
về nghề và làng nghề mà không hề theo một hệ thống nhất định nào. tuy nhiên theo tôi
được biết thì có một nghệ nhân của làng nghề đó là ông Nguyễn Văn Trung, cả đời ông
đã tâm huyết sống chết với nghề, với mong muốn truyền lại nghề, truyền lại tri thức
cho thế hệ mai sau tiếp nối sự nghiệp, phát triển nghề mây tre nên ông đã biên soạn
được cuốn "giáo trình truyền nghề mây tre đan chương trình trung cấp" từ năm 1986
thế nhưng thật đáng tiếc là vì một vài lý do khiến ơng chưa thể in thành sách để cho
những người yêu nghề, muốn học hỏi và nghiên cứu nghề mây tre có thể tiếp cận và
tham khảo, quả thực đó là một điều rất đáng tiếc. Tuy nhiên cũng khơng phải vì thế mà

những người có nhu cầu tìm hiểu e ngại bởi vì thực tế thì cũng đã có rất nhiều bài viết
được đăng trên báo, các trang mạng điện tử cho mọi người tham khảo và nếu có nhu
cầu đi sâu và tìm hiểu kỹ hơn thì nên tìm đến làng nghề và những người như ông
nguyễn văn trung bởi ông sẵn sàng giúp đỡ và tặng cuốn giáo trình mà ông đã viết.
Với đề tài này của tôi cũng chỉ mong có thể giới thiệu tới mọi người thực trạng của
làng nghề và cũng là bước đầu nghiên cứu đi theo một phương pháp và hệ thống nhất
định để những ai quan tâm thấy rõ và tiếp tục nghiên cứu những vấn đề còn để ngỏ của
nghề và làng nghề.
3: Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
"Bước đầu tìm hiểu làng nghề thủ công truyền thống Mây Tre Phú Vinh - Phú
Nghĩa – Chương Mỹ - Hà Nội" phải nói đây là một đề tài khá mới mẻ, mới đối với cả
người nghiên cứu và nghề được nghiên cứu. trước một thực trạng đáng lo ngại về sự
tồn tại của một làng nghề lâu năm vốn có rất nhiều đóng góp vào việc tạo lập và ổn


định cuộc sống hơn thế nữa cịn có thể làm giàu cho người dân nếu biết tìm lối đi cho
nghề, đặc biệt nếu tìm hiểu kỹ về làng nghề thì ta cịn thấy đây khơng đơn thuần là một
nghề thủ công chỉ nhằm tạo ra những sản phẩm mang giá trị vật chất mà đây cịn là một
nghề có tính nghề thuật rất cao bởi vậy giá trị tinh thần của nó là một điều khơng thể
nói hết, nó góp phần làm phong phú thêm cho sự đa dạng văn hóa và bản sắc văn hóa
của dân tộc.
Mặc dù nghề thủ cơng Mây Tre hiện nay đã có sự mở rộng ra nhiều nơi trong và
ngồi tỉnh thậm chí ngồi Việt Nam thế nhưng do điều kiện không cho phép nên tơi chỉ
tiến hành "tìm hiểu nghề thủ cơng truyền thống Mây Tre Phú Vinh - Phú Nghĩa Chương Mỹ - Hà Nội" hơn nữa cũng vì nguy cơ mai một của nghề tại chính nơi nó
sinh ra vì thế tơi chỉ tìm hiểu ở một phạm vi hẹp hy vọng những người đi sau có điều
kiện sẽ tìm hiểu rộng và nghiên cứu kỹ hơn để hoàn thiện vấn đề.
4: nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu.


Nguồn tài liệu


để hoàn thành tài liệu này ngoài việc tham khảo các loại sách thuộc về chuyên
nghành nghiên cứu văn hoá và các nghề thủ cơng khác thì những bài viết trên các trang
mạng điện tử cũng góp phần rất quan trọng để hoàn thành bài tiểu luận, đặc biệt phải
kể đến đó là sự giúp đỡ và nguồn tài liệu của nghệ nhân làng nghề Nguyễn Văn Trung
đồng thời cũng phải dựa vào một phần sự hiểu biết của bản thân do từ khi còn nhỏ đã
được tiếp cận và làm nghề.


Phương pháp nghiên cứu

để hồn thành tiểu luận này tôi dùng phương pháp duy vật lịch sử và phương pháp duy
vật biện chứng để nghiên cứu, tìm hiểu về sự ra đời của nghề thủ công Mây Tre truyền
thống phú vinh cũng như đặc điểm dân cư có tác độnh như thế nào từ đó xác định
những thuận lợi cũng như khó khăn trong cuộc cuộc sống, hoạt động của làng nghề.
đặc biệt để hồn thành tiểu luận thì phươn pháp thực tế điền dã, quan sát, ghi
chép, chụp hình, miêu tả là nhân tố chính đảm bảo cho tiểu luận hồn thành nhanh
chóng và đạt kết quả cao nhất.
5: Đóng góp của đề tài
Ở mỗi một đề tài nghiên cứu khoa học thì đều nhằm một mục đích là nhằm ứng
dụng vào một lĩnh vực nào đó của cuộc sống và đây cũng vậy, dù chỉ là một đề tài nhỏ


mang tính tập sự thế nhưng nó cũng có những đóng góp nhất định và dần làm sáng tỏ
vấn đề được đưa ra nghiên cứu.
điều đầu tiên mà đề tài này này hướng tới đó là đưa vấn đề được nghiên cứu đi
theo một hệ thống có tính khoa học nhất định trong việc nghiên cứu, bởi lẽ từ trước đến
nay vấn đề này thường chỉ được thực hiện dưới những dạng bài viết ngắn đăng trên các
trang báo bởi vậy với đề tài này mong rằng có thể khắc phục được những hạn chế đó
để những người có nhu cầu tìm hiểu có điều kiện tiếp cận sâu hơn vấn đề và mục đích

cuối cùng là giữ gìn và phát triển làng nghề trong tương lai.
Thứ hai là thông qua đề tài "tìm hiểu làng nghề thủ cơng truyền thống Mây Tre phú
vinh" ta có thể hiểu được con người, cuộc sống và sinh hoạt kinh tế của người dân làng
nghề.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 - KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CON NGƯỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM
CỦA NGHỀ THỦ CÔNG MÂY TRE PHÚ VINH.
1.1 : Mấy vấn đề về điều kiện tự nhiên và con người:
1.1.1 : Điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội của xã phú nghĩa nói chung.
Xã phú nghĩa là một vùng trũng tiếp giáp với vùng bán sơn địa của huyện Chương
Mỹ tỉnh hà tây cũ(nay là Hà Nội), cách nội thành Hà Nội 20 km về phía tây theo quốc
lộ 6A.
phía bắc Phú Nghĩa giáp với Đồng Quang Huyện Quốc Oai, phía đơng giáp xã Tiên
Phương, phía nam giáp xã Ngọc Hồ và phía đơng giáp với Đông Phương Yên của
huyện Chương Mỹ.
Phú nghĩa ngày nay được hình thành từ nhiều xã nhỏ dưới thời phong kiến, thực
dân, thời lê sơ thuộc huyện Ma Nghĩa (Tùng Thiện-sơn Tây), thời Nguyễn đổi về
huyện Mỹ Lương - phủ Quốc Oai - trấn Sơn Tây. dưới thời thuộc phá là các xã:
- Khê Than
- phú vinh gồm 2 thôn: Hệ giáp và Thượng giáp.
- nghĩa hảo gồm 3 thôn: Quan Châm, Đàn thôn và Phúc Liệu. Cả 3 xã đều thuộc
tồng yên kiện.


Sau CM Tháng 8 là hai xã Phú Khê và Nghĩa Đồng và tháng 4 năm 1948 hợp
nhất thành xã Phú Nghĩa cho tới nay.
Nằm án ngữ 2 km là quốc lộ 6A nối Hà Nội vơi Hịa Bình, xã phú nghĩa có vị trí
hiểm yếu về cả qn sự lẫn giao lưu kinh tế và văn hóa. đây là một mát xích trong nhịp
cầu nối các vị trí then chốt Hà Nội - X Mai - Hịa Bình - Sơn Tây. là địa bàn của sự
giao lưu giữa 2 vùng nhất là các mặt hàng lâm thổ sản từ hịa bình ra và hàng tiêu dùng

từ hà nội vào.
Xã phú nghĩa hiện nay gồm có 6 thơn 11 xóm, diện tích tự nhiên 826,3 ha, diện tích
canh tác là 455,2 ha, cả xã trước CM Tháng 8 có 577 hộ, 3156 nhân khẩu. Theo số liệu
điều tra dân số ngày 1.4.1989 cả xã có 7260 người, đều là dân tộc kinh.
Dân phú nghĩa sống lâu đời chủ yếu bằng nghề làm ruộng . bình qn ruộng đất
khơng ít, có khi lên tới 4-5 sào/người nhưng những khó khăn do thiên nhiên gây ra
khiến cho cuộc sống và sản xuất vô cùng vất vả, vào mùa mưa những cơn lũ thường
đột ngột xuất hiện phá hoại cuộc sống và sản xuất của người dân phú nghĩa. Dưới chế
đọ cũ cã xã khơng có lấy một cơng trình thủy lợi, mọi hoạt đọng sản xuất thường bị
phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. hàng năm chỉ cấy được một vụ, năng xuất bình
quân đạt chỉ từ 45-55 kg/ sào. từ tháng 6 đến tháng 10 là cảnh úng ngập “ đồng trắng
nước trong” ngược lại có những năm hanh khơ mà chỉ cần đốt mồi lửa là cả một cánh
đồng lúa có thể cháy to đùng đùng vì thế có một cánh đồng được gọi là “đồng cháy”.
Tuy nhiên phú nghĩa lại là nơi lắm tơm và nhiều cá ngon, có năm đánh bắt cá còn
hơn cấy cả vụ chiêm, đặc biệt là đã từ lâu phú nghĩa có nghề làm mây tre đan truyền
thống(từ phú vinh rồi lan ra cả xã), lúc phát đạt nghề thủ cơng có thể tạo việc làm cho
hàng ngàn lao động và có những sản phẩm nổi tiếng cả trong và ngoài nước.
1.1.2

: sự ra đời của làng nghề Mây - Tre phú vinh

Theo như lời kể của những người làm việc lâu năm trong nghề thì sự ra đời của
nghề Mây Tre đan có xuất phát ban đầu không phải từ nguyên liệu làm từ Mây Tre mà
là làm từ những chiếc lơng cị kết lại thành sản phẩm rồi sau này mới có sự gặp gỡ với
loại nguyên liệu Mây Tre và bây giờ là làng nghề mây tre như bây giờ. để hiểu rõ hơn
về sự ra đời của làng nghề truyền thống Mây Tre phú Vinh thì có một giai thoại như
sau: Người xưa truyền miệng rằng, tại thôn Phú Vinh, xã Phú Nghĩa, huyện Chương
Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội), có một địa danh gọi là bãi Cị Đậu, vì



nơi đây có rất nhiều cị tụ tập, sinh sơi nảy nở thành đàn. Vì thế, người ta gọi ln là
làng “Cò Đậu”, nay gọi chệch thành làng “Gò Đậu”. Lơng những chú cị rụng trắng
xố một vùng, có người đem nhặt về tết thành mũ, nón xinh xắn. Ban đầu người nhà
dùng, thấy vừa bền, lại đẹp, họ đem làm quà, tặng người thân, dần dần sản phẩm mũ
lông cị được nhiều người ưa chuộng, tìm mua Từ đó, mũ lơng cị trở thành hàng hóa,
mang lại giá trị kinh tế và được người làng Gò Đậu phát triển nhân rộng nghề đan mũ
lơng cị.
Lâu dần, lơng cị cũng có hạn, người đan mũ lại quay sang tìm thêm cỏ lau, cỏ lác,
mọc ngòai đồng hoang để thay thế. Và rồi, cỏ lau cũng có hạn, con người lại phải vào
rừng tìm ngun liệu mây, tre, có nhiều tính năng ưu việt hơn để đan thành nhiều mặt
hàng sản phẩm phong phú. Cũng như bây giờ, ngoài mây tre, người ta tìm tịi sáng tạo
phát triển thêm cả ngun liệu giang, nứa, bèo bồng, sắt, thép, gốm sứ...để đan, dệt
thành sản phẩm ngày một hoàn thiện, sắc nét hơn. Và từ đó, thơn Phú Vinh đã hình
thành làng nghề Mây Tre đan nổi tiếng, sau lan dần ra cả xã Phú Nghĩa. Có những sản
phẩm mây đan được làm từ làng nghề Phú Vinh, nay vẫn đang được người đời lưu giữ
như một tác phẩm nghệ thuật cổ quý hiếm. Hiện, tại Bảo tàng cung đình Huế đang
được lưu giữ một tác phẩm thư pháp chữ Hán đan bằng mây của các cố nghệ nhân thôn
Phú Vinh vào năm 1712. Hay một số nhà chức vị giàu có ở Cộng hoà Chi Nê và một số
nơi khác, vẫn đang cất giữ những bức hoành phi câu đối được đan dệt bằng mây từ
những năm 1840. Theo tài liệu nghiên cứu của Câu lạc bộ nghệ nhân Phú Vinh cho
biết: vào thời vua Thành Thái, làng nghề truyền thống Phú Vinh có 9 cụ nghệ nhân
trong làng được nhà vua phong sắc.
Ngồi ra theo ơng trần văn trẩm phụ trách nhà trưng bày sản phẩm mây tre đan
thôn Hạ cho hay là đã lâu lắm rồi, cách nay khoảng bốn trăm năm về trước Phú Hoa
Trang(tên cũ của Phú Vinh) xuất hiện ba ông chuyên làm các loại như rổ, rá, rế...từ các
nguyên liệu có sẵn để sử dụng trong gia đình và bà con làng xóm và theo thời gian
nhiều người biết làm và sản phẩm cũng ngày một đa dạng hơn rồi cứ thế phát triển cho
tới tận ngày nay.
1.1.3


: Cuộc sống và con người nơi làng nghề


Cũng như bao làng quê khác trên đất nước việt nam, con người Phú Vinh vẫn chân
chất, mộc mạc. con người sống yêu thương gắn bó, sẻ chia và đùm bọc nhau trong cuộc
sống, luôn tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, là một cuộc sống “tối lửa
tắt đèn có nhau”. đến với làng nghề phú vinh ta vẫn thường bắt gặp những cảnh
“người người gọi nhau”, họ gọi nhau, đến với nhau và cùng ngồi với nhau miệng thì
khơng ngớt những câu chuyện, những tiếng cười và đặc biệt là đơi tay của họ thì khơng
ngừng nghỉ, vẫn cứ thoăn thoắt lướt trên sản phẩm Mây Tre của mình, từng sợi mây,
từng mũi kim đan vào vẫn chính xác đến khơng ngờ, những sản phẩm cuối cùng cho ra
cho thấy độ tinh xảo và hoàn thiện vô cùng.
Mạc dù nằm cách thủ đô Hà Nội, một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hố. được
xem là nơi phồn hoa đơ hội có sức lan toả mạnh thế nhưng Phú vinh thì vẫn giữ được
những nét bình dị của một làng quê, vẫn cây đa - bến nước - sân đình, ao bèo và
đường làng quanh co. Tất cả là nhờ Phú Vinh còn giữ được nghề của mình.
đến với Phú Vinh ngày hơm nay chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước những đổi
thay của phú vinh, đường làng đã gần như hồn tồn được bê tơng hóa, đã có điện thắp
sáng ở cả những con đường nho nhỏ hun hút và đặc biệt là phú vinh ngày nay đã có
khơng ít những nhà cao tầng mọc lên giữa thơn xóm cho thấy sự “ăn lên làm ra” của
người dân phú vinh và bên cạnh đó thì điều đáng nói ở đây chính là trong cuộc sống họ
vẫn giữ được mối quan hệ hàng xóm, hàng ngõ (láng giềng) với nhau, họ giúp đỡ,
tương trợ nhau trong cuộc sống cũng như trong lao động sản xuất.
1.1.4

:đặc điểm nghề thủ công truyền thống Mây - Tre Phú Vinh

Không giống những ngành nghề khác, nghề thủ công truyền thống Mây Tre có một
đặc điểm nổi bật đó là tính phổ thông, phù hợp với mọi lứa tuổi. Từ trẻ lên 3 cho tới
những ông cụ, bà cụ 80 - 90 tuổi đều có thể làm được, đó có thể là một cơng đoạn nào

đó dù khộng quan trọng trong một sản phẩm. Hay nói cách khác là nghề thủ cơng Mây
Tre khơng kén chọn, khơng khó tính trong việc sử dụng lao động. đến với làng nghề
Mây Tre phú vinh hẳn ai cũng thấy hình ảnh cả một đại gia đình ngồi quây quần với
nhau, thoạt nhìn chắc chắn trong chúng ta sẽ khơng ít người lầm tưởng rằng gia đình đó
đang có một dịp kỷ niệm nào đó nhưng thực ra lại khơng phải như vậy mà đó chính là
cơng việc thường ngày của người làng nghề phú vinh, những đứa bé và ơng bà già thì
làm những cơng việc khơng khắt khe và khơng địi hỏi kỹ thuật cao trong một sản


phẩm cịn đói với người trong độ tuổi lao động thì thường đảm nhiệm những cơng việc
khó, địi hỏi độ chính xác cao, sự tinh tế và tính thẩm mỹ hồn thiện trong một sản
phẩm.
Một đặc điểm thư hai đó là nghề Mây Tre khơng có những qui đinh cụ thể về thời
gian, không gian cụ thể trong lao động sản xuất, người ta có thể làm trong bất kỳ thời
gian nào rảnh rỗi và ở bất cứ nơi đau mà họ cho là tiện, nói chung là vào mọi lúc, mọi
nơi (sáng sớm, giữa trưa hay cả ban đem và thậm chí là thời gian đi học về của nhũng
cơ bé, cậu bé, người có con mọn đều có thể tranh thủ làm việc).
Bên cạnh việc phù hợp đói với mọi đối tượng và có thể làm việc ở mọi lúc, mọi
nơi như đã nói thì nghề Mây Tre còn mang lại thu nhập khá cao cho người lao động
nhất là đói với người lao động lành nghề. Theo khảo sát thực tế thì đối với những
người đi làm theo kiểu cơng nhân ăn lương trong các xưởng thì ngày công thường đạt
từ 40-50 ngàn/người/ngày (thường là người dưới hoặc quá độ tuổi lao động), còn đối
với những người trong độ tuổi lao động hay những lao đông lành nghề thì thường tự
nhận mẫu và sản phẩm để làm tại nhà thì ngày cơng thường đạt từ 70 – 100
ngàn/người/ngày (có khi cịn hơn thế).
Tuy nhiên, bên cạnh đó để có thể cho ra một sản phẩm có giá trị nghệ thuật cao, mang
nhiều chi tiết, đòi hỏi độ chính xác, tinh sảo thì cần có đơi tay của những người lâu
năm trong nghề am hiểu cá tính của của từng sợi mây thì mới có thể cho ra những sản
phẩm hoàn mỹ.
1.1.5 :Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề Mây Tre hôm nay.

Mặc dù là một nghề khá thoải mái, dễ tính và khơng địi hỏi q cao về nhiều mặt
và nếu nói như vậy thì tưởng chừng nghề thủ cơng truyền thống Mây Tre đan chỉ cho
ra những sản phẩm thủ công đơn giản nhằm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của bà
con thế nhưng thực tế lại không phải như vậy. cùng với sự phát triển của xã hội thì
nghề thủ cơng truyền thống Mây Tre cũng cần có những thay đổi, có những qui định và
những địi hỏi của riêng mình để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển đặc biệt là trước
những biến đổi nhanh chóng của xã hội ngày hôm nay.
Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới quá trình tồn tại và phát triển của nghề thủ
công Mây Tre gồm:
 Thị trường và vấn đề mở rộng thị trường.


Vốn là một sản phẩm phổ thông, phù hợp với mọi đối tượng cho nên nhân dân trong
làng nghề và các vùng lân cận có thể nhanh chóng học hỏi và tự sản xuất để sử dụng
cho nên nhu cầu nội địa khơng cao trong khi đó đối với thị trường bên ngồi, đặc biệt
là các quốc gia cơng nghiệp do nhu cầu muốn được sử dụng những đồ vật gần gũi và
thân thiện với điều kiện tự nhiên hơn thế nưa sản phẩm Mây Tre còn mới lạ, đẹp mắt
và ứng dụng trong nhiều mặt của cuộc sống vì thế sản phẩm Mây Tre rất được ưa
chuộng ở thị trường nước ngồi và chính thị trường này làm nên sự sống còn đối với
làng nghề Mây Tre bởi vậy thị trường luôn là vấn đề được đặt ra và cần giải quyết.
+ Vấn đề vốn.
Vốn chính là vấn đề, là ngun nhân kìm hãm sự phát triển khơng chỉ với nghề Mây
Tre mà còn với tất cả các nghành nghề khác. hiện nghề mây tre phú vinh sản xuất đang
trong tình trạng hết sức nhỏ lẻ, phân tán khơng có qui hoạch và rất thiếu tính chun
nghiệp trong khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu và những địi hỏi về kỹ thuật,
tính thẩm mỹ ngày càng trở nên khắt khe. Qua khảo sát thực tế và nghe ý kiến của nghệ
nhân Nguyễn Văn Trung đồng thời là chủ của một xưởng sản xuất Mây tre cho hay: “
dân ta làm ăn phân tán, thiếu tập trung, không có tác phong lao động cơng nghiệp đặc
biệt là khơng có một lực lượng sản xuất chun nghiệp ln sẵn sàng đáp ứng nhu cầu
của khách hàng cho nên nhiều khi có khách hàng trong và ngồi nước đặt những đơn

hàng lớn thì cũng khơng giám nhận vì sợ khơng thể đáp ứng được nhu cầu”. đó cũng
chính là trăn trở của những người trong nghề vì vậy giải quyết được vấn đề vốn thì
mới có thể mở rộng được qui mô sản xuất, đào tạo lực lượng lao đọng chuyên nghiệp
có tay nghề cao, thu mua các laoij máy móc phục vụ sản xuất, phơi sấy và bảo quản sản
phẩm. Làm được như vậy thì mới có thể phát triển được nghề Mây Tre.
+ Vấn đề chính sách của đảng và nhà nước.
Vấn đề này cũng xin được trích lời nghệ nhân Nguyễn Văn Trung: theo ông “ nhà nước
cần có những chính sách thơng thống hơn, ưu tiên tạo điều kiện để phát triển nghề
mây tre truyền thống, đặc biệt cần có những qui hoạch tổng thể, những đầu tư cho
doang nghiệp xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm và bảo vệ quyền tác giả đối
với sản phẩm của mình”. Là người đã đi nhiều nước trên thế giới ông cho hay: “ so với
các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc,Thái Lan, Đức... thì nhà nước ta cịn chưa có
sự quan tâm và đàu tư đúng mức để nghề mây tre có thể phát triển tốt nhất”.


CHƯƠNG 2 - LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG MÂY - TRE PHÚ
VINH.
2.1 : nguyên liệu và vấn đề về kỹ thuật :
2.1.1: nguyên liệu
Nguồn nguyên liệu chủ yếu cho nghề Mây Tre cơ bản là: Mây, Tre và song (ngồi
ra cịn sử dụg Giang, nứa, sứ và một số ngun liệu khác).
Xưa kia khi mà dân số cịn ít, đất đai còn rộng, nghề Mây Tre còn chưa phổ biến
tới các vùng lân cận cộng với thị trường chưa mở rộng thì nghề Mây Tre cịn tự cung tự
cấp đuợc nguyên liệu thế nhưng đã từ lâu nguồn nguyên liệu của địa phương và những
vùng lân cận đã không còn đáp ứng được nhu cầu cho việc sản xuất của làng nghề cho
nên nguyên liệu phải thu mua và vận chuyển từ những nơi rất xa như Quảng Nam,
Quảng Ngãi và những vùng xa xôi khác khiến cho giá thành nâng cao và những khó
khăn khác trong việc chủ động nguồn nguyên liệu cho sản xuất.
2.1.2 : vấn đề kỹ thuật
a. Quy trình cơng nghệ uốn song.

- Giới thiệu chung
Song mây được dùng rộng rãi trong đồ mộc do chúng có cường độ cao. Song mây
có thể được uốn cong với bán kính cong nhỏ bằng bốn lần đường kính của thân và
được dùng làm nhiều bộ phận khác nhau của đồ mộc.
Song mây được uốn cong theo phương pháp truyền thống bằng cách hơ trên ngọn
lửa đèn cồn. Phương pháp này có hạn chế là để lại các dấu vết chảy xám trên thân dẫn
đến giảm chất lượng và giá trị của các sản phẩm.
Công đoạn uốn song mây được xây dựng như là một khâu trung tâm trong chương
trình phát triển mở rộng sản xuất, cùng với công đoạn uốn lá luộc dầu, tẩy trắng bảo
quản và gây trồng song mây.
Lợi ích của việc uốn song mây bằng hơi nước
Uốn song mây bằng hơi nước sẽ loại bỏ được các vấn đề trên. Làm nóng song
mây bằng hơi nước cũng làm tăng độ dẻo của thân cây, cho phép uốn các đoạn thân có
chiều dài hơn và giảm bớt cơng sức.


Giảm sự phụ thuộc vào nguồn gỗ vì thế tăng việc bảo vệ mơi trường sinh thái.

Cho phép phục hồi các vùng đất thoái hoá nhờ việc trồng mới các rừng song mây.




Tạo cơ hội tăng thu nhập cho người trồng song mây, tạo việc làm.



Chỉ dùng phế liệu của q trình sản xuất song mây làm nhiên liệu cho các

doanh nghiệp chế biến khác.



Điều kiện để thành cơng



Nguồn ngun liệu ổn định và có chất
lượng.



Cán bộ kỹ thuật có kỹ năng uốn song mây.



Các bộ giá đảm bảo sự đồng dạng.



Sử dụng các bộ khn mẫu rất quan trọng để có được các sản phẩm đồng nhất.



Uốn song mây cần người vận hành có kỹ năng và tâm huyết.

Thiết bị uốn
Thơng thường các doanh nghiệp uốn song hiện nay với quy mơ nhỏ nên có thể
áp dụng các thiết bị sau:
- Hệ thống cung cấp hơi: Có thể sử dụng nồi đun có dung tích 30-50 lít nước đối với
sản xuất quy mô nhỏ hoặc hệ thống nồi hơi chuyên dụng.

- Buồng để hoá dẻo song: Phụ thuộc vào điều kiện sản xuất của từng doanh nghiệp có
thể bằng ống kim loại.

Kích thước:

Đường kính 30-40 cm
Chiều dài: 250-350 cm.

Nếu quy mơ sản xuất lớn có thể sử dụng đường kính của nồi hấp từ 80-100 cm.
- Hệ thống đường ống dẫn hơi từ hệ thống cung cấp hơi đến buồng hoá dẻo.


- Bộ khuôn mẫu và bộ giá. Tuỳ theo dộ cong của chi tiết uốn mà các bộ giá sẽ khác
nhau.
- Các bước công nghệ
 Chuẩn bị song
Song sau khi nắn thẳng và hong phơi để độ ẩm của song trước khi uốn đạt
W=20-25%. Việc nắn thẳng được thực hiện bằng thủ công trên các công cụ rất đơn
giản cầm tay.
 Sử lý song bằng hơi nước
Xếp song vào trong buồng chứa và tiến hành sử lý bằng hơi nước. Hơi nước
được cấp cho buồng chứa qua hệ thống ống dẫn từ nồi hơi.
Thời gian xử lý song từ 10-15 phút tính từ thời điểm nhiệt độ hơi nước trong
buồng bắt đầu đạt 1000C (khơng tính thời gian đốt lị).
 Tiến hành uốn
Sau khi song đã được hoá dẻo bằng hơi nước trong thời gian vừa đủ, lấy song
ra khỏi buồng và lập tức tiến hành uốn ngay.
Bước 1. Đối với các chi tiết nhỏ thì tiến hành uốn cong quanh trục bằng gỗ trên
bàn uốn để tạo độ cong lớn. Đối với các cây song có chiều dài và đường kính lớn cần
thiết phải uốn theo khn định hình.

Bước 2. Đặt các chi tiết uốn vào khn định hình sau đó hai đầu đoạn song
được cố định bằng dây buộc để hạn chế sự đàn hồi chở lại. Chi tiết uốn sau khi định
hình có thể lấy ra ngay.
Bước 3. Lấy song uốn ra khỏi bàn uốn và tiến hành phơi sấy trong lò cho đến
khi độ ẩm đạt W=10%-12%.
b. Quy trình cơng nghệ sấy mây
- Giới tiệu
Sấy là một công đoạn quan trọng trong các xưởng mộc. Khi nguyên liệu được
sấy khô đến độ ẩm theo yêu cầu trong sử dụng, nó mang lại các lợi ích sau:


Tạo sự ổn định kích thước cho vật liệu



Nâng cao tính chất cơ học



Loại bỏ hoặc làm giảm nguy cơ bị nấm (độ ẩm<20%) và côn trùng (độ ẩm

<10%) phá hại




Thúc đẩy sức thẩm thấu thuốc bảo quản (độ ẩm<30%)




Giảm chi phí vận chuyển



Dễ gia cơng, đánh nhẵn và dán keo



Nâng cao khả năng bám dính của các chất phủ (chất nhuộm màu, vecni, sơn,…)



Tăng khả năng cách nhiệt



Giảm sức ăn mòn các vật kim loại tạo liên kết trong sản phẩm.
c. Phương pháp sấy mây



Phơi
Đặt mây dưới ánh nắng mặt trời hoặc dưới mái tre cho mây khô. Cách thông

thường là xếp các cây mây dựng đứng hoặc nằm ngang vào các khung gỗ hoặc dựng
chụm đầu các cây mây vào nhau thành hình chóp nón.
Nói chung, cần 2 đến 3 tháng để phơi mây khô dưới độ ẩm 20%. Vào mùa mưa
thời gian phơi kéo dài hơn mùa khô và vào mùa mưa khả năng bị thấm mốc lớn hơn
mùa


khô.


Hình.4. Hong phơi song nằm ngang

Hình.3. Hong phơi song thẳng đứng

• Kỹ thuật sấy
Sấy là việc dùng buồng kín điều chỉnh được nhiệt độ, độ ẩm khơng khí và sự
tuần hồn khơng khí. Các cây mây được xếp thành đống nằm ngang và được làm nóng
trong lị sấy để sấy khô đến độ ẩm yêu cầu. Đây là phương pháp làm cho mây khô
nhanh nhất (Natividad, 1995). Tuy nhiên, việc xây dựng lị sấy có thể là khá đắt. Nhiệt
cung cấp cho lị sấy có thể là cành cây, ngọn cây và củi…
d. Quy trình sấy
- Chuẩn bị mây để sấy
1. Phân loại mây. Các cây mây nhỏ khô nhanh hơn các cây mây lớn. Tương tự, các cây
mây tươi có độ ẩm cao hơn và cần thời gian sấy dài hơn các cây mây đã khô hơn một
phần. Để nhanh khô và tránh sự chênh lệch độ ẩm lớn cần thực hiện các công việc sau:
+ Phân loại mây theo cấp đường kính, độ ẩm và chủng loại
+ Lý tưởng là chỉ sấy một loài mây nhưng những cây mây này ít nhiều cũng cần có
đường kính và độ ẩm đồng đều.


Các cây mây tươi và các cây mây đã khô một phần không được sấy cùng nhau.
2. Nắn thẳng và cạo vỏ. Các cây mây đã được nắn thẳng để vận chuyển và cạo vỏ bằng
tay hoặc bằng máy. Các cây mây đã được cạo vỏ khô nhanh hơn các cây khơng được
cạo vỏ.
3. Nắn thẳng gồm các bước sau:
• Làm nóng chỗ thân con bằng đèn khị trong thời gian 20-30 giây.
• Để giảm thiểu các vết cháy hoặc xém trên bề mặt cần gia nhiệt chậm và đều bằng

cách soay trịn ngun liệu.
• Khi ngun liệu đủ nóng (vị trí cần nắn thẳng) lập tức nắn thẳng bằng tay hoặc bằng
dụng cụ thủ cơng.
• Cũng có máy dùng để nắn thẳng mây (Hình 6a,6b)

4. Cạo vỏ song mây thường được làm thủ cơng khi cịn tươi, gồm các bước sau:
• Làm một cái khung chữ A để đỡ các cây mây được cạo vỏ ở vị trí gần thẳng đứng.
• Cạo các gờ ở mấu và lớp vỏ cứng của cây mây bằng dao, quắm.
5. Xếp rỡ


Để xếp các cây mây ra phơi cũng như thu gom các cây mây đã khô một cách
thuận tiện cần dùng xe vận chuyển có bánh hoặc ray…
Các cây mây có thể được xếp theo hai cách:
• Xếp các cây mây nằm ngang trên giá hoặc xe vận chuyển bên ngồi lị xấy.
• Bó chặt các cây mây thành bó nhỏ và xếp các bó đơn lẻ thành từng lớp nằm ngang
trên xe vận chuyển. Các thanh kê phải có đường kính bằng với đường kính của các cây
mây to hoặc lớn hơn một chút với các cây mây nhỏ, các thanh kê cách nhau khoảng 0.6
m.
• Khi đã xếp đầy, các giá hoặc vận chuyển được đẩy hoặc kéo bằng hệ thống dây cáp
và puli vào trong lò sấy. Hướng của các cây mây trong đống cần phải song song hoặc
vng góc với hướng tuần hồn của dịng khí trong lị sấy. Hướng song song sẽ khơ
nhanh hơn vì lý do kinh tế, nên xếp đầy lò để sấy.
e. Quy trình cơng nghệ xử lý chống mốc cho song mây
- Giới thiệu chung
Song mây hay mây (Rattan) gồm các cây thân leo có gai thuộc họ cau, phân bố ở vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới lục địa Âu, Á và Phi.
Trên tồn thế giới có ít nhất 568 loài song mây thuộc 13 chi gồm Calamus
(khoảng 370 loài) , Daemonorops (khoảng 115 loài), Korthalsia (khoảng 26 loài),
Plectocomia (khoảng 16 loài), Eremospatha (khoảng 12 loài), Laccosperma (khoảng 7

loài), Ceratolobus (6 loài), Plectocomiopsis (5 loài), Oncocalamus (5 loài),
Pogonotium(3 loài), Myrialepis (1 loài), Calospatha (1 loài) và Retispatha (1 loài) (Uh1
và Dransfield 1987). Cây có chất lượng tốt và có giá trị thương mại cao nhất thuộc về
chi Calamus.
Việt Nam có ít nhất 26 loài thuộc 5 chi gồm Calamus (19 loài), Daemonorops
(3 loài), Plectocomia (2 loài), Korthalsia (1 loài), Myrialepis (1 lồi).
Ở hầu khắp các nước Đơng Nam Á, song mây là đại diện lâm sản có giá trị kinh
tế cao sau gỗ và tre nứa. Ở mức độ địa phương, song mây có ý nghĩa xã hội to lớn
trong việc tạo thêm nguồn thu nhập cho dân nghèo sống gần rừng. Sản phẩm quan
trọng nhất từ song mây là phần thân. Thân song mây có hình trịn với chiều dài lớn.
Đường kính thân khác nhau đáng kể giữa các lồi, thường biến động từ 3-60 mm, cá
biệt có thể lớn hơn. Chiều dài thân lớn nhất tới 175 m (Burkill, 1935).


Song mây luân có thân đặc, dẻo dai, dễ uốn và bề mặt bóng đẹp. Từ những đặc
tính q này, kết hợp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chế biến song
mây, đã biến song mây trở thành nguồn nguyên vật liệu quan trọng trong công nghiệp,
nông nghiệp, xây dựng, và kiến trúc. Song mây có thể làm rổ rá, dây buộc, bàn, ghế,
cầu treo,…Thật khó có thể kể hết cơng dụng của song mây, và song mây đã trở thành
một phần sản phẩm văn hoá của một số nước Châu Á.
Tuy nhiên, giống như với hầu hết các vật liệu ligno-cellulose khác, song mây có
khả năng chống chịu với các tác nhân phá hoại sinh học, và lửa rất thấp. Biến màu song
mây là một dạng khuyết tật phổ biến. Có hai biện pháp để ngăn chặn và kiểm soát sự
phá hoại của nấm và côn trùng đối với song mây gồm biện pháp bảo quản kỹ thuật
(khơng sử dụng hố chất bảo quản) và biện pháp bảo quản hoá chất (Sử dụng hoá chất
bảo quản).
f. Một số biện pháp bảo quản chống mốc
1. Bảo quản kỹ thuật
Các biện pháp bảo quản kỹ thuật gồm hong phơi hoặc sấy. Khi hong phơi, các
cây song mây được hong phơi dưới mái che, và nếu phơi dưới ánh mặt trời thì khơng

được để ngun liệu trực tiếp chịu tác động của ánh nắng. Mặt khác có thể sử dụng lò
sấy nhằm rút ngắn thời gian làm khô song mây.
Phơi hoặc sấy song mây làm giảm khả năng xâm nhập của nấm và sự phá hoại
của mọt, đồng thời là khâu chuẩn bị nguyên liệu cho các công đoạn chế biến tiếp theo
đặc biệt là công đoạn trang sức bề mặt. Các nghiên cứu về đặc điểm sấy song mây đã
được thực hiện vào khoảng năm 1939. Các nghiên cứu đã đề cập đến việc phơi các
đoạn song mây đã được cạo bỏ lớp mặt và không được cạo bỏ lớp mặt xếp dựng đứng
ngoài trời. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các đoạn song mây được cạo bỏ lớp mặt
độ ẩm 13% từ độ ẩm ban đầu 120% chỉ trong thời gian 5 tuần; trong khi đó, các đoạn
song mây khơng được cạo bỏ lớp mặt phải cần 26 tuần để đạt độ ẩm trung bình 22% từ
độ ẩm ban đầu 160%.
2. Bảo quản hố chất
Với các biện pháp có sử dụng hố chất, thì các loại thuốc trừ nấm và thuốc trừ
sâu được sử dụng nhằm ngăn chặn sự tấn công của nấm và cơn trùng. Chúng được
phân thành nhóm thuốc bảo quản dạng dầu hoặc dạng muối. Thuốc bảo quản dạng


muối là các hố chất hồ tan trong nước như pentaclorua phenolnat natri (NaPCP),
thiocyanomethylthio-benzothiozole (TCMTB) và deltamethrin. Thuốc bảo quản dạng
dầu là các hố chất chỉ hồ tan trong dầu thực vật hoặc dầu mỏ như creosote. Thuốc
bảo quản dạng dầu được dùng để bảo quản song mây dùng ở nơi tiếp xúc trực tiếp với
đất.
Thuốc bảo quản có thể được đưa lên các cây song mây bằng cách phun, quét và
nhúng hoặc ngâm vào hoá chất bảo quản. Cũng có thể dùng áp lực để đưa thuốc bảo
quản vào song mây như phương pháp tế bào đầy và phương pháp tế bảo rỗng. Tuy
nhiên, các phương pháp này có chi phí cao và thường chỉ áp dụng ở các nhà máy có
quy mơ lớn.
3. Cạo vỏ
Bước đầu tiên sau khai thác song mây là cạo vỏ, bước công việc này nhằm loại
bỏ lớp biểu bì ở mặt trong ở các bẹ lá cịn dính trên thân cây và lớp biểu bì đã cứng

hố. Do việc cạo vỏ ở song mây đã khơ và rất khó, nên cần tiến hành cạo vỏ khi song
mây còn tươi. ở các nước khác nhau áp dụng các phương pháp cạo vỏ khác nhau.
Ở Indonesia, một nước có nhiều song mây, đã áp dụng một số phương pháp
khác nhau. Một số phương pháp có hiệu quả và số khác thì cần nhiều lao động hơn.
Một trong số các phương pháp truyền thống được áp dụng ở Inđonesia là dùng các
thanh gỗ dài đập vào các sợi mây cịn dính bẹ lá. Phương pháp này cho thấy khơng phù
hợp do nó khơng làm sạch triệt để.
Phương pháp đơn giản nhất nhưng tốn nhiều thời gian là soắn các sợi mây
trong tay và dùng cát mịn, xơ dừa hoặc rẻ rách để lau sạch. Phương pháp này cho bề
mặt sạch. Thay vì phải làm bằng tay, đôi khi song mây được cuộn quanh một thân cây
và trườn đi trườn lại.
Ở Ấn Độ, người dân dùng cát và rẻ rách để cạo bỏ lớp vỏ cứng trên bề mặt các
sợi mây có đường kính lớn (Anonymous, 1980). ở Papua New Guinea, người dân dùng
sợi bông kim loại, xơ dừa để trà sát (Zieck, 1976).
Sau khi cạo vỏ, các sợi mây được rửa trong nước, Sau đó chúng được hong khô
hoặc tiếp tục chế biến. Nếu chưa được chế biến, thì cần phân loại dựa theo đường kính,
chiều dài lóng và các khuyết tật, khối lượng, và buộc chặt thành bó. Các bước chế biến
tiếp theo bao gồm xơng khí, tẩy trắng hoặc luộc dầu, tiếp đến là phơi khô.


4. Xơng khí
Thơng thường người dân dùng khí lưu huỳnh
để xơng đặc biệt với song mây có đường kính lớn,
để có được màu sắc đẹp nhất và diệt trừ mọi loại sâu
hại.
Sau khi rửa tiến hành xơng khí lưu huỳnh
trong buồng kín (kích thước phù hợp của buồng
chứa nên là 6 x 5 x 3 m) vừa với một hộp đốt lưu
huỳnh vào trong buồng thực hiện q trình xơng
khói.

Song mây được xơng khói qua đêm, đơi khi là 24 giờ hoặc nhiều hơn, cho đến
khi có được một màu đồng nhất. Sau đó chúng được phơi sấy khơ và phân thành các
loại khác nhau.
5. Luộc dầu
Nguyên liệu song mây cịn tươi có thể được luộc trong dầu để loại bỏ lớp sáp
và các chất gôm. Luộc song mây trong dầu nhằm loại bớt nước hay giảm độ ẩm, vì thế
giúp song mây tránh được nấm mốc và nấm mục tấn công; và cải thiện được màu sắc
cho song mây.
Những nơi khơng có điều kiện luộc dầu,
người ta dùng phương pháp truyền thống. Ở
Indonesia, song mây được vùi sâu trong bùn,
nung nóng trong 24 giờ, dùng sơ dừa để làm
sạch, phơi nắng trong khoảng một tuần, rồi
phân loại và bó thành từng bó (Rachman, 1974).

Hình 13: Luộc dầu

Ở Papua New Guinea, sau khi rửa qua bằng nước, dùng dầu ma rút và bông kim
loại trà mạnh lên bề mặt (Zieck, 1976). Dùng găng tay nhựa để bảo vệ da tránh tiếp xúc
với dầu ma rút. Ở Ấn Độ, người dân dùng cát và sợi bao tải để trà nên bề mặt các sợi
mây có đường kính lớn, xử lí bằng dầu lanh, và hơ lửa trong thời gian khoảng 1 phút.
Sau đó dùng sợi bao tải trà nên các sợi mây được ngâm trong dầu ma rút và được dựng
đứng ngồi trời để phơi khơ trong thời gian 10 ngày (Anonymous, 1980). Ở Malaysia,


các sợi mây được hơ khô bằng lửa, trong quá trình hơ lửa đưa dầu dừa hoặc các loại
dầu khác lên bề mặt song mây (Hing, 1982).
Bước quan trọng trong quá trình luộc dầu là giữ cho song mây ngập trong dầu ở
dưới điểm sôi trong một khoảng thời gian nhất định từ 5-10 đến 30-40 phút, tuỳ thuộc
vào loài cây và đường kính. Trong q trình này, các chất sáp, gơm và nhựa sẽ bị hồ

tan và loại bỏ, và độ ẩm trong thân sẽ giảm. Phần dầu bám trên bề mặt song mây phải
được loại bỏ ngay sau khi luộc. Các vật liệu như mùn cưa, vỏ bao tải, rẻ rách, cơ dừa,
bông thép hoặc cát mịn được dùng để làm sạch dầu bám trên bề mặt song mây. Tuy
nhiên, mùn cưa là thích hợp hơn cả bởi vì nó khơng chỉ làm sạch bề mặt dễ dàng và
nhanh hơn, mà nó cịn thấm hút tồn bộ lượng dầu dư bám trên bề mặt (Hing, 1982).
Có thể kết hợp các biện pháp chống nấm mốc và côn trùng phá hại trong quá
trình luộc dầu. Cụ thể là thêm hố chất chống nấm mốc và cơn trùng vào trong bể dầu.
Tuy nhiên, để tránh cho hoá chất bị phân huỷ do nhiệt nên nhúng các sợi mây đã luộc
dầu cịn đang nóng vào dung dịch thuốc bảo quản được đựng trong một bể chứa khác.
6. Quy trình xử lý
 Sự xâm nhập của nấm mốc
Thông thường song mây bị nấm mốc xâm nhập chỉ ngay sau thời gian khai thác
1 ngày (Salita 1985). Phần lớn lá mốc xanh, các sợi nấm chui sâu vào trong thân và sử
dụng đường bột trong cây làm thức ăn.
Mốc xanh chủ yếu xâm nhập lớp bề mặt.
Các mặt cắt ngang, vết đánh giấy nhám,
là các con đường xâm nhập chủ yếu của
nấm mốc.
Ngay khi xuất hiện, các vết mốc sẽ cắm
rễ sâu vào trong lõi. Các vết mốc không thể cạo bỏ hết được
Cách duy nhất để dấu kín các vết mốc là dùng sơn che phủ.
 Các điều kiện mà nấm mốc xâm nhiễm
Độ ẩm của song mây trên 30%
Nhiệt độ dưới 400C.
Có nguồn thức ăn như tinh bột, đường, và các khoáng chất ,… trong thân.
 Giải pháp


Loại bỏ một trong số các điều kiện ở trên là đủ để ngăn chặn sự sinh trưởng của
nấm mốc. Nấm mốc sẽ không sinh trưởng nếu độ ẩm dưới 20% thậm chí là nhiệt độ

dưới 400C.
 Xử lý
Xử lý hố chất trong vịng 8 giờ tính từ thời điểm khai thác và tiếp đến là sấy
đến độ ẩm dưới 20%. Sấy ngay khi khai thác mà không cần sử lý hoá chất, ở nhiệt độ
trên 400C.
5. Hoá chất chống mốc
Sodium pentachlorophenate dạng bột 3.15 kg:450 lít nước
Dowicide G dạng bột 3178 g : 454 lít nước.
Haipen dạng lỏng
2.1.3 : dụng cụ
Dụng cụ phục vụ trong sản xuất sản phẩm Mây Tre khá đơn giản như dao, kéo, kìm,
kim, cặp, dùi ...
2.1.4 : các loại hình sản phẩm
Xưa nay phú vinh vẫn được coi là đất “xứ mây”, quê hương của mây đan với những
sản phẩm mỹ
nghệ

bằng

mây đạt tới
đỉnh

cao

nghệ

thuật

tạo


hình.

Nghề mây đã
được

người

phú vinh cha
truyền

con

nối mấy trăm năm và cho đến nay đã sáng tạo được trên 200 mẫu sản phẩm với đủ thể
loại như bàn ghế, lẵng hoa, chụp đèn. Lồng đèn, khung ảnh, bình hoa cho đến các loại
bát mây, đĩa mây, làn mây... có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau trong sinh
hoạt cũng như trong trang trí nghệ thuật...


Sản phẩm Mây Tre đan Phú Vinh.
CHƯƠNG 3 - NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NGHỀ MÂY - TRE VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP, HƯỚNG ĐI CHO NGHỀ MÂY TRE.
3.1 Văn hóa
3.1.1 những đóng góp của nghề mây tre phú vinh thể hiện trên các lĩnh vực văn
hóa :
Nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, sự đan dạng
của nền văn hóa việt nam chính là nhờ sự góp mặt của cả các lĩnh văn hóa tinh thần
(quan họ Bắc Ninh, Kồng Chiêng Tây Nguyên, nhã nhạc cung đình huế...) và những
đặc trưng thuộc văn hóa vật chất (trống đồng đông sơn, các loại lăng tẩm, đền, đình,
chùa... và trong đó cũng khơng thể khơng kể đến hàng ngàn nghề thủ công truyền
thống trên cả nước). Tuy nhiên trong các lĩnh vực thuộc văn hóa vật chất thì cũng bao



×