Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vấn đề cái chết trong thơ xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.15 KB, 12 trang )

Vấn đề cái chết trong thơ Xuân Quỳnh
Nếu như những sáng tác của Xuân Quỳnh thường được giới nghiên cứu nhìn nhận và tìm
hiểu trên phương diện thơ tình nồng cháy thì ở bài nghiên cứu này, người viết muốn đi
vào một phương diện khác mới mẻ hơn, ít được quan tâm đến, đó là Vấn đề cái chết trong
thơ Xuân Quỳnh.
MỞ ĐẦU
Văn học Việt Nam thời kì chống Mỹ cứu nước (1964 -1975) đã phát triển mạnh mẽ và đạt
được những thành tựu nhất định trên nhiều thể loại (thơ ca, văn xuôi, kịch, tiểu luận, phê bình
văn học); hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, viết nên cuốn “Biên niên văn học” về cuộc chiến
tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Trong sự phát triển chung đó, có một dòng thơ mới ra đời, đó là
thơ của những nhà thơ trẻ, mà sau này chúng ta gọi là thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ. Họ viết
bằng sức trẻ và nguồn cảm hứng dồi dào của mình, góp phần làm nên diện mạo cho một giai
đoạn lớn trong lịch sử văn học dân tộc.
Trong dòng chảy chung ấy, khi hầu hết những nhà thơ đang hướng ngòi bút để khắc họa
cuộc chiến tranh hào hùng của dân tộc bằng giọng điệu ngợi ca hào sảng, bằng sự khích lệ động
viên của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn như những cây bút trong giai đoạn trước,
thì có một nhà thơ nổi lên như một hiện tượng dám nghĩ, dám làm, dám viết, dám sống với
những nhịp đập chân thành từ trái tim mình. Con người ấy cháy mãnh liệt trong tình yêu, yêu hết
mình nhưng bằng sự nhạy cảm của một trái tim nghệ sĩ, con người ấy cũng dự cảm được những
cô đơn, trắc trở trong tình yêu và hơn nữa là cả cái chết của đồng đội và bản thân mình. Đó là nữ
thi sĩ Xuân Quỳnh. Nếu như những sáng tác của Xuân Quỳnh thường được giới nghiên cứu nhìn
nhận và tìm hiểu trên phương diện thơ tình nồng cháy thì ở bài nghiên cứu này, người viết muốn
đi vào một phương diện khác mới mẻ hơn, ít được quan tâm đến, đó là Vấn đề cái chết trong
thơ Xuân Quỳnh.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG VĂN HỌC
1.1- Cái chết trong cuộc sống – cái chết sinh học
Theo Từ điển Tiếng Việt, chết là mất khả năng sống, không còn biểu hiện của sự sống.
Về hình thức diễn đạt, con người hoang sơ tiền cổ đã ghi lại cái chết qua các hình tượng
trên các giáp cốt hoặc tường đá, hang động. Về hình thức tống táng, các nền văn hóa văn minh
khác nhau đã có những nghi lễ khác nhau: hỏa táng rồi thủy táng tro ở sông Hằng, những xác


ướp Ai Cập, những ngôi mộ thênh thang, đông đúc như mộ Tần Thủy Hoàng; hay những ngôi mộ
treo, những kiểu điểu táng của người Tây Tạng…
Người Việt cũng rất coi trọng cái chết và thần linh. Chôn cất, tang lễ với đủ chuẩn bị, rồi 49
ngày, 100 ngày, những ngày giỗ, kị, thời gian để tang, lễ Vu Lan Hồn người quá vãng được tôn
kính và luôn tương đối hiện diện trong cõi sống. Rồi sinh ra những quan niệm đạo lý "nghĩa tử là
nghĩa tận", "sống ở, thác về"…
1.2- Cái chết trong văn học
Cái chết, về thể xác hay tinh thần, đều đã là đề tài chính của văn học nghệ thuật, là một đề
tài tưởng đã cũ như trái đất, như từ khi có con người, song trong mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau, nội dung và hình thức biểu hiện của nó cũng có sự thay đổi. Văn chương về cái chết đã có
một thời thịnh hành, đó là vào trước thế kỷ XVI. Trong thế giới văn chương, cái chết đã được
nhân bản hóa và hiện đại hóa từ mấy thế kỷ gần đây và đã có những tác phẩm vừa độc đáo vừa
đa dạng với nhiều thể loại khác nhau. Cái chết nói chung xưa nay vẫn là mối kinh hoàng, là nỗi
sợ chính của con người : sợ cõi lạ, cõi hư vô không thể biết vì không thể có kinh nghiệm khi
sống, khi còn ở một trạng thái trước, khác. Tuy từng được xem là một cấm kị nhưng cái chết
không chỉ là một đối tượng, mà còn là một thứ trực giác, cảm nghiệm cá nhân. Cái chết là một
biểu tượng về sự chấm dứt (symbol of the death). Bởi vậy trong văn chương, một cách trực tiếp
hay gián tiếp, người ta vẫn viết nhiều về cái chết với những biểu hiện đa dạng, phong phú.
Đó có thể là cái chết siêu hình trong sáng tác của trường phải siêu thực: các nhà thơ văn
trường phái siêu thực nêu lên những tương quan nghịch thường của cá nhân vô thần trước cái
chết để rồi chống cái chết như Breton trong Premier manifeste du surréalisme. Với phái siêu
thực, cái chết hiện diện và quy hồi qua những hình ảnh sọ người, xương cốt, ma quỷ, quái vật…
Ma trở thành nhân vật văn học và giấc mơ được dùng như tâm điểm và bước đầu của sáng tạo.
Để chống cái chết, thơ văn siêu thực dùng con người để tra vấn sự im lặng, tìm bí mật của sự
hiện diện và biến mất của im lặng như L'Étranger (Người xa lạ) của Albert Camus.
Đó có thể là cái chết lãng mạn như nhân vật chính trong L'Amant của Marguerite Duras
chết cái chết lãng mạn : yêu đến chết, yêu dù phải chết. Trước đó, Beaudelaire có nỗi ám ảnh về
cái chết như là sự trừng phạt của tình yêu : "đĩ điếm và cái Chết là hai người nữ khả ái Khi nào
thì nhà ngươi muốn chôn ta, đĩ điếm trong vòng tay dơ nhớp?" (Fleurs du Mal). Nhất Linh và Khái
Hưng trong Anh phải sống cũng đã để cho người vợ phải chết để tình yêu được trọn vẹn.

Đó có thể là cái chết Á Đông như trong những tác phẩm văn học trung đại viết về cái chết
theo quan niệm Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo (có thể kể đến những bài thơ của các Thiền sư,
các bài thơ của các Nho sĩ…). Hay cái chết vương vấn ám ảnh trong những sáng tác hoài cổ pha
không khí siêu thực của Xuân Thu Nhã Tập trong “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ.
Hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ 1945 - 1975 với hậu quả là những cảnh chết
chóc và những cái chết tàn bạo, bất ngờ; cái chết trong cuộc đời còn đa dạng và quá nhiều, hơn
cả tác phẩm của mọi thời đại văn học. Trong thế giới văn chương, dù đã rất hạn chế do chịu ảnh
hưởng của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhưng chúng ta vẫn có những cái chết
kí sự và kinh qua của Thảo Trường (Vuốt Mắt - 1969), Thế Uyên (Những Hạt Cát - 1964, Ngoài
Đêm - 1965, Nỗi Chết Không Rời - 1966), Nguyên Vũ (Trở Về Từ Cõi Chết - 1967, Chết Không
Nhắm Mắt - 1968), Nguyễn Minh Nữu (Những Giọt Máu Giăng Ngang)…
Đó có thể là cái chết kinh dị, trinh thám xuất hiện trong những truyện kinh dị, truyện/ tiểu
thuyết trinh thám với những đề tài khủng khiếp và những cái chết tưởng như ngẫu nhiên đã
được sắp đặt trước. Những cái chết theo kiểu này thường xuất hiện trong các sáng tác được
chuyển thể thành phim kinh dị, phim trinh thám.
Tiểu kết: Như vậy, cái chết không phải đề tài xa lạ gì với văn học. Song như đã nói, mỗi giai
đoạn lịch sử lại có những nội dung và hình thức biểu hiện riêng. Trong giai đoạn kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc, khi cả nước đang hăng hái chiến đấu, khi khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn đang bao trùm bầu trời văn học thì việc cái chết xuất hiện trong văn
chương trở thành điều hiếm hoi.
CHƯƠNG 2: NHỮNG CÁI CHẾT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
2.1- Thống kê tần số xuất hiện cái chết trong thơ Xuân Quỳnh
Danh ngôn thế giới có câu: “Sự chết là con lạc đà đen quỳ đợi ngay trước cổng nhà của tất
cả mọi người.” (Abe- el -Kader)
Sinh, lão, bệnh, tử là quy luật của tự nhiên. Không ai tránh khỏi cái chết giống như không ai
đi ngược lại được với quy luật của tự nhiên, bởi vậy không ai là không nghĩ đến nó. Nhưng vấn
đề là người ta quan tâm đến nó nhiều hay ít và bộc lộ sự ám ảnh đó dưới hình thức nào. Đối với
nhiều văn nghệ sĩ, tác phẩm nghệ thuật là nơi thăng hoa và giải thoát thích hợp nhất cho những
dự cảm và triết lý của họ về cái chết. Xuân Quỳnh cũng vậy, những dự cảm về sự chia lìa, tan
tác, chết chóc xuất hiện rất nhiều trong sáng tác của bà, đặc biệt là trong thơ. Cho dù nổi lên là

nhà thơ tình yêu xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại nửa cuối thế kỉ XX song trong thơ
bà, chúng ta không chỉ tìm thấy những khoảnh khắc thăng hoa của trái tim, những nỗi nhớ vượt
không gian, thời gian rộng lớn mà còn tìm thấy cả những cái chết.
Người viết đã tiến hành khảo sát tần số xuất hiện cái chết, sự chia lìa, tang tóc trong thơ
Xuân Quỳnh qua một số tập thơ. Thống kê 6 tập thơ mà Xuân Quỳnh công bố lúc còn sống
người viết có được số liệu thống kê như sau:
BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ XUẤT HIỆN CÁI CHẾT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
STT Tên tập thơ Năm xuất bản Số bài Tỷ lệ %
1 Chồi biếc 1963 9 50%
2 Hoa dọc chiến hào 1968 21 75%
3 Gió Lào cát trắng 1974 31 86%
4 Lời ru trên mặt đất 1978 24 75%
5 Sân ga chiều em đi 1983 44 71%
6 Tự hát 1984 31 89%

Tổng cộng các tập, ta có tỷ lệ bình quân là 76%. Đó là hiện tượng hi hữu trong thơ ca cách
mạng Việt Nam.
2.2- Cái chết của những con người trong chiến tranh
Bản lĩnh của Xuân Quỳnh trong bối cảnh chiến tranh khi người ta không khuyến khích viết
về nỗi buồn và cái chết, sợ nó ảnh hưởng không tốt đến lòng tin và sức chiến đấu của mọi
người, là ở chỗ bà dám nghĩ và dám viết về những điều người ta luôn trốn tránh. Vốn là người đa
cảm, Xuân Quỳnh không thể thờ ơ được trước cái chết của đồng bào mình sau “Mười hai ngày”
gánh chịu những trận mưa bom B52 của giặc:
Mười hai ngày cùng tận của lòng đau
Cô Ngọc Tường chết ở Bạch Mai
Chiếc áo cưới thay cho vải liệm
Gió đông bắc thổi qua nền gạch vụn
Trên máu người bị giết ở Khâm Thiên.
Đọc những câu thơ trên, cái chết xuất hiện không chỉ một lần. Song cách khắc họa cái
chết của Xuân Quỳnh không đem đến không khí bi lụy, bế tắc mà nổi bật lên là lòng căm thù sâu

sắc. Với lòng căm thù ấy, có gì hơn là cầm súng chiến đấu để trả thù cho những đồng bào vô tội
đã hi sinh? Bởi thế, đâu phải cứ viết về cái chết là làm nhụt chí chiến đấu! Dành hết trí lực để
quan tâm nhiều đến cái chết của đồng bào cho nên đã có những lúc bà sẵn sàng xoá tên người
yêu ra khỏi bộ nhớ của mình:
Dẫu trong em một tình yêu đã mất
Em không còn đủ sức nghĩ về anh.
(Mười hai ngày)
Song riêng “Vết đạn trên tường” thì cứ ám ảnh bà, bởi nó là hiện thân của sự chết chóc :
Nhiều việc quá, khó ai mà nhớ hết
Riêng vết đạn trên tường không dễ nào quên.
Không riêng gì Xuân Quỳnh mà bất cứ ai thời đó cũng bị ám ảnh bởi cái chết, bởi “Các bãi
sông đầy bom nổ chậm”, “Mọi con đường mang nỗi đau đạn lửa”… đang ngày đêm đe dọa sự
sống còn của con người. Sự hiểm nguy và chết chóc đã trở nên quá quen thuộc với con người
thời đó – những con người “đã quen nhiều gian khổ/ đã quen nhiều hy sinh”. Trong “ngàn cái
chết” mà Xuân Quỳnh gặp, có nhiều đồng đội vừa mới kề vai sát cánh với bà:
Các anh nằm bên những ngã ba
Nơi bom dội không còn ngọn cỏ.
Hay:
Dòng nước lợ mang máu anh về bể
… Máu của cô nhuộm đỏ bờ lau …
Viết về chiến tranh, viết về cái chết, Xuân Quỳnh không dùng cách nói giảm nói tránh như
những nhà thơ cùng thời, bà dám nhìn thẳng vào sự thật để nói, để viết. Bà cứ nói thật những
nỗi đau mà chính bà cũng đã từng trải, từng đau; cứ viết về máu đồng đội, máu mình từng chảy:
Máu đồng đội và máu tôi đã đổ
Trên cát này mà gió quạt vừa se.
(Gió Lào cát trắng)
Máu của em, máu của anh
Thấm bên góc phố, chân thành ngày xưa.
(Lai lịch một tình yêu)
Thơ Xuân Quỳnh đề cập quá nhiều đến cái chết, mặc dù bà vẫn biết rằng “Người chết sẽ

chẳng bằng lòng nếu chúng tôi quá đau thương”. Bởi vậy, bà cũng biết “Hát với con tàu” nhưng
tiếng hát ấy vẫn không át được tiếng gầm thét của con tàu lao ra trận tuyến. Và, vẫn không xua
tan được nổi ám ảnh về cái chết vì chính bản thân Xuân Quỳnh cũng đang xông xáo lao vào
những nơi ác liệt nhất: “Tôi sẵn sàng đem hiến cả đời tôi/ Cho cát trắng và gió Lào quạt lửa”,
“Sống đất này, chết cũng đất này thôi”…
Viết về cái chết của những con người trong chiến tranh, thơ Xuân Quỳnh vừa phản ánh
một cách chân thực cuộc chiến tranh gian khổ mà hào hùng của dân tộc, vừa thể hiện lòng căm
thù giặc sâu sắc, vừa thể hiện niềm xót thương trước những hi sinh mất mát của dân tộc về cả
vật chất lẫn tinh thần.
2.3- Cái chết của tình yêu và con người trong tình yêu
Một cách tổng quan có thể thấy rằng những cái chết xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh xoay
xung quanh hai vấn đề chính (cũng là trong hai tư cách chính của bà: chiến sĩ – thi sĩ), đó là cái
chết của những con người trong chiến tranh và cái chết của tình yêu và con người trong tình yêu.
Phần trên người viết đã dẫn chứng về cái chết của những con người trong chiến tranh. Dưới đây
người viết sẽ trình bày một số biểu hiện về cái chết của tình yêu và con người trong tình yêu:
Này anh, em biết
Rồi sẽ có ngày
Dưới hàng cây đây
Ta không còn bước.
(Chồi biếc)
Hay:
Ơi trời xanh – xin trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em xanh
Và trong em không thể còn anh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.
(Nếu ngày mai em không làm thơ nữa)
Với tâm hồn nhạy cảm của một người con gái, của một thi sĩ tinh tế, bên cạnh những câu
thơ nồng nàn yêu thương, Xuân Quỳnh cũng lo lắng về sự tan vỡ, về nỗi chia li. Bà lo tình yêu sẽ
đi qua cuộc đời mình như cơn gió mồ côi bởi trong suy nghĩ của Xuân Quỳnh, tình đang hiện
hữu cũng là tình đang biến mất. Người yêu là một điều gì xa xăm, khó nắm bắt:

Anh, con đường xa ngái
Anh, bức vẽ không màu
Anh, ngàn nỗi lo âu
Anh, câu thơ nổi gió…
Mà em người đời thường
Biết là anh có ở!
(Anh)
Thần Chết thường là bạn đồng hành với Thời Gian. Những người đa tình, ham sống
thường rất ghét Thời Gian. Nữ sĩ Xuân Hương than thở “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại” (Tự tình
II); Xuân Diệu cũng chua chát thốt lên : “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” (Vội vàng). Phải
chăng vì cũng mang trong mình chữ “Xuân” nên Xuân Quỳnh cũng không khỏi lo âu và tự hỏi
“Mùa xuân sẽ về đâu/ Khi nơi này xuân hết?” (Mười bảy tuổi) (?). Là một người nhạy cảm, Xuân
Quỳnh rất lo sợ cho thân phận tình yêu :
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi
Niềm đau đớn tưởng như vô tận.
(Nói cùng anh).
Yêu nhiều và lo lắng quá nhiều thứ trong cuộc sống đời thường như vậy đã làm cho con
tim Xuân Quỳnh mệt mỏi. Bà đã cảm nhận điều đó trong bài “Tự hát”:
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn.
Bà đã biết trước đời mình như một ngọn đèn le lói sắp tắt. Tháng 6/1988, Xuân Quỳnh bị
đau tim nặng phải vào bệnh viện. Trên giường bệnh, bà làm bài thơ “Thời gian trắng” thể hiện rõ
sự ám ảnh về cái chết :
Em ở đây không sớm không chiều
Thời gian trắng, không gian toàn màu trắng
Trái tim đập sau làn áo mỏng
Từng đập vì anh, vì những trang thơ

Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ
Chỉ có đập cho mình em đau đớn
Trái tim này chẳng còn có ích
Cho anh yêu, cho công việc, bạn bè.
Bà đã nhìn thấy rõ ràng Thần Chết đang đợi mình. Nhưng cuối cùng tạo hóa cũng không
nỡ đem đi một Xuân Quỳnh trên giường bệnh như thế. Xuân Quỳnh đã “được” chết bên gia đình
và bên người yêu thương, tuy rằng cái chết có đau đớn. Có ý kiến cho rằng đó là kết thúc đẹp
nhất cho mối tình lãng mạn của Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ.
Với mảng thơ viết về tình yêu, những dự cảm về sự chia ly, về cái chết càng tô đậm lên vẻ
đẹp trong tâm hồn người con gái Xuân Quỳnh. Nếu như niềm hi vọng, lạc quan, sự nồng nàn,
mãnh liệt thể hiện sự hiện đại của Xuân Quỳnh thì nỗi lo âu, những dự cảm lại thể hiện nét
truyền thống của bà. Sự hòa quyện này làm nên một nàng thơ Xuân Quỳnh đầy nữ tính.
2.4- Nguyên nhân xuất hiện những cái chết trong thơ Xuân Quỳnh
2.4.1 - Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan dẫn đến Xuân Quỳnh viết nhiều về cái chết là do những ám ảnh
của chiến tranh. Xuân Quỳnh không phải là người đứng ngoài cuộc mà bản thân bà đã từng cầm
súng chiến đấu, từng đổ máu, từng nếm trải nỗi đau của chiến tranh, từng chứng kiến bao đồng
đội đã hi sinh, bao làng quê đổ máu nên trong tâm thức của Xuân Quỳnh, chiến tranh gắn liền
với cái chết, với hi sinh và đổ máu. Điều ám ảnh này người viết tin rằng không chỉ có ở một mình
Xuân Quỳnh mà với bất cứ ai cũng đều có. Song, do những điều kiện của chiến tranh chỉ được
viết về chiến thắng, về sự lạc quan nên phần lớn những sáng tác văn học giai đoạn 1964 – 1975
không đề cập nhiều đến cái chết. Vì vậy, với những sáng tác của mình, Xuân Quỳnh thể hiện một
bản lĩnh cứng cỏi, bạo dạn khi dám nghĩ, dám viết những điều nhiều người nghĩ mà không dám
viết.
Có một nguyên nhân khách quan khác mà theo người viết cũng nên đề cập đến, đó là số
phận nghiệt ngã của Xuân Quỳnh. Có nhiều người cho rằng những vấn đề tâm linh thường
không có cơ sở, nhưng soi chiếu vào cuộc đời Xuân Quỳnh, ta có thể thấy dường như những dự
cảm về cái chết, số phận nghiệt ngã của bà là do định mệnh. Dự cảm nhiều về cái chết, về sự
chia li trong thơ xuất phát từ những linh cảm về cuộc đời, số phận nghiệt ngã mà chỉ những
người có tâm hồn đặc biệt mới có. GS. Chu Văn Sơn từng viết: “Cuộc đời và thơ Xuân Quỳnh là

một nỗ lực thoát khỏi chơ vơ định mệnh (…) và phải đến khi tai nạn phũ phàng ập xuống quá bất
ngờ, người đời mới thấy rằng những dự cảm lo âu suốt một đời người, một đời thơ ấy sao mà linh
nghiệm”. Có lẽ số phận đã để cho Xuân Quỳnh nhìn thấy trước được tương lai để nỗ lực vượt
thoát, nhưng cuối cùng sự nghiệt ngã vẫn đổ ập lên đầu người đàn bà xấu số. Lưu Khánh Thơ
cũng nhận định: “Có cái gì như là định mệnh khi chị kết thúc cuộc đời cùng chồng con vào một
ngày tháng 8 đau xót. Chị vĩnh biệt chúng ta vào mùa thu. Những bông hoa cúc vàng mà chị đã
từng yêu, từng nói đến trong các bài thơ đã phủ kín ngôi mộ. Những bông hoa phúng điếu, tưởng
niệm rồi sẽ tàn.”
Có người đã “xem tướng số” qua đôi mắt và giọng nói của Xuân Quỳnh như sau: Đôi mắt
“Vừa chăm chắm, vừa phiền muộn và đâu đó hình như có những giọt nước mắt ngấp nghé chỉ
muốn trào qua bờ mi. Đặc biệt nhất là giọng nói, bao giờ giọng nói của Quỳnh cũng run rẩy
nghẹn ngào như có tiếng khóc ở bên trong. Bằng vào hai thông số đặc biệt ấy của chân dung,
người ta không thể đoán định một số phận tốt hơn cho Xuân Quỳnh.” (Nguyễn Thị Minh Thái –
“Một giọng thơ tình ám ảnh”). Có lẽ ở Xuân Quỳnh có một sự sắp đặt sẵn nào đó của tạo hóa,
cho bà một tài năng xuất chúng, một nhan sắc hiếm có và cũng “cho” bà một cuộc đời không
kém phần bất hạnh.
2.4.2- Nguyên nhân chủ quan
Từ ngàn xưa, con người đã lo nghĩ về cái chết, về sự chia lìa, như một nhà nghiên cứu
văn học đã nhận định: “Nỗi day dứt vào bậc nhất trong suy cảm trữ tình của con người bao đời
nay là day dứt về chuyện CÒN – MẤT của những gì với mình là quý giá thiêng liêng. Người càng
giàu tiên cảm, giàu dự cảm lo âu về mất mát rủi ro, thì day dứt càng ám ảnh hơn” . Thơ Xuân
Quỳnh tràn ngập những suy tư, trăn trở về việc sống – chết. Vì sao mà hình thành một cái Tôi
Xuân Quỳnh mang nhiều ám ảnh về cái chết như vậy? Nguyên nhân chủ quan dẫn đến điều này
là do tuổi thơ Xuân Quỳnh và bản thân con người bà.
Mẹ Xuân Quỳnh mất khi bà còn quá nhỏ, cha thường xuyên đi làm xa và sau này lấy vợ
khác rồi vào Nam sinh sống, Xuân Quỳnh sống chủ yếu với bà nội. Suốt đời Xuân Quỳnh sống
thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Theo lời Đông Mai (Chị ruột Xuân Quỳnh) “Nỗi đau mất mẹ đã
ám ảnh suốt một đời Quỳnh”. Bà đã sớm hình thành nỗi đau của một đứa trẻ bơ vơ côi cút giữa
dòng đời: “Tuổi thơ tôi lạc lõng giữa đời/ Như một cánh chim bơ vơ mất tổ” (Tiếng mẹ). Có lẽ vì
thiếu thốn tình thương nên Xuân Quỳnh luôn lo sợ sự yêu thương mong manh sẽ rời bỏ bà mà đi

như chính cha mẹ mình. Tâm hồn cô quạnh ấy thật đáng thương biết bao!
Một tuổi thơ buồn như thế có lẽ đã góp phần làm nên chính con người Xuân Quỳnh: âu lo,
mỏng manh, đa tình, nhạy cảm. Nếu không có một sự nhạy cảm mãnh liệt thì chắc chắn Xuân
Quỳnh sẽ không bao giờ viết được những câu thơ đi vào lòng người như thế!
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CÁI CHẾT TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
3.1- Biểu hiện trực tiếp qua từ ngữ
Cái chết trong thơ Xuân Quỳnh được bộc lộ và thể hiện trực tiếp qua từ ngữ như chết, hi
sinh, máu, giết… chủ yếu trên mảng thơ viết về cái chết của những con người trong chiến tranh.
Với mảng đề tài này, bà dùng lối nói trực tiếp để nhấn mạnh, tô đậm ấn tượng mạnh mẽ về cái
khốc liệt, loạn lạc; không khí tang thương, chết chóc trước sự hủy diệt của chiến tranh:
Mười hai ngày cùng tận của lòng đau
Cô Ngọc Tường chết ở Bạch Mai
Chiếc áo cưới thay cho vải liệm
Gió đông bắc thổi qua nền gạch vụn
Trên máu người bị giết ở Khâm Thiên.
(Mười hai ngày)
Dùng một loạt từ ngữ cùng trường nói về cái chết như chết, vải liệm, máu, giết…, cái chết
chóc, tang thương hiện hẳn lên trên bề mặt câu chữ. Hiện thực nghiệt ngã được phô bày một
cách chân thực và đậm nét nhất. Có lẽ người đọc sẽ ám ảnh mãi cái hình ảnh “chiếc áo cưới
thay cho vải liệm”, bởi tưởng chừng như là biểu tượng của tình yêu mà đỉnh cao là hôn nhân,
nay chiếc áo cưới đã trở thành vài liệm, con người từ ngưỡng cửa của hạnh phúc bị tụt lại phía
sau, chênh vênh, choáng váng bởi bom đạn, rồi từ giã cuộc đời trên màu trắng tinh khôi của
chiếc áo tân hôn. Còn gì đau đớn hơn? Viết đến đây, người viết lại liên tưởng đến nhân vật
Phương trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, hạnh phúc đã chạm đến bàn tay
mà còn bị cướp mất. Đau đớn thay! Căm giận thay!
Những năm tháng không yên
Cây rừng ngã, cây rừng lửa cháy
Chất độc Mỹ rải đầy nương rẫy
Những đám mây mang hình nấm giết người.
(Những miền đất)

Lối nói nửa trực tiếp, nửa gián tiếp này của Xuân Quỳnh tạo ra một hiệu ứng rất
mạnh. “Những đám mây mang hình nấm giết người” kia phải chăng vốn chẳng ghê sợ đến thế,
nhưng cái chết chóc của hiện thực trên mặt đất chiến tranh đã bốc lên, nhuốm lấy, nhuộm vào và
nhào nặn nó thành hình hài của cái chết?
3.2- Biểu hiện gián tiếp
Khi viết về tình yêu, đặc biệt là nhắc đến cái chết, sự chia li, tàn tạ, Xuân Quỳnh tuyệt đại đa
số né tránh những từ ngữ chết chóc. Cùng thể hiện nội dung chết chóc, bi thương, song với
mảng đề tài này, Xuân Quỳnh lại lựa chọn lối biểu hiện gián tiếp qua các hình ảnh thơ lấy từ thiên
nhiên hay cuộc sống con người làm biểu tượng ẩn dụ. Bởi lẽ con người yêu thương, khát khao
cháy bỏng ấy muốn yêu và được yêu hơn bao giờ hết; dù có những dự cảm, song đấy không
phải điều Xuân Quỳnh mong muốn, vì vậy bà phải nói tránh đi, khác đi.
Chỉ chút thời gian từng phút từng giờ
Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt
Tôi biết chắc mùa xuân rồi sẽ hết
Hôm nay non, mai cỏ sẽ già.
(Có một thời như thế)
Cách nói “Hôm nay non, mai cỏ sẽ già” của Xuân Quỳnh có khác gì Xuân Diệu “Xuân đương
tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”? Dùng sự tàn phai nhanh
chóng của cỏ cây để nói về sự tàn phai nhanh chóng của tình yêu, Xuân Quỳnh quả thực tinh tế
biết bao. Hay cho cái tâm hồn nhạy cảm kia đang run lên từng hồi bởi lo sợ, bởi những dự cảm
không lành cho một tình yêu “chưa tìm thấy”.
Xuân Quỳnh như cánh chuồn báo bão bé nhỏ, mỏng manh, cô đơn, lạc lõng trước sóng
gió cuộc đời. Cánh chuồn ấy mỏng manh báo tin bão tới, rồi chao đi chao lại tìm kiếm một chốn
yên lành cho mình trong sự khắc nghiệt của bão tố cuộc đời mà chẳng thấy:
Và mây, mây khắp chốn lang thang
Chặn bốn phía những cỏ cây tội nghiệp
Cho cơn lốc dữ tợn về bẻ nát
Trái đất này sẽ nhận chìm trong mưa
Không tìm đâu một chỗ nương nhờ!
Mỏng manh thế làm sao chịu nổi

Chuồn chuồn ơi báo làm chi bão tới
Trời bão lên rồi mày ở đâu?
(Chuồn chuồn báo bão)
KẾT LUẬN
Viết về cái chết nhiều như thế liệu Xuân Quỳnh có hết âu lo? Có hết không những trăn trở
của một trái tim nghệ sĩ? Câu hỏi đó có lẽ sẽ còn khắc khoải mãi bởi dù nữ thi sĩ có mất đi, thời
gian có mãi trôi thì thơ của bà vẫn còn lại với thời gian, bất tử trong những trang thơ nồng nhiệt,
bất tử trong những dự cảm âu lo. Những vần thơ viết về cái chết của Xuân Quỳnh không chỉ
đậm nét hiện thực mà còn thấm đẫm tấm lòng của một người chiến sĩ cộng sản, của một người
đồng đội khóc thương cho những đồng đội mình; thấm đẫm tình yêu và lòng khát yêu của một cô
gái trẻ.
Với cách sử dụng ngôn ngữ đầy truyền thống, Xuân Quỳnh có những cách thể hiện cái chết
rất khác nhau. Khi chiến tranh rực lửa, Xuân Quỳnh tái hiện cái chết một cách trực tiếp, đáng sợ.
Khi yêu thương, âu lo trong tình yêu, cái chết được Xuân Quỳnh thể hiện một cách gián tiếp, nhẹ
nhàng nhưng cũng muôn lần ám ảnh. Có lẽ, văn học Việt Nam sau Xuân Quỳnh khó có thể tìm
thấy một tâm hồn thơ phong phú và nhạy cảm như thế!
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Nữ sĩ Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại – Ngân Hà biên soạn – NXB Văn hoá thông tin, H.
2001.
2. Quan niệm về hạnh phúc của Xuân Quỳnh trong thơ, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ
Văn, Lương Thanh Hưởng, 2011.
3. Xuân Quỳnh – Một nửa cuộc đời tôi (Đông Mai) – Trích Xuân Quỳnh – Thơ và đời – Vân
Long sưu tầm và tuyển chọn, NXB Văn hóa thông tin, 2004.

×