Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

thụ thể insulin và mối quan hệ của nó với bệnh tiểu đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.42 KB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
@
BÀI TIỂU LUẬN
THỤ THỂ INSULIN VÀ MỐI QUAN HỆ
CỦA NÓ VỚI BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
PHẠM THỊ THU PHƯƠNG
LỚP K14 - SINH HỌC THỰC NGHIỆM
Hà Nội, 11-2011
MỤC LỤC
Phần mở đầu
Chương 1: Giới thiệu về Insulin
1.1 Cấu trúc phân tử Insulin
1.2 Vai trò sinh học của Insulin
1.2.1 Tác dụng của Insulin lên quá trình chuyển hóa Hydratcacbon
1.2.2 Tác dụng của Insulin lên quá trình chuyển hóa lipid
1.2.3 Tác dụng của Insulin lên quá trình chuyển hóa protein
1.2.4 Các tác động đáng chú ý khác của Insulin
1.3 Tổng hợp Insulin trong cơ thể
1.4 Điều hòa tổng hợp Insulin
Chương 2: Giới thiệu về bệnh tiểu đường
2.1 Dịch tễ học
2.2 Phân loại, nguyên nhân, triệu chứng và hướng điều trị
2.2.1 Tiểu đường typ I
2.2.2 Tiểu đường typ II
2.3. Biến chứng
2.3.1 Biến chứng ở mắt
2.3.2 Biến chứng ở thận
2.3.3 Biến chứng ở tim và mạch máu
2.3.4 Biến chứng acid hóa và tăng áp lực phân tử trong máu (Ketoacidosis
and Hyperosmolarity)


2.3.5 Biến chứng của thần kinh
2.3.6 Những biến chứng ở da và nhiễm trùng
2.3.7 Những biến chứng khác
Chương 3: Thụ thể Insulin và mối quan hệ của nó với bệnh tiểu đường
3.1 Thụ thể Insulin
3.1.1 Cấu trúc
3.1.2 Hoạt tính tyrosine kinase
3.2 Điều hoà lượng đường trong máu
3.2.1 Điều hoà phân giải glycogen
3.2.2 Sự điều hoà tổng hợp glycogen
3.3 Insulin và các protein vận chuyển glucose
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
Bệnh tiểu đường là một trong những căn bệnh đe dọa nghiêm trọng tới sức
khoẻ của con người. Số người mắc bệnh tiểu đường đang ngày càng tăng, và
đương nhiên, sẽ kéo theo sự gia tăng các biến chứng của căn bệnh này như thần
kinh, xơ vữa động mạch… Người ta đã tổng kết và thấy rằng tiểu đường là nguyên
nhân gây tử vong lớn thứ 2 trên thế giới (sau các bệnh về tim mạch). Điều đó đòi
hỏi phải tìm ra những hướng tiếp cận mới cho việc ngăn ngừa và điều trị căn bệnh
này.
Nguyên nhân gây ra bệnh tiểu đường là do tác động phức tạp giữa gene và các
yếu tố môi trường, từ đó dẫn tới sự bất bình thường trong quá trình điều hoà lượng
glucose trong cơ thể liên quan tới những vấn đề về hormone Insulin, đây là
hormone quan trọng nhất cho quá trình lưu trữ, sử dụng đường, acid amin và acid
béo và duy trì lượng đường trong máu.
Các hormone có thể gây ra thay đổi lớn trong chuyển hóa với nồng độ thấp là
nhờ có sự hoạt động của hệ thống khuếch đại tín hiệu thông tin trao đổi chất ở
màng tế bào, trong đó quan trọng nhất là các thụ thể (receptor). Mỗi hormone có
một loại thụ cảm thể đặc hiệu, đối vơi Insulin ta có thụ thể Insulin. Các nghiên cứu

đã chỉ ra rằng receptor màng tế bào có vai trò sinh học trong hoạt động của tế bào,
trong sự nhận diện, truyền tin, tác dụng của hormone. Trong khuôn khổ bài tiểu
luận này tôi tìm hiểu về thụ thể Insulin và mối quan hệ của nó với bệnh tiểu đường,
hy vọng những kiến thức này sẽ cung cấp cơ sở lý thuyết cho những tìm hiểu sâu
hơn của người đọc.
Mặc dù trong quá trình làm tiểu luận tôi đã cố gắng thu thập và xử lý tài liệu
nhưng chắc không tránh khỏi thiếu sót, rất mong được cô giáo và các bạn góp ý.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2011
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ INSULIN
1.1 Cấu trúc phân tử Insulin
Insulin là một hormone protein do tế bào beta của tiểu đảo Langerhans trong
tuyến tụy sinh ra.
Phân tử protein Insulin tương đối nhỏ, có khối lượng khoảng 6000 Dalton
(Da), được cấu tạo bởi 2 chuỗi polypeptide A và B. Các chuỗi A và B liên kết với
nhau bằng các cầu disulfua, ngoài ra còn có một cầu disulfua nữa nằm trong chuỗi
A.
Hình 1: Tuyến tụy trong cơ thể người
Ở hầu hết các loài, chuỗi A bao gồm 21 amino acid còn chuỗi B có 30 amino
acid. Mặc dù trình tự amino acid của Insulin khác nhau giữa các loài nhưng một số
đoạn nhất định của phân tử lại có tính bảo tồn cao, các đoạn đó có chứa vị trí của 3
cầu disunfua, cả 2 đầu của chuỗi A và nhánh bên của của đầu cacboxyl (-COOH)
của chuỗi B. Sự tương đồng trong trình tự amino acid dẫn đến cấu trúc 3 chiều của
Insulin ở các loài khác nhau rất giống nhau. Insulin tách chiết từ một động vật có
khả năng hoạt động sinh học cao trong nhiều loài khác.
Các phân tử Insulin có xu hướng tạo thành dạng dime trong dung dịch do hình
thành các liên kết hidro giữa các đầu cacboxyl của các chuỗi B. Ngoài ra, khi có
mặt các ion kẽm, các dime Insulin liên kết tạo thành hexame. Các mối tương tác
này có ý nghĩa rất quan trọng trong điều trị. Dạng monomer và dạng dime dễ dàng

khuếch tán vào máu, trong khi đó dạng hexame khuếch tán rất kém. Do đó sự hấp
thụ các thuốc chứa hàm lượng hexame cao thường bị chậm và ngưng hẳn. Vấn đề
này đã thúc đẩy sự ra đời của một số loại Insulin giả tái tổ hợp. Loại chất đầu tiên
như thế được bán trên thị trường là Insulin lispro, phân tử chất này có trật tự Lysin
và Prolin trên đầu cacboxyl của chuỗi B bị đảo ngược. Sự cải biến đó không làm
mất khả năng gán với thụ thể của Insulin nhưng làm giảm tối đa khuynh hướng
hình thành dạng dime và hexame.
Hình 2: Cấu trúc phân tử Insulin
1.2 Vai trò sinh học của Insulin
Insulin là một trong những hormone điều hòa nồng độ glucose trong máu.
Chức năng cân bằng nội môi và năng lượng sinh học này cực kỳ quan trọng bởi vi
glucose là nguồn nhiên liệu chính của hô hấp tế bào và nguồn khung cacbon quyết
định cần cho tổng hợp các chất hữu cơ. Cân bằng trao đổi chất phụ thuộc vào việc
duy trì glucose máu ở gần một điểm ổn định, khoảng 90 mg/ml ở máu người (theo
Campbell).
1.2.1 Tác dụng của Insulin lên quá trình chuyển hóa Hydratcacbon
Glucose được giải phóng từ tinh bột, saccharose, v.v nhờ thủy phân khi tiêu
hóa thức ăn, sau đó được hấp thu vào máu ở ruột non. Nồng độ glucose cao trong
máu kích hoạt sự giải phóng Insulin và Insulin hoạt động trong các tế bào khắp cơ
thể nhằm thúc đẩy sự hấp thu, sử dụng và dự trữ glucose. Tác động của Insulin lên
trao đổi glucose thay đổi tùy theo mô đích.
Các phân tử Insulin tuần hoàn trong dòng máu cho tới khi chúng gắn với thụ
thể của chúng trên màng tế bào. Khi đó phức hệ thụ thể - Insulin khởi phát một
chuỗi truyền tín hiệu mang thông tin được phát ra bởi Insulin: chuyển glucose ra
khỏi huyết tương. Trong một loạt các đáp ứng tế bào do sự hoạt hóa của Insulin
gây ra thì chìa khóa trong trao đổi chất glucose là bước làm tăng sự hoạt động của
protein vận chuyển glucose GLUT4 glucose transporter. Nhờ sự vận chuyển thuận
lợi glucose vào trong tế bào, các GLUT4 đã loại glucose ra khỏi dòng máu một
cách hiệu quả. Những thay đổi như vậy kéo dài từ vài phút đến vài giờ. GLUT4 có
mặt trên màng tế bào của nhiều loại mô trong cơ thể như mô cơ xương (đốt cháy

glucose làm năng lượng), mô mỡ (chuyển glucose thành triglycerit để dự trữ) và
mô gan.
* Làm tăng sự thoái hóa glucose ở cơ
Màng ở tế bào bình thường chỉ cho glucose khuếch tán qua nhưng rất ít (trừ
khi có tác dụng của Insulin). Ngoài bữa ăn ra lượng Insulin được bài tiết ra rất ít
nên glucose khó được khuếch tán qua màng tế bào cơ. Khi lao động nặng nhọc, tế
bào cơ đã sử dụng một lượng lớn glucose mà không cần một lượng Insulin tương
ứng (lý do của nó thì chưa được rõ ràng). Khi tế bào cơ đã sử dụng nhiều glucose
(vài giờ sau bữa ăn) lúc này nồng độ của g trong máu sẽ tăng lên cao, Insulin sẽ
được bài tiết ra nhiều hơn nên đã làm tăng sự vận chuyển glucose vào các tế bào
cơ.
* Làm tăng dự trữ Glycogen ở cơ
Nếu sau bữa ăn mà cơ không vận động thì glucose vẫn được chuyển vào tế
bào cơ. Lượng glucose mà không được sử dụng sẽ được tích lũy dự trữ dưới dạng
glycogen để được dùng khi cơ thể cần thiết.
* Làm tăng thu nhập, dự trữ và sử dụng glucose ở gan
Một trong những tác dụng quan trọng nhất của Insulin là làm cho hầu hết
glucose được hấp thụ từ ruột vào máu sau bữa ăn trở thành glycogen dự trữ. Sau đó
khi đói thì nồng độ glucose trong máu giảm xuống, tuyến tụy dẽ giảm sự bài tiết
Insulin. Lúc này glycogen ở gan sẽ được phân giải thành glucose và làm cho nồng
độ glucose trong máu tăng lên. Cơ chế của Insulin với sự làm tăng thu nhập, dự trữ
g ở gan như sau: Insulin sẽ làm mất hoạt tính của phosphorylase của gan là enzyme
phân giải glycogen thành glucose. Insulin làm tăng hoạt tính của enzyme
glucokinaza là enzyme phát động sự phosphoryl hóa glucose trong tế bào gan. Khi
glucose đã được phosphoryl hóa thì không khuếch tán qua màng để trở lại máu. Vì
vậy, Insulin đã làm tăng thu nhập glucose vào tế bào gan. Insulin làm tăng hoạt
tính của các enzyme tham gia vào quá trình tổng hợp glycogen ở gan.
Khi lượng glucose được đưa vào tế bào gan quá nhiều thì chúng sẽ được dự
trữ lại dưới dạng glycogen như đã nói ở trên hoặc là dưới tác dụng của Insulin thì
lượng glucose thừa sẽ được chuyển thành acid béo và được chuyển đến các mô

lipid để dự trữ lại.
* Làm ức chế quá trình tạo ra các loại đường mới
Hình 3: Insulin điều hòa lượng glucose trong máu
Insulin đã có tác dụng làm giảm số lượng và hoạt tính của các enzyme đã
tham gia vào quá trình tạo ra các loại đường mới.
Insulin đã có tác dụng làm giảm sự giải phóng các amino acid từ các tế bào cơ
va từ các mô khác để vào gan. Do vậy đã làm giảm các nguyên liệu của các quá
trình tạo ra các đường mới. Nhờ có tác dụng đó mà Insulin đã có tác dụng làm
giảm nồng độ glucose trong máu.
1.2.2 Tác dụng của Insulin lên quá trình chuyển hóa lipid
Insulin có tác động quan trọng lên quá trình trao đổi lipit. Các tác động đó
bao gồm:
* Làm tăng sự tổng hợp acid béo và vận chuyển acid béo đến các mô mỡ
Dưới tác dụng của Insulin, một mặt lượng glucose được sử dụng nhiều cho
việc tạo ra năng lượng nên đã tiết kiệm được việc sử dụng hết sẽ được tạo thành
các acid béo ở gan và được chuyển đến các mô mỡ. Insulin đã làm tăng sự tổng
hợp các acid béo nhờ các tác dụng sau đây:
Insulin đã làm tăng sự vận chuyển glucose vào các tế bào gan. Khi mà nồng
độ của glycogen đã đạt tới mức 5 - 6 % khối lượng của gan. Lúc đó có sự ức chế
không cho gan tiếp tục tổng hợp glycogen nữa. Tất cả lượng glucose đã được vận
chuyển thêm tới gan sẽ được tạo thành pyruvat rồi thành acetyl CoA để tổng hợp
thành các acid béo.
Khi glucose đã được sử dụng để tạo thành năng lượng do tác dụng của Insulin
thì một lượng lớn iso citrate đã được tạo thành. Các ion này sẽ hoạt hóa enzyme
Acetyl - CoA - Cacboxylasa là enzyme cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp các
acid béo.
Hầu hết các acid đã được tạo thành ở gan sẽ được sử dụng để tạo thành
triglycerit là loại mỡ dự trữ. Các triglycerit được đưa từ tế bào gan vào máu ở dạng
lipoprotein lipaza có ở thành mạch máu của mô mỡ. Enzyme này sẽ phân giải
triglycerit trở lại thành acid béo và hấp thu vào mô mỡ, rồi acid béo lại được

chuyển trở lại thành triglycerit.
* Làm tăng sự tổng hợp triglycerit từ acid béo để tăng dự trữ lipid ở mô mỡ
Insulin có 2 tác dụng sau đây:
Insulin sẽ ức chế enzyme xúc tác phản ứng phân giải triglycerit là dạng dự trữ
lipid ở mô mỡ. Do vậy đã làm giảm sự giải phóng acid béo vào máu.
Insulin có tác dụng tăng cường vận chuyển glucose qua màng tế bào để vào tế
bào lipid theo một cơ chế tương tự như vận chuyển glucose qua màng tế bào cơ.
1.2.3 Tác dụng của Insulin lên quá trình chuyển hóa protein
* Lên quá trình tổng hợp và dự trữ protein
Vài giờ sau khi ăn lượng các chất dinh dưỡng được tăng lên cao trong máu.
Do vậy, những glucose, acid béo và cả protein cũng được dự trữ ở mô, do đó
Insulin là rất cần thiết cho quá trình này. Cơ chế của Insulin với sự làm tăng dự trữ
protein còn chưa được rõ rang như glucose hoặc lipid. Tuy vậy, người ta đã cho
rằng Insulin có các tác dụng chủ yếu sau đây:
Insulin làm tăng sự vận chuyển tích cực nhiều amino acid vào trong tế bào
(valin, leucin, thyroxin ), sau đó cùng với hormone GH, Insulin đã làm tăng khả
năng thu nhập amino acid vào tế bào.
Insulin đã có tác dụng lên ribosome để làm tăng sự dịch mã RNA thông tin,
sau đó tạo thành các phân tử protein mới.
Insulin còn làm tăng sự sao chép có chọn lọc phân tử DNA ở nhân của tế bào
đích để từ đó tạo thành một lượng lớn RNA thông tin cần thiết cho quá trình sinh
tổng hợp các phân tử protein mới.
* Ức chế sự thoái hóa của protein
Do vậy đã làm giảm tốc độ giải phóng amino acid ra khỏi tế bào.
* Tác dụng lên sự phát triển hình thể
Vì Insulin có tác dụng là làm tăng sự tổng hợp protein nên có tác dụng tham
gia vào quá trình phát triển hình thể.
1.2.4 Các tác động đáng chú ý khác của Insulin
Ngoài các tác động làm tăng glucose đi vào trong tế bào, thúc đẩy sự hấp thụ các
amino acid, Insulin cũng làm cho nhiều tế bào tăng tính thấm đối với các ion kali,

ion magie và phosphate vô cơ, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phosphoryl hóa
và sử dụng glucose.
Hình 4: Insulin làm tăng tính thấm
ion K, Mg và photphat vô cơ
1.3 Tổng hợp Insulin trong cơ thể
Insulin được tổng hợp bởi các tế bào tuyến tụy beta. Các tế bào beta sắp xếp
thành các bó gọi là các đảo Langerhan trong tụy. insulin được tạo ra từ một phần
của một protein lớn hơn để đảm bảo sự gấp nếp đúng.
Hình 5: Tổng hợp Insulin trong cơ thể
Hình 6: Các bước cải biến sau dịch mã của phân tử Insulin
ANRm tiến hành dịch mã một protein gọi là preproinsulin. Preproinsulin bao
gồm một trình tự tín hiệu đầu amin giúp tiền chất hoocmon này đi qua màng lưới
nội chất tham gia vào quá trình sau dịch mã. Tại quá trình sau dịch mã, trình tự tín
hiệu đầu amin không cần thiết nên preproinsulin bị thủy phân tạo thành proinsulin.
Sau khi hình thành 3 cầu nối disunfua một số peptitdase sẽ phân cắt proinsulin tạo
insulin hoàn chỉnh và hoạt động.
Hình 7: Proinsulin và insulin ở người
1.4 Điều hòa tổng hợp Insulin
Bằng cơ chế thần kinh và thể dịch
* Cơ chế thần kinh
Dưới tác dụng của những điều kiện nhất định kích thích vào thần kinh giao
cảm và phó giao cảm có thể làm tăng sự bài tiết Insulin. Tuy vậy hệ thần kinh thực
vật ít có tác dụng trong việc điều hòa bài tiết Insulin trong trường hợp bình thường.
* Cơ chế thể dịch
Với nồng độ của glucose: Nếu nồng độ glucose trong máu tăng lên cao đột
ngột gấp từ 2 đến 3 lần so với mức bình thường thì Insulin sẽ được bài tiết nhiều
hơn và do đó sẽ làm tăng vận chuyển glucose vào gan và cơ cùng các mô khác để
làm giảm nồng độ glucose trở về mức bình thường.
Với nồng độ của amino acid: Một số amino acid (arginin, lysine ) cũng có
tác dụng đến bài tiết Insulin. Nếu nồng độ của các amino acid này được tăng lên thì

Insulin cũng được bài tiết ra nhiều hơn. Tuy vậy, nếu chỉ đơn thuần là amino acid
thì tác dụng để kích thích bài tiết Insulin yếu hơn so với tác dụng của glucose hay
phối hợp với glucose.
Một vài hormone tại chỗ: Do thành của ống tiêu hóa bài tiết ra như gastrin,
secretin cũng có tác dụng kích thích tổng hợp Insulin.
CHƯƠNG 2
GIỚI THIỆU VỀ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
2.1 Dịch tễ học
Tiểu đường (diabetes) là bệnh rối loạn về chuyển hóa cacbohydrat, trong đó
đường trong máu không bị oxi hóa để giải phóng năng lượng mà tích tụ trong máu
ở mức cao (> 1,2g/l) gọi là tăng đường huyết.
Ở Mỹ, hằng năm có khoãng 17 triệu người (6%) dân số mắc bệnh tiểu
đường, gây tử vong cho 400.000 cư dân Hoa Kỳ và đứng thứ 6 trong các bệnh gây
chết người. Tiểu đường phổ biến nhất ở độ tuổi trên 45 tuổi, đối với những người
béo phì, ít hoạt động, những người có người thân bị mắc bệnh và những người
Châu Phi, Tây Ban Nha, người Mỹ bản xứ. Tỉ lệ mắc bệnh ở nữ giới cao hơn nam.
Tại Việt Nam, trong 4 thành phố lớn Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, tỷ lệ bệnh tiểu đường là 4%, riêng quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) lên tới
7%. Phần lớn người bệnh phát hiện và điều trị muộn, hệ thống dự phòng, phát hiện
bệnh sớm nhưng chưa hoàn thiện. Vì vậy, mỗi năm có trên 70% bệnh nhân không
được phát hiện và điều trị. Tỷ lệ mang bệnh tiểu đường ở lứa tuổi 30-64 là 2,7%,
vùng đồng bằng, ven biển 2,2%, miền núi 2,1%. Nếu không được phòng chống và
cứu chữa kịp thời, bệnh dễ biến chứng, 44% người bệnh đái tháo đường bị biến
chứng thần kinh, 71% biến chứng về thận, 8% bị biến chứng mắt.
Hiện trên thế giới ước lượng có hơn 190 triệu người mắc bệnh tiểu đường và
số này tiếp tục tăng lên. Ước tính đến năm 2010, trên thế giới có 221 triệu người
mắc bệnh tiểu đường. Năm 2025 sẽ lên tới 330 triệu người (gần 6% dân số toàn
cầu). Tỷ lệ bệnh tăng lên ở các nước phát triển là 42%, nhưng ở các nước đang
phát triển (như Việt Nam) sẽ là 170%.
2.2 Phân loại, nguyên nhân, triệu chứng và hướng điều trị

Ở những bệnh nhân bị tiểu đường, hàm lượng glucose trong máu cao, làm
tăng áp lực thẩm thấu nhưng quá trình hấp thụ glucose vào máu lại yếu. Khi hàm
lượng glucose cao vượt quá ngưỡng hấp thụ của thận thì cơ quan này sẽ đào thải
glucose theo nước tiểu dẫn đến nước và ion cần thiết cho sự trao đổi chất qua màng
tế bào ra ngoài. Có hai loại tiểu đường chính:
2.2.1 Tiểu đường typ I
Tiểu đường typ I hay còn gọi là tiểu đường phụ thuộc insulin (IDDM
-Insulin Dependent Diabetes Mellitus).
* Triệu chứng
Xuất hiện đột ngột, nhanh như ăn nhiều, uống nhiều, sút cân nhanh, giảm
thị lực, nóng tính, mệt mỏi…thường gặp ở tuổi thanh niên (< 30 tuổi), chiếm từ 10-
15% số ca
* Nguyên nhân
Các tế bào beta ở tuyến tụy bị phá hủy, dẫn đến thiếu hụt tổng lượng insulin.
Các tế bào này bị phá hủy có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do bệnh tự
miễn, khi cơ thể tiếp xúc hay bị nhiễm một loại virut tiềm ẩn , chất độc…cơ thể
đáp lại bằng cách tạo kháng thể chống tác nhân gây hại đó. Nhưng kháng nguyên
virut lại giống với kháng nguyên tế bào tuyến tụy nên kháng thể được hình thành
để chống tác nhân gây hại cũng chống lại mô tuyến tụy, gây phá hủy tế bào beta.
Đây là phản ứng tự miễn. Các nhà khoa học đã xác định được 20 gen đóng vai trò
mẫn cảm với tiểu đường typ I , mặc dù chức năng của nó còn đang được nghiên
cứu.
Đối với hệ tiểu đường typ I, để điều trị, chỉ cần bổ sung thêm insulin là có
thể duy trì được sự sống cho người bệnh. Đối với những bệnh nhân bị tiểu đường
typ I không thể kiểm soát tốt đường huyết bằng các loại thuốc uống thì sử dụng
liệu pháp Insulin tích cực là chìa khóa để bệnh nhân kiểm soát đường huyết của
mình và ngăn ngừa các biến chứng do bệnh gây ra. Liệu pháp insulin tích cực có
thể ngăn ngừa hoặc làm chậm tiến triển các biến chứng mạn tính của bệnh ĐTĐ,
đặc biệt là các biến chứng thận, mắt, tim mạch Kết quả các nghiên cứu cho thấy,
liệu pháp insulin tích cực có thể: làm giảm nguy cơ bị biến chứng mắt tới hơn

75%; làm giảm nguy cơ bị biến chứng thần kinh tới 60%; và ngăn ngừa hoặc làm
chậm tiến triển các biến chứng thận tới 50%.
Ngoài ra, nó còn đem lại nhiều lợi ích khác. Ví dụ các bệnh nhân điều trị
insulin tích cực, kiểm soát tốt đường huyết thường cảm thấy khỏe hơn, tăng cân và
tăng khả năng hoạt động thể lực, làm việc
Liệu pháp insulin tích cực là một phương pháp điều trị tích cực được thiết kế
nhằm kiểm soát đường huyết của người bệnh càng gần mức của người bình
thường. Liệu pháp này đòi hỏi người bệnh phải tiêm nhiều mũi insulin và kiểm tra
đường huyết thường xuyên hằng ngày.
Về mục tiêu, các bệnh nhân điều trị insulin tích cực nhằm kiểm soát đường
huyết trong mức lý tưởng là: đường huyết trước bữa ăn từ 90 – 130 mg/dL; đường
huyết sau bữa ăn 2 giờ nhỏ hơn 180 mg/dL; hemoglobin A1C (chỉ số đánh giá
kiểm soát đường huyết trong vòng 3-4 tháng) dưới 6,5%.
Ngoài ra, theo tờ MedNews, 5/2007, một số nhà khoa học đã có một công
trình nghiên cứu về phương pháp sử dụng tế bào gốc để điều trị bệnh tiểu đường
typ 1 bằng cách phục hồi chức năng của tế bào tuyến tụy beta. Khi một người lần
đầu tiên được chẩn đoán là mắc bệnh tiểu đường, ở người đó vẫn còn một số tế bào
bêta còn khả năng thực hiện chức năng sản xuất insulin, bởi vậy các nhà khoa học
tìm cách ngăn chặn sự phá huỷ tiếp theo.
Những công trình nghiên cứu trước đây về các kháng thể phong toả những tế
bào miễn dịch bị phá huỷ đã chứng tỏ là thành công trong một thời gian nhất định.
Ở một công trình nghiên cứu mới đây, liệu pháp miễn dịch đã được kết hợp với
các tế bào gốc cấy vào bệnh nhân, xem ra đã cải thiện được chức năng của các tế
bào bêta.
Ở công trình nghiên cứu này, do các nhà khoa học ở trường Đại học Sao
Paulo, Braxin và Northwestern, Chicago thực hiện, các tế bào gốc đã thu được từ
máu của bệnh nhân. Tiếp đó, chúng được tiến hành một dạng hoá trị liệu để khỏi bị
tế bào miễn dịch tiêu diệt. Sau khi các bệnh nhân được tiêm tế bào gốc, họ được
theo dõi về mức độ phụ thuộc insulin và chức năng của tế bào bêta. Kết quả cho
thấy 13 trong số 15 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này đã có thể

không cần phải tiêm bổ sung insulin trong khoảng thời gian từ 9 tháng đến 3 năm.
Các chuyên gia cảnh báo rằng những kết quả trên vẫn còn mang tính sơ bộ
và cần phải tiến hành nhiều nghiên cứu hơn nữa. Tuy nhiên, đó là một phương
pháp đầy hứa hẹn, vì xem ra nó không gây ra các tác dụng phụ và do đó rất đáng
được tiến hành.
Phép điều trị này chỉ có công hiệu đối với những bệnh nhân mới bị mắc
bệnh, bởi vì họ vẫn còn các tế bào bêta nguyên vẹn để thực hiện chức năng. Các
nhà khoa học cũng đang tìm kiếm các liệu pháp khác cho những bệnh nhân mắc
bệnh đã lâu.
Tiểu đường typ 1 nếu không được điều trị có thể ảnh hưởng đến cơ chế
chuyển hóa chất béo. Do cơ thể không chuyển hóa glucose thành năng lượng, nên
chất béo sẽ được dùng để cung cấp năng lượng. Điều này dẫn đến tăng hàm lượng
các hợp chất có tính axit trong máu ( thể ketone) can thiệp vào quá trình hô hấp nội
bào.
2.2.2 Tiểu đường typ II
Tiểu đường typ II, còn gọi là tiểu đường không phụ thuộc insulin (NIDDM-
non-insulin-dependent-diabete mellitus.
* Nguyên nhân
Khi giải phẫu bệnh lý vi thể ở đảo tụy cho thấy: chỉ có 25% bệnh nhân tiểu
đường có giảm tiết Insulin, 25% không giảm tiết và 50% tế bào beta tăng tiết. Như
vậy tiểu đường typ II đặc trưng bởi sự thiếu hụt insulin, hoặc phổ biến hơn là giảm
tính đáp ứng của các tế bào đích đối với insulin do một số thay đổi ở thụ thể dành
cho nó ở trên màng tế bào.
* Triệu chứng
Bao gồm các triệu chứng của tiểu đường typ I, và một số triệu chứng khác
như viêm da, sự hồi phục vết thương chậm hoặc khó phục hồi, thường chỉ được
phát hiện bởi các triệu chứng của biến chứng, hoặc chỉ được phát hiện tình cờ khi
đi xét nghiệm máu trước khi mổ hoặc khi có biến chứng như nhồi máu cơ tim, tai
biến mạch máu não; khi bị nhiễm trùng da kéo dài; bệnh nhân nữ hay bị ngứa vùng
do nhiễm nấm âm hộ; bệnh nhân nam bị liệt dương Loại tiểu đường typ II chiếm

khoãng 90% số ca bị bệnh tiểu đường.
Tiểu đường typ II thường xuất hiện nhiều ở lứa tuổi trên 45. Do các triệu
chứng của nó xuất hiện chậm nên người bệnh có thể không nhận biết được ngay họ
đang mắc bệnh. Mặc khác, các nhà khoa học cho rằng có mối liên quan chặt chẽ
giữa béo phì và tiểu đường typ II. Khoãng 80% số người béo phì bị tiểu đường typ
II. Việc chữa trị loại bệnh này phải kết hợp giữa tập luyện và chế độ ăn uống để
giảm sự kháng insulin và tăng cường việc tiết insulin. Chỉ dùng đủ lượng
hidratcacbon cho nhu cầu cơ thể. Ngoài ra, sử dụng thêm thuốc hạ đường huyết
như sunfamid hay biguanid. Trong trường hợp thất bại, cần phải điều trị bằng tiêm
insulin đơn thuần hay phối hợp với thuốc viên uống.
2.3. Biến chứng
Tiểu đường typ I khi bị biến chứng có thể dẫn đến hôn mê đường huyết (một
trạng thái vô thức gây ra do lượng đường cực kỳ cao trong máu) hoặc tử vong.
Cả tiểu đường typ I và II đều có biến chứng mù, thận hư và bệnh tim. Tiểu
đường có thể khiến các mạch máu nhỏ bị tắc; nếu điều này xảy ra ở các mạch máu
ở mắt thì sẽ gây bệnh võng mạc, dẫn đến mù. Tiểu đường khiến cho thận mất khả
năng lọc chất độc (khoãng 40%). Tắc mạch máu lớn dễ dẫn đến vấn đề về tim
mạch (cao huyết áp, nhồi máu cơ tim và đột quỵ), nguy cơ cao gấp 2-4 lần ở những
người không bị tiểu đường.
Tiểu đường còn có khả năng gây tổn thương thần kinh ngoại biên, mất cảm
giác, đặc biệt ở chân, tổn thương thần kinh thực vật và nhiễm trùng.
Hình 8: Cơ chế bệnh tiểu đường gây ra biến chứng
2.3.1 Biến chứng ở mắt
Mờ mắt và mù loà là những biến chứng thường xãy ra ở người bệnh tiểu
đường.
- Biến chứng ở dây thần kinh não (cranial nerve palsies): liệt thần kinh thị giác
(cranial nerve III), thần kinh vận động trong và ngoài của mắt (cranial nerves IV &
VI) đưa đến rối loạn thị giác (thấy một thành hai-double vision) và rối loạn vận
động mắt (mắt lé-motility disorders).
- Biến chứng ở tinh thể (lense) đưa đến vảy cá hay cườm mắt (cataract), có

thể làm tăng áp nhản (glaucoma) và bị mù loà.
- Biến chứng ở thủy tinh thể (vitreous) đưa đến chứng cườm xanh (vitreous
hemorrhage) có thể đưa đến mù loà.
- Biến chứng ở võng mạc (retina) làm xuất huyết (bleeding), và tróc võng mạc
do xuất huyết (retina detachment), và những mạch máu mới xuất hiện nhiều làm
mù mắt (neovascularization) và cũng đưa đến mù loà.
- Biến chứng ở con ngươi (iris) do những mạch máu mọc nhiều
(neovascularization) nhưng thiếu dưỡng khí (oxygen)
Thường những biến chứng ở mắt xuất hiện trong vòng 5 năm nếu bệnh không
được điều trị.
Hình 9: Những biến chứng ở mắt do bệnh tiểu đường
2.3.2 Biến chứng ở thận
Bệnh tiểu đường loại 2 gây ra 60% của tất cả các trường hợp suy thận
(kidney failure) và cần phải được lọc máu (kidney dialysis). Ghép thận (kidney
transplant) do bệnh tiểu đường đứng hàng đầu chiếm tổng số 40% các trường hợp.
Biến chứng này xãy ra nhiều ở da đen và da màu.
Hình 10: Các giai đoạn dẫn đến suy thận trong bệnh tiểu đường type 2.
2.3.3 Biến chứng ở tim và mạch máu
Hình 11: Biến chứng ở tim và mạch máu
Thường bệnh nhân đến với bác sỉ là những triệu chứng thiếu máu cơ tim
(ischemic heart disease), khó thở do suy tim (heart failure), tai biến mạch máu nảo
(stroke), hoặc chân bị lở không lành, và các vị bác sỉ phát giác ra bệnh nhân của
mình có tiểu đường loại 2.
Người bệnh tiểu đường loại 2 có cơ hội bị bệnh về tim 2-4 lần người bình thường.
Nếu họ hút thuốc thì con số này sẻ lên đến 10 lần nhiều hơn. Vì thế, việc bỏ thuốc
lá rất là quan trọng. Biến chứng này xảy ra sau khi mạch máu ở tim hay động mạch
cổ (carotid arteries) hay chân tay bị ngẻn đến 90%, triệu chứng mới bắt đầu xuất
hiện.
* Ở tim: đau ngực (chest pain) kèm theo khó thở (short of breath). Người
bệnh có cãm giác như có một người nặng 500 cân (lbs.) ngồi lên trên ngực của

mình. Đau có thể lan lên đến vai trái và cổ (left shoulder and neck). Đau lan
xuống tay trái. Đó là triệu chứng thiếu máu cơ tim (ischemic heart/angina).
Nếu triệu chứng kéo dài hơn 20 phút, bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim (heart
attack/myocardial infarction) và đua đến trụy tim mạch (cardiovascular collapse).
Bệnh nhân chết nếu không điều trị kịp thời. Bệnh này nhiều nhất ở người trẻ tuổi
(dưới 65 tuổi). Từ 18-44 tuổi có biến chứng tim nhiều hơn người bình thường 4
lần. Từ 45-64 tuổi co biến chứng tim 3 lần nhiều hơn người bình thường. 65 tuổi
hay lớn hơn có biến chứng tim 2 lần nhiều hơn người bình thường.
* Tai biến mạch máu não (stroke):
Hình 12: Mỡ bám trong thành động mạch cổ
Thường xảy ra ở người bệnh tiểu đường lớn hơn 65 tuổi. Chiếm tỉ lệ 9% của
tất cả các người bị bệnh tiểu đường. Ở lứa tuổi 45-64 tuổi, người bị bệnh tiểu
đường có biến chứng này nhiều hơn người bình thường cùng lứa tuổi 5 lần. Biến
chứng này do mỡ đọng trong thành mạch máu nảo. Những mãnh vở của lớp mỡ
này tạo ra sự tắc nghẽn mạch máu. Hoặc thành mạch máu quá cứng dễ bị vở và gây
ra xuất huyết trong não.
* Ở chân, tay: đau chân hoặc tay khi làm việc hay đi bộ. Nếu nghỉ ngơi, sự
đau đớn sẻ thuyên giãm (claudication). Nặng hơn nửa, chân hay tay bị lở loét và
thúi (gangrene). Đến giai đoạn này phải cưa chân hay tay. Biến chứng tim mạch
xảy ra rất nhanh nếu bệnh nhân hút thuốc. Bệnh lở loét chân chiếm 15% số người
bệnh tiểu đường trong suốt cuộc đời của họ. 6-43% người bệnh tiểu đường bị cưa
chân. 55% người bệnh tiểu đường bị cưa chân xảy ra ở người lớn hơn 65 tuổi.
2.3.4 Biến chứng acid hóa và tăng áp lực phân tử trong máu (Ketoacidosis
and Hyperosmolarity)
a) Biến chứng acid hóa
Biến chứng này thường xãy ra khi đường trong máu tăng quá 30 mmol/L
(545 mg/dL). Thường xãy ra ở bệnh tiểu đường loại 1. Ở bệnh tiểu đường loại 2,
biến chứng này rất hiếm khi xãy ra. Nó phải có những điều kiện thuận lợi trước
(predisposition factors) như có ketone trong máu và acid hóa máu (trong trường
hợp bệnh nhân ăn ít chất bột/ low carbohydrate và nhiều thịt & mở tạo ra tình trạng

ketosis và mild acidosis).
Biến chứng này xảy ra rất nhanh. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh nhân có
thể chết trong vòng vài giờ cho đến vài ngày. Biến chứng xảy ra khi ketone tích tụ
nhiều trong máu và nồng độ acid cao hơn bình thường. Chúng ta có thể ngửi thấy
mùi ketone (giống như mùi thuốc rửa móng tay của qúi bà) trong hơi thở của bệnh
nhân.
b) Biến chứng tăng áp lực phân tử
Giống như biến chứng vừa kể trên, khi đường lên cao qúa nhưng không có
ketone và acid hoá máu. Khi đường trong máu lên quá cao, làm khô nước trong
các tế bào và các cơ quan nội tạng. Bệnh nhân bắt đầu với đi tiểu nhiều và khát
nước nhiều, sau đó người lờ đờ và hôn mê.
Hai biến chứng trên thường xảy ra khi bệnh nhân tiểu đường loại 2 không
được chửa trị và có một hay nhiều bệnh cấp tính (acute ilnesses) đi kèm theo như
nhiễm trùng nặng, nghẻn ruột, phỏng nặng (severe burn)…
2.3.5 Biến chứng của thần kinh
Biến chứng của dây thần kinh gây bởi đường trong máu lên cao làm hư hại
những mạch máu bên cạnh dây thần kinh hoặc mạch máu nuôi dây thần kinh. Sự
thiếu máu hoặc chèn ép dây thần kinh đưa đến những hư hại của dây thần kinh.
Nó làm ảnh hưỡng đến sự dẩn truyền của dây thần kinh.
Cùng với những yếu tố di truyền và chấn thương nhiều lần ảnh hưởng lên
những hư hại này, gây ra biến chứng của dây thần kinh. Thường những biến
chứng này đưa đến cưa chân hoặc tay (amputation. Thường những triệu chứng
khởi đầu là:
- Đau, rát.
- Mất cãm giác về sờ mó (tactile sensation), cãm giác nóng lạnh (thermal
sensation).
- Bại liệt (motor) một phần cơ thể như lé mắt, một vật có hai hình (diplopia)…
Biến chứng có thể ảnh hưởng đến một vùng nhỏ (focal neuropathies) hay một vùng
rộng lớn (diffuse neuropathies).
2.3.6 Những biến chứng ở da và nhiễm trùng

Hầu hết những người bệnh tiểu đường loại 2 có hệ thống miễn nhiễm yếu đi
do đường máu cao ảnh hưởng đến. Những nhiễm trùng thường xảy ra. Khi nhiễm
trùng xảy ra, đường máu sẽ lên cao mặc dù chúng ta có điều trị nhiều loại thuốc
khác nhau. Cho nên, một người với tiểu đường loại 2 khó kiểm soát đường máu,
điều đầu tiên là người bệnh khám tổng quát nhất là về nhiễm trùng. Ngoài ra,
nhiễm trùng ở dạ dày do vi khuẩn Helicobacter pylori và những nhiễm trùng ở mắt,
cổ họng và cơ quan sinh dục do vi khuẩn Chlamydia trachomatis thường giúp làm
vỡ những mảnh mỡ đóng trong thành mạch máu và gây ra nhồi máu cơ tim

×