Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

cấu trúc tiêu điểm thông tin trong câu tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.61 KB, 24 trang )


1

DẪN LUẬN
01. Lý do chọn đề tài
Là đối tượng nghiên cứu của ngữ dụng học, cấu trúc thông tin (CTTT),
tiêu điểm (TĐ) thông tin và đặc biệt là cấu trúc tiêu điểm (CTTĐ) đã
nhận được sự quan tâm đặc biệt từ giới ngôn ngữ học trên thế giới và đã
được nghiên cứu từ nhiều bình diện ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, ở
Việt nam cho đến nay vẫn ch
ưa có một công trình chuyên biệt nào,
ngoại trừ một vài khảo cứu về ngữ pháp, ngữ nghĩa hay giản yếu dụng
học, đề cập ở mức độ sơ lược về vấn đề này. Bên cạnh đó, bộ máy khái
niệm tương ứng hầu như được hiểu ở mỗi người một cách.
Vì thế, với những kết quả nghiên cứu về CTTT trên cứ liệ
u tiếng
Anh, luận án muốn tìm hiểu về CTTT và vấn đề TĐ trong tiếng Việt trên
nền tảng là câu dưới ảnh hưởng của những yếu tố ngôn ngữ trong quá
trình giao tiếp, đối sánh với tiếng Anh.
0.2 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là tìm hiểu mối quan hệ giữa CTTT, sự phân bố
TĐ và CTTĐ với hình thức cú pháp của câu, khảo sát CTTĐ của câu ở
dạ
ng điển thể và biến thể dưới tác động của các yếu tố ngôn ngữ như
ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa.
0.3 Đối tượng nghiên cứu
Trọng tâm nghiên cứu của luận án là nhận diện, miêu tả và phân tích các
kiểu CTTĐ trong một số loại câu có những tổ chức cú pháp và cơ cấu
thông tin khác nhau, cũng như sự biến đổi về trạng thái, tính chất và qui
mô TĐ do những tác động của các phương tiện ngôn ngữ khác nhau
trong tiếng Việt và tiếng Anh.


0.4 Phạm vi nghiên cứu
a) Dựa trên những tiền đề lý thuyết về CTTT nói chung và mô hình các
kiểu CTTĐ của K.Lambrecth 1994, luận án khảo sát cơ cấu thông tin
trong câu tiếng Việt ở những kiểu câu đơn, đồng thời quan sát sự biến
đổi về tính chất TĐ và qui mô CTTĐ trong một số biến thể cú pháp tình

2
thái như (i) câu có trật tự từ đảo, (ii) câu có cấu trúc Đề-Thuyết với Đề
tương phản, (iii) câu có các vế triển khai dưới ảnh hưởng và tác động
của các yếu tố ngôn ngữ có sự tham gia của các yếu tố khác ngoài ngôn
ngữ.
b) Khi so sánh, luận án chú ý thích đáng đến loại hình ngôn ngữ của
tiếng Việt và tiếng Anh làm cơ sở để chỉ ra những tương đồng, dị biệt
của nhữ
ng phương tiện ngôn ngữ trong vai trò chỉ xuất và đánh dấu TĐ,
cũng như chỉ ra những sự chênh biệt tất yếu về cấu trúc cú pháp, cơ cấu
từ vựng, qui mô CTTĐ và những phương tiện thay thế khi thực hiện đối
dịch giữa hai ngôn ngữ này.
0.5 Lịch sử vấn đề
Ở thời kỳ sơ khởi, CTTT được đề cập qua lý thuyết Phân đo
ạn thực tại
câu của V. Mathesius (1929) - trường phái Prague - và các học trò của
ông, với những khái niệm cái đã biết (known) và cái chưa biết
(unknown), cái chưa biết là hạt nhân/tiêu điểm (nuclear/focus ứng với
hai thành phần chức năng Chủ Đề (Theme) và Thuật Đề (Rheme) của
câu. M.A.K.Halliday 1967 dựa trên cơ sở quan điểm chức năng của
trường phái Prague tiếp tục nghiên cứu v
ề CTTT. Từ đó đến nay, CTTT
đã được tiếp cận từ nhiều bình diện ngôn ngữ khác nhau, từ ngữ âm, ngữ
pháp, đến từ vựng- ngữ nghĩa, v.v. trong mối quan hệ với nhiều yếu tố

ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh, tiền giả định, kiến thức nền, tâm lý, văn
hóa …, hình thành nên một hệ thống các khái niệm với nhiều cách lý
giải khác nhau, ví dụ: Tiền giả định-Tiêu
điểm (Presupposition-Focus),
Chủ đề-Tiêu điểm (Topic-Focus), Tiền đề-Tiêu điểm (background-
Focus), v.v, trong đó TĐ là trọng tâm nghiên cứu.
Nghiên cứu về CTTĐ là sự nghiên cứu về cách thức tổ chức và
phân bố TĐ trong câu trong những ngữ cảnh giao tiếp khác nhau. Bên
cạnh việc xây dựng một bộ máy khái niệm dựa vào sự lưỡng phân đơn
vị thông tin trong CTTT, các nhà ngôn ngữ học còn quan tâm đến sự
biến thiên về
độ lớn, kích cỡ của TĐ và lấy đó làm tiêu chí xác định qui
mô và kiểu loại CTTĐ.

3
K.Lambrecht 1994 đã mô hình hóa CTTĐ bằng các kiểu cấu trúc
khác nhau dựa vào nhiệm vụ giao tiếp và qui mô thông tin TĐ. Các kiểu
cấu trúc TĐ của Lambrecht là cơ sở lý thuyết để luận án áp dụng khảo
sát và đối sánh CTTĐ giữa tiếng Việt và tiếng Anh.
0.6 Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
0.6.1 Phương pháp nghiên cứu
a) Cách tiếp cận của luận án dựa vào hai phương pháp chính:
- Phương pháp phân tích ngữ cảnh: bao gồ
m ngữ cảnh hẹp có sự tương
tác giữa thông tin và các yếu tố ngôn ngữ và ngữ cảnh rộng liên quan
đến tình huống bên ngoài.
- Phương pháp so sánh-đối chiếu: dựa vào các yếu tố hình thức cùng cấp
độ ngữ cảnh và những đặc trưng loại hình ngôn ngữ để tìm ra những
điểm tương đồng và dị biệt về hình thức biểu hiện và nội dung ngữ
nghĩa, đặc biệt là nội dung tình thái.

b) Sau mỗi phân tích ngữ liệu, những kết luận sơ bộ được đưa ra và
được mô hình hóa bằng những sơ đồ, bảng biểu. Sau một loạt phân tích
sẽ đi đến tổng kết cho một mô hình chung nhất.
0.6.2 Nguồn ngữ liệu
Ngữ liệu được sưu tập từ các nguồn ngôn ngữ trong hành chức, bao
gồm: lời nói trong sinh hoạt hàng ngày; trích dẫn từ các tác phẩm văn
học, các loạ
i từ điển, các tài liệu khảo cứu, tiếng Việt, tiếng Anh. Tất cả
các dẫn chứng được luận án đánh số theo từng chương và có dẫn nguồn
cụ thể.
0.7 Ý nghĩa khoa học của đề tài
0.7.1 Ý nghĩa khoa học
Về mặt lý thuyết, luận án bước đầu xác lập được một đối tượng nghiên
cứu mới cho bộ môn Dụng học Việt ngữ
- nghiên cứu về CTTT và TĐ
thông tin, đối tượng vốn còn tương đối xa lạ với nhiều người. Luận án
một mặt khẳng định được tính chất phổ niệm về CTTĐ thông tin từ một
số tiền đề lý thuyết mà các nhà ngôn ngữ học châu Âu đã xác lập, mặt
khác cũng đã chỉ ra được tính chất đặc thù của tiếng Việt.

4

0.7.2 Ý nghĩa thực tiễn
CTTT vốn thuộc lĩnh vực ngữ nghĩa - ngữ dụng nên việc nghiên cứu vấn
đề này rất hữu ích trong thực tế giảng dạy và học tiếng Việt cũng như
tiếng Anh; cho những người công tác trong lĩnh vực báo chí, truyền
thông và dịch thuật.
0.8 Bố cục luận án
Ngoài phần Dẫn luận, Kết luận, và 5 Phụ lục, phần chính văn c
ủa luận

án có tất cả 4 chương: Chương 1
: Tổng quan về cấu trúc thông tin, tiêu
điểm và cấu trúc tiêu điểm; Chương 2 và 3
: Cấu trúc tiêu điểm và ngữ
pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa trong việc chỉ xuất, đánh dấu tiêu
điểm trong câu tiếng Việt và tiếng Anh; Chương 4
: So sánh cấu trúc tiêu
điểm dưới tác động của ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa trong câu
tiếng Việt và tiếng Anh.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC THÔNG TIN,
TIÊU ĐIỂM VÀ CẤU TRÚC TIÊU ĐIỂM

1.1 Cấu trúc thông tin, các thành tố của đơn vị thông tin và những
yếu tố tác động đến tình trạng thông tin
1.1.1 CTTT là sự mã hóa các bộ phận cú pháp của câu thành những
thành tố thông tin theo một tổ chức nhất định dùng trong những bối cảnh
giao tiếp cụ thể.
1.1.2 Thông tin cũ- thông tin mới là hai thành tố tạo nên một đơn vị
thông tin liên hệ với nhau theo một tổ chức nhất định tạo nên CTTT.
Theo cách hiểu truyền th
ống, thông tin cũ (TTC) là điều người nói và
người nghe cùng biết do sự hiện hữu của đối tượng hoặc được tri nhận
thông qua ngữ cảnh, hoặc đã được đề cập đến trong ngôn cảnh-văn cảnh;
thông tin mới (TTM) là điều mà người nói cho là người nghe chưa biết,
hoặc là không khôi phục lại được từ ngữ cảnh. Trật tự kinh điển trong
một đơn vị thông tin là: TTC
đứng trước, TTM đứng sau, với TTM là


5
TĐ thông báo. Trật tự cũ-mới này thường được cho là trùng hợp với trật
tự của cấu trúc chức năng Đề-Thuyết của câu.
1.1.3 Ngữ cảnh, tiền giả định, kiến thức nền và tình trạng thông tin.
Tình trạng cũ, mới của thông tin chịu ảnh hưởng rất lớn từ ngữ cảnh,
tiền giả định (TGĐ), kiến thức n
ền và tâm lý người giao tiếp. Do đó tính
chất cũ, mới của thông tin chỉ mang tính tương đối. Cần phân biệt tính
chất cũ, mới của thông tin (i) trong bản thân diễn ngôn (từ phía người
nói) và (ii) trong sự tương tác giữa thông tin với sự hiểu biết chung và
tâm lý người nghe. Người nói có thể ấn định thông tin cũ và mới, nhưng
trong ngữ cảnh cụ thể, việc xử lý thông tin lại tùy thuộ
c người nghe.
Hiện tượng tâm lý này làm xuất hiện một lớp thông tin phái sinh, trong
đó câu hoặc chỉ còn toàn TTM, ranh giới cũ-mới bị triệt tiêu; hoặc nảy
sinh một lớp thông tin mang tính luận suy gọi là thông tin hàm ẩn.
Rõ ràng, nhiều khi cái mới là cả một câu, ranh giới cũ-mới không
phải lúc nào cũng trùng với ranh giới Đề-Thuyết.

1.2 Vấn đề tiêu điểm thông tin
1.2.1 Tiêu điểm
Bất kể thông tin nào dù là mới hay cũ, nếu quan trọng thì đều mang tính
TĐ, một khi mang tính TĐ thì thông tin đó được coi là mới.
TĐ là yếu tố được nêu bật lên bằng một hay vài phương thức ngôn
ngữ nhất định, đối lập nó với những yếu tố có thể thay thế nó trên trục
đối vị trong biểu thức ngôn ngữ đang dùng, trong một ngữ cảnh giao tiếp
cụ th
ể. TĐ có thể là một yếu tố đơn lẻ, có thể là một ngữ đoạn, một cú
đoạn, hay rộng hơn, có thể là cả một câu. TĐ có thể xác định qua con
đường hỏi-đáp hoặc qua phân đoạn thực tại của câu dựa vào ngữ cảnh

giao tiếp hay văn cảnh trong diễn ngôn.
1.2.2 Các loại tiêu điểm: tiêu điểm thông tin mới và tiêu điểm tương
ph
ản
Căn cứ vào tính chất và mục đích thông báo, TĐ có thể lược qui về hai
loại: Tiêu điểm thông tin mới (TĐTTM) và Tiêu điểm tương phản
(TĐTP). TĐTTM mang thông báo mới nằm trên phần TTM; TĐTP là

6
thông tin có tính đối lập tương phản với một yếu tố khác trong văn bản,
hay ở đâu đó ngoài văn bản, được nêu bật lên bằng một phương thức
ngôn ngữ nhất định. TĐTP có thể nằm trên bất kỳ phần nào của câu, trên
TTC cũng như trên TTM. TĐTTM có thể mang cả TĐTP.

1.3 Cấu trúc tiêu điểm thông tin
1.3.1 Các kiểu CTTĐ của K.Lambrecht và hệ thuật ngữ
Dự
a trên tiêu chí qui mô của vùng TĐ gắn với chức năng giao tiếp cụ
thể, K.Lambrecht 1994 đã đề xuất ba kiểu CTTĐ: (i) Vị ngữ-tiêu điểm
(Predicate focus) dùng thuyết minh chủ đề; (ii) Câu-tiêu điểm (Sentence
focus) mô tả sự kiện hay qui chiếu diễn ngôn mới; và (iii) Tham tố-tiêu
điểm (Argument focus) xác định rõ đối tượng qui chiếu. Hai kiểu cấu
trúc đầu thuộc loại CTTĐ rộng, còn kiể
u Tham tố-Tiêu điểm (TTTĐ)
thuộc loại CTTĐ hẹp và luận án đề nghị thay dùng bằng thuật ngữ Tiêu
điểm bộ phận (TĐBP) cho phù hợp với đối tượng khảo sát.
Thông tin TĐ nằm trong vùng TĐ. Mỗi vùng TĐ được giới hạn
trong một vùng cú pháp nhất định của câu trong đó gồm thành tố TĐ
thực và những đơn vị có quan hệ ngữ pháp với nó. Trong m
ỗi kiểu cấu

trúc, sự phân bố TĐ rất khác nhau.
Bảng 1.1: Sơ đồ phân bố TĐ của Lambrecht trong các kiểu CTTĐ
Loại TĐ Tham tố nằm trong TĐ Vị ngữ nằm trong TĐ
VnTĐ
- +
CâuTĐ
+ +
TTTĐ (TĐBP)
+ -
1.3.2 Quan điểm của luận án
Luận án đề nghị thay thuật ngữ Tham tố-tiêu điểm bằng thuật ngữ Tiêu
điểm bộ phận (TĐBP) để tiện cho việc mô tả: (i) làm rõ tính đối lập giữa
TĐ rộng và TĐ hẹp, giữa TĐ tập hợp và TĐ bộ phận; (ii) để mở rộng
đối tượng khảo sát đến TĐ mang tính chất
nhấn mạnh, tương phản,
chẳng hạn như TĐTP “hôm nay” trong ví dụ: “Hôm qua là 2-9. – Đâu
có, hôm nay mới là 2-9”; (iii) và sự chuyển vị lâm thời TĐ sang phụ từ,

7
hư từ khi chúng mang trọng âm tương phản hoặc gánh nặng thông tin
tình thái, như từ “vẫn” trong ví dụ: “Cậu vẫn còn học à? – Vẫn đâu mà
vẫn”. Trong khi đó K.Lambrecht lại gạt bỏ những hiện tượng này ra
khỏi khảo sát, hoặc do ông không xét tới hiện tượng này trong cấu trúc
câu, hoặc do ông quan niệm đây là “hàm ý hội thoại” thể hiện ở hoạt
biến trọng âm.

1.4 Về CTTĐ trong câu đơn tiếng Việt
Trong mục này, luận án khảo sát các kiểu CTTĐ trong khuôn khổ câu
đơn của tiếng Việt trên hai phương diện: cơ cấu thông tin trong CTTĐ
và vấn đề trọng âm trong ngôn bản có hình thức là câu đơn. Mỗi kiểu

CTTĐ ngoài sự khác biệt về cơ cấu thông tin, còn có sự tác động của
trọng âm TĐ. Trong ba kiểu cấu trúc, vai trò của trọng âm
trong cấu trúc
TĐBP có phần rõ ràng hơn cả do phạm vi cấu trúc nhỏ gọn, khó xảy ra
hiện tượng chuyển vị
như ở hai kiểu cấu trúc CâuTĐ và VnTĐ. Dưới
đây là mô hình các kiểu CTTĐ cơ bản trong tiếng Việt (LA: bảng 1.3,
1.4, 1.5), những từ gạch dưới
là những yếu tố mang trọng âm TĐ:
Cô ấy trông thế nào? Cô ấy rất xinh đẹp.
Cô ấy
Tao
rất xinh đẹp.
cấm
mày đến đó.
TGĐ TĐ (VnTĐ)

Sao thế? Cái xe của tôi bị hỏng.
Cái xe của tôi
Nhà sạch

bị hỏng.

thì mát
.
TGĐ-TĐTP TĐTTM-TĐTP
CâuTĐ

Con đọc gì đấy? Con đọc sách.
Con đọc

Nó đậu
sách.

những ba
trường đại học cơ đấy.
TGĐ
TĐ (TĐBP)


8
1.5 Việc đánh dấu TĐ và CTTĐ
Việc đánh dấu TĐ trong câu tạo nên thế đối lập giữa trạng thái tĩnh và
động của thông tin, mang đến một ý nghĩa ngữ dụng nào đó cho phát
ngôn. Khi được đánh dấu, tính chất và qui mô của TĐ sẽ có sự thay đổi:
một TĐTTM, nếu có đánh dấu, nó sẽ vừa mang tính chất của TĐTTM,
vừa mang cả đặc tính của T
ĐTP, hoặc sẽ trở thành TĐTP; TTC khi
được đánh dấu đều mang TĐTP. Với hai TĐ trên hai vế, qui mô CTTĐ
của câu sẽ là CâuTĐ.
Phương tiện dùng để đánh dấu TĐ bao gồm: (i) ngôn điệu (ngữ
điệu và trọng âm cường điệu), (ii) cú pháp (trật tự từ, cấu trúc Đề-
Thuyết có Đề tương phản, cấu trúc triển khai, …), và (iii) từ ng
ữ tình
thái.
CHƯƠNG 2
CẤU TRÚC TIÊU ĐIỂM VÀ NGỮ PHÁP, NGỮ ÂM,
TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA TRONG VIỆC CHỈ XUẤT,
ĐÁNH DẤU TIÊU ĐIỂM TRONG CÂU TIẾNG VIỆT

2.1 CTTĐ trong một số biến thể cú pháp tiếng Việt

2.1.1 CTTT và hình thức câu
Hình thức ngữ pháp của câu được coi là phương tiện để định vị thông tin
cũng như là cơ sở hiển minh hóa TĐ thông tin và CTTĐ. Tùy từng hoàn
cảnh và tâm thế người giao tiếp sẽ có những cơ cấu cú pháp thích hợp
được lựa chọn.
Về quan hệ giữa hình thức câu và CTTT, Lambrecht 1994 xác
định: “Cấu trúc thông tin là bộ phậ
n cấu thành của ngữ pháp câu. Ở
đó, các mệnh đề biểu thị các sự tình được kết đôi với các cấu trúc từ
vựng ngữ pháp, thể hiện các trạng thái tâm lý của những người đối
thoại - những người sử dụng và thể hiện những cấu trúc này như
những đơn vị thông tin, trong những ngữ cảnh diễn ngôn nhất định”
[Lambrecht, 1994:5].
Để tìm hiểu mối quan h
ệ và tác động của cú pháp đến CTTT, luận
án đã khảo sát CTTĐ trong một số kết cấu cú pháp tình thái điển hình

9
của tiếng Việt như (i) câu có trật tự từ ngữ đảo; (ii) câu có quan hệ Đề-
Thuyết có Đề tương phản (Đề TP) và (ii) các cấu trúc triển khai.
2.1.2 CTTĐ trong câu có trật tự từ đảo và câu có cấu trúc Đề-
Thuyết với Đề tương phản
2.1.2.1 CTTĐ trong câu có trật tự từ đảo
Bất cứ sự thay đổi trật tự nào của các thành phần cú pháp câu cũng dẫn
đến sự
thay đổi một khía cạnh tình thái nào đó của nội dung thông báo,
khiến cho tính chất và qui mô của CTTĐ có những thay đổi nhất định.
Chẳng hạn, trong tiếng Việt, trật tự đảo Vị ngữ-Chủ ngữ (V-C)/ Thuyết-
Đề (T-Đ) điển hình như: “Chết mất ba con gà; Đẹp biết bao những lời
chân thực ấy” không làm thay đổi ý nghĩa cũng như thành phần câu

nhưng màu s
ắc tình thái đã không còn như cũ.
Khi đảo vị, các thành phần cú pháp được đánh dấu bất thường, đều
mang TĐTP. Với hai TĐ trên hai vế, câu sẽ có cấu trúc CâuTĐ.
2.1.2.2 CTTĐ ở câu Đề-Thuyết với Đề tương phản trong tiếng Việt
Trong cấu trúc Đề-Thuyết, khi Đề được đánh dấu, nó mang TĐTP trở
thành Đề TP. Đề TP liên quan đến trật tự từ đảo là Bổ đề
và Trạng Đề.
Câu có Đề TP luôn luôn có cấu trúc CâuTĐ.
a) Bổ đề TP là loại Đề được đánh dấu do bổ tố của vị từ hay giới từ (xét
theo quan hệ nghĩa sâu) được đưa lên đầu câu, vị trí được coi là đánh
dấu đối với bộ phận này. Với hai TĐ trên hai vế Đề và Thuyết, loại câu
này luôn có cấu trúc câuTĐ. Ví dụ: “Thư
tôi đã viết/ Nhà bà ấy có hàng
dãy ở khắp các phố”.
b) Trạng đề TP được giới hạn xét trong luận án bao gồm:
- Khung đề trong câu có trật tự Đ-T cố định, mang tính đặc thù của tiếng
Việt, kiểu: “Mai
tôi đi”; Ở đây mát lắm; Cá quả mà nấu với khế thì rất
ngon; Ghét của nào
trời trao của ấy,…”.
- Khung đề được tạo thành từ một số Trạng ngữ có khả năng đảo vị,
như: “Chúng tôi đi được một đoạn đường dài trong ba ngày; Trong ba
ngày, chúng tôi đi được một đoạn đường dài”;

10
- Khung đề làm thành từ những ngữ đoạn, cú đoạn Trạng ngữ điều kiện,
thời gian, địa điểm, cách thức, nhượng bộ,… Ví dụ: “Làm người
, ta phải
biết phân biệt đúng sai; Khi nào nó đến

anh nhớ bảo tôi” …
Những ngữ đoạn, cú đoạn Trạng ngữ có trật tự linh hoạt khi được
đưa lên đầu câu hay xuống cuối câu, tuy không làm nghĩa cơ bản của
câu thay đổi nhưng đều khiến cơ cấu thông tin ngữ dụng (TTC-TTM/
TGĐ-TĐ) thay đổi.
2.1.3 CTTĐ ở câu có cấu trúc triển khai trong tiếng Việt
Triển khai là việc phát triển cấu trúc về hướng bên phải hay bên trái của
câu. Bi
ểu thức triển khai có tác dụng khoanh vùng xác định cho một bộ
phận cụ thể của câu với mục đích nhấn mạnh hay tạo thế đối lập cho bộ
phận này. Nếu phần chứa bộ phận được triển khai trên phần Đề, thì đó là
triển khai trái, có tác dụng TĐ hóa thông tin trên phần Đề và làm cho
Đề đó trở thành Đề TP. Nếu phần được triển khai đứng sau vị từ, trên
ph
ần Thuyết, thì đó là triển khai phải, có tác dụng đánh dấu khu biệt,
làm tăng tính tương phản cho TĐTTM. Câu có triển khai phần Đề luôn
có cấu trúc câuTĐ do có hai TĐ trên cả Đề và Thuyết.
Phần triển khai có thể là một (i) ngữ đoạn hay một cú đoạn định
ngữ, ví dụ “Điều anh lo sợ
là hai đứa con anh rất quí cu Linh”; (ii) cấu
trúc có các chỉ tố hồi chỉ, ví dụ:“Một người
vừa vào. Đấy là một người
trạc 50 tuổi”; hoặc (iii) những bậc đề-thuyết con, vốn rất đặc trưng trong
khẩu ngữ tiếng Việt, ví dụ (dấu // , / và ( ) dùng để phân đoạn các bậc
Đ-T và đ-t: “Tôi // (thì) dạo này ( ) con cái đi làm cả / phải thổi cơm lấy
mà ăn”.

2.2 Vai trò của ngữ điệu-trọng âm trong chỉ xuất và đánh dấu TĐ

trong câu tiếng Việt

Trọng âm và ngữ điệu là hiện tượng ngôn điệu, không tách rời hoạt động
nói năng.
2.2.1 Trọng âm có cả chức năng ngữ pháp và ngữ dụng. Trọng âm ngữ
dụng là loại trọng âm cường điệu (hay trọng âm logic, trọng âm TĐ).

11
Trọng âm cường điệu mang tính chất tâm lý, chủ quan của người nói nên
có tính tự do, đối lập với loại trọng âm khách quan, ổn định (trọng âm
ngữ đoạn, trọng âm câu) vốn có tính ngôn luật của ngữ pháp-ngữ âm
học. Trong câu, trọng âm cường điệu có thể trùng hợp với trọng âm ngữ
đoạn hay trọng âm câu. Yếu tố nào mang TĐTTM đồng thời là TĐTP
thường cùng một lúc nhậ
n ba loại trọng âm này.
Những thành tố nào nhận trọng âm cường điệu luôn mang TĐTP.
Trọng âm cường điệu có tính hoạt biến, báo hiệu sự thay đổi TĐ, kéo
theo sự thay đổi nhất định về ý nghĩa thông báo. Nếu việc đánh dấu TĐ
được thực hiện chỉ duy nhất bằng phương tiện trọng âm thì CTTĐ hầu
như không có sự thay đổi nào về qui mô (rộng, hẹp).
2.2.2 Ngữ điệu luôn đi kèm với trọng âm, vừa có chức năng ngữ pháp
vừa có chức năng ngữ dụng.
Chức năng ngữ dụng của ngữ điệu-trọng âm là (i) đóng gói thông tin
(bằng cách nhóm thông tin thành khúc đoạn khác nhau), ví dụ: “…//Tôi
cũng sợ /người ta nói ra / nói vào chứ.// Mình nói một,/ người ta nói
hai,/ nói ba//”. ; (ii) TĐ hóa thông tin (bằng trọng âm cường đi
ệu), ví
dụ: “Hôm nay mẹ mua áo cho Minh. (Chứ không phải Nam)/ Hôm nay
mẹ mua áo cho Minh. (Chứ không phải cặp sách)”; (iii) cung cấp thông
tin hàm ẩn bằng ngữ điệu tình thái đặc biệt với sự kết hợp của trọng âm
cường điệu và nét điệu đay, thông tin có thể được giải mã theo chiều tích
cực hoặc tiêu cực tùy vào ngữ cảnh thái độ và cử chỉ củ

a người nói, ví
dụ: “ Cái này
mà tám mươi ngàn đồng” (CâuTĐ).
Hiện tượng chuyển vị trọng âm được gọi là việc “nhấn mạnh mặc
định do hoạt biến diễn ngôn”, xảy ra khi trọng âm không rơi vào thành tố
TĐ mà lại rơi vào những yếu tố khác bên ngoài TĐ. Sự chuyển vị trọng
âm sang những yếu tố phụ bên cạnh TĐ cũng là một hình thức báo hiệu
TĐ, đồng thờ
i liên quan đến ý nghĩa ngữ dụng nhất thời, không ảnh
hưởng đến yếu tố TĐ, ví dụ: “Vẫn
còn học à? Vẫn (học) đâu mà vẫn
(học)”.
Hiện tượng nhấn giọng và đay giọng ở những tiểu từ tình thái dứt
câu hoàn toàn độc lập với trọng âm TĐ. Trọng âm TĐ vẫn rơi vào các

12
yếu tố thực từ, còn việc đay giọng (i) là sự hiện thực hóa ngữ điệu biểu
thị tính tình thái của phát ngôn, phản ánh khía cạnh tình cảm của người
nói, và (ii) là kết quả của qui luật năng lượng âm thanh dồn cuối: sự dồn
âm thanh khởi phát từ thành tố TĐ lan ra và tăng cường ở cuối câu.

2.3 Vai trò của từ vựng-ngữ nghĩa trong chỉ xuất và đánh dấu TĐ trong
câu tiếng Việt
2.3.1 Về việc đánh dấu TĐ bằng từ ngữ tình thái trong tiếng Việt
Từ ngữ tình thái (TNTT) đóng vai trò phụ tố ngữ pháp và kiến tạo nghĩa
ngữ dụng, có tác dụng nhấn mạnh, xác lập tính chủ đích của người nói
hướng đến bộ phận cụ thể của câu, tạo ra thế tương phản giữa các yếu tố
thông tin, định hướng thông tin cho người nghe. TNTT chia ra hai nhóm
đánh dấu T
Đ: nhóm đánh dấu TĐ đơn và nhóm đánh dấu TĐ phức.

2.3.2 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ đơn
Nhóm TNTT đánh dấu TĐ đơn, với số lượng tạm thống kê vào khoảng
gần 90 đơn vị, bao gồm các tiểu từ, trợ từ tình thái đi một mình, như rất,
cả, còn, cũng, vẫn, cứ, chỉ, … hoặc một nhóm từ kế
tiếp nhau, như cũng
vẫn, cũng vẫn cứ, … Các đơn vị từ ngữ này có thể kết hợp với nhiều từ
loại khác nhau như danh từ, đại từ, động từ, tính từ. Do, tầm ảnh hưởng
của của các TNTT đối với những yếu tố từ ngữ đứng xung quanh chúng
không giống nhau, do đó qui mô CTTĐ của câu cũng không giống nhau:
nếu TNTT có ảnh h
ưởng rộng (tới cả bộ phận đứng trước lẫn đứng sau
nó), câu sẽ có cấu trúc CâuTĐ, ví dụ: “Một thằng
cũng dạy (CâuTĐ)”;
nếu TNTT có tầm ảnh hưởng hẹp (chỉ tác động tới thành tố mà nói đi
kèm), thì CTTĐ của câu sẽ là VnTĐ hoặc TĐBP, ví dụ: “Em rất đẹp

(VnTĐ/TĐBP).
2.3.3 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ phức
Đó là nhóm TNTT đi cặp đôi hoặc cặp ba (chỉ-mới, cả-lẫn, ngay cả-
cũng; đến- cũng; cả-cũng; cả-đều; đến-còn, có-thì-mới,…). Những đơn
vị này có tác dụng đánh dấu song song các yếu tố trong nội bộ một ngữ;
giữa ngữ đoạ
n với ngữ đoạn; hoặc giữa cú đoạn với cú đoạn. Trong các
câu có TNTT phức, TĐ dù nằm ở phần nào của câu cũng đều mang

13
TĐTP. Câu luôn có cấu trúc CâuTĐ. Ví dụ: “Cả đất lẫn nhà, bán rẻ
cũng phải được năm sáu trăm bạc
(CâuTĐ); Con gái thì người ta đều gọi
là cô (CâuTĐ)”.

CHƯƠNG 3
CẤU TRÚC TIÊU ĐIỂM VÀ NGỮ PHÁP, NGỮ ÂM,
TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA TRONG VIỆC CHỈ XUẤT,
ĐÁNH DẤU TIÊU ĐIỂM TRONG CÂU TIẾNG ANH

3.1 CTTĐ trong một số biến thể cú pháp tiếng Anh
CTTĐ và cú pháp đánh dấu tình thái trong tiếng Anh được luận án xem
xét trên một số biến thể câu như: (i) câu có trật tự từ ngữ đảo có Đề TP,
và (ii) các kiểu cấu trúc triển khai.
3.1.1 CTTĐ trong câu có trật tự từ đảo và Đề TP trong câu tiếng
Anh
3.1.1.1 Vấn đề trật tự từ và Đề TP trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh, việc đảo vị
trật tự từ có thể không làm thay đổi thành
phần ngữ pháp và ngữ nghĩa cơ bản của câu, nhưng có thể thay đổi cấu
trúc Đề-Thuyết của câu do thành tố nào được đảo lên đầu câu cũng
thường được Đề hóa, có tính chất tương phản, được gọi là Đề TP, phản
ánh trạng thái ngữ dụng khác nhau của câu.
3.1.1.2 CTTĐ trong câu có Đề tương phản trong tiếng Anh
Đề TP trong tiếng Anh mà luận án đề
cập đến là các đơn vị ngữ pháp có
liên quan đến trật tự từ, đó là (i) Bổ đề và (ii) Trạng đề.
a) Bổ đề TP, như đã xác định, là bộ phận từ ngữ có vai nghĩa là đối thể
của vị từ đứng ở vị trí của Đề. Do vị trí cú pháp trái với vị trí thường
qui của nó nên nó mang TĐTP. Ví dụ: “Joe
// his name is [Joe, ấy là
tên của anh ta]; History
// I found to be dry [Môn lịch sử tôi thấy khô
khan lắm]”.
b) Trạng đề TP là những đơn vị từ ngữ có chức năng tạo nên một chu

cảnh về thời gian, không gian, điều kiện,… của một sự tình diễn ra
xung quanh chu cảnh đó. Trạng Đề có thể là một từ hay một ngữ đoạn,

14
cú đoạn. Nó mang tính TP vì nó phản ánh trạng thái đối lập về một
mặt nào đó của hành động hay sự tình.
- Trạng đề là (i) các trạng ngữ đảo lên đầu câu, ví dụ: “Down
//came
the rain; Under the tree
// sits a woman; Willingly // he’ll never do it;
Never // have
I seen him so angry”; (ii) các tính từ vốn kết hợp với
động từ làm thành ngữ đoạn vị từ nay đảo lên đầu câu trở thành Trạng
đề: “Rude
// am I in my speech; Faint // grew the sound of the bell”.
- Trạng đề là những đoạn/cú đoạn Trạng ngữ của các câu phức hợp:
“Walking
about,// you notice something is different; If the duke give
anything to my aunt,// it will be a teapot; Where
Kate had stood last
night,// Maureen now stood”.
- Trạng đề là các cấu trúc Đề-Thuyết có tính cố định hoặc có tính thành
ngữ: “The harder you exercise,// the better you’ll feel; Out of sight, // out
of mind”.
Câu có Đề TP luôn có cấu trúc CâuTĐ
.
3.1.2 CTTĐ ở câu có cấu trúc triển khai trong tiếng Anh
Tiếng Anh có 4 kiểu cấu trúc triển khai tiêu biểu: (i) it-clefts, ví dụ: “It

was Ted

who broke the news to me [Chính Ted tiết lộ tin này cho tôi];
It
was from Francis that she first heard the news [Chính nhờ Francis
mà cô ấy biết được tin này]”; (ii) wh-clefts, với loại cơ bản (basic):
“We don’t need money. What
we need is more time [Chúng tôi không
cần tiền. Cái chúng tôi cần là có thêm thời gian]”; và loại đảo
(reversed): “More time is what
we need [Có thêm thời gian là điều
chúng tôi cần]”; (iii) that-clefts với loại có đề từ (headed): “These
are
hard times that we are going through [Đây là thời kỳ khó khăn chúng
ta sắp phải trải qua]”; và loại không có đề từ (headless): “This
is what I
mean [Đây là điều tôi muốn nói].”
Trong đó, hai loại (ii) và (iii) có phần thông dụng hơn. Ngoài ra
còn loại cấu trúc triển khai (iv) there-clefts: “There
are two students
(who) to meet you [Có hai em sinh viên muốn gặp anh]”.


15
3.2 Vai trò của ngữ điệu-trọng âm trong chỉ xuất và đánh dấu TĐ
trong câu tiếng Anh
3.2.1 Trọng âm
Về bản chất, trọng âm tiếng Anh được phân thành hai loại. Một loại là
trọng âm thông thường - trọng âm câu (normal/ neutral/ nuclear
accents), trong phần nhiều trường hợp trùng hợp với trọng âm TĐTTM
(còn gọi là end-focus - TĐ cuối câu); loại trọng âm thứ hai là loại trọng
âm tương phản (trọng âm c

ường điệu), xuất hiện khi người nói muốn
đánh dấu TP cho một thành tố bất kỳ của câu.
Trọng âm câu thường rơi vào thành tố cuối câu, nơi tập trung
TTM. Cho nên, ở một trật tự cú pháp thông thường, trọng âm câu
thường hay trùng với trọng âm TĐTTM. Còn khi đánh dấu tương phản,
trọng âm được cường điệu hóa làm nổi bật bất kỳ thành tố nào của câu.
Ví dụ”: “John only introduced Bill
to Sue (= người duy nhất mà John
giới thiệu với Sue là Bill); John only introduced Bill to Sue (= người
duy nhất mà John giới thiệu với Bill là Sue); John only introduced Bill
to Sue (= những người John giới thiệu cho nhau là Bill và Sue)”.
Đây gọi là sự chuyển vị trọng âm do hoạt biến sở chỉ trong diễn
ngôn. Sự hoạt biến trọng âm báo hiệu sự thay đổi TĐ, kéo theo sự thay
đổi nhất định về ý nghĩa thông báo.
3.2.2 Ngữ điệu
3.2.2.1 Về h
ệ thống ngữ điệu trong tiếng Anh
Đường nét ngữ điệu (tuyến điệu) trong ngữ điệu tiếng Anh có tác dụng
phản ánh trạng thái thông tin trong câu, nó có tính chất tương đối cố
định, do đó hướng di chuyển lên hay xuống của tuyến điệu của ngữ điệu
ở thành tố mang trọng âm và khu vực xung quanh nói lên được rất nhiều
về tình trạng thông tin và thông tin TĐ.
Các tuyến
điệu trong ngữ điệu tiếng Anh được mô hình hóa theo ký
hiệu của Pierrehumbert và Hirschberge 1990 như sau:
- TTC: L+H*; (LH%)
- TTM: H*; H*L; (LL%)
- TP: L*, HL*, H*, LH* , L+H*
- TTM + TP: H*, L+H*; (LH%, LL%)


16
- TTC + TP: H*, L*, L+H*; (LH%)
[Ghi chú: dấu % chỉ đường biên của ngôn điệu, nơi kết thúc hay bắt đầu của một nhóm ngữ
điệu; L chỉ trọng âm ngữ đoạn, LL chỉ báo ngữ điệu xuống điểm kết thúc ngữ đoạn; LH chỉ
ngữ điệu giáng sau đó hơi thăng ở điểm kết thúc ngữ đoạn; dấu * báo thị âm nổi trội; H* biể
u
thị âm thăng mạnh nhất; L* biểu thị âm giáng mạnh nhất; H*L biểu thị ngữ điệu thăng nổi trội
rồi đi xuống; HL* biểu thị ngữ điệu giáng và nổi trội ở điểm thấp nhất; L+H* chỉ ngữ điệu kết
hợp giáng-thăng (luyến)].
3.2.2.2 Chức năng của ngữ điệu-trọng âm
Ngữ điệu (luôn kèm trọng âm) vừa có chức năng ngữ pháp vừa có chức
năng ngữ dụng.
Chức năng ngữ dụng của ngữ điệu-trọng âm trong tiếng Anh là:
(i) Phân đoạn, nhóm gói thông tin thành những khúc đoạn khác nhau,
làm cho chúng có những giá trị thông báo nhất định trong một tình
huống giao tiếp cụ thể. Ví dụ
: “Marcel / proved completeness; Marcel
proved / completeness”. (ii) Xác định tình trạng thông tin, TĐ hóa
thông tin bằng trọng âm cường điệu: “Marcel proved completeness;
Marcel proved completeness”. (iii) Cung cấp cứ liệu tình thái của phát
ngôn, đồng thời chuyển tải một lớp thông tin hàm ẩn (ngạc nhiên, tán
thưởng, bực dọc, mỉa mai, v.v.). Ví dụ:

You cÁll this dÀy’s work, do you? (I don’t thing so)
LH* HL* LL%
[Anh gọi
cái này là công việc trong ngày sao? (Tôi không nghĩ thế)]
CTTĐ của câu thường được qui định bởi cấu trúc cú pháp. Tuy
nhiên ngữ điệu tình thái có thể đánh dấu tương phản cho các vế câu,
khiến câu có cấu trúc CâuTĐ.


3.3 CTTĐ với từ vựng-ngữ nghĩa đánh dấu TĐ trong câu tiếng
Anh
3.3.1 Về lớp từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh, số lượng từ chuyên biệt dùng để đánh dấu TĐ
, cả đơn
vị đơn lẫn đơn vị phức, không nhiều, nhưng số lượng thực từ có giá trị
đánh dấu tình thái cho TĐ lại tương đối lớn, có khoảng trên 60 đơn vị từ
đơn; và 6 đơn vị phức hợp. Các đơn vị từ đơn như: only, even, too, also,
always, usually, ever, just, simply,… dùng đánh dấu TĐ đơn, ví dụ: “It's

17
an interesting job, but it's only temporary [Công việc thú vị đấy, nhưng
chỉ tạm thời
thôi]”. Các đơn vị từ phức bao gồm 6 nhóm từ đi đôi dùng
đánh dấu TĐ theo cặp, như: both-and, not only-but also, either-or,
neither-nor, so-that, such-that, ví dụ: “He not only whashed
the car, but
also polished
it [Không chỉ rửa chiếc xe, anh ta còn lau nó bóng lộn
lên]”.
3.3.2 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ đơn
TNTT tiếng Anh được phân thành những tiểu loại dựa vào tính chất
đánh dấu và khả năng kết hợp với từ loại khác. Các TNTT đơn có thể
chia thành các nhóm đồng nghĩa. Các đơn vị trong một nhóm tương
đương về nét nghĩa nhưng có sự phân biệt trong phong cách sử dụng
(văn nói vă
n viết; thân mật hay sách vở, …), ví dụ nhóm đồng nghĩa:
quite- pretty -fairly - rather- comparatively - relatively (khá, tương
đối) .

Một số TNTT của tiếng Anh có đặc điểm đa dạng về nét nghĩa.
Do vậy, mặc dù số lượng không nhiều nhưng TNTT của tiếng Anh
phong phú về khả năng chuyển tải thông tin, ví dụ, từ just một mình nó
có thể chuyển tải được nhiều nghĩa khác nhau của tiếng Việt nh
ư:
chính, đúng là, chỉ, ngay, vừa mới, mới chỉ, thật, cứ, lắm…mới…
3.3.3 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ phức
Nhóm này, giống như trong tiếng Việt, bao gồm các cặp từ đi đôi như
both-and, not only-but also, either-or,… có tác dụng đánh dấu song
song các yếu tố trong (i) nội bộ một ngữ, (ii) giữa ngữ đoạn với ngữ
đoạn, (iii) hoặc gi
ữa cú đoạn với cú đoạn. CTTĐ trong câu đánh dấu
phức luôn có cấu trúc CâuTĐ.
CTTĐ của câu tùy thuộc vào vị trí xuất hiện của TNTT và tầm tác
động của nó đối với các bộ phận từ ngữ trong câu

CHƯƠNG 4
SO SÁNH CẤU TRÚC TIÊU ĐIỂM DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA NGỮ PHÁP, NGỮ ÂM, TỪ VỰNG-NGỮ NGHĨA
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH

18
4.1 Nội dung, mục đích và phương pháp so sánh
4.1.1 Nội dung, mục đích
Dựa trên nền tảng lý thuyết về CTTT và CTTĐ cùng việc khảo cứu
CTTĐ dưới ảnh hưởng và tác động của ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ
nghĩa trong câu tiếng Việt và tiếng Anh, luận án đã thực hiện việc so
sánh sự biến động của TĐ và CTTĐ dưới tác động của các yếu tố đ
ã nêu
giữa hai ngôn ngữ.

4.1.2 Phương pháp và các thao tác tiến hành so sánh
Việc so sánh đối chiếu được thực hiện dựa trên các kết quả phân tích
diễn dịch hoặc qui nạp các cứ liệu trên tiếng Việt và tiếng Anh ở các
Chương 2 và 3. Các dẫn chứng được đưa ra làm cơ sở cho các phân tích
đối chiếu, lập bảng so sánh những tương đồng và khác biệt theo các tiêu
chí (i) hình thức và (ii) nội dung trên các bình diện: cú pháp, ngữ âm và
từ ngữ.
Căn cứ vào
đặc điểm loại hình ngôn ngữ, luận án chỉ ra những
khác biệt ở tiếng Việt và Anh, cùng những hình thức thay thế tương ứng
trong việc thể hiện cùng một nội dung giữa hai ngôn ngữ trong một số
biến thể câu tình thái. Tiếng Anh với đặc trưng ngôn ngữ là tổng hợp
tính, thường hay dùng cấu trúc cú pháp chuyên biệt, còn tiếng Việt - một
ngôn ngữ phân tích tính - thế mạnh lại nằm ở từ ng
ữ, vì thế công cụ thay
thế thường là lớp TNTT.

4.2 So sánh CTTĐ trong một số biến thể cú pháp giữa tiếng Việt và
tiếng Anh
Việc so sánh được thực hiện đối với (i) một số biến thể cú pháp có trật
tự từ ngữ khác trật tự Chủ-Vị là trật tự đảo với Đề TP, và (ii) các kiểu
cấu trúc triển khai.
4.2.1 CTTĐ trong các biến th
ể câu liên quan đến trật tự từ: cơ cấu
cú pháp, cấu trúc Đề-Thuyết và Đề TP
Tiếng Việt và tiếng Anh cùng có trật tự cú pháp SVO chặt chẽ. Một khi
trật tự từ thay đổi, quan hệ ngữ pháp trong câu thay đổi khiến

19
CTTT/CTTĐ thay đổi, dẫn đến nội dung thông tin cũng ít nhiều thay

đổi.
Trên hình thức câu, luôn có sự giao thoa giữa hai loại quan hệ:
quan hệ ngữ pháp-ngữ nghĩa (Chủ-Vị) và quan hệ ngữ nghĩa-ngữ dụng
(Đề-Thuyết) trong CTTĐ Việc so sánh các biến thể cú pháp có liên
quan đến trật tự Chủ-Vị được đề cập trên các khía cạnh sau: (i) quan hệ
Đề-Thuyết và Đề TP trong một số kết cấu lỏng và k
ết cấu chặt; tính
chất TĐ và qui mô CTTĐ trong những cấu trúc C-V đảo; (ii) vấn đề
Đề-Thuyết với một số cấu trúc C-V đảo ở hai ngôn ngữ và những
chênh biệt về cơ cấu và qui mô CTTĐ giữa các câu ở ngôn ngữ nguồn
và ngôn ngữ đích trong đối dịch.
4.2.1.1 Những điểm tương đồng
Sự tương đồng trong những biến thể cú pháp thể hiện ở nh
ững điểm
sau:
- Tương đồng về CTTĐ trong câu có trật tự từ đảo: (i) khả năng đảo vị
ở những thành phần cú pháp khác nhau như Chủ ngữ, Vị ngữ, Bổ ngữ
và Trạng ngữ, (ii) hiện tượng Đề hóa Bổ ngữ và Đề hóa Trạng ngữ tạo
nên những Bổ đề và Trạng đề TP. (iii) CTTĐ của câu có Đề TP luôn là
CâuTĐ.
- Tương đồng về
CTTĐ trong câu có quan hệ Đề-Thuyết chặt, có tính
thành ngữ: “Ghét của nào trời trao của ấy; Out of sight, out of mind
[Xa mặt thì cách lòng]”.
4.2.1.2 Những điểm khác biệt
Đặc điểm loại hình ngôn ngữ tiếng Anh - tổng hợp tính, thiên chủ ngữ
(subject-prominent) và tiếng Việt - phân tích tính, thiên chủ đề (topic-
prominent) đã dẫn một số điểm khác biệt cơ cấu từ vựng-ngữ pháp và
CTTĐ của câu như sau:
(i) Sự

khác biệt về cơ cấu từ ngữ trong thành phần ngữ pháp. Tiếng
Anh có động từ to be để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp (thời, thể, số);
Còn ở tiếng Việt, những phạm trù này được tri nhận qua ngữ cảnh hoặc
bằng các chỉ tố tình thái khác nhau. So sánh: “Bạc phơ
// mái tóc ông;
Rude // am
I (in my speech)”.

20
(ii) Sự khác biệt trong việc phân định cơ cấu Đề-Thuyết trong trật tự
đảo V-C. Trong tiếng Anh các thành tố tiền vị hóa (fronting) thường
được coi là được Đề hóa, còn ở tiếng Việt, Đề và Thuyết thường được
phân biệt bởi các tác tử phân giới thì, mà, là nên không có sự thay đổi
về vai trò giữa hai thành phần này.
Ví dụ so sánh: “Ngon nhất (T)//cá rán (Đ)” và “Especially
remarkable (Đ)// was her oval face (T) [Nổi bật nhất là gương mặt trái
xoan của nàng]”.
(iii) Không có sự hoàn toàn tương đương giữa câu nguồn và câu đích
trong đối dịch về trật tự các thành phần cú pháp; về số lượng từ ngữ
trong cấu trúc; về qui mô CTTĐ giữa câu nguồn và câu đích, đặc biệt ở
một số biến thể cú pháp có cấu trúc đảo.
4.2.2 So sánh các biến thể cú pháp có cấu trúc triển khai
4.2.2.1 Những đi
ểm tương đồng
Cấu trúc triển khai trong tiếng Việt và Anh về cơ bản tương đồng về
chức năng ngữ dụng, về hình thức biểu hiện và nội dung ngữ nghĩa.
CTTĐ ở các câu triển khai phần Đề luôn là CâuTĐ.
4.2.2.1 Những điểm khác biệt
Tiếng Việt không có hình thức cấu trúc it-cleft, ý nghĩa tương đương
với cấu trúc này của tiếng Anh trong tiếng Vi

ệt thường được biểu thị
bằng từ ngữ công cụ (chính, chính…mới, chính…mà, …).
Ngoài ra, do đặc thù của mình, tiếng Việt còn có kiểu triển khai
bằng những cấu trúc đề-thuyết nhỏ trong câu không tìm thấy trong
tiếng Anh.
Khi chuyển ngữ những câu có cấu trúc này, CTTĐ ở ngôn ngữ
nguồn là CâuTĐ, nhưng ở ngôn ngữ đích thì tùy trường hợp, qui mô
CTTĐ có thể trùng hoặc không trùng với ngôn ngữ nguồn.

4.3 So sánh phươ
ng thức từ vựng-ngữ nghĩa trong vai trò chỉ xuất
và đánh dấu TĐ
4.3.1 Những điểm tương đồng

21
4.3.1.1 Từ loại kết hợp
TNTT tiếng Việt và Anh có thể kết hợp với nhiều từ loại khác nhau:
danh từ, động từ, tính từ, trạng từ, … và có tầm ảnh hưởng không
những chỉ ở phạm vi một đơn vị từ riêng lẻ, mà có sức tác động rộng
hơn, tới phạm vi một ngữ đoạn, hay cả một cú đoạn
4.3.1.2 Chức năng đ
ánh dấu TĐ và biểu thị thông tin tình thái
TNTT có nhiệm vụ xác lập tính chủ đích hướng đến từng bộ phận cụ
thể của phát ngôn và thiết lập một cầu nối giữa nhận thức của người
nói với hiện thực có định hướng tới người nghe.
4.3.1.3 Tầm tác động đến tính chất TĐ và qui mô CTTĐ
Các TNTT không chỉ ảnh hưởng đến tính chất TĐ, chúng còn làm thay
đổi qui mô c
ủa CTTĐ. Tính chất thay đổi ở chỗ những đơn vị được
khu biệt bởi các chỉ tố công cụ được đánh dấu tương phản, trở thành

TĐTP, hoặc nếu là là TĐTTM thì có thêm tính tương phản. Tính chất
TĐ thay đổi dẫn tới qui mô CTTĐ cũng có thể thay đổi, ví dụ, từ chỗ là
VnTĐ trở thành CâuTĐ hoặc TĐBP.
4.3.2 Những điểm khác biệt
Những khác biệt của TNTT tiếng Việt và Anh thể hiện ở (i) số lượng
đơn vị từ ngữ không đồng đều, và (ii) có sự chênh lệch về năng lực
biểu hiện nghĩa.
4.3.2.1 Về số lượng đơn vị từ ngữ
Trong tiếng Anh, số lượng từ ngữ chuyên dụng thuần túy thực sự chỉ có
một vài đơn vị như just, even, only, also, too,
always,…, nhưng số lượng
từ loại là tính từ, trạng từ, liên từ, giới từ, đại từ, và cả trợ vị từ tình thái
v.v có chức năng tăng cường ngữ nghĩa lại khá nhiều, gần 70 đơn vị.
Ngược lại, trong tiếng Việt, trừ một số ít những từ có tính chất của thực
từ (tính từ) như khá, t
ương đối, tạm,…, thì số lượng TNTT được xếp vào
loại chuyên dụng mà luận án tạm thống kê được có đến gần 90 đơn vị.
4.3.2.2 Về năng lực biểu hiện nghĩa
Năng lực biểu hiện nghĩa thể hiện ở (i) khả năng một từ ở ngôn ngữ
này thể hiện được nhiều nét nghĩa khác nhau mà mỗi nét nghĩa được

22
thể hiện chỉ bởi một từ nhất định ở ngôn ngữ kia; (ii) khả năng thay thế
hình thức thể hiện này ở ngôn ngữ này bằng hình thức thể hiện khác
cho cùng một nghĩa ở ngôn ngữ kia.
a) Khả năng thể hiện nhiều nét nghĩa ở một số trợ từ tiếng Anh
Ở tiếng Anh, có thể do sự hạn định về số lượng từ công cụ
mà có một
số từ có khả năng biểu thị những nét nghĩa của các đơn vị TNTT khác
nhau của tiếng Việt. Do đó, tuy ít về số lượng nhưng TNTT tiếng Anh

có khả năng phủ nghĩa rộng. Những đơn vị từ có tính hoạt nghĩa cao
trong tiếng Anh là just, even, simply, ever, yet, single, any,
b) Việc thay thế hình thức thể hiện
Cũng do sự hạn định về số lượng t
ừ công cụ nên phương tiện chiếm ưu
thế trong thể hiện ý nghĩa tình thái và đánh dấu TĐ ở tiếng Anh là
những cấu trúc cú pháp đặc biệt. Trong khi đó nhiệm vụ này ở tiếng
Việt được thực hiện chủ yếu bằng từ công cụ. Chẳng hạn, trong khi
tiếng Việt dùng tổ hợp từ công cụ để thực hiện so sánh tịnh tiến, như
“…bao nhiêu…, càng… bấ
y nhiêu”; “càng…càng…”, thì tiếng Anh lại
dùng cú pháp đảo “the more+tính từ/trạng từ -C-V…, the more/les
+tính từ/trạng từ -C-V”, v.v.

4.4 So sánh phương thức ngữ điệu-trọng âm trong vai trò đánh
dấu TĐ
4.4.1 Những điểm tương đồng
Những điểm tương đồng về phương thức này thể hiện ở (i) chức năng
ngữ dụng, bao gồm nhóm gói thông tin, tiêu điểm hóa thông tin b
ằng
trọng âm cường điệu (nhấn mạnh và TP), và cung cấp thông tin hàm ẩn
qua ngữ điệu tình thái; và (ii) khả năng tác động làm thay đổi tính chất
của TĐ thông tin.
4.4.2 Những điểm khác biệt
Điểm khác biệt giữa ngữ điệu tiếng Việt và tiếng Anh chủ yếu nằm ở
hình thức.

23
(i) Nét điệu tiếng Việt bị chế định bởi thanh điệu của âm tiết (= tiếng)
do chức năng khu biệt nghĩa của 6 thanh. Do đó, khi hành chức, để bảo

toàn tối đa nghĩa của hình tiết (= một từ), nét điệu không thể lên xuống
tùy tiện, tự do. Trong khi đó, ngữ điệu tiếng Anh có thể thăng giáng ở
bất cứ điểm nào theo nhu cầu th
ể hiện thông tin mà không làm ảnh
hưởng đến nghĩa của từ.
(ii) Tiếng Việt và tiếng Anh đều có ngữ điệu đay. Tuy nhiên, nét điệu
đay ở tiếng Anh có tính nội vi, diễn ra trong nội bộ từ, trong khi đó ngữ
điệu đay ở tiếng Việt thiên về đặc tính ngoại vi, nó khởi đầu từ yếu tố
TĐ, lan tỏa đến các tiểu từ tình thái đi sau và chấm d
ứt ở đơn vị cuối
cùng.

KẾT LUẬN
Với những tư tưởng kế thừa từ các trường phái nghiên cứu về
CTTT khác nhau, tiếp thu và mở rộng lý thuyết về CTTT với mô hình
CTTĐ của của K.Lambrecht 1994, với sự quan sát và phân tích tỷ mỉ về
CTTĐ trong câu tiếng Việt, khảo sát và so sánh những phương tiện đánh
dấu TĐ trong câu tiếng Việt và tiếng Anh, luận án “Cấu trúc tiêu đ
iểm
trong câu tiếng Việt và tiếng Anh” đã có những đóng góp về mặt lý luận
và thực tiễn sau đây.

1. Về mặt lý luận, luận án đã có một cái nhìn mới, một kiến giải mở rộng
về tính chất mới của thông tin, với quan niệm: bất kể thông tin nào dù là
mới hay cũ, nếu là quan trọng thì đều mang tính TĐ, và một khi mang
tính TĐ thì nó là cái mới.
Từ những kiến giải khác nhau về vấn đề TĐ, luận án đã tổng kết,
khái quát những tham tố nh
ận diện TĐ thông tin và đưa ra một định
nghĩa mang tính lý luận có tính khả dụng về TĐ.

Đối với CTTĐ, luận án một mặt miêu tả tỷ mỷ CTTĐ ở dạng điển
thể và biến thể của câu tiếng Việt, mặt khác chỉ rõ sự giao thoa giữa các
quan hệ Chủ-Vị và Đề-Thuyết cũng như sự tương tác của các bình diện
ngôn ngữ
trong việc chỉ xuất và đánh dấu TĐ, khả năng ảnh hưởng cũng

24
như tác động của chúng đến tính chất và qui mô TĐ trong câu tiếng Việt
và tiếng Anh. Luận án đã thống kê và phân tích tác dụng đánh dấu TĐ
và cũng như khả năng biểu thị ý nghĩa tình thái của các đơn vị từ ngữ
tình thái của tiếng Việt và tiếng Anh. Luận án cũng đồng thời nêu rõ khả
năng phản ánh những sắc thái ngữ dụng khác nhau của trọng âm cường
điệu, hi
ện tượng hoạt biến của trọng âm TĐ (rơi vào những từ không tự
nghĩa), hiện tượng nội vi của ngữ điệu đay trong tiếng Việt và ngoại vi
trong tiếng Anh.
Từ những miêu tả và phân tích cụ thể trên từng ngôn ngữ, luận án
tiến hành đối chiếu tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt về hình
thức đánh dấu, về sự biến
động về tính chất và qui mô TĐ cùng hiệu quả
ngữ dụng của câu dưới tác động của các phương thức ngôn ngữ trong
những tình huống giao tiếp cụ thể ở hai ngôn ngữ đang xét. Kết quả so
sánh cho thấy, sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ chính là nguyên nhân
dẫn đến những chênh biệt về cơ cấu các thành phần cú pháp cũng như số
lượng từ ngữ trong những câu biểu đạt nh
ững ý nghĩa tương đương ở hai
ngôn ngữ, đồng thời chỉ ra khả năng thay thế nhau giữa các phương thức
ngôn ngữ trong đối dịch với mục đích bảo toàn ngữ nghĩa và thông tin
TĐ.
2. Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu về CTTT/ CTTĐ đã góp thêm cứ

liệu và đề xuất một hướng nghiên cứu mới trong Dụng học Việt ngữ
cũng nh
ư đóng góp một số vấn đề có tính liên ngành như giữa ngôn ngữ
học với tâm lý học, ngôn ngữ học với lý thuyết thông tin.
Ngoài ra, luận án còn đóng góp thiết thực cho các hoạt động thực
tiễn như báo chí, truyền thông, dịch thuật. Nó đặc biệt hữu ích cho việc
dạy và học ngoại ngữ, bởi nó chứng minh cho một nguyên tắc: học một
ngôn ngữ là phải biết dùng phương thức thích hợp nào c
ủa ngôn ngữ đó
để biểu đạt một nội dung tương ứng ở ngôn ngữ nước mình, và ngược
lại, một nội dung này của tiếng nước mình phải được biểu diễn như thế
nào ở thứ tiếng thứ hai.

×