Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

kỹ thuật hỏi vòng trong điều khiển truy nhập nhằm đảm bảo băng thông cho mạng quang thụ động ethernet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.71 KB, 30 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
đ






BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC

MẠNG BĂNG RỘNG

Đề tài:

KỸ THUẬT HỎI VÒNG TRONG ĐIỀU KHIỂN TRUY
NHẬP NHẰM ĐẢM BẢO BĂNG THÔNG CHO MẠNG
QUANG THỤ ĐỘNG ETHERNET


Cán bộ giảng dạy : TS Nguyễn Tài Hưng
Nhóm học viên : Mai Duy Khánh
Nguyễn Ngọc Hiển
Nguyễn Trung Đức
Lớp : KTTT1



Hà Nội 2/2012






2




KỸ THUẬT HỎI VÒNG TRONG ĐIỀU KHIỂN TRUY
NHẬP NHẰM ĐẢM BẢO BĂNG THÔNG CHO MẠNG
QUANG THỤ ĐỘNG ETHERNET




PHÂN CÔNG
Trang 1 – 9: Nguyễn Ngọc Hiển MSHV: CB110847
Trang 10 – 19: Mai Duy Khánh MSHV: CB100645
Trang 20 – 29: Nguyễn Trung Đức MSHV: CB110833






3




TÓM TẮT:
Trong khi mạng đường trục backbone đã có những thay đổi đáng kể về sự phát triển cũng
như công nghệ gần thập kỷ trở về đây , thì mạng truy nhập lại không thay đổi gì nhiều .
Hiện nay , mạng quang thụ động (PONs) đã sẵn sàng triển khai cho các mạng truy cập do
sự phát triển của một số công nghệ nhằm cho phép thực hiện điều đó với khoảng cách dài
và giảm chi phí bảo dưỡng .Trong số các công nghệ PON , công nghệ EPON hiện nay đã
được chuẩn hóa bởi IEEE 802.4ah EFM , nó được ưa chuộng bởi vì tốc độ cao , chi phí
thấp , thân thiện , tính tương thích và chi phí phụ thấp . Trong bài tiểu luận này , chúng
em tập trung nghiên cứu cơ chế hỏi vòng nhằm đảm bảo băng thông (BGP : Bandwidth
guaranteed polling) mà cho phép băng thông upstream được chia sẻ dựa trên SLA –
Service level agreement giữa các thuê bao và nhà cung cấp dịch vụ . BGP có thể cung cấp
đảm bảo băng thông cho các thuê bao premium dựa vào SLA cũng như cung cấp dịch vụ
tốt nhất cho các thuê bao khác .Kết quả phân tích và mô phỏng chứng minh rằng kỹ thuật
đưa ra là tốt nhất để làm so sánh với những kỹ thuật đã biết .
Với những khách hàng là doanh nghiệp yêu cầu dịch vụ chất lượng với đảm bảo băng
thông và những người sử dụng trong hộ gia đình yêu cầu chi phí thấp , chất lượng , kỹ
thuật BGP có thể mang lại lợi ích cho cả hai nhóm thuê bao cũng như các nhà khai thác.
I. LỜI GIỚI THIỆU
Trong khi mạng truy nhập đã trải qua những thay đổi nhỏ trong những năm gần đây ,
mạng đường trục đã được thay đổi đáng kể do sự xuất hiện của công nghệ ghép kênh
phân chia theo bước sóng (WDM) . Trong suốt khoảng thời gian này ,mạng cục bộ
(LAN) đã mở rộng từ tốc độ 10Mbps đến 100Mbps , và sau đó là 1Gbps . Thậm chí các
sản phẩm Ethernet 10Gbps đã bắt đầu xuất hiện .Kết quả là có một sự chênh lệch ngày
càng tăng giữa năng lực của mạng LAN và mạng đường trục với các mạng truy nhập tốc
độ thấp gây ra việc nghẽn cổ chai . Một nhu cấu cấp thiết được đặt ra đó là công nghệ để






4



phát triển dành cho mạng truy nhập phải là rẻ tiền , đơn giản , khả năng mở rộng và có
thể tích hợp thoại , data , dịch vụ tới các thuê bao . Mạng quang thụ động được nhận thấy
là một giải pháp cho mạng truy nhập.
APON là mạng quang điểm đến đa điểm sử dụng các thành phần quang thụ động như các
cách tử và bộ chia thụ động .PON có thể được sử dụng để triển khai sợi quang tới nhà hộ
gia đình (FTTH) , đến các tòa nhà (FTTB) hay tới các lề đường (FTTC) cho các thuê bao
sử dụng mạng truy nhập . PON có thể là một cấu trục liên kết cây với cây , cây với chi
nhánh công ty , vòng hoặc bus trong đó cấu trục cây là phỏ biến nhất . Việc truyền dẫn
được thực hiện giữa thiết bị đầu cuối kênh quang OLT và các phần tử mạng quang
ONUs. OLT được đặt tại phía khách hàng như các trung tâm văn phòng , kết nối mạng
truy nhập quang đến mạng đường trục. ONU có thể đặt tại các lề đường trên các cột điện
(FTTC ) hoặc FTTH , FTTB để cung cấp dịch vụ băng rộng tích hợp thoại , data và video
.Trong hướng downstream (từ OLT đến ONUs), lưu lượng đi từ điểm đến đa điểm .
Trong hướng upstream (từ ONUs đến OLT) , lưu lượng chỉ có thể đi từ nhiều điểm đến
điểm . Kiến trúc mạng PON đa số sử dụng bước song 1550nm cho lưu lượng downstream
và bước song 1310nm cho truyền upstream nhằm đặt chi phí tốt nhất.
Có hai giao thức phổ biến lớp datalink cho kiến trúc mạng PON, cụ thể là truyền dẫn
không đồng bộ (ATM) PON và Ethernet PON (EPON). APON được phát triển và được
chỉ định như mạng truy cập quang dựa trên PON mà sử dụng ATM là giao thức lớp 2 của
nó. Có một số đề nghị cho rằng APONs dùng để chia sẻ băng thông upstream.Tuy nhiên,
chi phí cao và sự phức tạp của APON mạng lại đã làm cho nó giảm sự quan tâm. EPON
mang lại khả năng đóng gói dữ liệu trong khung Ethernet và có tính tương thích ngược
với chuản IEEE 802.3 Ethernet cũng như có liên quan đến tiêu chuẩn IEEE 802 khác. Kể
từ khi Ethernet là một công nghệ rẻ tiền mà lại phổ biến và tương thích với một loạt các
thiết bị, nó sẽ trở thành một sự lựa chọn hoàn hảo của PON nhằm cung cấp các gói tin IP
và hỗ trợ hiệu quả truyền dẫn đa phương tiện. EPON không chỉ đơn giản là phương tiện

chia sẻ hoặc là mạng điểm đến điểm . Trong hướng downstream, khung Ethernet truyền





5



qua OLT thông qua bộ chia 1:N đến mỗi ONUs. Các gói tin quảng bá bởi OLT sẽ được
lọc bởi ONU đích của chúng dựa trên địa chỉ MAC. Trong hướng upstream, các gói tin từ
bất kỳ ONU có thể đến OLT, không phải ONUs .Như trong hướng upstream, các ONUs
phải chia sẻ đường trung kế này với nhau , một giao thức điều khiển môi trường truy cập
là cần thiết để ngăn chặn truyền dữ liệu từ vô số các ONUs tại cùng một thời điểm.
Ngoài ra có thể sử dụng công nghệ WDM cho nhiều ONU để cùng chia sẻ kênh upstream
.Bằng công nghẹ WDM , mỗi ONU có thể truyền ở một bước sóng xác định và không bị
giao thoa với các thiết bị truyền dẫn ONUs khác . Tuy nhiên , điều này lại yêu cầu mỗi
ONU phải sử dụng thiết bị truyền dẫn ổn định hoạt động ở nhiều bước sóng khác nhau
mà có thể giám sát , hoạt động và bảo trì những lỗi mà do những loại thiết bị phát khác
nhau đã được cài đặt và dự phòng . Hơn nữa , một bộ phát có thể điều chỉnh được hoặc
một mảng thiết bị phát có thể sử dụng cho mỗi ONU . Điều này không khả thi vì giá
thành cao của nó . Tương tự , một trong hai thiết bị thu có thể điều chỉnh được hoặc một
mảng bộ thu có thể được dùng cho OLT để nhận thông tin từ các ONUs khác nhau
nneeus mỗi ONU sử dụng bước sóng khác nhau cho truyền dẫn . Điều này làm cho công
nghệ WDM trở nên đắt đỏ.
Các giao thức đa truy nhập dò tìm sóng mang dựa trên sự tranh chấp quy ước thì khó
triển khai trong EPON vì ONUs không thể dễ dàng dò ra các xung đột ở đầu OLU do các
hướng thuộc tính của bộ chia tách quang . Mặc dù OLT có thể phát hiện một vụ xung đột
và có trách nhiệm thông báo bằng cách gửi một tín hiệu tranh chấp , độ trễ truyền dài

trong EPON sẽ giảm đáng kể hiệu quả của nó. Hơn nữa, băng thông phân bổ cho mỗi
ONU không thể được kiểm soát và đảm bảo và làm cho nó rất khó khăn cho bất kỳ loại
hình chất lượng dịch vụ (QoS) được hỗ trợ. Xem xét các yếu tố trên, một kế hoạch hoặc
kỹ thuật đa truy nhập phân chia theo thời gian (TDMA) trên bước sóng thông thường là
hấp dẫn hơn lưu lượng upstream. Không có tranh chấp băng thông đến mỗi ONU có thể
được phân bổ dựa trên nhu cầu thực tế hoặc dựa trên các SLAs. Hơn nữa, với TDMA, tất





6



cả các ONU sử dụng cùng một bước sóng và do đó phải cùng loại thu phát,mà làm cho
các thiết bị dễ dàng hơn và chi phí hiệu quả để thiết kế, sản xuất, vận hành và duy trì.
Với công nghệ TDMA, mỗi ONU được phân bổ cố định hoặc thay đổi kích thước cửa sổ
thời gian cho truyền tải một hoặc nhiều khung Ethernet. Mỗi ONU sử dụng một bộ đệm
nhận được từ người sử dụng cho đến khi chúng được truyền đi trong cửa sổ thời gian
được gán. Khi cửa sổ thời gian đến, ONU sẽ truyền khung ở tốc độ kênh. Có nhiều
phương án phân bổ cho các cửa sổ thời gian. Interleaved Polling với Adaptive Cycle
Time (IPACT)t-hời gian chu kỳ thích nghi được thiết kế để phân bổ băng thông động
EPON bởi vì nó giảm thiểu băng thông bằng cách sử dụng tin hỏi vòng theo thời gian mà
được chèn trên lưu lượng truy cập Ethernet downstream. Trong IPACT,OLT phân phối
cửa sổ thời gian có kích cỡ khác nhau phụ thuộc vào số lượng khung đệm tương ứng
ONUs, theo gói tin từ các ONU tương ứng bằng cách sử dụng gói tin điều khiển . Mỗi
ONU thực hiện các chính sách như nhau bằng nhận gói tin từ OLT. Nó là một OLT-
cơ chế phân xử truy cập môi trường tĩnh tập trung do đó,nó rất dễ dàng để thích nghi với
thay đổi lịch trình tại thời gian chạy dựa trên các điều kiện mạng thực tế. Ngoài ra, nó sẽ

đưa độ trễ truyền lớn của một EPON. IPACT là một phương án hấp dẫn bởi vì, thứ nhất,
không cần thiết đồng bộ hóa giữa các ONU và, thứ hai, gói tin hỏi vòng được xen lẫn với
khung truyền vì vậy mà chi phí tổng thể phát sinh từ các chậm trễ tuyên truyền được
giảm và hiệu quả cao hởn .Thật không may, IPACT không xem xét một thực tế
rằng ONU khác nhau có yêu cầu băng thông khác nhau do sự khác biệt trong các thỏa
thuận cấp độ dịch vụ thuê bao (SLAs). Thêm nữa . cơ chế phân bổ băng thông động của
IPACT cũng giới thiệu tính truyền loạt trong truyền lưu lượng từ mỗi ONU đến OLT.
Trong bài tiểu luận này, chúng em nghiên cứu cơ chế đảm bảo băng thông bằng kỹ thuật
hỏi vòng BGP sử dụng giao thức MAC cho EPON.BGP có thể được sử dụng để kiểm
soát việc chia sẻ dữ liệu upstream ,kết hợp SLAs thiết kế để đạt được đảm bảo băng
thông cho các thuê bao mà đăng ký một dịch vụ băng thông cao và muốn có một dịch vụ
với chi phí thấp hơn , chất lượng dịch vụ tốt nhất.





7



Phần còn lại của bài tiểu luận gồm :
Phần II: Kiến trúc mạng EPON và dịch vụ.
Phần III: Trình bày cơ chế BGP .
Phần IV: Đánh giá hoạt động của giao thức BGP
Phần V: Trình bày về kết quả nhận được từ các thí nghiệm mô phỏng và
phân tích tính toán.
Phần VI: Kết luận

II. MÔ HÌNH KIẾN TRÚC MẠNG EPON VÀ DỊCH VỤ

Trong bài tiểu luận này, chúng em xem xét một cấu trúc liên kết cây cho PON Trong kiến
trúc này, OLT chỉ kết nối với N (tối đa 64) ONU thông qua một bộ chia thụ động 1: N.
OLT được đặt trong văn phòng trung tâm , kết nối mạng truy nhập quang ATM, IP,
hoặc SONET đường trục. ONU được đặt trên toà nhà khách hàng trong các trường hợp
FTTH và FTTB để cung cấp dữ liệu,các dịch vụ thoại, và video cho người dùng cuối. Tất
cả các kênh truyền đi trong EPON được thực hiện giữa OLT và ONUs. Không có
lưu lượng trực tiếp truy cập giữa các ONUs. Hệ thống hoạt động điểm đến đa điểm theo
hướng downstream và đa điểm đến điểm theo hướng upstream. Trong hướng
downstream, các gói tin được quảng bá bởi OLT và đến đích ONU của chúng dựa trên
địa chỉ MAC. Hình 1 cho thấy lưu lượng downstream. Trong hướng upstream, môi
trường truyền dẫn được chia sẻ bởi N ONU và giao thức điều khiển truy cập (MAC) là
cần thiết để phân xử giữa các ONU mà có dữ liệu để truyền tải. Hình 2
minh họa cho việc truyền upstream.





8





ONUs trong mạng được chia thành 2 bộ riêng biệt. Một bộ bao gồm một lượng ONU
nhằm đảm bảo băng thông trong khi các ONU khác không đòi hỏi việc đảm bảo băng
thông dịch vụ. Trong việc thực hiện và triển khai, tòa nhà thuê bao mà hỗ trợ cả hai
loại hình dịch vụ có thể được phục vụ với cả hai loại ONUs,mà có thể chia thành hai
phần riêng biệt hoặc thực hiện như hai mảnh riêng biệt tương tự như mô-đun . Sau đó,
chỉ có một nhánh của PON cần phải được kết thúc ở tòa nhà thuê bao vì công suất tín

hiệu quang có thể được phân chia nội vùng bên trong thiết bị đấu nối cho hai mảnh ONU
trong cùng một thiết bị.





9



Hệ thống này được thiết kế để đảm bảo băng thông giữa thuê bao và nhà cung cấp dịch
vụ qua SLA . Trong phần kế tiếp, chúng em trình bày một giao thức MAC cung cấp cả
hai dịch vụ đảm bảo băng thông đến những người sử dụng có nhu cầu cao về băng thông
và dịch vụ chất lượng tốt nhất cho người sử dụng không yêu cầu nhiều về băng thông .

III. KỸ THUẬT HỎI VÒNG ĐỂ ĐẢM BẢO BĂNG THÔNG
Thách thức chính trong thiết kế một giao thức MAC để cung cấp dịch vụ đảm bảo băng
thông là làm thế nào để kết hợp một cách rõ ràng yêu cầu băng thông từ người sử dụng
vào việc thiết kế các cơ chế trong việc lịch trình để tất cả người dùng có thể chia sẻ
truyền dẫn.Như đã đề cập trong phần đầu tiên, hệ thống TDM là cách phổ biến nhấ để
chia sẻ liên kết truyền dẫn. Đi vào xem xét các đặc điểm khác nhau của EPON, kỹ thuật
hỏi vòng này có tiềm năng và lợi thế để tự động lịch trình lưu lượng upstream được tạo
ra bởi ONU .Do đó, sự kết hợp cả hai tương ứng với một hệ thống TDM với khả năng lập
kế hoạch mềm dẻo, những lợi thế của phương pháp này là hiển nhiên. Đầu tiên, khó khăn
trong vấn đề đồng bộ hóa là thiếu sót lớn của một đa hệ thống TDM đã được loại bỏ với
việc truyền tải với cơ chế truyền dẫn hỏi vòng. Thứ hai, thiếu linh hoạt và hiệu quả kém
của TDM được khắc phục với lập kế hoạch một cách mềm dẻo để phân bổ băng thông
cho ONU đòi hỏi nó tại bất kỳ điểm nào trong thời gian. Quan trọng nhất, SLAs và
yêu cầu băng thông tại mọi thời điểm của OUNs có thể được bằng sự kết hợp cơ chế lập

kế hoạch để đảm bảo rằng các SLAs được đáp ứng khi vượt quá băng thông có thể được
sử dụng.
Trong kỹ thuật BGP, OLT là bộ điều khiển trung tâm mà hỏi vòng ONUs bằng cách gửi
gói tin hỏi vòng có chu kỳ thường xuyên đến mỗi ONU để đồng ý truyền cửa sổ .Sau khi
nhận được gói tin hỏi vòng, ONU bắt đầu gửi dữ liệu đến OLT. ONUs được chia thành
hai nhóm: ONU đảm bảo băng thông và ONU không đảm bảo băng thông. Tổng băng
thông upstream được chia thành các đơn vị băng thông tương đương. OLT duy trì một





10



bảng Entry vào giữ trình tự các mục hỏi vòng. Mỗi mục sẽ sở hữu một trong những
đơn vị băng thông, hoặc sẽ được phân bổ cho một ONU đảm bảo băng thông hoặc được
tự động gán cho một ONU không đảm bảo băng thông. Có hai phần của mỗi Entry , Phần
đầu tiên của một mục lưu trữ các số ID của ONU, trong đó chiếm các mục nhập. Phần
thứ hai của một entry lưu giữ độ trễ truyền từ ONU đến OLT.Tổng số các mục trong
bảng là số lượng tối đa các đơn vị băng thông của đường upstream. OLT cũng duy trì một
danh sách ONU không đảm bảo băng thông mà xác định trình tự hỏi vòng của ONU
không đảm bảo băng thông .Danh sách các ONU không đảm bảo băng thông có cấu trúc
tương tự như bảng Entry. Mỗi phần tử của nó có hai phần. Phần đầu tiên của một phần tử
giữ số lượng ID ONU không đảm bảo băng thông. Phần thứ hai giữ độ trễ truyền của các
ONU đến OLT. Tổng số các số lượng thành phần trong danh mục là không cố định.
Mỗi ONU đảm bảo băng thông có thể được phân phối một hoặc đơn vị băng thông
(entries) theo SLA trên yêu cầu băng thông của họ. ONU đảm bảo băng thông với
nhiều mục hơn sẽ mất nhiều băng thông hướng upstream.Và chúng sẽ được hỏi vòng

nhiều hơn một đơn vị thời gian bằng OLT trong một chu kỳ hỏi vòng .Nếu một ONU
đảm bảo băng thông chiếm nhiều hơn một mục, chúng sẽ được phân bố đều giữa tất cả
cácmục trong bảng Entry bằng một số thuật toán. Dịch vụ chất lượng tốt nhất mà không
đảm bảo băng thông sẽ được cung cấp đến ONU không đảm bảo băng thông . Entry mà
không bị chiếm đóng bởi ONU đảm bảo băng thông có thể được giao cho ONU
không đảm bảo băng thông một cách tự động. OLT hỏi vòng ONU không đảm bảo băng
thông trong các entry có sẵn theo thứ tự trình bày trong List . Ngoài ra,cửa sổ truyền tải
không cần thiết trong một mục nào đó không bị chiếm giữ bởi ONU có thể được gắn cho
ONU không đảm bảo băng thông một cách tự động. Trong trường hợp này, có một
ngưỡng xác định trước để xác định xem có sử dụng cửa sổ truyền tải không cần thiết hay
không . Nếu cửa sổ truyền tải chiếm giữ bởi một ONU thấp hơn ngưỡng, có thể được sử
dụng để hỏi vòng ONU, nếu không, nó sẽ bị từ chối . Kích thước cửa sổ truyền tải tối đa
các gói dữ liệu cho mỗi mục là một tham số hệ thống tham số và có thể được điều chỉnh
theo môi trường mạng.





11



OLT hỏi vòng ONU lần lượt theo thứ tự của các chuỗi mục trong Bảng Entry bởi một
con trỏ chỉ ra entry hiện tại. Nếu một mục trong bảng Entry không được phân bổ đến
ONU đảm bảo băng thông, nó có thể được sử dụng để hỏi vòng đến ONU không bảo
đảm băng thông bằng một con trỏ khác như ONU được dùng hiện tại trong danh sách
không đảm bảo của ONU. Nếu một cổng trong bảng được sắp xếp là ONU đảm bảo băng
thông hoặc được sử dụng để kiểm tra vòng một ONU không đảm bảo, có 1 cửa sổ truyền
tin không cần thiết bỏ đi, nó có thể được sử dụng để kiểm tra vòng một ONU không đảm

bảo khác. Sơ đồ BGP có 2 phần: Phần 1 là thuật toán định thời để đưa ra sơ đồ kiểm tra
vòng. Phần 2 là thuật toán phân bố đều (EDA) để phân đều nhiều cổng của cùng ONU
đảm bảo giữa tất cả các cổng có trong bảng.
A. Định thời BGP
1. Lúc đầu OLT khởi tạo bảng danh sách của ONU đảm bảo và không đảm bảo theo
SLA theo yêu cầu băng thông trong mạng và những thông số hệ thống như là độ trễ
đường truyền ONU riêng lẻ và kích thước truyền tối đa Wmax, Trong quá trình khởi
tạo, EDA cũng được sử dụng để phân bố đều nhiều cổng ONU đảm bảo trong bảng.
2. OLT bắt đầu kiểm tra vòng ONU đảm bảo theo thứ tự đã được xác định trong bảng
danh sách, hoặc kiểm tra ONU không đảm bảo theo dãy của danh sách, bằng cách gửi
thông điệp Grant với kích thước của sổ thích hợp G thông qua kênh xuôi dòng.
3. Trong quá trình nhận thông điệp Grant, ONU (cả đảm bảo và không) sẽ:
1) Nhận kích thước giả định window G;
Lấy độ dài buffer L (số gói tin đợi trong buffer);
2) Quyết định số gói tin truyền:
Nếu L nhỏ hơn G, ONU có thể gửi tất cả gói tin trong buffer;
Nếu L lớn hơn G, ONU chỉ có thể gửi tối đã gói tin G;
3) Gửi thông điệp hồi đáp tới OLT để cho biết số gói tin trong sự truyền B;
4) Gửi dữ liệu trong buffer của số lượng B
4. OLT tiếp tục nhận gói tin truyền từ ONU. Trong lúc nhận thông điệp hồi đáp từ ONU,
OLT sẽ:





12




1) Đầu tiên là lấy kích thước window G và so sánh với Wmax;
2) Nếu G bằng Wmax, thông điệp hồi đáp đang tới từ ONU được gán trong toàn
cổng. Lấy số gói tin trong truyền dẫn B.
Nếu B = 0. Lập tức kiểm tra cổng tiếp theo.
Nếu B lớn hơn 0 và nhỏ hơn ngưỡng, windows thừa trong mục có thể
được sử dụng kiểm tra một ONU không đảm bảo, gửi một thông điệp
Grant với kích thước window G=(Wmax – B) tới ONU không đảm bảo
kế tiếp trong danh sách.
Nếu B nằm giữa ngưỡng và Wmax, bỏ window thừa trong mục này,
kiểm tra mục tiếp theo trong bảng sau khi entry này đi qua.
3) Nếu G nhỏ hơn Wmax, thông điệp hồi đáp đến từ ONU không đảm bảo được
gán cho window thừa trong một entry mà không được dùng đầy đủ bằng một
ONU, lập tức kiểm tra entry kế tiếp trong bảng.
Trong quá trình định thời BGP, độ trễ của thông điệp kiểm tra (Grant) tới ONU kế tiếp có
thể được chèn với dữ liệu hiện tại trừ số gói tin trong quá trình truyền B bằng 0 hoặc gần
như bằng 0. Quá trình chèn có thể được thi hành nếu OLT có thể gửi thông điệp Grant tại
thời điểm thích hợp vì vậy thông điệp có thể đến ONU đích để hoạt hóa dữ liệu của nó
trong chu kỳ thời gian của truyền dữ liệu hiện tại. Bằng việc chèn này, độ trễ trung bình
tổng của gói tin có thể được giảm thiểu.
B. Thuật toán phân bố đều (EDA)
1. Lấp đầy bảng Entry bắt đầu từ ONU đảm bảo với entry lớn nhất tới một với entry nhỏ
nhất.
2. Mỗi ONU
i
đảm bảo với K
i
entry được xác định:
1) Số entry đầu tiên Ei[1] = i. Nếu entry I bị chiếm bới ONU khác, kiểm tra entry kế
cận Ei[1]= i ± n, n=1,2,3,…đến khi entry gần nhất không bị chiếm bới ONU đảm
bảo nào khác, thì lấp entry này với ONU ID i.






13



2) Entry khác Ei[j](j=2,3,…Ki): entry j
th
của ONU đảm bảo này có thể là
Ei[j]=mod((Ei[1]+int((j-1)*K/Ki)), K), với K llaf tổng số entry của bảng. Nếu j
th

bị chiếm bằng ONU khác, kiểm tra entry lân cận Ei[j]=mod((Ei[1]+int((j-
1)*K/Ki)±n), K), n=1,2,3,… tới khi entry gần nhất không bị chiếm bới ONU đảm
bảo khác, lấp entry này với ONU ID i.
3. Tất cả entry không bị chiếm với ONU đảm bảo sẽ được gán cho ONU không đảm bảo
năng động.
Theo EDA, tất cả entry của cùng ONU đảm bảo được phân chia cách đều trong bảng
entry, do đó băng thông của ONU này có thể được phân bố đều trên kênh xuôi khi chúng
được kiểm tra dựa trên bảng entry. Điều này có lợi thế ONU đảm bảo với lưu thông cao
trong khi những gói tin trong buffer có thể được cho phép truyền sau những khoảng bằng
nhau. Do đó sẽ không đột ngột (vì được định thời) trong truyền dữ liệu.
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
Trong phần này ta sẽ đánh giá sự hiệu quả của giao thức MAC đã đề xuất bằng thiết lập
một mô hình toán học đơn giản. Thước đo chính của đánh giá này là độ trễ trung bình của
gói dữ liệu từ lúc nó qua một ONU tới lúc nó đến OLT.
Độ trễ trung bình từ điểm này tới điểm khác rõ ràng gồm 3 phần: trễ trong truy nhập, trễ

transmission, và trễ propagation. Trễ trong truy nhập là thời gian gói tin tới một ONU tới
lúc nó bắt đầu truyền qua kênh ngược dòng. Trễ truy nhập A của 1 gói tin có thể được
chia làm 2 phần: A=W1+W2, trong đó W1 là độ trễ chờ đợi trong khi ONU khác đang
được kiểm tra, ONU chứa gói tin này không chạy và đợi tới lượt nó được kiểm tra; W2 là
độ trễ khi ONU được kiểm tra và sự truyền gói tin sớm hơn trong buffer. Trễ
transmission của gói tin là khoảng thời gian ONU gửi ra toàn bộ khung. Trễ propagation
là khoảng thời gian gói tin đi từ ONU tới OLT trong kênh ngược dòng. Dựa vào lý do
trên, chúng ta có thể biểu thức hóa độ trễ trung bình của thông điệp là:





14



E(D) = E(A)+ t +τ . (1)
Với E(A) = E(W1) + E(W2) (2)
t là thời gian tranmission trung bình của gói tin, τ là trễ propagation chi mỗi ONU tới
OLT
Theo thứ tự đánh giá thời gian đợi trung bình trong một hệ thống kiểm soát vòng, chúng
ta cân nhắc khoảng thời gian khác tc, là khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành một
vòng kiểm soát trên tất cả ONU trong mạng.
Thời gian quét tc bằng thời gian đi L, tong thời gian trễ truyền thông điệp kiểm soát, cộng
với tổng thời gian truyền dữ liệu t. Trong sơ đồ BGP, một lượt kiểm tra toàn bộ sẽ kiểm
tra cả ONU đảm bảo và không đảm bảo được đưa ra trong tất cả entry của bảng. Thời
gian truyền dữ liệu trong mỗi entry bằng thời gian truyền trung bình cho một gói tin tính
thời gian window truyền lớn nhất. Để kiểm tra tất cả entry trong bảng, nó sẽ mất thwoif
gian t cho chuyển tất cả gói tin.

Ta có t = N*Wmax*t
-
với N là tổng entry trong bảng, Wmax là kích thước window
truyền lớn nhất, t
-
là thời gian truyền trung bình cho mỗi gói tin. Thời gian đi trong một
lần kiểm soát bằng tổng thời gian truyền thông điệp kiểm soát, thời gian Propagation khứ
hồi và thời gian đồng bộ hóa. Chúng ta cân xem xét thời gian đồng bộ hóa và thời gian
truyền thông điệp kiểm soát có thể được loại bỏ, Thời gian đi có thể được chia thành:
L=Lup+Ldown, với Lup là thời gian đi ngược dòng, thời gian propagation cho một gói
tin được truyền từ ONU tời OLT, Ldown là thời gian xuôi dòng, thời gian cho một thông
điệp Grant đi từ OLT về ONU. Một entry có thể được sử dụng kiểm tra một hoặc 2 ONU,
Lup sẽ nằm trong khoảng N *τ
-
tới 2N*τ
-
, với τ
-
là độ trễ từ ONU tới OLT, trong lượt
truyền tới toàn mạng, ρ và ngưỡng của window truyền T. Thời gian truyền thông điệp
kiểm tra có thề được loại bỏ khi ONU trước đó gửi gói tin với window truyền đầy đủ. Đặt
P là số entry có thể được kiểm tra trong ONU thứ 2, một giá trị ngãy nhiên khác trong





15




lượt ρ. Sau đó Lup=N*τ+P*τ, Ldown=2P*τ. Thời gian đi trung bình sẽ là
Lup=N*τ+3P*τ ,thời gian quét trung bình sẽ là:
Tc = L + t = N*τ+3P*τ + N*Wmax*t
-
(3)
Để xác định giá trị của P, khái niệm của tải truyền hiệu dụng được đưa ra như sau. Dung
lượng kênh đầy đủ µ được chia thành N đơn vị dung lượng trong mô hình BGP, mỗi
ONU được gán dung lượng đơn vị khác nhau tùy theo số entry mà nó chiếm, tỷ số service
hiệu dụng cho mối ONU được thể hiện là nµ/N , với n là số entry được phân bố trong
ONU này, Một tải truyền hiệu dụng của ONU được tính theo:

Với M là tổng số ONU trong mạng, P được biểu diễn là

Với m
n
là số ONU đảm bảo băng thông có n entry, p
n
là khả năng một entry có thể được
sử dụng kiểm tra 2 ONU với

Ρs là tải truyền bão hòa được định nghĩa như điểm của tải truyền hiệu dụng khi ONU xác
định bắt đầu mất gói tin trong buffer hạn chế của nó, được xác định bằng tổng tải ρ và
ngưỡng của windows truyền T. Giả sử p
n
là phân bố đều với giá trị α, 0 ≤ α ≤ 1, giá trị
trung bình của P:







16



Với giá trị trung bình của p
n
là 0.5 khi ρe < ρs, thời gian quét trung bình tc có thể tìm
được độ trễ chờ đợi trung bình của ONU được kiểm soát E(W
1
). Ta tìm được ONU đảm
bảo và không đảm bảo như sau.
Trong suốt thời gian quét tc số gói tin tới mỗi ONU là λ*tc, một ONU đảm bảo với n
entry nếu λ*tc< n*Wmax. Ta xem như nó có thể gửi tất cả gói tin đợi khi nó được kiểm
tra. Vì ONU được kiểm tra mỗi (tc/n) thời gian. Những gói tin đến trong suốt khoảng thời
gian là λc *t/n. Thời gian trễ trung bình cho tất những gói tin là: t*λ
i
*t
c
/n = ρ
i
* t
c
/n. Phần
còn lại của vòng kiểm tra trung bình (tc/n) trong lúc ONU không chạy là (1- ρ
i
)* t
c

/n. Nó
cũng là thời gian chờ đợi trung bình cho ONU này được kiểm định. Trong tiến trình đều
đặn, độ trễ chờ đợi trung bình của gói là:
E(W1) = ½ (1- ρ
i
)* t
c
/n. (4)
Nếu λ*tc > n*Wmax, khi đó ONU chỉ có thể gửi gói tin tới Wmax khí nó đã được kiểm
tra. Thời gian truyền trung bình của những gói tin này là Wmax*t. Thời gian trung bình
ONU này chờ để kiểm tra là tc/n-Wmax*t. Trong tiến trình đều đặn, độ trễ chờ đợi trung
bình của gói là:
E(W1) = ½ (tc/n-Wmax*t) (5)
Khi có m
n
ONU đảm bảo chiếm n entry, m
t
ONU không đảm bảo chỉ có thể được gán
tổng entry OLT. Thêm vào đó window truyền thừa trong một entry
không được dùng đầy đủ bởi một ONU đảm bảo có thể được gán là ONU không đảm bảo
tích cực. Như đã đề cập trước đó, có P window thừa trung bình cho những ONU không
đảm bảo. Vì vậy số entry trung bình mà một ONU không đảm bảo được gán có thể xấp xỉ
bằng t.






17




Kích thước window truyền cho một entry là Wmax, khi window truyền thừa có kích
thước ngẫu nhiên (nhỏ hơn Wmax) tới ONU dùng đầu tiên. Nếu những gói tin tới một
ONU đảm bảo với n entry trong (tc/n) thời gian ít hơn ngưỡng T, khi đó window thừa
(Wmax – λ
i
*tc/n) có thể được sử dụng kiểm tra một ONU không đảm bảo. ONU đầu tiên
có thể nhận khích thước window tới ngưỡng T, giá trị kích thước window trung bình cho
ONU đầu tiên là T/2, kích thước window thừa trung bình cho ONU không đảm bảo là
(Wmax-T/2). Tất cả kích thước window ONU không đảm bảo là:

Kích thước window trung bình cho ONU không đảm bảo là:

Để xác định một ONU không đảm bảo, nếu λ*tc < n*Wnon, khi đó chúng ta có thể coi
như ONU này sẽ nhận tất cả gói tin đợi của nó khi được kiểm tra. Vì ONU này được
kiểm tra mỗi (tc/n) giây, những gói tin nhận được trong khoảng thời gian này là λc *t/n.
Thời gian truyền tủng bình cho tất cả gói tin này là t*λ
i
*t
c
/n = ρ
i
* t
c
/n. Khi đó thời gian
cần của vòng kiểm định trung bình là (tc/n). trong khi ONU này rảnh, là (1- ρ
i
)* t

c
/n. Nó
cũng là thời gian trung bình ONU đợi cho 1 lần kiểm tra. Thời gian đợi trung bình của
gói tin là:






18



Nếu λ*tc > n*Wnon, ONU chỉ có thể gửi được Wnon/n gói tin khi nó được kiểm tra. Thời
gian truyền trung bình cho những gói tin này là tc/n-Wmax*t. Độ trễ thời gian chờ trung
là:

Chúng ta có thể đánh giá E(W
2
) của tất cả loại ONU theo tải truyền khác nhau. Ta chú ý
rằng mỗi ONU có thể trải qua 3 giai đoạn truyền tải: tải truyền nhẹ, trung bình, và nặng,
mỗi giai đoạn liện quan tới dung lượng truyền hiệu dụng của ONU. Những loại ONU
khác nhau có thể có những giá trị khác nhau cho tải nhẹ, nặng, và trung bình.
Khi tải truyền ρ thấp, nghĩa là λ*tc<n*Wmax cho những ONU đảm bảo hoặc λ*tc<Wnon
cho những ONU không đảm bảo. Toàn bộ hệ thống có thể xấp xỉ nhiều M/G/l truy vấn,
tương ứng với mỗi loại của ONU. Ta định nghĩa ρ'=(m
n
/M)ρ như tải truyền cho mỗi loại
của ONU. Khi đó độ trễ trung bình cho ONU (bất chấp ONU đảm bảo hay không) có thể

được thể hiện theo giả thiết tất cả dữ liệu mới tới có thể được truyền suốt cùng 1 vòng
kiểm soát chúng tới:

Khi tải ρ tăng, λ*tc của ONU đảm bảo tiến tới nWmax. ONU đảm bảo trải qua 1 tải
truyền trung bình. Giờ ta giả sử λ*tc>n*Wmax với w (khoảng 95%) là trọng số của dung
lượng truyền hiệu dụng, và không có gói tin nào thất thoát cho ONU đảm bảo. Khi dữ
liệu mới tới không thể gửi đi suốt cùng vòng kiểm soát mà chúng tới, ta giả sử chúng
được phát sau chu kì k của vòng, trong đó k là biến ngẫu nhiên và k- là giá trị trung bình.
E(W2) là ONU bandwidth-guranteed và được mô tả như sau:





19



(11)
Nếu chúng ta giả sử n- là số đầu vào của ONU không đảm bảo băng thông chiếm giữ, sau
đó sẽ phân tích tương tự đối với số đầu vào của ONUs bandwidth-guranteed. Đối với của
ONU không đảm bảo băng thông, khi chúng sẽ chịu tải lưu lượng trung bình.
Và E (W2) của ONU không đảm bảo băng thông được mô tả như sau:
(12)
Khi tải cao có nghĩa là . Đối với của ONUs bandwidth-guranteed, sẽ dẫn
đến mất dữ liệu từ một số ONU do bộ đệm của ONU bị tràn.Giả sử B là kích thước bộ
đệm ONU, dữ liệu mới tới sẽ được gửi sau khi đợi một số chu kì nào đó để phát dữ liệu
trước đấy. Chính vì vậy độ trễ hàng đợi trung bình của ONU bandwidth-guranteed được
mô tả như sau:
(13)

Đối với ONU không đảm bảo băng thông có tải lưu lượng cao, , cũng sẽ dẫn
đến mất dữ liệu từ các ONU. Độ trễ hàng đợi cho ONU không đảm bảo băng thông được
mô tả như sau:
(14)
E(W1) trong công thức (2) có thể được thay thể bởi công thức (4) hoặc (5) cho của ONU
bandwidth-guranteed và sử dụng công thức (8) hoặc (9) khi có liên quan đến ONU không
đảm bảo băng thông. E(W2) trong công thức (2) có thể được thay thế bởi công thức
(10).Sử dụng công thức (11), (13) khi có liên quan đến ONU bandwidth-guranteed và





20



công thức (10), (12) hoặc (14) khi có liên quan đến ONU không đảm bảo băng thông.
Khi đã biết E(W1) và E(W2) thì ta dễ dàng tính được E(A).Với các tham số mạng từ
công thức (1) ta có thể tính được E(D).
Trong phần này, để tính được hiệu năng của giao thức MAC, chúng ta mô tả và so sánh
các kết quả có được từ những thí nghiệm mô phỏng và tính toán các phân tích. Các thử
nghiệm mô phỏng độc lập đã chỉ ra rằng các tham số hệ thống gần với thực tế. chúng ta
mô tả mô hình thử nghiệm và kết quả ở phần dưới.Tính toán được thực hiện với cùng một
kịch bản và các tham số mạng giống nhau như trong thí nghiệm mô phỏng ở chương
trước.
A – Mô hình thử nghiệm
Trong thử nghiệm, chúng ta thiết kế mô hình mô phỏng dựa trên kiến trúc EPON thực tế
và các tham số hệ thống.
Chúng ta xây dựng mô hình hê thống như trong hình 1 và 2. Tổng số ONU trong EPON

là 64. 64 EPON được phân chia thành 2 nhóm: Có 20 ONU đảm bảo băng thông và 44
ONU không đảm bảo băng thông. ID của các ONU tương ứng theo thứ tự.
ONU1~ONU20 là đảm bảo băng thông và ONU21~ONU64 là non-đảm bảo băng thông.
Giả sử đối với các ONU bandwidth-guranteed, ONU5 có 20 đầu vào, ONU8, ONU12,
ONU17 có 10 đầu vào, ONU1,3,6,10,15,18 có 4 đầu vào, 10 ONU còn lại chỉ có 1 đầu
vào; như vậy các ONU bandwidth-guranteed chiếm 84 đầu vào.16 đầu vào còn lại có thể
được phân bổ tới ONU không đảm bảo băng thông. Bảng đầu vào được điền đầy bởi
thuật toán EDA. Theo EDA, chúng ta sẽ phân bổ các đầu vào tới ONU5 ( có số đầu vào
lớn nhất). Sau đó ONU8,12,17 được phân bổ, tiếp theo là ONU1,3,6,10,15,18 được phân
bổ. Xét 1 ví dụ của ONU8, đầu vào đầu tiên ONU8 là đầu vào số 8 ( Số ID của ONU )
dựa trên EDA. Nếu ONU8 chiếm giữ 10 đầu vào trong tổng số 100 đầu vào, khoảng cách
giữa 2 đầu vào bên cạnh của ONU9 sẽ là 100/10=10. Các đầu vào của ONU8 là đầu vào
thứ 18,28,38,48,58….98. Kết quả cuối cùng của việc phân bổ đầu vào như ở bảng 1.





21




Theo IEEE 802.3, khung Ethernet biến đổi từ 64byte đến 1518 byte. Trong mô hình này,
gói tin có kích thước không đổi 500byte (4000bit). Mỗi ONU có nguồn phát các gói tin
kích thước không đổi của riêng nó, với khoảng cách giữa các thời điểm tới của gói tin
được phân bổ theo số mũ, khoảng cách từ 0.256ms tới 2.56ms sẽ tạo tổng lưu lượng của
mạng đầu vào thay đổi tương ứng từ 0.1 tới 1.0.
Trong mô hình mô phỏng, OLT sẽ phát ra các bản tin Grant tới các ONU với kích thước
window chấp nhận được. Các ONU gửi lại các bản tin Reply để thông báo OLT về số gói

tin truyền. Định dạng bản tin Grant bao gồm ID ONU và kích thước window, bản tin
Reply bao gồm ID của nó, số gói tin truyền và kích thước window. ID ONU chiếm 1
byte. Kích thước window và số gói tin truyền đi cần 2 byte tương ứng. Mỗi ONU có độ
trễ lan truyền quay vòng từ OLT tới ONU. Độ trễ lan truyền quay vòng cho mỗi ONU
được giả sử là ngẫu nhiên với khoảng từ 50micro giây đến 100 micro giây. Các giá trị
tương ứng với khoảng cách giữa OLT và ONU ( 10-20km)
Chúng ta xét tốc độ truyền dẫn của EPON là 1Gb/s, tốc độ đường truyền uplink được
phân chia thành 100 đơn vị băng thông, mỗi đơn vị là 10Mb/s. Kích thước window tối đa
là Wmax được thiết lập từ 15000byte hoặc 30 gói tin. Ngưỡng T được thiết lập bằng
2/3Wmax, tương đương với 20 gói tin. Kích thước bộ đệm của mỗi ONU từ 10Mbyte
hoặc 2000 gói tin.





22



B – Kết quả mô phỏng
Trong phần này, chúng ta sẽ mô tả và giải thích các kết quả mô phỏng. Ngoài ra còn biết
được hiệu suất của các loại ONU trong BGP, IPACT và so sánh. Thiết kế mô phỏng cho
mô hình IPACT giống với BGP, không có sự khác nhau về yêu cầu băng thông từ các
ONU.
Hình 3 thể hiện mối quan hệ giữa độ trễ gói tin trung bình đối với các ONU khác nhau
và tải toàn mạng. đảm bảo băng thông ONU chiếm giữ càng nhiều thì độ trễ trung bình
càng nhỏ. Độ trễ trung bình đối với các bandwidth-uaranteed ONU từ 10 đến 20 đầu vào
được giữ ở giá trị thấp nhất. Độ trễ gần như không thay đổi mặc dù tăng tải lưu lượng.
đường biểu diễn độ trễ trung bình của các bandwidth-uaranteed ONU với 4 đầu vào gần

như không thay đổi khi tải nhỏ hơn 0.8 sau khi nó dịch tới điểm cân bằng thì tải là 1.0.
Đường cong tăng lên từ lúc tải mạng là 0.1. Nó tăng nhanh khi tải mạng cao. Độ trễ cho
các ONU không đảm bảo băng thông lớn hơn độ trễ của các ONU đảm bảo băng thông
khi có nhiều đầu vào. Khi có 1 đầu vào thì ngược lại.

Đường cong có xu hướng tăng dần đều tới đường cong của các ONU đảm bảo băng thông
khi có 1 đầu vào và 2 đường cong sẽ hội tụ tại giá trị. Độ trễ trung bình của ONU trong
IPACT giống với độ trễ trung bình của các ONU không đảm bảo băng thông trong BGP





23



khi tải mạng thấp hơn 0.2. Tuy nhiên, nó sẽ tăng chậm lại trước khi tải 0.6, sau khi nó đã
tăng nhanh. Độ trễ trung bình đạt tới điểm cân bằng sau khi tải là 0.7.
Hình 4 thể hiện mối quan hệ giữa thông lượng của các loại ONU khác nhau và tải toàn
mạng. Tất cả các thông lượng tăng khi tải lưu lượng toàn mạng tăng. Trong BGP, số
ONU không đảm bảo băng thông lớn hơn số ONU đảm bảo băng thông thì thông lượng
của nhóm cũ sẽ trội hơn thông lượng của nhóm mới hơn khi lưu lượng nhỏ. Khi tải lưu
lượng mạng tăng, thông lượng của nhóm mới hơn sẽ vư ợt thông lượng của nhóm cũ tại
tải lưu lượng bằng 1.0. Thông lượng của các ONU trong IPACT rất giống với thông
lượng của các ONU trong BGP khi tải lưu lượng thấp. Sau khi tải lưu lượng đến 0.2, nó
tăng tương đối nhanh hơn thông lượng của các ONU trong BGP.
Hình 5 thể hiện mối quan hệ giữa chiều dài hang đợi của các ONU và tải toàn mạng.
Trong BGP, ONU đảm bảo băng thông chiếm giữ càng nhiều đầu vào , chiều dài hàng
đợi trong bộ đệm càng ngắn. Chiều dài hàng đợi của các ONU đảm bảo băng thông với

10-20 đầu vào được giữ ở giá trị nhỏ nhất. Chúng tăng chậm khi tải lưu lượng mạng tăng.
Đường đồ thị chiều dài hàng đợi cho các ONU đảm bảo băng thông với 4 đầu vào tăng
chậm khi tải lưu lượng mạng nhỏ hơn 0.8. Có sự gia tăng lơn hơn khi tải lưu lượng 0.9.
Sau đó nó đạt tới ngưỡng của bộ đệm 20000 packet khi tải vượt 1.0. Khi lưu lượng nhỏ,
các ONU không đảm bảo băng thông có chiều dài hàng đợi nhỏ hơn ONU đảm bảo băng
thông nếu có 1 đầu vào








24




Hình 4 Thông lượng của các ONU khác nhau
Đầu vào .Sau khi tải mạng load 0,4, nó bắt đó sau một. Cuối cùng, hàng đợi của cả hai
loại ONU này hạn chế chiều dài của 20000 gói tin. Trong số tất cả các loại ONU này,
băng thông bảo vệ ONU này với một đầu vào là đầu vào đầu tiên để hướng tới kích cỡ bộ
đệm hướng lên, khi tải là chỉ có 0.3.
Các đường cong của chiều dài hàng đợi của ONU này trong chương trình IPACT rất
tương tự như các ONU không bảo vệ băng tần trong chương trình BGP khi tải mạng là
thấp hơn 0,2. Nó tăng từ từ trước khi tải 0,6. Sau đó nó nhanh chóng trèo lên đến bộ đệm
giới hạn của 20.000 gói tại tải 0,7.






25




Hình 5 Độ dài trung bình của các ONU khác nhau
Hình 6 cho thấy mối quan hệ giữa tỉ lệ mất trung bình các loại ONU và tải toàn bộ mạng
khác nhau. Trong Đề án BGP, băng thông đảm bảo ONU này với 20 và 10 đầu vào không
có mất mát dữ liệu bất chấp sự gia tăng của tải mạng. Băng thông đảm bảo ONU này với
4 mục đầu vào mất dữ liệu sau khi tải mạng vượt quá 0,9. Và nó tăng lên liên tục. Băng
thông bảo đảm ONU này với chỉ có một đầu vào bắt đầu rớt gói sau khi tải 0,2,
sớm hơn so với băng thông không bảo đảm ONU, mà mất bắt đầu xảy ra tại tải 0,3. Tỷ lệ
tổn thất trung bình của băng thông không bảo đảm ONU ít hơn so với băng thông bảo
đảm ONU này với một đầu vào. Nhưng nó dần dần cách tiếp cận với những cái sau này.
Hai tỷ lệ mất gần như trở thành giá trị cùng một lúc tải là 1,1.
Những ONU này, trong Đề án IPACT, không có mất mát dữ liệu trước khi tải mạng là
0,6. Sau đó, chúng bắt đầu rớt dữ liệu. Tốc độ lỗi tiếp tục tăng lien tục và nằm giữa
đường cong của các ONU bảo đảm băng thông với 4 đầu vào và băng thông không bảo
đảm ONU trong chương trình BGP.

×