Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Thơ ca dân tộc Hmông từ truyền thống đến hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 183 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN



NGUYỄN KIẾN THỌ



THƠ CA DÂN TỘC HMÔNG - TỪ TRUYỀN THỐNG
ĐẾN HIỆN ĐẠI





LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN










THÁI NGUYÊN, NĂM 2012


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN



NGUYỄN KIẾN THỌ



THƠ CA DÂN TỘC HMÔNG - TỪ TRUYỀN THỐNG
ĐẾN HIỆN ĐẠI



CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung






THÁI NGUYÊN, 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN


Nguyễn Kiến Thọ
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ i
Lời cam đoan iii
Mục lục iv
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
2.1.Từ vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông truyền thống 3
2.2. Đến vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông thời kì hiện đại 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
3.1. Đối tượng nghiên cứu 9
3.2. Phạm vi nghiên cứu 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp khoa học của luận án 11
7. Cấu trúc của luận án 12
NỘI DUNG 13
Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HMÔNG Ở VIỆT NAM 13
1.1. Lịch sử tộc người - những cuộc thiên di đầy nước mắt và máu 13
1.2. Kinh tế nương rẫy và tập quán du canh 18

1.3. Đời sống văn hóa- "tâm hồn và tiếng hát Hmông" 22
1.3.1. Nhà ở- nét độc đáo trong kiến trúc của người Hmông 23
1.3.2. Trang phục- nét đặc trưng thẩm mĩ của người Hmông 25
1.3.3. Phong tục, tập quán- cơ sở của tính cố kết cộng đồng 29
1.3.4. Đời sống tâm linh - nơi trú ngụ của những niềm tin tôn giáo 38
1.3.5. Tiếng nói, chữ viết và truyền thống thơ ca 43
Chƣơng 2 QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA THƠ CA HMÔNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG PHẢN ÁNH 53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
2.1. Giới thuyết về một số khái niệm cơ bản 53
2.1.1. Khái niệm "thơ ca" trong nội dung "thơ ca dân gian Hmông" 53
2.1.2. Khái niệm"truyền thống", "hiện đại" trong nội dung"từ truyền thống đến hiện đại" 54
2.2. Thơ ca Hmông và quá trình mở rộng đề tài, gắn liền với sự đổi thay, phát
triển của đời sống cộng đồng 57
2.2.1. Thiên nhiên khắc nghiệt và hùng vĩ- chiếc nôi nuôi dưỡng tâm hồn, tích cách
dân tộc Hmông 58
2.2.2. Tình yêu và cuộc sống-những giai điệu tâm hồn mạnh mẽ, quyết liệt 64
2.3. Thơ ca Hmông và những mạch nguồn cảm hứng 75
2.3.1. Cảm hứng cảm thương- bi kịch 76
2.3.2. Cảm hứng trữ tình- ngợi ca 79
2.3.3. Cảm hứng suy tư - chiêm nghiệm với lối tư duy, cách diễn đạt mang đậm bản
sắc Hmông 82
2.4. Sự vận động, phát triển của thơ ca Hmông gắn liền với quá trình nhận
thức về thế giới và con ngƣời 86
2.4.1. Quan niệm về tự nhiên, vũ trụ 86
2.4.2. Quan niệm về sự sống và cái chết 89
2.4.3. Sự đổi thay trong quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người trong thơ ca Hmông 93

Chƣơng 3 QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA THƠ CA HMÔNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT 99
3.1. Sự vận động ở phƣơng diện cấu trúc thể loại 100
3.1.1. Cấu trúc thể loại thơ Hmông truyền thống 100
3.1.2. Xu hướng đổi mới cấu trúc thể loại 106
3.2. Sự vận động ở phƣơng diện cấu trúc câu thơ 109
3.2.1. Cấu trúc câu thơ Hmông truyền thống 109
3.2.2. Cấu trúc câu thơ Hmông thời kì hiện đại 115
3.3. Sự vận động của thơ ca Hmông gắn liền với việc mở rộng thế giới hình
ảnh, biểu tƣợng 119
3.3.1. Thế giới hình ảnh phong phú, độc đáo 119

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi
3.3.2. Xu thế mở rộng thế giới biểu tượng 124
3.3.2.1. Một số biểu tượng trong thơ Hmông truyền thống 124
3.3.2.2. Một số hình ảnh biểu tượng trong thơ ca Hmông thời kì hiện đại 134
3.4. Cấu trúc ngôn ngữ và sự thể hiện lối tƣ duy, diễn đạt mang đậm bản sắc Hmông 136
3.4.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ thơ ca truyền thống 136
3.4.2. Xu hướng hiện đại, thể hiện cá tính sáng tạo trong ngôn ngữ thơ 140
PHẦN KẾT LUẬN 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Trong bức tranh toàn cảnh của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, dù chỉ
chiếm một vị trí khiêm tốn, vẫn phải thừa nhận rằng, dân tộc Hmông (Hmôngz) có
một kho tàng thơ ca phong phú và độc đáo, là sản phẩm tinh thần được nuôi dưỡng
và phát triển trong một nền văn hoá giàu truyền thống và bản sắc. Từ những truyện
thần thoại, truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, dân ca đến sáng tác của những nhà thơ
Hmông thời kỳ hiện đại là một quá trình lao động, sáng tạo của cả một dân tộc và
của từng cá nhân - để tạo ra một nguồn thơ Hmông đặc sắc, phản ánh chân thực và
sinh động đời sống lao động sản xuất, đời sống văn hoá - tinh thần, đời sống tâm
linh của dân tộc này. Có thể ví thơ ca Hmông như một dòng suối khởi nguồn từ
những đỉnh non cao, tích tụ và chưng cất sự trong trẻo ngọt lành của hương rừng, đá
núi; len lỏi qua bao thác ghềnh rồi hoà vào dòng sông thơ các dân tộc thiểu số trước
khi hợp lưu vào dòng chảy của thơ ca Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu thơ ca Việt
Nam nói chung, thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng không thể không nghiên cứu
thơ ca dân tộc Hmông - với tư cách là một bộ phận hợp thành nền thơ ca các dân tộc
thiểu số, góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng của thơ ca các dân tộc Việt
Nam.
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu (một cách toàn diện, sâu sắc và hệ thống)
thơ ca các dân tộc thiểu số có những hạn chế nhất định. Có nhiều nguyên nhân để lý
giải điều này, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chúng ta chỉ xem xét hợp lưu
mà không tìm đến khởi nguồn các dòng chảy thơ ca của từng dân tộc. Những năm
gần đây, ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến văn học các dân tộc
thiểu số nói chung, thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và đã đạt được một số kết
quả nhất định. Nhưng nhìn chung, những nghiên cứu này cũng chưa thật sự toàn
diện và hệ thống. Riêng về văn học dân tộc Hmông, cho tới nay mới có một số ít
công trình nghiên cứu, song lại chủ yếu tiếp cận dưới các góc độ văn hoá học, dân
tộc học ngoại trừ một số công trình sưu tầm và giới thiệu thơ ca dân gian dân tộc
Hmông của một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian. Vì
vậy, việc nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông (từ thơ ca dân gian đến thơ ca hiện đại)
nhằm phác hoạ diện mạo thơ ca dân tộc Hmông, chỉ ra những đặc điểm nổi bật (về


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
nội dung và nghệ thuật) với những nét đặc sắc riêng, đồng thời, cũng là để khẳng
định được những đóng góp- dù là khiêm tốn- của thơ ca Hmông đối với nền thơ ca
các dân tộc thiểu số cũng như nền thơ ca Việt Nam, là một việc làm hết sức ý nghĩa
(cả ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn) góp phần bảo vệ, gìn giữ và phát huy
những nét đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc trong đời sống thơ ca ở một quốc gia có
nhiều dân tộc thiểu số như Việt Nam.
Nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông một cách hệ thống và toàn diện là một
đóng góp đáng kể phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu thơ ca các dân tộc
thiểu số Việt Nam trong các trường phổ thông, các trường đại học, cao đẳng ở khu
vực miền núi phía Bắc, nhất là đối với Đại học Thái Nguyên - chiếc nôi đào tạo ra
những thầy cô giáo, những nhà khoa học, những nhà nghiên cứu là con em các dân
tộc trên địa bàn, trong đó có con em đồng bào dân tộc Hmông; góp phần rèn luyện
lòng tự tôn, tự hào dân tộc; gìn giữ và bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống
trong bối cảnh đất nước ta đang trên con đường hội nhập quốc tế ngày càng mạnh
mẽ và sâu sắc.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn Thơ ca dân tộc Hmông- từ truyền
thống đến hiện đại làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Lịch sử vấn đề
"Trước năm 1954, vốn văn học các dân tộc thiểu số còn xa lạ với chúng ta, chỉ
mới được một số tác giả Pháp và Việt giới thiệu lẻ tẻ trên một số sách, tạp chí khoa
học, bằng tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt"[142; tr.10]. Trong hoàn cảnh đó, việc
sưu tầm một cách hệ thống các giá trị văn hoá nói chung, văn học dân gian các dân
tộc thiểu số nói riêng, là một việc làm cần thiết. "Công lao góp phần sưu tập các
công trình văn học và văn học dân gian Việt Nam là của các Viện nghiên cứu, các
trường Đại học, các Hội Văn học Nghệ thuật, các Sở Văn hoá Thông tin các
tỉnh rất lớn" [142;tr.10]. Nhìn chung, các cơ quan nghiên cứu và học thuật này đã
tập hợp được một cách khá cơ bản cơ bản và có hệ thống những tác phẩm tinh hoa

của các dân tộc thiểu số anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, để giới
thiệu rộng rãi đến người đọc và góp phần bảo lưu, gìn giữ, làm giàu có thêm nền
văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, những đóng góp của các nhà văn, nhà thơ các dân
tộc thiểu số từ trước đến nay đã góp phần khẳng định sức sống bất diệt của những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
giá trị văn hoá nói chung, văn học các dân tộc thiểu số nói riêng, đáng để cho chúng
ta thêm trân trọng và tự hào.
2.1.Từ vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông truyền thống
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số cũng như thơ
ca Hmông mới chỉ thực sự được bắt đầu từ sau cách mạng tháng Tám. Theo nhận
định của các tác giả Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam: "Nếu không
kể các truyện lẻ tẻ được in trên các tạp chí, cuốn Truyện cổ tích miền núi (1957) do
Nhà xuất bản Văn hoá xuất bản là cuốn sách đầu tiên sưu tập vốn văn học của các
dân tộc miền núi phía bắc của thầy trò trường Sư phạm Miền núi Trung ương. Cuốn
Văn học các dân tộc thiểu số trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, xuất bản năm
1962, là cuốn sách trong đó các tác giả Hợp tuyển đã chính thức khẳng định thơ văn
nói riêng và văn hoá nói chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam, kể cả văn học dân
gian và bác học, không chỉ là của riêng người Việt, mà là của chung các dân tộc đã
sinh sống cùng xây dựng tổ quốc Việt Nam" [144;tr.11]
Riêng về văn học dân tộc Hmông, cuốn sách ra đời sớm nhất có lẽ là cuốn
Truyện cổ dân tộc Mèo do một số người sưu tầm, trong đó có sự tham gia của ông
Doãn Thanh. "Công trình này đã có tác dụng rất tốt đối với đồng bào Mèo và cũng
đã làm cho các dân tộc anh em hiểu người Mèo thêm một phần nào"[121, tr.7].
Việc sưu tầm, nghiên cứu chuyên biệt về văn học dân tộc Hmông cho tới nay
cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Có thể coi Doãn Thanh là một trong
những người đầu tiên có công trong việc sưu tầm và biên dịch dân ca Hmông. Năm
1967, Nhà xuất bản Văn học in tập Dân ca Mèo (Lào Cai) của Doãn Thanh. Ông

Cư Hoà Vần, lúc bấy giờ đang giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh Lao
Cai, trong Lời giới thiệu cuốn sách nói trên đã nhận định: "Nền văn học dân gian
phong phú của dân tộc Mèo từ trước đến nay chưa được ghi chép lại có hệ thống,
không những bởi người Mèo không có chữ viết riêng của dân tộc mình mà còn do
các nhà sưu tầm nghiên cứu chưa quan tâm đến. Cho nên dân ca, tục ngữ, truyện
cổ chỉ được truyền miệng cho nhau, từ người này qua người khác, từ đời này qua
đời khác, do đó đã bị mai một dần"[121, tr.6]. Với 387 trang in, cuốn Dân ca Mèo
(Lào Cai) của Doãn Thanh đã tập hợp được hầu hết các bài dân ca tiêu biểu nhất và
phổ biến nhất của người Mèo, sắp xếp một cách hệ thống theo 4 chủ đề chính bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
gồm: Tiếng hát mồ côi (gầu tú giua), tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng), tiếng hát
tình yêu (gầu plềnh), tiếng hát cúng ma (gầu tuờ). Cuốn sách của Doãn Thanh
"không chỉ có tác dụng rất tốt đối với người Mèo, mà còn có tác dụng tốt đối với
các dân tộc anh em trong nước Việt Nam chúng ta. Thông qua dân ca Mèo, các dân
tộc anh em có thể hiểu thêm nền văn học dân gian Mèo nói riêng và truyền thống
đấu tranh, phong tục tập quán và tâm tư tình cảm của người Mèo nói chung" [121;
tr.7]. Năm 1984, cuốn sách nói trên được tái bản với tên gọi Dân ca Hmông cho
đúng với tên gọi mới của người Mèo được Nhà nước qui định. Cuốn sách do Hoàng
Thao tuyển, chỉnh lý. Ngoài phần chính của Doãn Thanh dịch, tác giả biên soạn có
đưa thêm hai bài gồm Tiếng hát mồ côi do Lê Trung Vũ sưu tầm ở Mèo Vạc (Hà
Tuyên) và Tiếng hát làm dâu (Tây Bắc) do Mạc Phi và Bùi Lạc sưu tầm, trích dịch.
Đặc biệt, nhà thơ Chế Lan Viên viết lời giới thiệu với một sự trân trọng và ưu ái sâu
sắc đối với những bài dân ca- tâm hồn và tiếng hát Hmông. Đánh giá về dân ca
Hmông, nhà thơ Chế Lan Viên đã khẳng định: "Những bài thơ này- có hàng trăm
bài như vậy- có thể nằm không hổ thẹn trong những tuyển tập thơ hay của thế giới"
[122; tr.16]. Từ năm 1995 đến 2003, nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng
Đình Quí đã sưu tập và dịch 3 tập "Dân ca Hmông Hà Giang". Nhìn chung, so với

các cuốn Dân ca Mèo (Lào Cai) hay Dân ca Hmông thì công trình của Hùng Đình
Quí có phần khiêm tốn hơn. Ông không có ý định sắp xếp các bài dân ca sưu tập
được theo chủ đề mà chỉ công bố lần lượt theo thời gian tác giả sưu tầm được.
Ngoài ra, là người dân tộc Hmông nên ông cố gắng dịch các bài dân ca sao cho gần
nhất với nguyên bản chứ không có sự trau truốt nhất định về mặt ngôn ngữ thơ. Đó
là hạn chế nhưng cũng có thể coi là yếu tố tích cực để việc tiếp cận và nghiên cứu
dân ca Hmông được thuận lợi hơn. Năm 2004, Hội Văn học Nghệ thuật Lào Cai,
Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc cho in cuốn "Tang ca- Kruôzcê của người Mông
Lềnh ở Sa pa" do tác giả Giàng Seo Gà sưu tầm và biên soạn. Đây không chỉ là một
công trình sưu tầm một cách công phu và cẩn trọng mà còn là một công trình nghiên
cứu về tang ca của người Hmông rất đáng ghi nhận, bởi ngoài việc ghi lại đầy đủ 31
bài tang ca (Kruôz cê), tác giả còn đi sâu khảo sát và so sánh nội dung bài tang ca
được phổ biến trong các ngành Hmông khác nhau ở Sa Pa như Hmông Lềnh,
Hmông Trắng, Hmông Đen, đồng thời bước đầu có những nhận xét, lý giải về một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
vài khác biệt về mặt văn bản trong các bài Tang ca được sử dụng ở từng ngành
Hmông. Ngoài ra, tác giả còn xem xét, nghiên cứu về các mặt nội dung và nghệ
thuật của bài Tang ca. Có thể coi Giàng Seo Gà là người Hmông đầu tiên và là một
trong số ít những người nghiên cứu về bài Tang ca- một trong những bài ca quan
trọng nhất của người Hmông- cho đến thời điểm này.
"Thơ văn không gì thấm sâu được vào tâm hồn con người bằng tiếng mẹ đẻ"
(Đặng Nghiêm Vạn). Do đó, thao tác cần thiết của người nghiên cứu là phải được
đối chiếu bản dịch- dù là thành công nhất, so với nguyên bản; hoặc giả phải được
xem xét bằng văn bản ngôn ngữ của chính dân tộc ấy, chứ không thể chỉ căn cứ qua
bản dịch. Về phương diện này, đối với thơ ca dân gian Hmông, có lẽ cũng "cần tới
một sự châm chước nhất định" [121; tr.13]. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi,
Cho đến nay, hướng nghiên cứu, tiếp cận dân tộc Hmông dưới góc độ văn hoá học,

dân tộc học, ngôn ngữ học đã có được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tiêu biểu
cho hướng nghiên cứu này là những công trình, bài viết của các tác giả, các nhà
nghiên cứu như Trần Quốc Vượng, Đặng Nghiêm Vạn, Lê Trung Vũ, Cư Hoà Vần,
Trần Hữu Sơn, Đỗ Đức Lợi, Trần Trí Dõi, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Thị Bích Hà,
Nguyễn Thị Ngân Hoa v.v. Đáng chú ý là hướng nghiên cứu liên ngành, xem xét,
tìm hiểu văn học dân gian dưới góc độ văn hoá, khi mà một số công trình, bài viết
của các tác giả nói trên đã bước đầu đề cập đến văn học dân gian Hmông nói chung,
thơ ca dân gian Hmông nói riêng với tư cách là một thành tố của văn hoá. Từ việc ý
thức vấn đề: nghiên cứu thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại không thể
không xem xét khía cạnh biểu tượng và giải mã các biểu tượng văn hoá, bởi lẽ,
"biểu tượng như là một "đơn vị cơ bản" của văn hóa"[35], tác giả luận án đã hết sức
chú ý đến những kết quả nghiên cứu theo hướng này. Có thể kể đến tác giả Nguyễn
Thị Bích Hà với bài viết "Mã và mã văn hóa" [32]. Bên cạnh việc đưa ra khái niệm,
tính chất của biểu tượng, tác giả còn khẳng định vai trò của việc nghiên cứu các tác
phẩm văn học dân gian từ việc giải mã các biểu tượng. Những lý thuyết về biểu
tượng và việc giải mã biểu tượng trong bài viết này, cùng với chuyên đề: "Nghiên cứu
văn hóa dân gian từ mã văn hóa dân gian" của tác giả được giảng dạy tại trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, là những định hướng vô cùng quan trọng cho tác giả luận án
trong việc nghiên cứu tính truyền thống của văn học dân tộc Hmông. Tác giả Phạm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Thu Yến trong bài viết "Vấn đề nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca dân gian", ngoài
việc đưa ra một số nhận xét về việc nghiên cứu biểu tượng ca dao của một số tác giả
trong và ngoài nước, đã đi vào nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca trữ tình dân gian ở
cả ba lĩnh vực: Xác định ranh giới giữa biểu tượng và ẩn dụ, biểu tượng thơ ca dân
gian với đặc trưng thể loại, sự hình hành và phát triển của biểu tượng trong thơ ca dân
gian. Trong công trình "Một số biểu tượng trong dân ca Hmông nhìn từ góc độ văn
hoá" [23], các tác giả đã tập trung giải mã và khảo sát tần số xuất hiện của một số

biểu tượng tiêu biểu trong dân ca Hmông như: Cây lanh, cây khèn, cây nêu. Từ đó chỉ
ra và khẳng định ý nghĩa văn hoá cũng như giá trị thẩm mĩ của các biểu tượng lanh,
nêu, khèn với tư cách là những biểu tượng của văn hoá Hmông. Các tác giả trong
công trình nghiên cứu này đã khẳng định: "Hiện nay, nghiên cứu những giá trị này
dưới góc độ văn hoá (cụ thể là văn hoá biểu tượng) là một hướng đi hiện đại, hứa hẹn
nhiều khám phá mới mẻ" [23; tr.1]
Nhìn chung, cho đến thời điểm hiện tại có thể khẳng định rằng dân ca Hmông
đã được xem xét, nghiên cứu một cách khá toàn diện. Trong đó, phải kể đến một số
các công trình, bài viết nghiên cứu tiêu biểu như: "Tiếng hát làm dâu, tiếng hát yêu
thương, tiếng hát căm hờn, ngàn đời của người phụ nữ Mèo" của Tô Hoài (Tạp chí
Văn học, số 2 năm 1965), "Tâm hồn và tiếng hát Hmông" của Chế Lan Viên (Lời giới
thiệu cuốn Dân ca Hmông, Nxb Văn học, 1984). Một số đề tài luận văn thạc sĩ về thơ
ca dân gian Hmông đã được bảo vệ thành công tại trường đại học Sư phạm, Đại học
Quốc gia Hà Nội như: "Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ Hmông về đề
tài tình yêu "của Nguyễn Thị Thu Yến, "Thơ ca dân gian Hmông" của Hùng Thị Hà
(2003), "Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông" của Nguyễn Văn
Tiệp (2003), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Hmông" của Hoàng Thị Thuỷ (2004),
"Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca Hmông" của Đặng Thị Oanh (2006)
Những công trình nghiên cứu nói trên là những gợi ý và định hướng quan
trọng cho tác giả luận án trong việc tiếp cận, nghiên cứu văn học dân tộc Hmông,
nhất là thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
2.2. Đến vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông thời kì hiện đại
Nếu như việc sưu tầm và nghiên cứu thơ ca dân gian Hmông đã có được một
số thành tựu đáng kể thì việc nghiên cứu về thơ ca hiện đại dân tộc Hmông vẫn còn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
hết sức khiêm tốn, nhỏ lẻ và tản mạn. Mặc dù cho đến nay đã có một số công trình,
bài viết nhưng cũng phần lớn chỉ dừng lại ở việc tập hợp, tuyển chọn và giới thiệu

tác phẩm. Về phương diện này, có thể coi Minh Khương (1920-2001) là một trong
những người có công đầu trong việc đưa thơ ca Hmông thời kỳ hiện đại đến với bạn
đọc cả nước. Năm 1977, cuốn Mặt trời hoa mây (Luz hnuz păngx huôz) được Ty
Văn hoá Hoàng Liên Sơn xuất bản, giới thiệu thơ của 18 tác giả với 26 bài thơ,
trong đó có 17 bài thơ của 11 tác giả dân tộc Hmông (do Minh Khương dịch ra
tiếng Phổ thông). Đây là những "sáng tác phản ánh tình cảm chân thành biết ơn
Đảng, biết ơn lãnh tụ; ca ngợi tinh thần dũng cảm, khắc phục khó khăn gian khổ
trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Ca
ngợi thành tích chiến thắng, thành tích trong sản xuất và trong nếp sống văn hoá xã
hội chủ nghĩa tốt đẹp mà nhân dân ta đã giành được" [91; tr.7]. Từ những năm 90
của thế kỉ XX trở lại đây, việc nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số nói chung
ngày càng được quan tâm và tiến hành trên một bình diện rộng, với một qui mô lớn.
Đã có rất nhiều những nhận định, tổng kết, đánh giá về thơ ca các dân tộc thiểu số
của các nhà khoa học, các nhà văn hoá, các nhà nghiên cứu, phê bình và cả các nhà
văn, nhà thơ quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển của thơ ca dân tộc trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập Quốc tế. Tuy nhiên, có thể là do thơ
ca Hmông thời kì hiện đại còn hết sức khiêm tốn, chưa có những tác giả thật sự có
được tên tuổi nổi bật như thơ ca của một số dân tộc khác (ví dụ: thơ ca của các dân
tộc Tày, Thái, Mường, Chăm ) nên hầu như không có những bài nghiên cứu, phê
bình viết riêng về các tác giả Hmông cũng như thơ ca Hmông. Theo khảo sát của
chúng tôi, hiện nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về văn học
dân tộc Hmông nói chung, thơ ca Hmông nói riêng với tư cách là một đối tượng
nghiên cứu chuyên biệt (ngoài luận văn thạc sĩ với đề tài: "Một số đặc điểm của thơ
ca Hmông thời kì hiện đại (từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay)" của chính tác
giả luận án, đã được bảo vệ thành công năm 2008).
Theo thiển ý của chúng tôi, nghiên cứu về thơ ca của một dân tộc, hơn nữa, lại
là một dân tộc thiểu số là một công việc vô cùng khó khăn, phức tạp. Khó khăn lớn
nhất của người nghiên cứu là phải vượt qua được rào cản về ngôn ngữ, phong tục,
tập quán (Đó chính là chìa khoá để mở cánh cửa vào đời sống văn hoá, tinh thần)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
của dân tộc đó. Từ đó mới có thể hiểu và lý giải một cách chính xác và sâu sắc về
đặc trưng và giá trị thơ ca của từng dân tộc. Việc nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông
từ trước đến nay còn ít nhiều bộc lộ những hạn chế, bất cập, nên việc kế thừa thành
quả khoa học của những người đi trước không phải bao giờ cũng dẫn đến kết quả
mong đợi. Chẳng hạn, những công trình nghiên cứu về dân ca Hmông trước đây hầu
như chỉ dựa trên đối tượng nghiên cứu là các bản dịch ra tiếng Phổ thông mà không
kèm theo bản tiếng Hmông (như cuốn Dân ca Mông của Doãn Thanh); ngay cả những
văn bản thơ của các tác giả Hmông thời kỳ hiện đại cũng một phần là các bản dịch
của Minh Khương. Chúng tôi không nghi ngờ về nội dung của các bản dịch. Tuy
nhiên, bản dịch dù có thành công đến đâu cũng không thể trung thành tuyệt đối với
nguyên tác cả về nội dung và cấu trúc nghệ thuật. Và như vậy, cũng không thể là cứ
liệu hoàn toàn tin cậy cho nghiên cứu khoa học. Mặt khác, những cuộc thiên di của
người Hmông trong lịch sử với thời gian quá dài có thể xuất hiện và chỉ còn tồn tại
những dị bản văn học dân gian, cản trở đến việc xác định những nguồn mạch ban
đầu. Ngoài ra, việc người Hmông có tập quán sống di cư và ở rải rác, đan xen với
các dân tộc khác trên nhiều địa bàn khác nhau, hiện tượng giao thoa văn hoá là
không tránh khỏi, cũng đồng nghĩa với việc vơi dần bản sắc dân tộc. Vấn đề đặt ra:
Đâu là bản sắc riêng của văn hoá Hmông nói chung và thơ ca Hmông nói riêng?
Giải quyết được vấn đề trên là yêu cầu và cũng chính là mục đích lớn nhất của luận
án. Với một vấn đề quá đỗi khó khăn và phức tạp như vậy, chúng tôi không có tham
vọng giải quyết một cách triệt để (và cũng không thể giải quyết một cách triệt để),
mà chỉ đưa ra những nhận xét, đánh giá ban đầu, ở mức độ chỉ ra những đặc điểm
nổi bật, xác định những đặc trưng thơ ca Hmông và nhất là quá trình vận động, phát
triển của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông từ truyền
thống đến hiện đại, chúng tôi bước đầu đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, về tình hình nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông: Cho đến nay, chúng

tôi thấy rằng, chủ yếu các nhà nghiên cứu, sưu tầm mới tập trung sự chú ý vào
mảng thơ ca dân gian Hmông, đặc biệt là mảng dân ca Hmông, còn mảng thơ ca
Hmông thời kì hiện đại chưa thực sự được quan tâm đúng mức.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Thứ hai, hướng tiếp cận chủ yếu và thành công nhất của các tác giả, cho đến
nay, vẫn là hướng tiếp cận dưới góc độ văn hoá (cụ thể là giải mã các biểu tượng
văn hoá trong đời sống văn hoá, nghệ thuật của dân tộc Hmông).
Thứ ba, nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông, theo khảo sát của chúng tôi, mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đặc điểm thơ ca dân gian hoặc thơ ca hiện đại một
cách riêng biệt, chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu về thơ ca dân tộc
Hmông một cách qui mô, hệ thống từ dân gian đến hiện đại, nhằm chỉ ra các đặc
điểm nổi bật mang tính bản sắc của dân tộc Hmông; đồng thời chỉ ra được quá trình
hình thành và phát triển, tiếp biến của thơ ca Hmông trong suốt chiều dài lịch sử.
Đó chính là tính truyền thống và hiện đại như một nét đặc trưng và đặc sắc của dân
tộc Hmông được thể hiện một cách sinh động qua thơ ca.
Việc nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông một cách toàn diện, quy mô, hệ
thống và đặt trong sự vận động từ truyền thống đến hiện đại chưa được giới nghiên
cứu quan tâm đã tạo ra một khoảng trống trong việc nhìn nhận, xem xét, đánh giá về
những thành tựu và hạn chế của thơ ca dân tộc Hmông trong nền thơ ca các dân tộc
thiểu số, cũng như nền thơ Việt Nam. Chúng tôi cho rằng, việc triển khai thực hiện
luận án: Thơ ca dân tộc Hmông- từ truyền thống đến hiện đại là một nỗ lực để lấp
đầy (hoặc thu hẹp lại) khoảng trống đó. Thiết nghĩ, đó là một công việc cần thiết,
hữu ích cho nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Triển khai thực hiện đề tài luận án: Thơ ca dân tộc Hmông- Từ truyền thống

đến hiện đại, chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận nghiên cứu thơ ca Hmông trong quá
trình vận động và phát triển từ thơ ca dân gian đến thơ ca hiện đại, trên hai phương
diện chủ yếu là nội dung phản ánh và cấu trúc nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông trong phạm vi các văn
bản sau:
* Thơ ca dân gian:
- Dân ca Mèo (Lào Cai), Doãn Thanh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1967

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
- Dân ca Hmông, Doãn Thanh, Hoàng Thao, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984.
-Dân ca Mông Hà Giang, tập 1,2,3, Hùng Đình Quí, Sở Văn hoá Thông tin Hà
Giang (2000,2001,2003)
* Thơ ca hiện đại:
- Mặt trời hoa mây, Nhiều tác giả, Ty Văn hóa Hoàng Liên Sơn, 1977.
- Người Mông nhớ Bác Hồ, Hùng Đình Quí, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1993.
- Chỉ vì quá yêu, Hùng Đình Quí, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998.
- Bên suối Nậm Mơ, Mã A Lềnh, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1995.
- Mã A Lềnh thơ, Mã A Lềnh, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002.
- Các tác phẩm thơ của các tác giả người Hmông được công bố trên báo chí
hoặc trong các tuyển tập thơ từ trước tới nay.
Vì không có điều kiện để tiếp cận các tác phẩm thơ ca của người Hmông được
in ấn và đăng tải trên các báo chí, website của nước ngoài nên chúng tôi không sử
dụng những tài liệu này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện luận án: Thơ ca dân tộc Hmông- từ truyền thống đến hiện đại,
chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khảo sát thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại nhằm chỉ ra những đặc

trưng của thơ ca Hmông cả về nội dung và hình thức nghệ thuật.
- Bước đầu so sánh, đối chiếu thơ ca Hmông với thơ ca của một số dân tộc
thiểu số khác và thơ ca của người Kinh (Việt) để thấy được những nét riêng biệt,
mang tính bản sắc của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
- Nghiên cứu quá trình vận động của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện
đại để thấy sự nhất quán trong đặc trưng thơ ca của dân tộc này. Đồng thời, chỉ ra
được sự kế thừa, tiếp biến trong quá trình vận động của thơ ca Hmông từ truyền
thống đến hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án Thơ ca dân tộc Hmông- Từ truyền thống đến hiện đại thuộc chuyên
ngành Văn học Việt Nam, với đối tượng nghiên cứu trên diện rộng, bao gồm cả lịch
sử, tiến trình phát triển của thơ ca Hmông từ thơ ca dân gian đến thơ ca hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Đây là một đề tài phức tạp đòi hỏi người nghiên cứu phải vận dụng nhiều phương
pháp phù hợp để giải quyết những vấn đề về đặc trưng, giá trị của văn học dân tộc
Hmông trong mối tương quan mật thiết giữa các phạm trù truyền thống và hiện đại.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ
bản như sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phương pháp được sử dụng trong
việc khảo sát thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại, nhằm có được những cứ
liệu xác đáng cho các luận điểm của người viết.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở kết quả của việc thống kê,
phân loại, luận án sử dụng những thao tác phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra những
nhận xét, kết luận, những luận điểm khoa học có sức thuyết phục.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đây là phương pháp cần thiết đối với vấn
đề nghiên cứu của luận án. Những so sánh đối chiếu được thực hiện ở những cấp độ
khác nhau, từ so sánh, đối chiếu trong thơ ca Hmông đến so sánh, đối chiếu giữa

thơ ca Hmông với thơ ca của các dân tộc khác.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hoá, dân tộc học ): Sử dụng
những phương pháp liên ngành như văn hoá học, dân tộc học , luận án sẽ tiếp cận
thơ ca Hmông dưới các góc độ văn hoá, dân tộc để nghiên cứu, lí giải những hiện
tượng, qui luật đặc thù cũng như những nét đặc sắc, độc đáo của thơ ca Hmông từ
truyền thống đến hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Với đối tượng nghiên cứu cụ thể là thơ
ca dân tộc Hmông, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu loại hình, sử dụng
những thao tác cần thiết để nghiên cứu thơ ca Hmông dựa trên những đặc trưng của
thể loại thơ ca, đặc biệt là việc sử dụng thi pháp thể loại để nghiên cứu thơ ca
Hmông trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật.
6. Đóng góp khoa học của luận án
6.1. Luận án nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông từ truyền thống đến hiện đại
thông qua việc khảo sát thơ ca Hmông một cách tổng thể và toàn diện, nhằm tìm
hiểu và đánh giá những nét đặc trưng mang tính bản sắc trong thơ ca dân tộc Hmông, từ thơ
ca dân gian (truyền thống) đến thơ ca hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
6.2. Qua việc nghiên cứu một số phương diện nội dung và nghệ thuật của thơ
ca dân tộc Hmông, luận án làm nổi bật quá trình vận động và phát triển, sự kế thừa
và tiếp biến của thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
6.3. Bằng việc đánh giá thực trạng và đưa ra một số ý kiến, kiến nghị, luận án
sẽ góp một tiếng nói vào việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
Hmông với tư cách là một thành tố tạo nên sự thống nhất, phong phú và đa dạng
của văn hoá các dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là trong bối cảnh đất nước ta đang trên
con đường hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính

của luận án được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về dân tộc Hmông
Chương 2: Quá trình vận động của thơ ca Hmông nhìn từ phương diện nội
dung phản ánh
Chương 3: Quá trình vận động của thơ ca Hmông nhìn từ phương diện cấu
trúc nghệ thuật


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HMÔNG
1.1. Lịch sử tộc ngƣời - "những cuộc thiên di đầy nƣớc mắt và máu"
Dân tộc Hmông (còn có các tên gọi khác như Na Mẻo, Mèo, Mẹo, Miếu Ha,
Mán Trắng) [36], là một dân tộc thiểu số có số dân tương đối đông (trên 9 triệu
người), cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, đông nhất là ở Trung Quốc
(khoảng 7,5 triệu người). Người Hmông ở Việt Nam có trên 80 vạn, ở Lào khoảng
2,5 vạn, ở Thái Lan- 15 vạn. Trong vài chục năm trở lại đây, người Hmông còn có
mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Ôxtơrâylia, Niudilân, Canađa Ở
Trung Quốc, người Hmông được gọi là người Miêu, ở Lào gọi là người Mẹo. Ngoài
ra, ở hầu hết các nước khác trên thế giới, họ đều được gọi là người Hmông. Ở nước
ta, trước năm 1979, họ được gọi là người Mèo.[97],[110].
Xét về tộc danh, người Hmông vốn có nhiều tên gọi khác nhau. Trong những
tài liệu lịch sử về thế kỉ thứ VII trước Công Nguyên (CN), ở Trung Quốc đã xuất
hiện cụm từ "Tam Miêu" để chỉ một quốc gia có 3 bộ lạc, trong đó có bộ lạc Suy
Vưu đã được lưu truyền trong truyền thuyết, và theo người Hmông, đó là tên gọi
của thủ lĩnh người Hmông từ thuở "khai thiên lập địa". Trong sách Kinh Thư của
Khổng Tử cũng có chép rằng: Vào thiên niên kỉ thứ II trước CN, ở vùng hồ Động

Đình, đã có những bộ lạc hợp nhất mang tên là "Tam Miêu" (bao gồm Hồng Miêu,
Bạch Miêu và Thanh Miêu dựa trên trang phục của người Hmông khi đó). Theo
Hán tự, chữ Miêu trên có bộ thảo ( ) là cây cỏ. dưới có chữ điền ( ) là ruộng
đồng. Khi dịch từ "Miêu" với nghĩa chỉ tên gọi của một rợ (tộc người) ở Trung
Quốc ra tiếng Việt, mọi người quen đọc phiên âm trực tiếp là Mieo, Mão,
Mèo [97]
Cuối những năm 1960 trở đi, trên các sách báo, công trình khoa học của
Việt Nam và các nước Đông Nam Á, xuất hiện cách gọi tộc danh H'mông, Hơ
Mông. Cách gọi này khởi đầu từ việc trong tiếng Hmông, từ "Hmôngz" có nghĩa
là "người". Đây là một âm mũi. Trong hệ thống âm tiết tiếng Việt không có phụ
âm ghi được chính xác âm tiết "Hmôngz" nên các nhà ngôn ngữ đã mượn phụ âm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
"Hm" của hệ thống phụ âm tiếng Hmông để ghi từ này. Năm 1979, trong bản
Danh mục các dân tộc Việt Nam, Tổng cục Thống kê đã ghi là Hmông. Điều này
dẫn đến việc nhiều người đã phát âm thành ra "Hơ Mông". Phải khẳng định rằng,
các cách gọi là "Mèo" hay "Hơ Mông" đều bị người Hmông ghét bỏ và phản ứng
dữ dội. Họ chỉ muốn gọi tên dân tộc mình là "Mông". Vì thế, tại Hội nghị cốt
cán dân tộc Hmông do Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ chủ trì (1992) đã thống
nhất gọi là dân tộc "Mông" (Hmông).
Về cách ghi tộc danh Hmông, từ trước đến nay, không chỉ trên báo chí mà ở
cả các công trình nghiên cứu khoa học cẩn trọng vẫn có hiện tượng không thống
nhất. Chẳng hạn, Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (2002) ghi danh
là "H'mông"; nhiều nhà nghiên cứu và gần đây nhất là các tác giả cuốn "Nghiên
cứu, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá một số dân tộc ở Việt Bắc'' (2010)
do PGS. TS Nguyễn Văn Lộc làm chủ biên ghi danh dân tộc Hmông thống nhất
với tên gọi là: "Mông". Trong cách gọi của một số nhà nghiên cứu, sáng tác thơ
dân tộc Hmông cũng có cách viết tộc danh này khác nhau. Nhà thơ Hùng Đình

Quí (dân tộc Hmông) khi thì viết là "Mông", có khi lại viết Hmông. Nhà văn Mã
A Lềnh dùng cách viết là Hmôngz.
Theo chúng tôi, cách gọi Miêu tộc sẽ có ý nghĩa giữ lại được tên gọi của
người Hmông từ trong lịch sử. Tuy nhiên, trong luận án, chúng tôi theo cách gọi
tên dân tộc Hmôngz theo âm tiếng Việt là "Mông" và viết tên của dân tộc này theo
đúng chính tả là "Hmông". Cách viết, cách gọi tên như vậy vừa đúng với qui định
của Nhà nước, với phù hợp với ý nguyện của đồng bào Hmông bởi "tên dân tộc, kể
cả chữ viết đã nhất quán, không cần bàn cãi" [66].
Theo truyền thuyết, tổ tiên của người Hmông là những người sớm biết trồng
lúa nước ở vùng hồ Động Đình và Bành Hải. Đó là bộ phận cư dân gốc Nam Á thời
cổ đại (thuộc miền Nam Trung Quốc ngày nay), di cư suốt hàng chục thế kỷ theo
hướng Tây- Tây Nam, tập trung đông ở Hồ Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng
Đông, Quảng Tây và trung tâm là Quí Châu (Trung Quốc) trước khi đến Việt Nam.
Theo nhà nghiên cứu Vương Duy Quang trong cuốn Văn hoá tâm linh của
người Hmông ở Hà Giang, truyền thống và hiện tại, một trong những học giả phương
Tây đầu tiên đưa ra quan điểm về nguồn gốc của người Hmông là F. Savina trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
cuốn Lịch sử người Mèo. Trên cơ sở những truyền thuyết được ông dày công sưu
tầm, F. Savina cho rằng, quá khứ cổ đại của người Hmông là một trong những bộ lạc
cư trú ở miền Siberia (Nga). Từ đó, họ đi xuống theo hướng đông nam và vào vùng
Hồ Nam của Trung Quốc khoảng 2500 năm trước Công Nguyên. Quan điểm này của
F. Savina- cho dù theo ông tự đánh giá là chưa đủ cứ liệu để minh chứng, cũng vẫn
nhận được sự đồng tình của một số nhà nghiên cứu về dân tộc Hmông sau này. Năm
1988, K. Quicy lặp lại quan điểm trên của Savina trong cuốn Người Hmông: Lịch sử
một dân tộc, khi ông cho rằng, người Hmông là một trong số những người từ Siberia
tiến sâu nhất về phía nam cho đến khi gặp khúc uốn quanh của sông Hoàng Hà. Giới
sử học cổ đại Trung Quốc khẳng định: "dân tộc Hmông đã trở thành một bộ phận của

lịch sử Trung Hoa khoảng 3000 năm trước Công Nguyên". [98]
Cũng theo truyền thuyết, xưa kia dân tộc Hmông có một quốc gia riêng với
biểu tượng đôi sừng trâu và màu cờ đỏ. Dấu ấn ấy vẫn còn đến ngày nay, thể hiện
qua một số phong tục như tấm vải đỏ treo trước nhà, người chết không phân biệt
già trẻ đều có miếng vải đỏ che miệng, hình bộ sừng trâu làm chốt cửa trên hai
cánh cửa chính của mỗi nhà Đó cũng chính là ý kiến của tiến sĩ Yang Dao trong
"Người Hmông: Những truyền thống bền vững" (in trong cuốn "Văn hoá các dân
tộc ở Lào") khi khẳng định, Người Hmông được coi là một trong những dân tộc cổ
nhất ở châu Á. Họ đã sống ở lưu vực sông Hoàng Hà và đã có tổ quốc ở đó cách
đây hơn 4000 năm. Họ là con cháu của người Tam Miêu (San Miao). Đến thế kỉ
XXVI trước Công Nguyên, họ bắt đầu đi xuống phía nam và đến những vùng núi
của tỉnh Quí Châu, Vân Nam [98].
Cho đến nay, đa số giới nghiên cứu về người Hmông đều tán thành quan điểm
cho rằng, người Hmông đã tồn tại ở lưu vực sông Hoàng Hà cách đây hơn 3000
năm. Điều này đã được khẳng định tại Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về người
Hmong/ Miao ở Châu Á được tổ chức tại thành phố Aixen Provence nước Cộng hoà
Pháp (tháng 9 năm 1998).
Người Hmông di cư vào Việt Nam khá muộn so với các dân tộc khác. Người
Hmông đến nước ta có thể gồm nhiều đợt qui mô lớn nhỏ khác nhau: Từ Vân Nam
sang, từ Quí Châu qua Vân Nam, hoặc Quảng Tây sang cư trú ở các vùng biên giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
phía Bắc. Theo các nhà nghiên cứu, dựa trên kết quả điền dã dân tộc học ở tại một
số vùng người Hmông ở Việt Bắc và Tây Bắc, cũng như việc nghiên cứu tình hình
biến động của tộc Miêu ở Trung Quốc trong lịch sử, có thể người Hmông thiên di
đến Việt Nam với ba đợt quy mô lớn. Thời kỳ đầu tiên cách đây trên 300 năm,
người Hmông từ Quí Châu sang Đồng Văn. Dân ca Hmông còn ghi lại:
Người Hmông ta ở Quí Châu đến

Vì người Hmông ta không biết chữ
Thua kiện người Hán ta mới đi …[122]
Tuy nhiên, “thua kiện người Hán” chỉ là một lí do theo cách nói bóng bẩy, nhẹ
nhàng của văn học, còn trong thực tế nguyên nhân của đợt thiên di thứ nhất này là
do chính sách “cải thổ qui lưu” (bỏ chế độ thổ quan, phái các quan lại từ nơi khác
đến cai trị trực tiếp) của nhà Minh, dẫn đến các phong trào đấu tranh mạnh mẽ và
quyết liệt của người Hmông. Nhà Minh đã dùng bạo lực để bắt qui phục. Dân ca
Hmông cũng đã có lúc nói thẳng nguyên nhân của đợt thiên di này:
Vì đất nước đại triều nhà Hán chín xèo không chín ké
Mẹ cha ta gặp bước loạn li phải đi lưu lạc …
Đại triều nhà Hán lòng không tốt.[122]
Đợt thiên di thứ hai của người Hmông vào Việt Nam cách nay khoảng 200
năm, sau thất bại của phong trào khởi nghĩa của người Hmông ở Quí Châu (1776 -
1820). Đợt thiên di thứ ba là đợt đông nhất của người Hmông vào nước ta cách đây
khoảng 160 năm khi cuộc khởi nghĩa Hàm Đồng (năm 1853) dưới sự lãnh đạo của
Trương Tú Mi xuất phát từ Đông Nam Quí Châu, sau lan rộng sang Hồ Nam và
Vân Nam, kéo dài 18 năm ròng rã. Vương triều Thanh đã tàn sát huỷ diệt những
người tham gia khởi nghĩa, do đó, hàng vạn người Hmông đã từ Quí Châu (Trung
Quốc) di cư sang Hà Giang, Lao Cai, Yên Bái và một số tỉnh thuộc biên giới phía
Bắc nước ta.
Đồng bào Mông ở Đồng Văn, Hà Giang còn lưu truyền một bài ca buồn thảm
rằng: “Quí Châu là quê hương yêu dấu của người Mèo ta ở. Vì người Mèo ta phải
đói rách, vì dân Mèo ta không có chữ nên phải dời quê”. Dấu ấn của các cuộc thiên
di còn để lại trong các câu chuyện cổ của người Hmông với tất cả sự đắng cay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
nghiệt ngã đến thê thảm của số phận con người: Chỉ ba hạt ngô làm giống hoặc ba
chiếc bánh kê có thể đổi được một cô vợ người Hmông

Có thể nói, hành trình đến Việt Nam của người Hmông không chỉ là hành
trình giải thoát cho sự tồn vong của một dân tộc mà còn là hành trình tìm đến với
một cuộc sống mới tự do và hạnh phúc. Người Hmông còn lưu truyền một câu
chuyện từ xa xưa rằng: Việt Nam là nơi đất đai màu mỡ để làm ăn, nơi có quả bí to
như cái vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào đó đẻ, nó vừa là ổ, vừa là thức ăn
cho lợn. Nơi trồng cây lương thực gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ lúa Chính vì
vậy mà người Hmông luôn tự hào về quê hương thứ hai của mình:
Cá bơi ở dưới nước
Chim bay ở trên trời,
Chúng ta sống ở vùng cao.
Và con chim có tổ
Người mèo ta cũng có quê
Quê ta là Mèo Vạc [110]
Ở Việt Nam, đồng bào Hmông sống rải rác trên những triền núi cao thuộc
các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Lào Cai, Sơn La, Lai
Châu, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An Người Hmông sống xen kẽ với các dân
tộc khác nhưng vẫn có ý thức quần tụ thành những vùng nhỏ đồng tộc.
Dưới chế độ cũ, người Hmông ở Việt Nam cũng bị áp bức bóc lột nhất là
từ khi Việt Nam bị thực dân Pháp đặt ách thống trị. Người Hmông đã nhiều lần
nổi dậy đấu tranh, tiêu biểu là các cuộc nổi dậy của Sùng Mí Chảng, Giàng Tả
Chay có ảnh hưởng rộng lớn trong khắp vùng người Hmông ở Tây Bắc, lan
rộng sang cả Thượng Lào.
Cách mạng tháng Tám thành công, theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ,
người Hmông đã tích cực tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ. Nhiều anh hùng quân đội, chiến sĩ du kích người Hmông mà tên tuổi đã trở nên
quen thuộc trong kháng chiến chống Pháp như: Sùng Phài Sinh, Lý Nụ Chu,Vừ A
Dính, Thào A Sà, Mùa A Dế Nhiều khu du kích nổi tiếng vùng Tây Bắc như Pú
Nhung, Tủa Chùa, Cao Phạ, Long Hạ đã đi vào lịch sử kháng chiến chống Pháp
của dân tộc Việt Nam.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng đã sản sinh ra những anh hùng, liệt sĩ người
Hmông như Mùa A Páo, Giàng Mý Vư, Sùng Dúng Lù
Người Hmông ở Việt Nam đã gắn bó, chung sức và trở thành một thành viên
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam để chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Chứng tỏ Việt Nam- nhất là khu vực miền núi cao phía Bắc- là vùng đất phù hợp để
người Hmông ổn định và phát triển lâu dài. Chính vì vậy mà người Hmông đã coi
Việt Nam là quê hương thứ hai của mình.[28],[98],[121], [122]
Những điều đó, theo chúng tôi - là những cứ liệu để tin rằng: Nghiên cứu đời
sống văn hoá nói chung, đời sống tâm hồn (được biểu hiện qua văn học nói chung
và thơ ca nói riêng) của dân tộc Hmông, sẽ bước đầu nhận ra và hiểu sâu hơn những
giá trị mang tính bản sắc của dân tộc này. Đó cũng là lí do để việc nghiên cứu thơ
ca Hmông phải đi liền với việc nghiên cứu văn hoá Hmông. Hay nói cách khác,
nghiên cứu những đặc điểm văn hoá Hmông để làm cơ sở góp phần giải mã thơ ca
Hmông một cách thấu đáo.
1.2. Kinh tế nƣơng rẫy và tập quán du canh
Ở Việt Nam, người Hmông thường cư trú rải rác trên những đỉnh núi cao,
chủ yếu là ở những vùng núi đá dọc biên giới phía Bắc thuộc các tỉnh: Hà Giang,
Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái và Cao Bằng. Đây là những nơi khí hậu khắc
nghiệt, nhất là về mùa đông, thời tiết hết sức giá lạnh, có nơi chìm trong băng giá
như ở Mèo Vạc (Hà Giang), Sa Pa (Lào Cai): Từ một đến hai tháng tuyết phủ trắng
phau/ Giống nương, giống rẫy khoanh tay, xếp chân co ro ngồi (dân ca Hmông).
Điều kiện đi lại, sinh hoạt, giao lưu rất khó khăn, hiếm nước, thậm chí khan hiếm cả
đất đai để canh tác.
Do di cư khá muộn vào Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á khác, khi
mà các vùng có điều kiện sống khá thuận lợi như đồng bằng hay các thung lũng
chân núi, đã trở thành nơi cư trú của hầu hết các dân tộc ở khu vực miền núi Bắc
Việt Nam thì người Hmông chỉ có thể lựa chọn cho mình những đỉnh núi cao để

sinh sống. Vì vậy, môi trường canh tác chủ yếu của người Hmông là nương, ruộng
ở trên cao. Người Hmông thường phát nương tra hạt hoặc cải tạo sườn núi làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
ruộng bậc thang. Ngô là cây lương thực chính của người Hmông. Ở một số vùng núi
đá cheo leo như Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), người Hmông phải gùi đất bỏ vào
các hốc đá để tra ngô, trồng bí
Do đặc điểm khí hậu và thổ nhưỡng nên ở vùng người Hmông sinh sống còn
trồng được nhiều cây dược liệu quí như: Đỗ trọng, tam thất, huyền sâm, xuyên
khung Ngoài ra, người Hmông còn trồng nhiều cây ăn quả như: mận tím, đào, lê,
táo Đặc biệt, có một loại cây được người Hmông trồng nhiều nhất đó là cây
lanh. Họ dành những vạt đất tốt nhất để trồng lanh để lấy sợi lanh dệt vải, may áo
váy, khăn, địu
Nương theo quan niệm của người Hmông có phần đơn giản hơn quan niệm về
nương của các dân tộc khác. Người Thái gọi là Hay, người Mường gọi là Roọng,
người Dao gọi là Tẩy- để chỉ một mảnh đất rừng được chặt phá, đốt dọn, được chọc
lỗ hay cày xới để trồng trọt, khái niệm nương được người Hmông gọi là têz và
người Hmông quan niệm về nó rất đơn giản: chỉ cần phát được một khóm nhỏ, chưa
phải là một vạt, một khoảnh rừng lớn, đơn giản chỉ cần tra được một hốc ngô xuống
cũng được gọi là nương. Người Hmông có đến hàng chục cách phân loại nương
theo những tiêu chí khác nhau, trong đó đáng chú ý là hai loại nương định canh
(Têz lâus) và nương du canh (Têz phax). Nương định canh là loại đất canh tác cố
định của người Hmông, được canh tác liên tục năm này qua năm khác, thậm chí đời
này qua đời khác. Loại nương này được áp dụng các kỹ thuật canh tác như thâm
canh, luân canh, xen canh; sử dụng cày, cấy, phân bón nhằm nâng cao năng suất và
tăng độ phì nhiêu của đất. Trong khi đó, nương du canh được canh tác đơn giản, có
khi chỉ là chọc lỗ, tra hạt. Khi đất bạc màu, họ chuyển sang khai phá mảnh nương
mới. Thực ra, có thể thấy hai cách ứng xử với hai loại nương rẫy khác nhau của

người Hmông hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện đất đai nơi họ cư trú. Những nơi
đất đai rộng, người Hmông sử dụng loại nương du canh; ở nơi đất chật, người đông
hoặc nơi đã định cư tương đối lâu dài, người Hmông sử dụng loại nương định canh.
Kinh tế nương không chỉ đảm bảo nguồn lương thực mà còn đáp ứng cho
người Hmông các nhu cầu thiết yếu nhất. Trong đó, lanh là thứ cây quan trọng, là
nguồn nguyên liệu chính giúp cho những người phụ nữ Hmông dệt nên những mảnh

×