Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

tư tưởng nhân văn và đạo đức kito giáo với văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.18 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN ANH THƯỜNG

TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN VÀ
ĐẠO ĐỨC KITƠ GIÁO VỚI VĂN HĨA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lịch sử Triết học
Mã số: 62.22.80.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRƯƠNG VĂN CHUNG

TP.HỒ CHÍ MINH – 2013


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, việc nghiên cứu, học hỏi, tiếp thu, chọn lọc các giá trị văn hóa của nhân loại, trong
đó tư tưởng triết học tơn giáo được xem là vấn đề cấp thiết. Tồn cầu hóa là xu thế tất yếu của thời đại, nhưng nó cũng có tính
hai mặt: một mặt nó sẽ mang lại cơ hội phát triển kinh tế, khoa học công nghệ cho các quốc gia chậm phát triển; mặt khác, nó
cũng là thách thức lớn cho các quốc gia khi hội nhập về văn hóa.
Kitơ giáo đã có mặt ở Việt Nam hơn 400 năm; đã có những ảnh hưởng nhất định đến văn hóa Việt Nam và đặc biệt ảnh
hưởng đến đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam. Có lẽ, nhân tố cơ bản nhất để Kitơ giáo bén rễ
trong nền văn hóa Việt Nam chính là tư tưởng nhân văn và đạo đức gần gũi với quan niệm đạo lý của người Việt Nam. Tư
tưởng nhân văn và đạo đức đó khơng những phù hợp với quan niệm đạo lý truyền thống, mà cịn góp phần làm cho nền văn
hóa Việt Nam thêm phong phú hơn.
Vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra chân giá trị của tư tưởng nhân văn, đạo đức của tơn giáo có ý nghĩa rất quan trọng góp


phần trong cơng cuộc đổi mới nói chung, trong sự nghiệp giáo dục, bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức, văn hóa dân tộc nói
riêng, khi mà xã hội cần phải huy động mọi nguồn lực tham gia. Để xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng, bình đẳng, văn
minh và hạnh phúc, bên cạnh việc củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc thì khơng thể khơng kế thừa, phát huy
những hạt nhân hợp lý, những giá trị tốt đẹp trong các tôn giáo nói chung và trong Kitơ giáo nói riêng vào việc xây dựng nền
đạo đức mới, nền văn hóa Việt Nam tiên tiến nhưng vẫn đậm tình nhân văn, nhân ái.
Từ những lý do trên đây, tôi đã chọn vấn đề: “Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo với văn hóa Việt Nam” làm đề
tài luận án tiến sỹ triết học.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Kitơ giáo là một trong những lĩnh vực được nhiều người quan tâm nghiên cứu và đã có rất nhiều đề tài, cơng trình
nghiên cứu với nhiều gốc độ tiếp cận khác nhau như: đạo đức học, sử học, nhân học, triết học, thần học, …
Ở Việt Nam có một số tài liệu nghiên cứu về Kitô giáo, đầu tiên phải kể đến cuốn Kinh thánh được dịch sang tiếng
Việt bởi nhiều tác giả khác nhau. Cho đến nay, có 7 bản dịch Kinh thánh trọn bộ, do các tác giả Kitô giáo thực hiện:
Bản thứ nhất của linh mục Albertus Schlicklin, (cịn gọi là Cố Chính Linh), sinh năm 1857 tại Đức, linh mục chính
địa phận Hà Nội (1890 – 1900) và qua đời tại Hà Nội năm 1932. Ông đã dịch Kinh thánh từ bản Vulgata, tiếng Latinh sang
tiếng Việt, bản dịch được Giáo hội công bố năm 1916, được xem là bản dịch Kinh thánh tiếng Việt sớm nhất. Bản dịch thứ hai
là của ông Phan Khôi (1887 – 1960) Kinh thánh Tin Lành, công bố năm 1924. Bản dịch thứ ba của Linh mục Gérard Gagnon
(còn gọi là cha Nhân), sinh năm 1914 tại Canada, sang Việt Nam năm 1935, dịch Kinh thánh Tân ước, công bố năm 1962. Bản
thứ tư của Linh mục Đaminh Trần Đức Huân (1910 – 1984), dịch và xuất bản Bốn Phúc âm và Tông đồ công vụ năm 1950;
Tân ước Đức Jesus Kitơ năm 1963; Tồn bộ Cựu Ước Tân ước năm 1969. Bản dịch này của Linh mục Trần Đức Huân được
dịch từ bản phổ thông Vulgata, tiếng Latinh. Bản dịch này khá phổ biến trong Giáo hội Công giáo, văn phong sáng sủa, thuần
Việt, ngôn ngữ trau chuốt. Bản thứ tư là của Linh mục Joseph Nguyễn Thế Thuấn (thuộc Dòng Chúa Cứu thế, học trường Kinh
thánh Giêrusalem bốn năm, từ 1952-1956): Tân ước, nhà Sách Đức Mẹ ấn bản năm 1965; Kinh thánh (Cựu ước và Tân ước)
xuất bản năm 1976; là bản dịch được giới học thuật đánh giá cao vì được dịch từ bản Kinh thánh Jerusalem (Bible de
Jerusalem); bản dịch này vừa có chú giải thuật ngữ khó hiểu, vừa có chỉ dẫn đối chiếu những nội dung tương đồng trong các
sách của Kinh thánh. Đặc biệt có các tiểu dẫn có giá trị nghiên cứu và tính khái quát rất cao trước khi vào nội dung cụ thể của
các phần hoặc các sách của Kinh thánh. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá bản dịch này khá sát nghĩa với bản gốc, đồng thời chứa
đựng những kết quả nghiên cứu của các nhà thánh kinh học trường Jerusalem; tuy nhiên, ngôn ngữ của bản dịch hơi cổ, văn
phong không trau chuốt lắm, nhiều câu văn chưa được Việt hóa hồn tồn…; người viết luận án, ngoài việc tra cứu các bản
Kinh thánh bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, cũng thường xuyên sử dụng, trích dẫn từ bản dịch này. Bản dịch thứ năm của Hồng Y
Joseph Maria Trịnh Văn Căn (1915 – 1990), dịch Kinh thánh dựa vào bản Bible de Jérusalem, có tham khảo tiếng Hipri,

Hylạp; bộ Tân ước xuất bản năm 1982, Toàn bộ Kinh thánh xuất bản năm 1985. Bản dịch này văn phong rất thuần Việt, tuy
nhiên nhiều nhà nghiên cứu không đánh giá cao vì khơng sát với bản gốc và thiếu chú giải. Bản thứ sáu là của Nhóm phụng vụ
giờ kinh, năm 1994 xuất bản Tân ước, năm 1998 xuất bản Kinh thánh Trọn bộ. Bản dịch này được nhiều người tham gia nhất
và đã được Tổng giám mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh phê chuẩn (Imprimur) nhưng hiện nay đang gây nhiều tranh
cãi cả về văn phong, cả về nội dung.
Trên lĩnh vực nghiên cứu về lịch sử - tơn giáo có một số cơng trình đã công bố như: Mười tôn giáo lớn trên thế giới
của Hồng Tâm Xun (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Trong quyển sách này, tác giả đã trình bày khái quát
nguồn gốc và các đặc điểm cơ bản của nhiều tôn giáo phổ biến, như Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, … Riêng ở phần viết về
Kitơ giáo, Hồng Tâm Xun đã trình bày một cách khái lược về lịch sử ra đời, giáo lý, lễ nghi của Kitơ giáo, chưa phân tích
gì đến nội dung của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kito giáo; Tác phẩm Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam của
Đỗ Quang Hưng, Tủ sách Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1991. Trong tài liệu này, tác giả trình bày về lịch sử quá trình du nhập và
phát triển của Kitô giáo qua các giai đoạn, đồng thời đánh giá về những hạn chế, những thăng trầm của Kitô giáo ở Việt Nam.
Đúng như tên của cuốn sách, nội dung chủ yếu bàn về những vấn đề mang tính sử học, cuốn sách cũng chưa phân tích vào
những nội dung và giá trị nhân văn và đạo đức Kito giáo; hay cuốn, Tôn giáo thế giới và Việt Nam của Mai Thanh Hải, Nxb.
Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000, trong cuốn sách này, tác giả trình bày khái quát về quá trình ra đời, phát triển, giáo lý, lễ
nghi, cơ cấu tổ chức của các tôn giáo thế giới như Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo… và các tôn giáo bản địa của Việt Nam như
Cao Đài, Hòa Hảo…Về phần Kito giáo tác giả cũng chỉ trình bày những nét cơ bản của giáo lý chứ chua phân tích đánh giá về
tư tưởng luân lý đạo đức Kito giáo; hay cuốn Một số tôn giáo ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Thanh Xuân, Nxb. Tơn giáo, Hà
Nội 2005. Trong cuốn này, phần trình bày về Kito giáo, tác giả chỉ trình bày khái lược về lịch sử, về một số nội dung cơ bản về
giáo lý và tổ chức của giáo hội, hầu như khơng trình bày và phân tích gì về tư tưởng nhân văn và đạo đức Kito giáo; hay cuốn
Thập giá và lưỡi gươm của linh mục Trần Tam Tĩnh, bản gốc tiếng Pháp: “Catholique et Cesar”, được linh mục Vương Đình
Bích dịch sang tiếng Việt, Nxb. Trẻ ấn hành năm 1978, cuốn sách này còn nhiều tranh cãi về quan điểm, về những tư liệu được


2
trích dẫn. Tuy nhiên đây là cuốn sách trình bày khá chi tiết q trình du nhập của Kitơ giáo vào Việt Nam, về âm mưu của đế
quốc Pháp lợi dụng giáo dân để chống lại triều đình nhà Nguyễn, về Giáo hội Công giáo Việt Nam trong các cuộc chiến tranh
chống Pháp, Mỹ…; hay cuốn, Tôn giáo lý luận xưa và nay của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, Lê Hải
Thanh, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2005. Cuốn sách này gần như là sự tổng hợp của nhiều bài tham luận nghiên cứu về
nguồn gốc, bản chất, chức năng và mối quan hệ của tôn giáo với các hình thái ý thức xã hội khác, ít phân tích và trình bày về

nội dung tư tưởng triết học đạo đức của tôn giáo. Cuốn Một số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn
Hồng Dương thuộc Viện Nghiên cứu Tôn giáo, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2012, nội dung cuốn sách trình bày
khá chi tiết về tổ chức Giáo hội Công giáo Việt Nam, về đời sống đạo của giáo dân ở Việt Nam, về các mối quan hệ của Nhà
nước Việt Nam với Giáo hội Công giáo Roma, về Giáo hội Công giáo Việt Nam với Giáo hội Công giáo Roma. Hay một số
tác phẩm khác của các linh mục như: Từ độc lập quốc gia đến độc lập tôn giáo, của linh mục Thiện Cẩm, Nguyệt san Công
giáo và Dân tộc, tháng 10 năm 2005; Công giáo đằng trong thời giám mục Pigneau, Tủ sách Đại kết, 1992, của Linh mục
Trương Bá Cần; hoặc Lịch sử biên niên Giáo hội Công giáo Việt nam của Linh mục Trần Anh Dũng, Orlando, 1986. Những
tác phẩm này chủ yếu trình bày về lịch sử của giáo hội Cơng giáo dưới cái nhìn của một người Việt Nam trong vai trị là chức
sắc Cơng giáo. Hay cuốn Lịch sử Giáo hội Công giáo của Linh mục Bùi Đức Sinh cũng đề cập đến quá trình ra đời và phát
triển của Kitô giáo dưới cái gốc độ lịch sử thần học Giáo hội, cuốn sách trình bày khá chi tiết về lịch sử của giáo hội Công
giáo, tuy nhiên được nhìn nhận dưới gốc độ thần học nên tính chất khoa học của tài liệu khơng được đánh giá cao…
Trên lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo học văn hóa, có cuốn Nghi lễ và lối sống Cơng giáo trong văn hóa Việt Nam của
Nguyễn Hồng Dương, Nxb. Khoa Học Xã Hội, 2001, trong cuốn sách này tác giả Nguyễn Hồng Dương phân tích, so sánh và
trình bày rất chi tiết về q trình hội nhập của Cơng giáo vào văn hóa Việt Nam, về những biểu hiện cụ thể trong quá trình hội
nhập như thánh ca, các nghi thức, rước kiệu, dâng hoa…, về quan hệ ứng xử của người Công giáo với cộng đồng xã hội, về
tâm lý của người Cơng giáo. Có thể nói cuốn sách trình bày khá hay và khá thuyết phục về quá trình hội nhập của Kito giáo
vào văn hóa Việt Nam…Tuy nhiên, cuốn sách cũng khơng tập trung phân tích và đánh giá tư tưởng nhân văn và đạo đức Kito
giáo dưới gốc độ triết học.
Trên phương diên nghiên cứu về thần học thì có rất nhiều tác phẩm của các chức sắc Kito giáo, tuy nhiên vì nhiều lý
do, các tài liệu đó ít được xuất bản chính thức, nhìn chung các tài liệu thần học ấy đều trình bày các vấn đề dưới gốc độ của
người có niềm tin về nhập thể, nhập thế, cứu chuộc, về sự phục sinh… của Đức Jesus và các mầu nhiệm, các bí tích và ln lý
của Kito giáo. Các tài liệu đó cũng có đề cập đến các nội dung về tư tưởng nhân văn và đạo đức Kito giao nhưng dưới gốc nhìn
của thần học, của niềm tin, chứ khơng phân tích đánh giá dưới gốc độ của triết học, của lý trí. Gần đây có một số tài liệu của
các tác giả nước ngoài được dịch hoạc biên dịch và được một số nhà xuất bản ấn hành. Trong đó có những cuốn đáng chú ý
như: Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo. Đây là cuốn sách do Hội đồng Giám mục Việt Nam chịu trách
nhiệm biên dịch, được Nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành năm 2007. Mặc dù là bản tóm lược nhưng cũng khá đồ sộ, gần 700
trang, trình bày gần như hầu hết mọi vấn đề của con người và đời sống xã hội nhưng bao giờ cũng được nhìn nhận đánh giá
dưới cái nhìn của thần học, của niềm tin Kito giáo. Cuốn Thần học Cơ đốc, gồm hai tập, của tác giả Millard J.Erickson, một
nhà thần học nỗi tiếng của giáo hội Tin Lành, nguyên tác bằng tiếng Anh, được Viện Thần học Tin lành Việt Nam biên dịch và
Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin ấn hành năm 2007, đây cũng là một tác phẩm đồ sộ, với dung lượng gần 1400 trang. Nội

dung của tác phẩm bàn đến gần như tất cả những nội dung của thần học Kito giáo: từ vấn đề sáng tạo, Thiên Chúa, mặc khải,
nguyên tổ, loài người, tội lỗi, tự do, cứu chuộc… cũng vậy, mọi vấn đề đều được xem xét dưới gốc độ của thần học và đức tin
Kito giáo.
Trên lĩnh vực lịch sử triết học cũng có một số cuốn đáng chú ý: cuốn Triết học trung cổ Tây Âu của Dỗn Chính và
Đinh Ngọc Thạch, Nxb. Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh, 2003. Trong cuốn này, các tác giả đã trình bày cơ động tư tưởng triết
học của Kitơ giáo, đặc biệt tư tưởng của các giáo phu như Augustin, Tertulien, Justin,… và đánh giá về những tích cực và hạn
chế của hệ thống triết học này dưới gốc độ duy vật biện chứng, tuy nhiên cuốn sách cũng chưa trình bày và phân tích sâu về
nội dung của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kito giáo. Gần đây có cuốn Tìm hiểu quan niệm đạo đức trong Kinh thánh của tác
giả Trương Như Vương được Nhà Xuất bản Tôn giáo ấn hành năm 2005. Sách được Giám mục Nguyễn Văn Sang, Giám mục
giáo phận Thái Bình, GS.TS Đỗ Quang Hưng, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Tôn giáo viết lời giới thiệu. Trong cuốn
sách này tác giả trình bày khá hệ thống lần lượt các nội dung chính như: vấn đề chung về Kinh thánh, những quan niệm về giá
trị đạo đức trong Kinh thánh, những quan niệm về chuẩn mực đạo đức yêu người, những chuẩn mực trong cuộc sống gia đình,
trách nhiệm đối với Tổ quốc và những lời răn dạy về quan hệ xã hội, đời sống tôn giáo… Cuốn sách đã chỉ ra được một trong
những nội dung tư tưởng rất cơ bản của Kinh thánh là đạo đức, để từ đó có thái độ trân trọng và phát huy. Trên phương diên
nào đó, cuốn sách đã trình bày được những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Kito giáo trong Kinh thánh, tuy nhiên, nếu
nhìn nhận dưới gốc độ triết học thì chúng tơi cho rằng tác giả nghiêng về một số nội dung cụ thể của đạo đức, chứ chưa trình
bày khái quát kiểu triết học với những phạm trù cơ bản của triết học đạo đức; hay, Luận án tiến sỹ triết học với đề tài “Công
giáo và những biến đổi của Công giáo hiện đại”, của Lê Thị Hương, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2008, nội dung chủ yếu của luận án này trình bày q trình ra đời, phân phái của Kitơ giáo và lý giải về
những biến chuyển của Giáo hội Công giáo trong giai đoạn hiện đại dưới gốc nhìn của chủ nghĩa duy vật biện chứng và cũng
khơng phân tích hay đánh giá gì nhiều về tư tưởng nhân văn và đạo đức Kito giáo
Ngồi những ấn phẩm trên, cịn nhiều tài liệu tiếng Việt khác viết về Kitô giáo trên các tạp chí, nguyệt san, tập san
khác nhau. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết của nghiên cứu sinh thì trong số các cơng trình đã cơng bố vẫn chưa có một chuyên
khảo nào nghiên cứu chuyên về tư tưởng nhân văn và đạo đức của Kitơ giáo với văn hóa Việt Nam, được tiếp cận dưới gốc độ
lịch sử triết học.
Về tài liệu tiếng nước ngồi, cũng có rất nhiều tài liệu nghiên cứu với nhiều lĩnh vực khác nhau về Kito giáo, nhưng vì
điều kiện và khả năng, nên nghiên cứu sinh cũng chỉ tiếp cận được một số tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Chẵng hạn
một số tài liệu tiếng Anh liên quan đến đề tài như: cuốn The Cambridge companion to Christian doctrine, của các tác giả



3
Gunton, E. Colin (1997), Cambridge, UK, Cambridge University Press. Trong cuốc này, các tác giả phân tích về các
tín điều thần học Kitô giáo với những giá trị luân lý của nó đối với tín đồ Kitơ giáo; hay cuốn The Cambridge Companion to
Christian Ethics, của Gill, Robin (2001), UK, Cambridge University Press. Trong tác phẩm này, các tác giả đặc biệt phân tích
và đánh giá đạo đức học của Kitô giáo đối với xã hội châu Âu; hay cuốn Introducing Christianity của nhóm tác giả Padgett,
G.Alan, Sally Bruyneel (2003), Maryknoll, New York, Orbis Books. Nội dung cuốn sách này trình bày kiến thức cơ bản về
Kitơ giáo dưới gốc độ Kitơ học, tức là trình bày lịch sử và những nội dung cơ bản của Kito giáo; hay cuốn The Story of
Christianity của nhóm tác giả Price, Matthew Arlen. Michael, Father Collins (2003), New York: DK Publishing Inc. Tài liệu
này trình bày quá trình ra đời và phát triển của Kitô giáo dưới gốc độ thần học lịch sử; hay cuốn Introduction To Christianity
của nhóm tác giả Miller, Michael Vincent, Ratzinger, Joseph, Pope Benedict XVI (2004), San Francisco, Ignatius Press. Tài
liệu này trình bày các khái niệm cơ bản về Kitơ giáo như: tín lý, tín điều, thánh truyền, mặc khải, cơng đồng, bí tích và các giai
đoạn phát triển của Kitơ giáo; hay cuốn Anthropologie của nhóm tác giả Georg Langemeyer, Styria Verlag, Graz Wien Koln,
tại liệu này đã được Đại chủng viện Thánh Giuse chuyển ngữ và cho lưu hành nội bộ với tên gọi: Nhân văn luận thần học qua
các tác giả. Cuốn sách này đúng hơn phải gọi là Nhân chủng học thì hợp lý hơn, cuốn sách tập hợp các tham luận mang tính
chất nghiên cứu nhân chủng học trên quan điểm Kito giáo, đồng thời cũng trình bày các quan niệm của Kinh thánh, của các
giáo phụ và các nhà thần học Kitô giáo về nguồn gốc của con người, về vị trí và vai trò của con người trong vũ trụ, về bản tính
của con người, về linh hồn, về tự do và trách nhiệm của con người với Chúa. Cuốn sách này trình bày khá nhiều nội dung, tuy
nhiên chỉ sơ lược, khơng phân tích hay đánh giá gì nhiều. Một số tài liệu bằng tiếng Pháp như: cuốn Aux origines d’une Eglise,
Rome et les missionsd’Indochine au XVIIe siècle, của Henri Chappoulie (1943), tome I, Paris. Cuốn sách này trình bày về
nguồn gốc ra đời của Kito giáo, của giáo hội Cơng giáo và q trình truyền giáo ở Đơng dương dưới quan điểm thần học luận
giáo sử ; hay cuốn, Histoire de L’Église của tác giả Bréhier L, Éditions du Cerf, 1971. Cuốn sách này thuần túy trình bày về
lịch sử giáo hội Công giáo ; hay cuốn Aux Origines d’une Eglise, Rome et les Missions d’Indochine au XVIIè siècle, của tác giả
Chappoulie 1943, tome 1, Éditions du Cerf. Cuốn sách này cũng trình bày về lịch sử giáo hội Cơng giáo và q trình truyền
giáo ở Đơng Dương thế kỷ 17…
Nhìn chung, trong khả năng hiểu biết hạn hẹp, nghiên cứu sinh nhận thấy hầu hết các cơng trình trên có xu hướng hoặc là
nghiên cứu về lịch sử, hoặc tiếp cận và giải quyết các vấn đề dưới gốc độ thần học của Kitô giáo, hoặc nghiên cứu về nhân
chủng học Kito giáo, hoặc nghiên cứu những hạn chế và đóng góp của Kitơ giáo dưới gốc độ lịch sử triết học…
Mặc dù trong và ngoài nước đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về Kitơ giáo, tuy nhiên nghiên cứu sinh nhận thấy chưa
có cơng trình nào thật sự đi sâu vào tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo dưới gốc độ lịch sử triết học và sự ảnh hưởng của
tư tưởng đó trong văn hóa Việt Nam. Vì vậy, thiết nghĩ đây là đề tài mới, khơng trùng lắp với các cơng trình đã cơng bố.

3.Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu làm rõ tư tưởng nhân văn, đạo đức Kitô giáo, những giá trị, hạn chế và sự ảnh
hưởng của tư tưởng đó trong nền văn hóa Việt Nam, từ đóp góp phần nhỏ vào việc hồn thiện đường lối, chủ trương, chính
sách và cơng tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Với mục đích như vậy, luận án đặt ra những nhiệm vụ chính sau đây:
Một là, trình bày khái qt về quá trình ra đời, phát triển và phân phái của Kitơ giáo, chứng minh các tiền đề hình thành
Kitơ giáo, lý giải về quá trình phát triển và phân phái Kitơ giáo, phân tích các đặc điểm của các phái Kitô giáo và khái lược về
kinh điển (Kinh thánh) Kitô giáo.
Hai là, trình bày, phân tích nội dung tư tưởng nhân văn và đạo đức của Kitô giáo, đồng thời xác định những tính chất cơ
bản của những tư tưởng đó.
Ba là, trình bày về q trình du nhập của Kitơ giáo vào Việt Nam, về những đóng góp và hạn chế của Kitơ giáo trong
q trình truyền giáo ở Việt Nam, xác định những ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo trong nền văn hóa
Việt Nam.
4.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đề tài được phân tích, chứng minh chủ yếu
trên cơ sở phương pháp định tính bằng các phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, so sánh,
loại suy và các phương pháp khác như văn bản học, tôn giáo học với nguyên tắc tiếp cận liên ngành.
5.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về cơ sở tư liệu, đề tài được nghiên cứu chủ yếu dựa trên tư tưởng của Kinh thánh, giáo lý, học thuyết xã hội của Kitô
giáo và một số văn kiện của các Công đồng Kitô giáo. Về nội dung, đề tài chủ yếu khai thác tư tưởng nhân văn và các phạm trù
đạo đức cơ bản của Kitô giáo, phân tích và đánh giá dưới góc độ giá trị, lịch sử triết học.
6.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Luận án trình bày và lý giải quá trình ra đời và phát triển của Kitơ giáo; phân tích và làm rõ cơ sở
triết học của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo; làm rõ nội dung của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo qua các
khái niệm tự do, cơng bằng, bình đẳng, khoan dung, tha thứ; chỉ ra được các tính chất của tư tưởng nhân văn và đạo đức của
Kitô giáo và sự ảnh hưởng của tư tưởng đó đối với đời sống văn hóa của một bộ phận người dân Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể góp phần nhỏ vào việc hồn thiện đường lối, chủ trương,
chính sách và công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời giúp vận dụng vào trong công tác tôn giáo ở Việt Nam,
nhằm phát huy những giá trị tích cực của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo trong xã hội, thúc đẩy tinh thần đoàn kết dân
tộc, cùng chung tay xây dựng đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai tìm hiểu,

nghiên cứu về Kitô giáo.
7.Cái mới của luận án
Luận án xác định được nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Kitô giáo là đề cao con người như là tinh hoa của vũ trụ,
đề cao quyền tự do, bình đẳng của con người và tư tưởng về giải phóng con người.
Luận án đã phân tích và xác định được nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Kitô giáo là công bằng, bác ái, khoan dung,
tha thứ, khiêm nhường và nhẫn nhục; đồng thời luận án cũng chỉ ra được các tính chất của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ
giáo có tính duy lý, tính hệ thống, tính duy tâm, siêu hình và tính phổ biến.


4
Luận án chứng minh được tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo ảnh hưởng đến đời sống văn hóa người Việt
Nam cả 3 phương diện: văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức.
8.Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, phụ lục, chú thích và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 3 chương,
10 tiết: Chương 1. Trình bày về quá trình hình thành và phát triển của Kitơ giáo. Chương 2. Trình bày về tư tưởng nhân văn và
đạo đức Kitơ giáo. Chương 3. Trình bày quá trình du nhập và ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo trong nền
văn hóa Việt Nam.
Chương 1
KHÁI QT Q TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KITÔ GIÁO
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH KITƠ GIÁO
1.1.1. Điều kiện lịch sử, kinh tế - chính trị - xã hội vùng Palestine đầu Cơng ngun với việc hình thành và phát triển của Kitô giáo
Kitô giáo ra đời vào đầu Công nguyên ở vùng đất Palestine, thuộc địa của đế chế La Mã. Dân Do Thái sống trong cảnh
bị áp bức, không những dưới tay Herode mà còn dưới ách thống trị của La Mã. Trong bối cảnh đó, dân Do Thái khao khát một
đấng cứu tinh, người Do Thái nào cũng mong chờ sự ra đời của Đấng Messia đã được các tiên tri loan báo từ bao đời nay. Họ
mong Đấng Messia đến lật đổ người La Mã, chấm dứt sự khổ ải của cả một dân tộc. Vậy nên, thời điểm Đức Jesus sinh ra đời
đúng vào lúc người Do Thái đang ấp ủ một ao ước có một vị lãnh tụ để giải phóng họ như Abraham, như Moses, như Yosueh,
như David… vì vậy, lúc đầu Đức Jesus xuất hiện họ chào đón và hy vọng như một anh hùng dân tộc.
Về chính trị xã hội, vào những thập niên đầu Công nguyên, đế chế La Mã đã chuyển từ chế độ thị tộc sang chế độ xã
hội có giai cấp. La Mã là một đế chế chiếm hữu nơ lệ và là nhà nước có qn đội hùng mạnh nhất thế giới khi đó. Nhà nước

chiếm hữu nơ lệ hùng mạnh nhất cũng có nghĩa là nhà nước có nhiều nơ lệ nhất, và chế độ nơ lệ ở đây cũng khắc nghiệt nhất.
Nô lệ là tầng lớp tận cùng của xã hội, bị coi như những súc vật biết nói. Người ta có thể mua bán nơ lệ như mua bán súc vật.
Tầng lớp nô lệ bị áp bức dã man, bị bóc lột tàn khốc. Đây là nguyên nhân khiến họ liên kết để đấu tranh chống lại tầng lớp chủ
nô. Trong những cuộc nổi dậy của nơ lệ thì khởi nghĩa do Spactacus 1 lãnh đạo vào những năm 73 – 71 trước Công nguyên đã
gây được tiếng vang rất lớn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, cuộc khởi nghĩa này bị dìm trong biển
máu. Kết cục là anh hùng nơ lệ Spactacus bị hành hình. Cuộc khởi nghĩa khơng thành nên mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ,
giữa giới quý tộc với giới bình dân càng gay gắt hơn. Những người nghèo khổ càng ngày càng cùng khổ hơn. Niềm hy vọng
được giải phóng khỏi áp bức bóc lột của họ đã hoàn toàn bị dập tắt.
Trong bối cảnh đó, Đức Jesus xuất hiện và rao giảng giáo lý cơng bằng, bình đẳng, bác ái, khoan dung, tha thứ; hứa hẹn
một nước trời hoan lạc và vĩnh cữu. Thế nên, sự xuất hiện của Jesus cùng những giáo lý mầu nhiệm trở nên dễ dàng được
nhiều người đón nhận. Cũng như có lời nhận định rằng: vì Spactacus thất bại nên Jesus đã thành công. Bởi lẽ, dẫu sao những
con người nghèo khổ, bị áp bức cũng tìm thấy ở đây sự an ủi, vỗ về; cùng những lời hứa hẹn được giải thoát dù chỉ là thuần túy
về mặt tinh thần.
1.1.2. Tiền đề về văn hóa - tư tưởng với sự hình thành Kitơ giáo
Kitơ giáo ra đời ngồi tiền đề về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thì văn hóa tư tưởng của Do Thái giáo, tư tưởng triết
học, văn học Hy Lạp cổ đại cũng đóng vai trị vơ cùng quan trọng.
Tiền đề về tư tưởng và văn hóa Do Thái giáo: Nếu xét về lịch sử và văn hóa thì Kitơ giáo là tơn giáo thốt thai từ Do Thái
giáo. Những tư tưởng và văn hóa trong Kinh thánh Do Thái giáo chính là những tiền đề cơ bản hình thành nên Kitơ giáo.
Trong Do Thái giáo có một niềm tin sâu xa về Chúa Cứu thế mà tiếng Do Thái gọi là Messia, tiếng Hy Lạp dịch thành
Christos. Messia mà các tổ phụ, tiên tri Do Thái như Abraham, Moses, David, Salomon, Isaiah, Samuel, Eliah… đã tiên báo và
mỏi mòn mong đợi từ lâu. Người Do Thái, dù là Pharisee, Saduseo hay Asseni, đều mang trong mình sự trơng đợi Ðấng Cứu
thế.
Vì vậy, khi Đức Jesus xuất hiện, rao giảng và tự xưng mình là Đấng Messia thì hầu hết người Do Thái đều tin Đức
Jesus sẽ làm một cuộc cách mạng để giải phóng dân tộc. Trong Phúc âm cũng tường thuật lại nhiều chi tiết chứng tỏ rằng
người Do Thái lúc bấy giờ không nghĩ rằng Đức Jesus là một người sáng lập tôn giáo mới mà hầu như nghĩ rằng Đức Jesus là
một lãnh tụ cách mạng cho Israel và rằng Đức Jesus sẽ làm vua Do Thái.
Tiền đề về tư tưởng triết học và văn chương Hy Lạp: Các triết gia Hy Lạp trước Đức Jesus khoảng 4 thế kỷ như
Pythagore, Platon, Aristote, Philo,… đã có những tư tưởng và quan niệm về một thế giới siêu nhiên, về linh hồn bất tử, về
Ngôi lời nhập thể,… Vì thế, những tư tưởng đó vừa là tiền đề, vừa là giá đỡ về mặt lý luận cho Kitô giáo. Điều đó cũng được
các nhà thần học, triết học và những nhà hoạt động Kitơ giáo thừa nhận.

1.2.Q TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÂN PHÁI CỦA KITƠ GIÁO
Kitơ giáo là tôn giáo do Đức Jesus (4tr.CN – 33s.CN) sáng lập tại Israel, Palestine dưới hưng thịnh của đế chế La Mã.
Thuật ngữ Kitô giáo dùng để chỉ tất cả các phái tôn giáo do Đức Jesus Kitô sáng lập. Kitô giáo gồm bốn nhánh lớn: Cơng giáo
(Catholique), Chính thống giáo (Orthodorse), Tin Lành (Protestament), Anh giáo (Englishisme).
1.2.1. Người sáng lập Kitô giáo và Giáo hội Kitô giáo thời sơ khai
Đức Jesus được gọi là Đức Kitô, hay Chúa Jesus Kitô là người sáng lập ra Kitô giáo. Từ Kitô trong tiếng Việt được phiên
âm từ tiếng Tây Ban Nha Kyto, tiếng Latinh Christus, tiếng Hy Lạp Khristós, Tiếng Hán-Việt là Cơ Đốc. Về nghĩa, thuật ngữ Kitô
là một danh hiệu để chỉ “người được xức dầu”, theo Thiên Chúa giáo, nghĩa là một người được chọn bởi Thiên Chúa.
Có thể nói Đức Jesus vừa là một nhân vật lịch sử lại vừa là một nhân vật của niềm tin tôn giáo. Với tư cách là một nhân vật
lịch sử, có những chứng cứ chứng minh sự tồn tại của Đức Jesus, với tư cách là một nhân vật của niềm tin tôn giáo Đức Jesus
được Kinh thánh, giáo lý và rất nhiều các tác phẩm thần học chứng minh về chương trình cứu độ của Đức Jesus, từ những lời tiên
báo, đến giáng sinh, rồi cuộc đời rao giảng Tin mừng, chịu chết khổ nhục trên thập giá, phục sinh, lên trời…
Các sách Phúc âm viết rằng người La Mã buộc tội Chúa Jesus vì muốn xoa dịu sự bất bình của giới cầm quyền Do Thái.
Nhưng một số học giả cho rằng đó là cách đế chế La Mã trừng phạt những người chống đối họ.Tín đồ Kitơ giáo tin rằng việc

1

Spartacus sinh 109 tr.CN - 71 trước CN), theo các sử học gia, là một đấu sĩ nô lệ, người đã trở thành một trong các thủ lĩnh của cuộc nổi dậy không thành
công của các nô lệ chống lại Cộng hòa La Mã được biết là Chiến tranh nô lệ lần ba.


5
Đức Jesus chịu chết là một sự tiền định, vì đúng như những lời tiên tri đã chép trong Kinh Cựu ước những thế kỷ trước về cái
chết và sự sỉ nhục mà Đức Jesus phải chịu.
1.2.2. Quá trình phát triển và phân phái của Kitô giáo
Sau cái chết của Đức Jesus trên thập tử giá, các tông đồ đã đi truyền bá giáo lý Kitô giáo ở Bắc Phi, Tiểu Á, Ả Rập, Hy
Lạp và La Mã, để thành lập những cộng đồn Kitơ giáo đầu tiên. Tuy nhiên, đó cũng là thời kỳ chính thức chính quyền La Mã
đàn áp Giáo hội qua chín đời hồng đế.
Constantine I ban hành Sắc lệnh Milano năm 313: Constantine có lẽ được biết đến nhiều nhất vì ơng là hồng đế La
Mã đầu tiên theo Kitô giáo. Triều đại của ông là một bước ngoặt lịch sử của Kitô giáo. Năm 313, Constantine công bố chấp

nhận Thiên Chúa giáo trong Sắc lệnh Milan, bãi bỏ sự trừng phạt đối với những người theo Kitô giáo và trả lại các tài sản của
Giáo hội đã bị tịch thu. Triều đại lâu dài của Constantine, sự chuyển đổi của ông, và sự bảo trợ Giáo hội của ông đã thiết lập lại
vị thế mới của Kitơ giáo trong tồn đế chế La Mã. Constantine đã bảo trợ Giáo hội về mặt tài chính, xây dựng nhiều thánh
đường khác nhau.
Đầu thế kỷ X, các dòng tu phương Tây lan rộng khắp nơi, dẫn đầu là dòng Benedicto. Đầu thế kỷ XI, các trường dòng
phát triển thành các viện đại học (Đại học Paris, Oxford, Bologna,…).
Cuộc đại phân ly lần I: Cơng giáo và Chính thống giáo
Cuộc đại ly giáo, năm 1054, chia cắt Giáo hội thành hai phần: phương Tây còn gọi là Giáo hội Cơng giáo Rơma, và
phương Đơng cịn gọi là Giáo hội Chính Thống Phương Đơng. Ngồi những bất đồng về một số quan điểm thần học và thẩm
quyền của Giáo hồng, những dị biệt về văn hóa và ngơn ngữ giữa hai nền văn hóa Latin và Hi Lạp cũng là những nhân tố
quan trọng thúc đẩy sự phân ly của hai giáo hội này.
Cuộc đại phân ly lần thứ II: Công giáo và Tin Lành (Kháng cách)
Kháng cách (Protestant Reformation), hay thường gọi là Giáo hội Tin Lành là phong trào khởi phát vào thế kỷ XVI như
là một chuỗi các nỗ lực nhằm cải cách Giáo hội Công giáo Rơma. Phong trào được khởi xướng với chín mươi lăm luận đề của
Martin Luther và kết thúc với Hòa ước Westphalia năm 16482. Khi đó, nhiều người ở châu Âu bất bình về những điều mà họ
cho là giáo lý giả mạo, bất bình về những lạm dụng phổ biến trong Giáo hội, nhất là việc rao giảng và bán ân xá (indulgence).
Cuộc phân ly giữa Công giáo và Kháng cách như là một tất yếu của lịch sử. Vì chủ nghĩa nhân bản thời Phục hưng đem
đến khí thế sục sơi chưa từng có trong giới trí thức, cùng lúc với mối quan tâm dành cho tinh thần tự do trong học thuật.
Cuộc ly giáo lần thứ III: Công giáo và Anh giáo
Cuộc cải cách tôn giáo tại Anh khởi đầu với những mục tiêu chính trị của vua Henry VIII. Nguyên nhân trực tiếp nhất
chính là nhà vua muốn hủy bỏ hơn nhân với vợ là hồng hậu Catherine của vùng Aragon, để kết hơn chính thức với Anne
Boleyn. Henry VIII viện lý do là vợ không có hồng tử thừa kế ngai vàng. Nhưng Giáo hồng Clement VII khơng chấp nhận.
Khi đó, nhà vua nhận thấy sự cần thiết và ích lợi của việc thành lập Giáo hội Anh Quốc mà nhà vua đứng đầu Giáo hội. Và rồi,
ông đã cho ra đạo luật Quyền Tối thượng năm 1534 tuyên bố vua nước Anh là “Thủ trưởng tối cao duy nhất trên trái đất của
Giáo hội Anh Quốc” (The only Supreme Head in Earth of the Church of England). Các đạo luật khác, như luật giải thể tu viện
năm 1542, mang một số lượng lớn các loại tài sản của tu viện Công giáo vào tay nhà vua, rồi sau đó vào tay các nhà quý tộc.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ KINH THÁNH CỦA KITÔ GIÁO
1.3.1. Về khái niệm, nguồn gốc và kết cấu Kinh thánh Kitô giáo
Danh từ Kinh thánh được dịch ra từ chữ Latin biblia có nghĩa là quyển sách. Ngày xưa người ta dùng vỏ cây cắt ra thật
mỏng như tờ giấy (papyrus) để ghi chép các tài liệu. Loại giấy papyrus được sản xuất, rồi bán đi các nơi từ thành phố Biblios.

Thành phố này của người Phênixi, và là một hải cảng ở phía bắc nước Do Thái, gần Beyruth, Libăng ngày nay.
Tín đồ Kitơ giáo tin rằng Ðức Chúa Trời đã dùng những người viết (được xem là tác giả thứ hai) để truyền đạt lời của
Chúa. Và họ đều tin rằng chính Chúa (tác giả thứ nhất) là tác giả của cả quyển Kinh thánh. Vì vậy, Kinh thánh cịn được gọi là
lời của Đức Chúa Trời.
Kinh thánh khơng cịn lại một ngun bản nào mà chỉ tìm được các bản sao chép rất xưa mà thôi. Vậy nên các bản đó có
giá trị như nguyên bản, và đã được gìn giữ rất cẩn thận trong những viện bảo tàng. Nguyên bản rất cổ của phần thứ nhất Cựu ước
đã được viết khoảng thế kỷ 13 trước Công nguyên. Phần cuối cùng Tân ước được viết xong khoảng năm 100 sau Cơng ngun.
Kinh thánh gồm có phần Cựu ước và Tân ước. Theo thần học Kitô giáo, nội dung Cựu ước nói lên giao ước giữa Ðức
Chúa Trời và dân Do Thái. Cịn Tân ước nói về giao ước mới của Ðức Chúa Trời với loài người.
1.3.2. Khái quát về nội dung và đặc điểm Kinh thánh
Khái quát nội dung và đặc điểm Kinh thánh Cực ước. Cựu ước gồm 46 cuốn, được chia thành các loại: Ngũ kinh,
Lịch sử, Tiên tri và Văn chương.
Ngũ kinh (Torah), trình thuật về cơng cuộc sáng tạo vũ trụ, con người; trình thuật về nguồn gốc của dân tộc Israel; trình
thuật cuộc hành trình của dân Israel từ Ai Cập về đất Palestine, về những luật lệ của Do Thái giáo… Sách Lịch sử trình bày về
các triều đại của Israel và các cuộc lưu đày của dân tộc Do Thái. Sách Tiên tri trình bày về nội dung tư tưởng của các vị ngôn
sứ mà người Do Thái cũng như Kitô giáo tin đó là những ngơn sứ được Chúa sai đến để truyền đạt lời của Chúa cho dân Israel.
Sách Văn chương trình bày về những trước tác văn thơ tôn giáo, châm ngôn, khôn ngoan, giảng dạy về cách đối nhân xử thế,
về lẽ sống cuộc đời.
Khái quát nội dung và đặc điểm Kinh thánh Tân ước
Tân ước bao gồm 27 cuốn: 4 sách Phúc âm, 21 Thư của các thánh tông đồ, 1 sách Tông đồ công vụ và 1 sách Khải
huyền.
Sách Phúc âm trình thuật về cuộc đời của Chúa Jesus từ nguồi gốc gia phả, quá trình giảng dạy giáo lý với những phép
lạ, cuối cùng là cuộc tử nạn và phục sinh. Sách Công vụ tong đồ trình thuật về hoạt động truyền giáo của các môn đồ của Chúa
Jesus sau khi Chúa Jesus qua đời; có thể hiểu đó là sự trình thuật về lịch sử giáo hội Kitô giáo thời sơ khai. Sách Thánh thư, là
những bức thư của các Tông đồ thời giáo hội sơ khai gửi cho các giáo đoàn, cá nhân để thơng tin, giải thích, truyền đạt giáo lý
Kitơ giáo thời sơ khai. Sách Khải huyền được xem là sách tiên tri, nói về ngày phán xét, ngày tận thế, nói về cuộc chiến giữa
thế lực của cái thiện và cái ác…
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

2


Xem Simon, Edith (1966). Great Ages of Man: The Reformation, pp. 120-121.


6
Kitơ giáo là tơn giáo lớn chính thức ra đời từ đầu Công nguyên. Tuy nhiên, ngọn nguồn tư tưởng đã có từ hằng ngàn
năm trước, với những quan niệm về một Đấng Kitơ từ trời xuống để giải thốt cho dân Do Thái, hay từ những tư tưởng thần
thoại của các triết gia Hy Lạp cổ đại về một một vị thần có thể làm người được mạnh danh là Logos (Thần ngơn)… Ngồi
những tiền đề về văn hóa, tư tưởng sâu xa ấy, điều kiện kinh tế - chính trị của đế chế La Mã vào những thập niên đầu công
nguyên cũng tạo thuận lợi cho sự ra đời của Kitô giáo. Cuộc nỗi dậy của anh hùng nô lệ Spactacus thất bại là điều kiện tốt cho
Đức Jesus rao giảng về một giáo lý bác ái, công bằng, bình đẳng… với những lời hứa hẹn một nước trời hoan lạc cho những
người tin và sống theo giáo lý ấy.
Kitô giáo được Đức Jesus sáng lập. Đức Jesus vừa là một nhân vật lịch sử vừa là một nhân vật huyền thoại. Đức Jesus
là một nhân vật lịch sử vì có đầy đủ những chứng cứ sử học về sự xuất hiện và sự tử nạn trên cây thập tử giá, là một nhân vật
huyền thoại vì những việc Ngài làm được tường thuật lại trong bốn sách Phúc âm như những phép lạ, và người Kitô giáo tin
rằng những việc đó chỉ có Chúa mới làm được cịn người bình thường thì khơng thể làm được.
Kitơ giáo với ba cuộc phân ly lớn tạo nên bốn phái khác nhau: Cơng giáo, Tin lành, Chính thống, Anh giáo. Mặc dù
cùng chung một nguồn gốc nhưng các phái có một số đặc điểm khác nhau về tín lý, về lễ nghi, về tổ chức…
Kinh điển của Kitô giáo là cuốn Kinh thánh trọn bộ: Cựu ước và Tân ước. Cựu ước được xem là lời của Chúa nói với
con người trước khi Đức Jesus xuất hiện. Tân ước thì tường thuật lại những lời giảng dạy và việc làm của Đức Jesus, những
hoạt động của các môn đệ trong thời kỳ Kitô giáo sơ khai.
Chương 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN
VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA KITÔ GIÁO
2.1 CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN VÀ ĐẠO ĐỨC KITÔ GIÁO
Một trong những nội dung sâu sắc và phong phú của Kitô giáo là tư tưởng nhân văn và đạo đức. Tư tưởng nhân văn và
đạo đức Kitơ giáo hình thành dựa trên cơ sở triết lý, tư tưởng nhất định, đó là quan niệm của Kitơ giáo về nguồn gốc của vũ trụ
và vạn vật. Có thể nói, về phương diện triết học nhân sinh quan Kitô giáo thống nhất với thế giới quan của Kitô giáo
2.1.1 Vũ trụ quan của Kitô giáo
Kitô giáo quan niêm Thượng đế sáng tạo nên vũ trụ và vạn vật, truyền tải sinh khí cho trụ. Trong kinh Tin kính có câu:

“Tơi tin rằng Thượng đế là Cha toàn năng, Ðấng tạo thành trời đất, mn vật hữu hình và vơ hình”3. Mỗi vật đều phản ánh một
phần sự khôn ngoan và tốt lành của Thượng đế, đều có mục đích nhất định, khơng vật nào có thể tự mãn, mà phải tùy thuộc lẫn
nhau, để bổ túc và phục vụ cho nhau, mỗi vật ở một cấp bậc khác nhau.
2.1.2. Nhân sinh quan Kitô giáo
Về nguồn gốc của con người, Kitô giáo cho rằng nguyên tổ của nhân loại là do Chúa dựng nên từ bùn đất, Chúa thổi
sinh khí vào cho con người được sống, Chúa truyền cho con người phải sinh sôi nảy nở để cai quản muôn vật muôn lồi (xem
St 1-2).
Theo Kitơ giáo, con người có hai phần: thân xác và linh hồn. Yếu tố làm con người hiện hữu là bản tính gồm cả phần
hồn và phần xác. Thân xác không phải là thứ nô lệ của linh hồn và cho linh hồn, không phải là yếu tố hoàn toàn thụ động.
Ngược lại, về phương diện hiện hữu, thân xác bình đẳng với linh hồn, vì khơng có thân xác thì cũng chẳng có vấn đề con người
hiện hữu và hình thành. Về phương diện nhân phẩm, thân xác cũng có giá trị khơng kém linh hồn. Nếu ai hành hạ thân xác con
người hay xúc phạm nhân phẩm con người thì hành động đó chẳng những xỉ nhục chính nạn nhân mà cịn hạ nhục nhân phẩm
của lồi người nói chung. Dù người bị tật nguyền về thể xác, hay xấu xí về dung mạo, họ vẫn là con người, vẫn phải được tơn
trọng vì con người bình đẳng về luân lý và phẩm giá.
2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN KI TƠ GIÁO
2.2.1. Tơn vinh con người là sản phẩm tối ưu của vũ trụ
Kitô giáo quan niệm, con người là sản phẩm tối ưu của cơng cuộc sáng tạo, vì được tạo dựng riêng biệt” (St 1: 26). Nếu
theo cách giải thích của các nhà vũ trụ luận thần học thì chương đầu sách Sáng thế của Kinh thánh là sự thể hiện công trình
sáng tạo của Thượng đế có tính tiệm tiến (tiến hóa) từ đất trời, ánh sáng, nước, thực vật, động vật và cuối cùng của công cuộc
sáng tạo là con người. Điều đó muốn ám chỉ con người là ưu việt nhất, là chóp đỉnh của mọi tạo vật. Theo Kinh thánh thì Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”( St 1: 27). Và theo thơng điệp ấy,
hình ảnh Thiên Chúa (image Dieu) nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người với tất cả những loài thụ tạo
khác.
2.2.2. Đề cao quyền tự do và bình đẳng của con người
Về tư tưởng đề cao quyền tự do: Kitô giáo không xem tự do như một học thuyết, hay một chủ nghĩa mà xem tự do như
một thuộc tính đặc trưng của con người. Kitơ giáo cho rằng “Con người chỉ có thể hướng đến điều tốt trong tự do, tự do là món
quà mà Chúa đã ban cho con người như một trong những dấu hiệu cao quý nhất của con người.” 4 Chính phẩm giá con người
buộc con người phải hành động phù hợp với sự lựa chọn có hiểu biết và tự do, nghĩa là được thúc đẩy và hướng dẫn mỗi cá
nhân từ bên trong, chứ không do sự thôi thúc của bản năng mù quáng hay bởi áp lực từ bên ngồi. Cơng đồng Vatican II khẳng
định: “Tự do đích thực là một dấu chỉ độc đáo về hình ảnh Thiên Chúa nơi con người”.

Về tư tưởng đề cao quyền bình đẳng con người của Kitơ giáo: Kitơ giáo bàn đến bình đẳng tức là bàn đến bình đẳng về
nhân phẩm con người và xem đó là nền tảng để bàn đến những loại bình đẳng khác.
Theo Kitơ giáo, bình đẳng về mặt luân lý nghĩa là: về nguyên tắc, mọi người trong xã hội đều bình đẳng về danh dự và
phẩm giá, đều xứng đáng được tôn trọng và quan tâm. Con người khác nhau trên phương diện thể lý, giới tính, về địa vị xã
hội,… nhưng được bình đẳng với nhau về mặt tinh thần. Nhu cầu được tôn trọng là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của
con người.
Tự do và bình đẳng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Khi con người hiểu được mọi người đều có quyền tự do, giới
hạn của tự do, tự do đi với trách nhiệm và bổn phận với tha nhân, biết được tự do như một thuộc tính đặc trưng của con người

3

Kinh Tin Kính (tiếng Latinh: Symbolum Apostolorum hoặc Symbolum Apostolicum), được xem là một lời tuyên bố niềm tin Kitô giáo ngay
từ thời sơ khai. Kinh này được sử dụng rộng rãi trong các giáo phái Kitô giáo.
4
Hội đồng Giám mục Việt Nam, Học thuyết xã hội, số 251


7
thì con người tơn trọng quyền của mỗi người, xem mọi người đều có quyền bình đẳng về mặt ln lý. Mỗi người có tự do
nhưng khơng được lạm dụng quyền tự do để làm phương hại đến người khác, ngược lại phải biết lấy tự do để tôn trọng và phục
vụ tha nhân.
2.2.3. Tư tưởng giải phóng con người
Tư tưởng nhân văn Kitô giáo cũng bàn đến vấn đề giải phóng con người như một trong những nội dung quan trọng
nhất. Cụ thể là tư tưởng giải phóng con người khỏi những ràng buộc của luật lệ và những quan niệm phi nhân tính. Trước khi
Kitơ giáo ra đời, có giai đoạn xã hội Israel quan niệm lề luật được chép trong Cựu ước (Xh, 12) là chuẩn mực tuyệt đối mà con
người phải tuân thủ một cách trọn vẹn, khơng có bất cứ một lý do gì để thoái thác kể cả đau ốm, bệnh tật. Thế nhưng khi Đức
Jesus xuất hiện, Ngài đã khẳng định: lề luật phải vì con người, chứ khơng phải con người vì lề luật, ngày sabat được lập ra
cũng vì con người, con người làm chủ cả ngày sabat. Tư tưởng giải phóng con người khỏi những điều xấu xa tội lỗi. Kitô giáo
cho rằng, con người từ thủa mới được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, tốt lành, thánh thiện nhưng do nguyên tổ đã nghe
lời dụ dỗ của con rắn, bất tuân lệnh Chúa, phạm tội ăn trái cấm nên sự thánh thiện đó mất dần đi và lồi người bị những thế lực

của tội lỗi xấu xa như ghen ghét, hận thù, tham lam, đố kỵ không chế. Đức Jesus xuống thế làm người chuộc lại lỗi lầm của
nguyên tổ, rao giảng giáo lý về niềm tin và tình yêu thương. Ai tin vào Chúa, yêu mến Chúa và tha nhân sẽ được giải phóng
khỏi sự ràng buộc của tội lỗi xấu xa, và khi lìa khỏi đời này sẽ được vào thiên đàng, vào cỏi trường sinh bất diệt.
Phương thức giải phóng con người cũng khơng bằng chính trị, hay bằng bạo lực mà bằng niềm tin và tình u. Thơng
điệp về niềm tin và tình u thương cũng chính là phương pháp giải phóng con người khỏi thế lực của tội lỗi, của sự đố kỵ, ích
kỷ, hận thù…
Tóm lại, tư tưởng nhân văn Kitơ giáo mặc dù từ thế giới quan duy tâm khách quan nhưng vẫn đề cao vị trí, vai trị con
người như một sản phẩm tối ưu nhất của vũ trụ, đóng vai trị cai quản mọi lồi thọ tạo do Tạo hóa dựng nên. Con người là sản
phẩm độc nhất vơ nhị của tạo hóa vì là một chỉnh thể kết hợp của hai yếu tố thiêng liêng – vĩnh hằng (linh hồn) và vật thể –
hữu hạn (thể xác). Kitô giáo cũng khẳng định con người có quyền tự do và bình đẳng, đó là phẩm giá cao q bất khả xâm
phạm. Theo Kitô giáo, mặc dù Chúa dựng nên con người nhưng con người có quyền tự do lựa chọn, quyết định và chịu trách
nhiệm về những gì mình quyết định. Vì vậy mà bản chất con người khơng có mẫu số chung, bản chất mỗi người thiện hay ác là
do quyền tự do lương tâm lựa chọn và chịu trách nhiệm về những gì mình đã chọn. Chúa khơng can thiệp vào tự do của mỗi cá
nhân. Vì vậy mà thánh Augustin đã nói: “Chúa dựng nên con người không cần hỏi ý kiến con người, nhưng nếu Chúa muốn
cứu chuộc con người thì phải hỏi ý kiến con người” 5.
2.3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KITƠ GIÁO
Trên cơ sở tư tưởng nhân văn, Kitơ giáo đưa ra những nội dung luân lý đạo đức như công bằng, bác ái, khoan dung, tha
thứ, khiêm nhường, nhẫn nhục.
2.3.1. Tư tưởng công bằng và bác ái của Kitô giáo
Về tư tưởng công bằng, công bằng (justice) là khái niệm có nội hàm rất phong phú và phức tạp. Nó khơng những hàm
chứa ý nghĩa đạo đức và ln lý mà cịn mang chiều kích chính trị, kinh tế và xã hội. Theo từ nguyên, công bằng được hiểu là
sự cơng minh, chính trực khơng tư tâm, thiên lệch. Xuyên suốt nhiều thế kỷ, công bằng là khẩu hiệu được nhiều người sử dụng
trong các cuộc tranh đấu và vận động quần chúng.
Kitô giáo cho rằng: “Công bằng là nhân đức luân lý thể hiện qua quyết tâm trả lại cho tha nhân những gì thuộc về tha
nhân. Cơng bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và sống hài hịa bằng cách đối xử cơng minh đối với mọi người và thực
thi cơng ích”.6
Theo Kitơ giáo, cơng bằng có những đặc điểm như: tính phổ qt, hướng đến cơng ích, tính chất pháp định, tính chất
giao hốn, tính chất phân phối.
Kitơ giáo quan niệm cơng bằng là điều kiện sơ khởi và cần thiết của một xã hội nhân bản, không thể xây dựng một xã
hội phát triển, an hịa, nếu khơng tơn trọng các địi hỏi căn bản của công bằng. Các nhà thần học Kitô giáo cho rằng, cơng bằng

có một đặc tính khẩn thiết hơn bác ái, vì thuật ngữ “cơng bằng” bao gồm một thực thể cưỡng bách nghiệm ngặt hơn. Xét theo
bản thể, công bằng là trả cho người khác những cái thuộc về họ, phục hồi những gì họ bị cưỡng đoạt. Nói cách khác, thực hiện
đức cơng bằng là chuyển giao cho tha nhân quyền hồi phục, quyền lấy lại những sự vật mà mình đang thừa hưởng.
Về tư tưởng bác ái, thuật ngữ bác ái trong tiếng Việt được phiên âm từ tiếng Hán (tình yêu thương đại đồng), dịch từ tiếng
Hy Lạp là agape, tiếng Latinh là caritas, trong tiếng Pháp là charité. Trong nhiều trường hợp, thuật ngữ caritas cũng được dịch là
đức yêu thương, tình yêu thương. Thuật ngữ bác ái có nội hàm rất phong phú, được xem là một trong những phạm trù nền tảng
của đạo đức Kitô giáo.
Bác ái Kitô giáo được hiểu là tình yêu thương chân thật, phổ biến, vượt trên tình cảm bình thường của con người, là
“tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả và chịu đựng tất cả” (1Cor 13, 7-8); “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông,
không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, khơng tìm tư lợi, khơng nóng giận, không nuôi hận thù, không
mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật, khơng tính toán hơn thua” (1Cr, 13: 1-13).
Vấn đề quan hệ giữa cơng bằng và bác ái của Kitơ giáo: có thể nhận thấy, tư tưởng về công bằng và bác ái trong Kitơ
giáo có mối quan hệ biện chứng rất sâu sắc. Nếu bác ái mà không dựa trên công bằng thì đó là bác ái duy tín, duy cảm, khơng hiện
thực nhưng nếu cơng bằng mà khơng có bác ái sẽ là cơng bằng lạnh lùng, thiếu sinh khí, thiếu nhân văn trọn vẹn. Theo luân lý
Kitô giáo, mọi hoạt động bác ái phải đảm bảo tối thiểu sự công bằng, tuy nhiên người tín đồ phải cố gắng xa hơn yêu cầu tối thiểu
để có được tinh thần bác ái, u thương tha nhân như chính mình.
2.3.2. Tư tưởng khiêm nhường và nhẫn nhục của Kitô giáo
Về khái niệm khiêm nhường, theo nghĩa phổ thông khiêm nhường được hiểu là sự nhún nhường, khiêm tốn, nhường
nhịn, là hạ mình thấp hơn những gì tốt đẹp mà mình đang có. Theo Kitô giáo, khiêm nhường là nhân đức luân lý dùng để chỉ
việc chấp nhận sự thật về chính mình, biết trân trọng, tôn trọng người khác, biết loại bỏ hình ảnh hào nhống giả tạo mà chấp
nhận hình ảnh đích thực của mình; khiêm nhường là một nhân đức cao cả nhất chống lại “sự kiêu ngạo”. Theo truyền thống
Kinh thánh, khiêm nhường hệ tại vào sự tôn trọng trật tự do Chúa đã sắp đặt. Quyền định đoạt sự thiện và sự ác là của Chúa.
Khi con người muốn chiếm đoạt quyền đó, con người rơi vào kiêu ngạo, làm đảo lộn trật tự ban đầu.
5
6

La Confession de Saint Augoustin, p.76.
Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo lý Công giáo, số 1807



8
Theo Kitơ giáo, khiêm nhường đóng vai trị là cơ sở cho các nhân đức khác vì vậy mà trong kinh “Cải tội bảy mối
có bảy đức” 7, khiêm nhường được đặt đầu tiên trong tất cả các đức. Thần học Kitô giáo cũng khẳng định nguồn gốc của tội
nguyên tổ Adam và Eva cũng là do kiêu ngạo, muốn bằng Thượng đế; Thiên thần Luxifer bị đày xuống hoả ngục cũng là do
kiêu ngạo…Vì vậy, Kitơ giáo xem khiêm nhường là đầu mối của mọi nhân đức, còn kiêu ngạo, tự mãn là đầu mối của mọi tội
lỗi.
Tư tưởng về nhẫn nhục: nguyên nghĩa, nhẫn là chịu đựng phần kém, phần thiệt thịi về mình; nhục là hèn kém, đáng
xấu hổ. Nhẫn nhục trong đạo đức Phật giáo cũng như Kitơ giáo đó là sự kiên nhẩn chịu đựng sự hèn kém, sự sỉ nhục khi bị xúc
phạm mà vẫn giữ tâm bình thản, khơng có sự phản ứng gì trước sự xúc phạm ấy; gặp lúc thiếu thốn, đói khổ, khơng bi quan,
khơng ngã gục, phải chịu đựng để vượt qua, đó cũng được coi là nhẫn nhục.
Tư tưởng nhẫn nhục mà Kitơ giáo đề cập đến đó là chịu đựng mọi việc với tấm lòng tha thứ, không cầu danh lợi, không
nhu nhược cũng không nuôi sự ốn hận trong lịng. Khơng phản ứng lại việc người khác chèn ép hay xúc phạm mình khơng
phải vì yếu thế, nhưng không muốn sự việc trở nên phức tạp, để lại hậu quả xấu, đó là đức tính nhẫn nhục mà Kitô giáo đề cập
đến. Sách huấn ca viết: “Nhẫn nhục để chờ đợi đến ngày đến buổi, sau đó bù lại là niềm vui hoan lạc.” (Hc 1: 23).
Quan hệ của khiêm nhường và nhẫn nhục: Khiêm nhường và nhẫn nhục cũng có mối quan hệ biện chứng. Trong đó khiêm
nhường là thái độ cịn nhẫn nhục là khả năng chấp nhận. Nếu có đức khiêm nhường tận tâm can thì khả năng nhẫn nhục càng cao
và ngược lại nếu rèn luyện được khả năng nhẫn nhục thì tất nhiên đức khiêm nhường càng bền vững hơn. Và theo Kitô giáo,
khiêm nhường và nhẫn nhục không phải là bẩm sinh mà chủ yếu là phải học, phải rèn luyện mới có thể đạt được.
2.2.3. Tư tưởng khoan dung và tha thứ của Kitô giáo
Khoan dung và tha thứ là hai khái niệm rất gần gũi và có mối quan hệ rất mật thiết, đến nỗi nhiều khi người ta tưởng
chừng như là một. Thật ra, khoan dung và tha thứ là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ thống nhất với nhau. Xét
về mặt ngôn ngữ, khoan dung có thể được sử dụng như một tính từ (tinh thần khoan dung, tolerant spirit), hay như một danh từ
(sự khoan dung, tolerance); còn tha thứ là một động từ (tha thứ cho ai đó, forgive someone). Theo đó, “khoan” là độ lượng
rộng rãi, và “dung” là tiếp nhận, bao bọc. Vậy “khoan dung” nghĩa là rộng lượng bao dung.
Về tư tưởng khoan dung, Kitô giáo quan niệm, khoan dung là một nhân đức luân lý thể hiện trạng thái tâm hồn con
người mở rộng với tha nhân, sẵn sáng đón nhận những tư tưởng, hành động của tha nhân trái ngược với mình, là sự hiểu biết
và độ lượng với người khác, là sự chấp nhận người khác, tư tưởng khác, nền văn hóa khác, chủng tộc khác, tôn giáo khác và
không bắt người khác phải rập khn như mình. Lịng khoan dung sinh ra từ nỗi cảm thơng, lịng trắc ẩn, sự hiểu biết và tin
vào điều tốt đẹp nơi tha nhân.
Còn tha thứ, theo Kitô giáo là một nhân đức luân lý cảm thức và bỏ qua lỗi lầm của người khác đã xúc phạm, làm tổn

hại đến tinh thần hay vật chất của mình. Có thể hiểu tha thứ là một trong những hành vi biểu hiện của đức khoan dung.
2.4. TÍNH CHẤT CỦA TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN VÀ ĐẠO ĐỨC KITÔ GIÁO
Từ những nội dung đã trình bày, có thể nhận thấy tư tưởng nhân văn Kitơ giáo có những tính chất cơ bản như: tính dung
hợp giữa tơn giáo, văn hóa và triết học, tính duy lý và hệ thống, tính duy tâm và siêu hình, tinh nhân loại phổ biến.
2.4.1. Tư tưởng nhân văn và đạo đức của Kitô giáo có tính dung hợp, tính duy lý và hệ thống
Như đã trình bày ở chương 1, Kitơ giáo là tơn giáo ra đời trên cơ sở kế thừa tôn giáo, quan niệm truyền thống của người
Do Thái, thần thoại, văn hóa và triết học của người Hy Lạp thời cổ đại. Vì vậy, tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo có sự
dung hợp giữa tính tơn giáo, tính văn hóa và tính triết học. Sự dung hợp đó thể hiện khá phổ biến trong hầu hết các phạm trù nhân
văn và đạo đức Kitô giáo. Khi đề cập đến một phạm trù tư tưởng nhân văn hay đạo đức thì cơ sở đầu tiên được viện dẫn là Kinh
thánh, Kitơ giáo cho rằng đó là ý Chúa, rồi tư tưởng đó được biện giải tính hợp lý bằng những tư tưởng triết học của người Hy
Lạp, La Mã cổ đại; rồi những tư tưởng ấy trở thành những nội dung cơ bản của giáo lý, và trở thành những cung cách cư xử trong
cuộc sống như những biểu hiện của văn hóa.
Duy lý (reasonisme) được hiểu là kiểu tư duy coi trọng lí trí, tính logic. Duy lý chủ trương đi sâu khám phá những quy
luật khách quan, khám phá đến tận cùng bản chất của sự vật và hiện tượng, coi trọng tư duy phản biện.
Tính duy lý trong tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo được kế thừa từ tư tưởng triết học của Platon, Aristote.
Những phạm trù như công bằng, khoan dung, đức hạnh… đã được Aristote trình bày trong tác phẩm Đạo đức Nicomac. Ở đó
những biểu hiện đạo đức đã được phân tích, lý giải tính hợp lý và nâng lên thành những phạm trù, những chuẩn mực đạo đức.
Cũng vậy, Kitô giáo mặc dù khi bàn đến những phạm trù nhân văn và đạo đức luôn xuất phát điểm từ quan điểm thần học
nhưng khi biện giải tính hợp lý của những phạm trù ấy thì khơng dùng phương pháp duy nghiệm, duy cảm hay duy tín mà sử
dụng phương pháp duy lý, dùng phép logic diễn dịch để chứng minh tính đúng đắn của những tư tưởng ấy.
Tính hệ thống được thể hiện rất rõ từ quan điểm về vũ trụ quan, nhân sinh quan đến tư tưởng nhân văn và đạo đức trong
triết học Kitô giáo. Các phạm trù đạo đức trong Kitô giáo không tách rời nhau mà liên hệ với nhau rất chặt chẽ.
2.4.2. Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo có tính duy tâm, siêu hình
Từ tư tưởng xem con người là sản phẩm sáng tạo của Chúa, con người là hình ảnh của Chúa, con người có linh hồn bất
tử… đến những tư tưởng đạo đức như công bằng, bác ái, khoan dung, tha thứ… đều được xem là xuất phát điểm từ Chúa, và
thực thi các nhân đức đó với tha nhân cũng vì Chúa dạy và cuối cùng là để được Chúa thưởng vào Thiên đàng… nên tư tưởng
nhân văn và đạo đức Kitơ giáo có tính duy tâm và siêu hình.
2.4.3. Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo có tính phổ biến
Nếu bỏ qua tính duy tâm và thần học trong cách lý giải về nguồn gốc và mục đích thì tư tưởng nhân văn và đạo đức
Kitơ giáo thể hiện tính nhân loại phổ biến. Những tư tưởng như đề cao con người và vai trò con người trong vũ trụ, đề cao

quyền tư do, bình đẳng, công bằng, bác ái, khoan dung, tha thứ… là những tư tưởng mà nhân loại từ Tây sang Đông, từ cổ chí
kim và hầu hết con người ở bất cứ xã hội nào cũng trân trọng và hường đến như những lý tưởng cao đẹp của nhân loại. Hơn
nữa, tư tưởng nhân văn và đạo đức của Kitô giáo được trình bày trên đây cũng tương đồng với những tư tưởng nhân văn và đạo
đức của các học thuyết như: Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, Mặc gia
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

7

Thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo, thứ hai rộng rãi chớ hà tiện, thư ba giư mình sạch sẽ chế mê dâm dục, hãy nhịn nhục chớ hờn giận,
thư năm kiêng bớt chớ mê ăn uống, thứ sáu yêu người chớ ghen ghét, thứ bảy siêng năng việc lành thiêng liêng chớ làm biếng.


9
Tư tưởng nhân văn Kitô giáo được xây dựng trên cơ sở thế giới quan thần sáng tạo vũ trụ và vạn vật; quan phòng, chi
phối mọi sự. Đồng thời trên cơ sở nhân sinh quan tôn giáo: xem con người là một sản phẩm kết hợp hai thực thể linh hồn và
thể xác. Linh hồn có tính thiêng và bất tử, thể xác thuộc về thế giới vật chất khả tử. Con người có hai cuộc sống: cuộc sống đời
này và cuộc sống đời sau. Đời này thì hữu hạn cịn đời sau thì vĩnh cửu. Đời này và đời sau có mối quan hệ với nhau. Đời sau
là hệ quả của cách sống đời này. Nếu đời này sống tốt thì đời sau sẽ được hạnh phúc (hưởng thiên đường) và nếu đời này sống
khơng tốt thì đời sau sẽ bất hạnh (chịu phạt ở hỏa ngục).
Tuy nhiên, do xuất phát từ thế giới quan và nhân sinh quan duy tâm tôn giáo, tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo
cũng có những hạn chế nhất định như duy tâm, siêu hình, an phận: có tính duy tâm vì lý giải mọi thứ đều xuất phát từ thế giới
siêu nhiên, vì siêu nhiên và hướng đến siêu nhiên; siêu hình, an phận thủ thường; có tính siêu hình vì kêu gọi con người yêu
thương, khoan dung, tha thứ, khiêm nhường nhẫn nhục với hết mọi người trong mọi nơi mọi lúc; có tính an phận thủ thường vì
khun con người phó thác tất cả cho Chúa và khuyên con người cam chịu những bất trắc vì tin đó là ý Chúa.
Chương 3
Q TRÌNH DU NHẬP VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN VÀ ĐẠO ĐỨC KITÔ TRONG NỀN VĂN
HĨA VIỆT NAM
3.1. Q TRÌNH DU NHẬP CỦA KITƠ GIÁO VÀO VIỆT NAM
Trước khi Kitơ giáo du nhập vào Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã có một nền văn hiến lâu đời; qua hàng thế kỷ đã tiếp
nhận tư tưởng triết học, tôn giáo từ các nôi văn hóa như Ấn Độ, Trung Hoa. Vì vậy, đây không phải là “vùng đất trống màu mỡ”

để các nhà truyền giáo gieo trồng giáo lý Kitô giáo. Tuy nhiên, có lẽ các tơn giáo lúc bấy giờ ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng đủ
nhu cầu tâm linh của người dân nên khi Kitô giáo truyền vào Việt Nam vẫn thu hút được lượng tín đồ ngày càng đơng và đến nay,
sau gần bốn thế kỷ, đã chiếm gần mười phần trăm dân số cả nước.
3.1.1. Bối cảnh lịch sử và cơ sở xã hội cho sự du nhập Kitơ giáo vào Việt Nam
Ngồi những điều kiện lịch sử của thế giới và Việt Nam ở thế kỷ XVI, Kitơ giáo nói chung và Cơng giáo nói riêng, việc
truyền giáo là nhu cầu tự thân, là nghĩa vụ thực hiện mệnh lệnh của Kinh thánh rằng, “Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Phúc
âm cho mọi người” (Mt, 28, 19). Vì vậy, khi các nhà khoa học, các nhà thám hiểm, các nhà phát kiến địa lý tìm ra được những
vùng đất mới, những dân tộc xa lạ thì đấy là nơi mà các nhà truyền giáo phải có nghĩa vụ đến để truyền giáo. Giáo hội có các
tổ chức (Bộ truyền giáo, các hội truyền giáo, các dịng truyền giáo), kinh phí, chiến lược để truyền giáo… Vì thế chuyện Kitơ
giáo được truyền vào Việt Nam gần như là tất yếu, chỉ là vấn đề sớm hay muộn.
3.1.2. Các giai đoạn truyền giáo của Kitô giáo ở Việt Nam
Căn cứ chủ trương, phương hướng và chiến lược truyền giáo của Kitơ giáo, có thể chia q trình truyền giáo của Kitô
giáo ở Việt Nam thành hai giai đoạn: giai đoạn trước Công đồng Vatican II (trước năm 1965) và giai đoạn từ Công đồng
Vatican II đến nay.
Vậy, Kitô giáo đã du nhập vào Việt Nam hơn bốn trăm năm, chủ yếu là Công giáo, đầu thế kỷ XX phái Tin Lành mới
du nhập vào Việt Nam. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm, Kitô giáo cũng đã bám rễ khá sâu trong đời sống văn hóa Việt Nam
nói chung và trong một bộ phận người dân Việt Nam là tín đồ nói riêng.
3.2. Một số những đóng góp và hạn chế của Kitơ giáo trong q trình truyền giáo ở Việt Nam
Trong quá trình truyền giáo ở Việt Nam, Kitơ giáo đã có những đóng góp đáng trân trọng trong nền văn hóa Việt Nam;
làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú hơn về hình thức và đa dạng hơn về sắc thái. Tuy nhiên, trong q trình truyền giáo,
Kitơ giáo cũng có những hạn chế, nếu khơng nói là những sai lầm đáng tiếc, làm tổn hại đến tình đồn kết dân tộc, gây chia rẻ
lương, giáo và những tổn thương văn hóa khá lâu dài.
3.2.1. Một số những đóng góp của Kitơ giáo trong q trình truyền giáo ở Việt Nam
Kitơ giáo là một trong những cầu nối văn hóa sớm nhất giữa phương Tây và Việt Nam. Tơn giáo nói chung được xem
như một thành tố văn hóa, “được coi là có chức năng truyền tải văn hoá (transculturel)”8 . Trong bối cảnh nhất định, Kitơ giáo
vừa là tác nhân văn hóa, vừa đóng vai trị là cầu nối văn hóa. Kitơ giáo ra đời ở Palestine, thuộc Trung cận Đông, nhưng đã
sớm được truyền bá và phát triển mạnh ở châu Âu. Từ thế kỷ IV, Kitô giáo đã trở thành quốc giáo của đế chế Rơma rộng lớn.
Vì thế, Kitơ giáo mang trong mình dấu ấn sâu sắc của nền văn minh phương Tây. Vì thế, khi truyền vào Việt Nam, như một lẽ
tất yếu, Kitô giáo đã chuyển tải được những thành tố của văn hóa, văn minh phương Tây đến văn hố Việt Nam và ngược lại,
thơng qua những nhà truyền giáo, Kitơ giáo đã quảng bá văn hóa, đất nước và con người Việt Nam cho phương Tây nói riêng

và cho thế giới nói chung.
Kitơ giáo góp phần sáng tạo chữ quốc ngữ và du nhập báo chí vào Việt Nam: Chữ Quốc ngữ là cơng trình tập thể của
nhiều giáo sĩ nước ngoài với sự cộng tác của người Việt. Dĩ nhiên, mục đích ban đầu của các nhà truyền giáo khi biên soạn chữ
Quốc ngữ là để phục vụ công việc truyền đạo được dễ dàng hơn. Nhưng, chữ Quốc ngữ đã thể hiện sự phù hợp với tiến trình
phát triển và tinh thần độc lập, tự cường dân tộc nên các chí sĩ phong trào Đơng Kinh Nghĩa Thục coi đó là “một trong sáu
phương kế để mở mang dân trí”. Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm nhận xét: “Các giáo sĩ người Âu đặt ra chữ Quốc ngữ,
chủ ý là có được một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng cho việc truyền giáo cho dễ. Khơng ngờ rằng, vì thế lịch sử xui
khiến, chữ ấy nay đã thành văn tự phổ thơng cho cả dân tộc ta”.
Kitơ giáo góp phần làm phong phú kiến trúc, văn học, nghệ thuật Việt Nam: Tôn giáo là một thành tố quan trọng của
văn hố và bản thân tơn giáo cũng là văn hố. Kitơ giáo đã du nhập và làm văn hố nước ta phong phú hơn, trước tiên là tăng
thêm một tôn giáo mới trong đời sống tinh thần của xã hội. Khơng chỉ vậy, Kitơ giáo cịn bổ sung rất nhiều sắc thái mới, tư
tưởng mới cho văn học, nghệ thuật,… Từ Kitô giáo đã mở ra nhiều đề tài mới cho văn học, nghệ thuật ở nước ta. Nhiều tác
phẩm mới ra đời như Giáng sinh của các họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Văn Chung, các tác phẩm của nhiều nhạc sĩ, nhà văn
như Văn Cao, Phú Quang, Chu Văn, Nguyễn Khải,… Dịng văn học Kitơ giáo cũng xuất hiện rất sớm với Truyện thầy Lazaro
Phiền của Nguyễn Trọng Quản, in năm 1887. Tác phẩm này được xem là truyện đầu tiên của văn học nước ta lấy trạng thái
tâm lý làm đối tượng miêu tả. Rất nhiều tác giả là người Kitô giáo cũng để lại dấu ấn của mình trên văn đàn như Hàn Mặc Tử,
Hồ Dzếnh, Nguyên Hồng, Bàng Bá Lân, Xuân Ly Băng,…

8

Nguyễn Văn Kiệm, Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam, Nxb. Văn hố - Thơng tin, Hà Nội, 2003, tr.34.


10
Tranh, tượng, thánh ca, kiến trúc, lễ hội Kitô giáo đã tạo thành một “trường phái” riêng, đóng góp vào vườn hoa
rực rỡ sắc màu của văn hoá Việt. Ngày nay, lễ Valentine, lễ Noel khơng cịn là dịp lễ riêng của cộng đồng Kitô giáo mà trở
thành lễ hội chung của rất nhiều người Việt Nam, nhất là giới trẻ.
Kitơ giáo góp phần làm phong phú về khơng gian thiêng và thời gian thiêng trong đời sống văn hóa người Việt Nam
Việc góp phần khơng gian thánh thiêng và thời gian thánh thiêng của Kitô giáo vào truyền thống văn hóa Việt Nam
như thế tạo nên tính cố kết cộng đồng, làm phong phú thêm những hoạt động nhân ái, những cử chỉ nhân văn và tạo nên những

mối quan hệ tốt đẹp hơn cho đời sống văn hóa xã hội nước ta.
3.2.2. Những hạn chế của Kitô giáo trong q trình hội nhập ở Việt Nam
Tự tơn và áp đặt trong q trình truyền giáo ở Việt Nam:
Kitơ giáo truyền vào Viện Nam, vì mang nặng tính thần học Phương Tây nên các nhà truyền đạo đã tuyệt đối hóa tư
tưởng giáo lý Kitơ, từ đó phủ định tất cả những tư tưởng tơn giáo, tín ngưỡng khác. Trong lịch sử, đã có giai đoạn các nhà
truyền giáo xem giáo lý Kitô là chân lý, là con đường duy nhất để được giải thoát, để lên thiên đường. Chính sự tự tơn này đã
đưa đến những hành động cực đoan, thiếu nhân văn trong quá trình truyền giáo của các vị truyền giáo Kitô; gây nên ác cảm
cho nhiều người Việt Nam đối với Kitô giáo.
Sau Công đồng Vatican II, Giáo hội đã nhìn nhận lại vấn đề và có những sửa sai. Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng thừa
nhận về quá khứ truyền giáo ở Việt Nam có nhiều “bóng tối, tội lỗi” 9 Vì những vết thương văn hóa thường khơng dễ lành, nên
chúng ta cần nhiều thời gian và những động thái thiện chí để hàn gắn.
Tính bảo thủ và yêu sách trong quá trình hội nhập: Ngày nay, Kitơ giáo đã có những thay đổi mềm dẻo và linh hoạt
hơn trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, một số luận điểm Kitô giáo vẫn thể hiện ít nhiều tính bảo thủ. Với một số lễ nghi
trong đời sống sinh hoạt, Kitô giáo vẫn bộc lộ sự cứng nhắc trong một xã hội đang chuyển mình từng ngày. Chẳng hạn, về vấn
đề hơn nhân, để được xem là vợ chồng đúng giáo luật, hai người muốn kết hôn với nhau phải mất rất nhiều thời gian và nhiều
công đoạn, theo quy định của giáo lý cơng giáo. Cho dù người ngồi tín đồ có đồng ý theo đạo hay không cũng phải theo đúng
lễ nghi hôn phối Kitô giáo. Trong thực tế, nhiều đôi u nhau, một người Kitơ giáo, một người ngồi Kitơ giáo gặp nhiều khó
khăn về thủ tục, về những quy định của Giáo hội hơi khắt khe nên nhiều đôi không thể tiến tới hôn nhân.
3.3. Ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo trong văn hóa Việt Nam
Dưới những cách tiếp cận khác nhau có thể nhận thấy Kitơ giáo ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam dưới những phương
diện khác nhau. Ở đây luận án trình bày tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam dưới ba khía
cạnh: văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức. Mặc dù phân chia thành ba khía cạnh văn hóa như thế để tiện bề tiếp
cận và trình bày, nhưng cũng chỉ có tính chất tương đối. Vì thực ra khơng thể phân chia một cách rạch rịi ba khía cạnh như thế
được, nhiều trường hợp chúng có tính liên hệ mật thiết khó tách rời; chẳng hạnh như, trong văn hóa ứng xử, văn hóa tổ chức đã có
văn hóa nhận thức, văn hóa nhận thức lại được nhận diện bởi văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức.
3.3.1. Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo ảnh hưởng đến văn hóa nhận thức truyền thống Việt Nam
Văn hóa nhận thức (awareness culture) được hiểu là hệ thống những quan điểm, quan niệm về cuộc sống, về những giá
trị, chuẩn mực đạo đức, về cung cách ứng xử của con người với con người đang sống, với người đã khuất, với thế giới siêu
nhiên,… của một dân tộc hay của một vùng văn hóa. Vậy, văn hóa nhận thức truyền thống Việt Nam là những quan niệm của
dân tộc Việt Nam được bồi đắp qua các thế hệ với hàng ngàn năm văn hiến.

Trong các tơn giáo ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam thì Kitơ giáo được xem là tơn giáo có thời gian du nhập và ảnh
hưởng chưa lâu so với các tơn giáo khác. Như đã trình bày ở phần trên, tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo chỉ mới truyền
vào Việt Nam hơn bốn trăm năm, tuy nhiên, những tư tưởng ấy đã có những ảnh hưởng nhất định đến nhận thức của một bộ
phận người dân Việt Nam, cụ thể là tín đồ Kitơ giáo Việt Nam. Có thể nhận thấy một số những biểu hiện ảnh hưởng của tư
tưởng ấy trong văn hóa nhận thức người Việt Nam như: quan niệm về thế giới siêu nhiên, quan niệm về con người và đời
người, quan niệm về sự bất tử của linh hồn, quan niệm về hậu quả của cuộc đời sau cái chết, quan niệm về hành vi và hậu quả
của điều thiện, điều ác, quan niệm về mối quan hệ giữa người đang sống với người đã khuất, quan niệm về công bằng và bác
ái, quan niệm về khoan dung và tha thứ, khiêm nhường và nhẫn nhục…
3.3.2. Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử truyền thống Việt Nam
Văn hóa ứng xử (behavior culture) được hiểu là cung cách cư xử của con người với con người trong cuộc sống, của con
người đang sống với người đã khuất, của con người với thế giới tự nhiên và siêu nhiên. Văn hóa ứng xử Việt Nam được hình
thành qua hằng ngàn năn với nhiều quá trình tiếp biến văn hóa của nhiều nền văn hóa khác, đặc biệt phải kể đến sự ảnh hưởng
của văn hóa ứng xử Nho giáo, Lão giáo, Ấn giáo, Phật giáo. Kitô giáo, một tôn giáo mới du nhập vào Việt Nam chưa lâu và sự
ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo không rộng rải đến số đông người Việt Nam như Nho giáo hay Phật
giáo, nhưng do sự kết hợp tính chất luân lý đạo đức với niềm tin vào thế giới siêu nhiên, vừa mang tính văn hóa nhưng cũng
mang yếu tố tơn giáo nên tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo ảnh hưởng đến một bộ phận người Việt Nam khá sâu đậm và
rất bền vững. Có thể khái quát một số nội dung cơ bản mà tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo ảnh hưởng đến văn hóa ứng
xử của một bộ phận người dân Việt Nam, đó là ứng xử của các thành viên trong gia đình với nhau, ứng xử của tín đồ với
những chức sắc trong Giáo hội, ứng xử với mọi người trong xã hội, ứng xử với người đã khuất.
Có thể nhận định, tư tưởng đạo đức của Kitô giáo đề cập đến tình yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức về
tình bác ái. Những chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo cũng ảnh hưởng đến một bộ phận người dân Việt Nam, giúp con người
hoàn thiện đạo đức cá nhân trong quan hệ, ứng xử với cộng đồng. Tình u tha nhân ở đây khơng đơn thuần là tình u trong
tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh hoạn, khuyên
can người lầm lỗi,... đây là những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều mảnh đời bất hạnh cần
được giúp đỡ, an ủi, vỗ về. Như nhiều tôn giáo khác trên đất nước Việt Nam, Kitơ giáo ln u cầu các tín đồ phải sống lành
mạnh, hướng thiện. Giáo lý Kitô giáo không chỉ cấm giáo dân làm điều ác, mà cấm cả suy nghĩ bất chính, khơng trong sáng.
Cụ thể, trong mười giới răn có tới bảy giới răn khuyên răn con người từ trong suy nghĩ đến hành động không được làm điều
bất nhân, bất chính với tha nhân mà phải đối xử với tha nhân bằng tinh thần khoan dung và bác ái. Tình cảm đạo đức tơn giáo
được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng.
Các tổ chức hoạt động hướng thiện của con người được tơn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn. Do tuân thủ

9

Hội đồng giám mục Việt Nam, Thư chung, 1980.


11
những điều răn dạy về đạo đức của tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày
càng tốt đẹp hơn.
3.3.3. Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo ảnh hưởng đến văn hóa tổ chức của người Việt Nam
Văn hóa tổ chức (organisational culture) được hiểu là cách thức tổ chức của một tập thể theo những quan niệm, quan
điểm nhất định, có tính tổng thể, tính lịch sử, tính nghi thức, tính xã hội và tính duy trì ổn định. Hay nói như Hofstede: “văn
hóa tổ chức là “lập trình tập thể một đầu óc có tính khu biệt các thành viên của một tổ chức này với các tổ chức khác”.
Xuất phát từ tư tưởng nhân văn và đạo đức của mình, tín đồ Kitơ giáo cũng hình thành nên những tổ chức lớn, nhỏ trong
hệ thống các tổ chức văn hóa xã hội ở Việt Nam, như: Uỷ Ban Bác ái Xã hội – Caritas Việt Nam, Ủy ban Đồn kết Cơng giáo
Việt Nam, Hội Bảo vệ sự sống, Cô nhi viện, Hội An táng thai nhi, Dòng tu Nữ tử Bác ái chuyên phục vụ người nghèo, Dòng Saint
Paul chuyên chăm lo bệnh nhân, Hội Tobia chuyên chăm sóc người sắp qua đời và lo việc an táng… Các tổ chức này đều lấy tư
tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo làm kim chỉ nam. Vì vậy, các tổ chức này đã thể hiện rất rõ tính đặc trưng của văn hóa Kitơ
giáo trong tổ chức.
Trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay đang có nhiều khó khăn về kinh tế, ý tế, học đường, nhiều hậu quả của tệ nạn
xã hội… thì việc có các tổ chức, dịng tu hoạt động bác ái, từ thiện thuần túy nhằm giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật,
bất hạnh không phân biệt thành phần, tơn giáo… được xem là sự đóng góp tích cực đáng trân trọng.
Các tổ chức hoạt động bác ái của Kitô giáo, dù là tổ chức của giáo phận, giáo xứ, dòng tu hay những nhà hoạt động giáo
dân thiết lập nên thì vẫn có sự giám sát và điều phối của giám mục địa phận. Giám mục chịu trách nhiệm về công tác giáo huấn
của thực hiện giáo luật của Giáo hội trong các hoạt động bác ái tại giáo phận. Dù được tổ chức theo luật dân sự hay giáo luật,
các tổ chức bác ái Kitô giáo có trách nhiệm hoạt động phù hợp với các giáo huấn, giá trị nhân văn và đạo đức của Giáo hội.
Giám mục giáo phận được quyền xác định tổ chức nào có đủ tư cách pháp lý để thực hiện trách nhiệm thuộc giáo quyền.
Nhìn chung, các tổ chức bác ái Kitơ giáo hướng đến các gia đình và cá nhân đang cần trợ giúp: người đói nghèo, vơ gia
cư, thất vọng, gặp khó khăn, bệnh tật, khơng phân biệt niềm tin tôn giáo. Các tổ chức ấy hoạt động theo định hướng của Công
đồng Vatican II đã xác định: “Việc phục vụ của của hoạt động bác ái phản ánh sự tôn trọng nhân phẩm, tự do tôn giáo của con
người; phục vụ người nghèo, đau khổ, cổ võ cơng lý, hịa bình, sự thăng tiến con người. Những hành động trợ giúp, cứu trợ

phải được định hướng bằng một tinh thần phục vụ và cho đi vơ vì lợi, chứ không phải với mục tiêu thu nhận thêm tín đồ”.10
Vậy, có thể nhận định, tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo đã ảnh hưởng vào một bộ phận của người Việt Nam cả
trong nhận thức, ứng xử và tổ chức. Ít nhiều nó cũng tạo nên một sắc thái trong văn hóa Việt Nam mà khơng ai có thể phủ
nhận được. Do nhiều yếu tố khác nhau, nên tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo khơng ảnh hưởng rộng rãi trong văn hóa
Việt Nam như Phật giáo và Nho giáo. Nhưng, vì tư tưởng đó cũng hàm chức những giá trị phổ biến của chân, thiện, mỹ, lại
được gắn với niềm tin vào thế giới siêu nhiên, nên những tư tưởng ấy ảnh hưởng rất sâu và rất bền vững trong đời sống của
một bộ phận người dân; điều đó góp phần tạo nên một sắc thái trong đời sống văn hóa người Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận một cách khách quan, tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo nói chung khi ảnh hưởng
vào một bộ phận người Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định. Có nhiều trường hợp, do tuyệt hối hóa tư tưởng đạo đức
Kitô giáo nên con người ta trở nên thụ động, nhút nhát, khiêm tốn quá mức khiến con người thiếu tự tin vào chính bản thân
mình; nhiều nơi, nhiều trường hợp giáo dân chỉ tin và làm theo những gì các chức sắc trong Giáo hội dạy bảo hơn là tuân theo
luật pháp. Có lẽ đấy cũng là điểm yếu dễ bị các thế lực có âm mưu chính trị lợi dụng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Kitô giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng giữa thế kỷ XVI, trải qua nhiều biến cố thăng trầm vì nhiều lý do chủ quan
và khách quan. Hiện nay, số lượng tín đồ Kitơ giáo khoảng 7 triệu người. Trong đó, khoảng 6 triệu người Công giáo và khoảng
1 triệu người Tin Lành. Do cách diễn đạt thần học theo kiểu triết lý phương Tây của các nhà truyền giáo nên suốt một thời gian
dài, giữa giáo lý Kitơ giáo và văn hóa, phong tục, tập quán Việt Nam chưa đạt được sự đồng thuận. Từ đó đã gây ra nhiều hệ
quả đáng tiếc như: cấm đạo, tử đạo, sự chia rẽ lương – giáo, mất đồn kết dân tộc... Trước thực trạng đó, Kitơ giáo đã xác định
phải thay đổi cách diễn đạt thông điệp Kitô giáo, từ cách diễn đạt theo thần học phương Tây chuyển sang cách diễn đạt theo
thần học châu Á, phù hợp với văn hóa Việt Nam. Và Kitơ giáo xác định đó là cơ sở để hội nhập văn hóa.
Trong q trình truyền giáo ở Việt Nam, Kitơ giáo đã có những đóng góp đáng trân trọng cho nền văn hóa Việt Nam,
như là cầu nối chuyển tải hai chiều văn hóa, văn minh giữa châu Âu và người Việt Nam. Thêm nữa, các nhà truyền giáo Kitô
giáo có cơng sáng tạo nên chữ Quốc ngữ, một thành tựu văn hóa quan trọng trong xã hội hiện đại. Ngồi ra, Kitơ giáo cịn làm
phong phú thêm văn hóa Việt Nam trong lĩnh vực văn học, âm nhạc, kiến trúc, hội họa,...; đóng góp về tư tưởng luân lý đạo
đức, lối sống. Trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của
Nhà nước, tín đồ Kitô giáo đang chung tay cùng cộng đồng trong nhiều hoạt động xã hội, như làm từ thiện, giúp đỡ những
người bị chất độc da cam, những người bị tàn tật, những mảnh đời bất hạnh trong xã hội. Bên cạnh những đóng góp đáng trân
trọng, thì với sự nhìn nhận khách quan có thể thấy rằng, trong q trình du nhập và truyền giáo ở Việt Nam, Kitô giáo đã có
một số hạn chế như q tự tơn, q áp đặt văn hóa, tạo nên những tổn thương văn hóa.
Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo đã ảnh hưởng vào trong đời sống văn hóa của một bộ phận người dân Việt

Nam. Cụ thể là đã ảnh hưởng đến đời sống tín đồ Kitơ giáo Việt Nam cả về văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ
chức. Tạo nên một sắc thái trong đời sống văn hóa Việt Nam.

KẾT LUẬN CHUNG
Qua ba chương của luận án về đề tài Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo với văn hóa Việt Nam, có thể rút ra một
số kết luận cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Kitơ giáo là tơn giáo chính thức ra đời từ đầu Công nguyên. Tuy nhiên, ngọn nguồn tư tưởng đã có từ hằng
ngàn năm trước, với những quan niệm về một Đấng Messia từ trời xuống để giải thoát cho dân Do Thái, hay từ những tư tưởng
thần thoại của các triết gia Hy Lạp cổ đại về một một vị thần có thể làm người được mạnh danh là Logos (Thần ngơn)… Ngồi
10

Cơng đồng Vatican II, số 48.


12
những tiền đề về văn hóa, tư tưởng sâu xa ấy, điều kiện kinh tế - chính trị xã hội của đế chế La Mã vào những thập niên
đầu Công nguyên cũng tạo thuận lợi cho sự ra đời của Kitô giáo. Cuộc nổi dậy của anh hùng nô lệ Spactacus thất bại lại là điều
kiện tốt cho Đức Jesus rao giảng về một giáo lý bác ái, công bằng, bình đẳng… với những lời hứa về một nước trời hoan lạc
cho những người tin và sống theo giáo lý ấy.
Đức Jesus vừa là một nhân vật lịch sử vừa là một nhân vật của niềm tin tôn giáo. Đức Jesus là một nhân vật lịch sử vì
có đầy đủ những chứng cứ sử học về sự xuất hiện và sự tử nạn trên cây thập tử giá. Đức Jesus là một nhân vật niềm tin vì
những việc Ngài làm được tường thuật lại trong bốn sách Phúc âm mà người Kitơ giáo tin rằng những việc làm đó là những
phép lạ, những việc đó chỉ có Chúa mới làm được cịn người thường khơng thể làm được; tín đồ Kitơ giáo tin rằng Đức Jesus
có hai bản tính: thiên tính và nhân tính: với bản chất là thiên tính, Đức Jesus được người Kitô giáo tin rằng Ngài là Thiên Chúa
Ngôi Hai trong Tam vị nhất thể; với bản tính con người, Đức Jesus cũng được sinh ra và sống cuộc đời như những con người
bình thường khác ngoại trừ tội lỗi. Kitô giáo ra đời vào thập niên 30 mươi của thế kỷ thứ nhất đầu Công nguyên, tuy nhiên liên
tục 3 thế kỷ bị cấm đoán và bị bách hại. Năm 313, hoàng đế La Mã Constantine tuyên bố Sắc lệnh Milano - tuyên bố Kitô giáo
là quốc giáo, cho phép xây dựng nhiêu nhà thờ, nhiều tu viện… Từ đó Kitơ giáo phát triển mạnh mẽ về số lượng tín đồ lẫn tư
tưởng thần học, triết học và giáo lý. Sau ba cuộc phân ly với nhiều nguyên nhân khác nhau, Kitô giáo chia thành bốn phái
chính: Cơng giáo, Chính Thống, Kháng cách (Tin Lành) và Anh giáo. Mặc dù các phái có tổ chức, nghi lễ và một số tín điều

khơng giống nhau, tuy nhiên, về cơ bản các phái đều có kinh điển chung, đó là cuốn Kinh thánh trọn bộ: Cựu ước và Tân ước.
Kinh điển của Kitô giáo là cuốn Kinh thánh trọn bộ Cựu và Tân ước. Cựu ước được xem là lấy lại cuốn Kinh thánh của
Do Thái giáo, người Kitơ giáo tin rằng đó là những lời mặc khải của Chúa cho con người qua các tiên tri. Còn Tân ước là tập
hợp tất cả những sách viết về cuộc đời Đức Jesus, về công cuộc đi rao giảng giáo lý của Đức Jesus, về lịch sử Giáo hội Kitô
giáo thời sơ khai, về công việc của các môn đệ Đức Jesus, về các thánh thư của các tông đồ gửi cho các giáo đoàn thời kỳ sơ
khai.
Thứ hai tư tưởng nhân văn Kitô giáo được xây dựng trên cơ sở thế giới quan thần sáng tạo vũ trụ và vạn vật, quan
phòng, chi phối mọi sự. Đồng thời trên cơ sở nhân sinh quan tôn giáo: xem con người là một sản phẩm kết hợp hai thực thể
linh hồn và thể xác. Linh hồn có tính thiêng và bất tử còn thể xác thuộc về thế giới vật chất khả tử. Con người có hai cuộc
sống: cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Đời này thì hữu hạn cịn đời sau thì vĩnh cửu. Đời này và đời sau có mối quan
hệ với nhau. Đời sau là hệ quả của cách sống đời này. Nếu đời này sống tốt thì đời sau sẽ được hạnh phúc (hưởng thiên đường)
và nếu đời này sống khơng tốt thì đời sau sẽ bất hạnh (chịu phạt ở hỏa ngục).
Nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Kitô giáo là đề cao vị trí và vai trị của con người; xem con người là tinh hoa
của vũ trụ, là một chỉnh thể được kết hợp bởi yếu tố vật thể và phi vật thể, bởi cái hữu hình và cái vơ hình, bởi cái hữu hạn và
cái vơ hạn, bởi cái khả tử và cái bất tử…; đề cao quyền tự do và bình đẳng của con người như những nguyên tắc bất khả xâm
phạm; đồng thời, tư tưởng nhân văn Kitô giáo cũng đề cập đến vấn đề giải phóng con người khỏi những ràng buộc của những
luật lệ và hủ tục phi nhân tính.
Nội dung tư tưởng đạo đức cơ bản của Kitô giáo là bàn về các phạm trù công bằng, bác ái, khiêm nhường, nhẫn nhục,
khoan dung và tha thứ như những chuẩn mực luân lý Kitơ giáo. Trong q trình phân tích, so sánh, đánh giá, luận án cũng chỉ
ra rằng tư tưởng đạo đức của Kitơ giáo có rất nhiều điểm tương đồng với tư tưởng đạo đức của Phật giáo, Nho giáo và cũng
phù hợp với những quan niệm về đạo đức truyền thống của văn hóa Việt Nam.
Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo có những tính chất như tính duy lý, tính hệ thống, tính kết hợp, tính duy tâm siêu hình và tính nhân loại phổ biến. Các tính chất đó vừa thể hiện đặc trưng của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo, vừa thể
hiện tính ưu điểm và nhược điểm của tư tưởng ấy đối với thực tiễn cuộc sống.
Thứ ba Kitô giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng giữa thế kỷ XVI. Ngồi những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội,
bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam thế kỷ XVI, truyền giáo là một nhu cầu tự thân của Kitô giáo, là một mệnh lệnh của đức tin,
nên việc Kitô giáo du nhập vào Việt Nam là tất yếu. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, đến
nay, số lượng tín đồ Kitơ giáo có khoảng bảy triệu người. Trong đó, khoảng sáu triệu người Cơng giáo và khoảng 1 triệu người
Tin Lành phân bố gần như khắp các vùng trên lĩnh thổ Việt Nam.
Với cách nhìn nhận khách quan có thể thấy rằng, trong q trình du nhập và truyền giáo, Kitơ giáo đã có một số đóng
góp đáng trân trọng, như đóng vai trị là cầu nối văn hóa của Việt Nam với phương Tây, sáng tạo ra chữ quốc ngữ và du nhập

ngành in và báo chí vào Việt Nam, làm phong phú về kiến trúc, nghệ thuật, không gian thiêng, thời gian thiêng trong văn hóa
Việt nam. Tuy nhiên, cũng có những hạn chế trong q trình truyền giáo như, đã q tự tơn, tự mãn, quá áp đặt văn hóa và đã
có một thời kỳ phủ định những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, tạo nên những tổn thương văn hóa.
Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo đã ảnh hưởng vào trong đời sống văn hóa của một bộ phận người Việt Nam. Cụ
thể là những tư tưởng ấy đã ảnh hưởng đến văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức của những người tín đồ Kitơ
giáo ở Việt Nam; đã tạo nên một sắc thái trong đời sống văn hóa Việt Nam; góp phần cụ thể hóa những chuẩn mực đạo đức của
văn hóa Việt Nam; làm phong phú thêm các quan niệm về nhân sinh quan, về giá trị nhân văn và đạo đức trong đời sống văn hóa
Việt Nam. Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitơ giáo có thể cộng hưởng với những giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc ta để
làm cho nền văn hóa vừa phong phú, vừa đậm đà, ấm áp tình người hơn trong cuộc sống hôm nay.



×