Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

Tư tưởng nhân văn của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong tư tưởng Nguyễn Trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.94 KB, 163 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Triệu Quang Minh
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA NHO GIÁO
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRÃI
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 62.22.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Lê Thị Lan
2. GS. TS Nguyễn Tài Thư
HÀ NỘI – 2014
1
MỤC LỤC
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA NHO GIÁO 1
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRÃI 1
MỤC LỤC 2
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1.Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 6
2.1. Mục đích 6
2.2. Nhiệm vụ 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
5. Những đóng góp mới của luận án 7
6. Ý nghĩa của luận án 7
7. Kết cấu của luận án 8
Chương 1 8
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 8
1.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân văn của Nho giáo 8


1.1.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân văn của Nho giáo từ hướng tiếp cận thuật ngữ
“nhân văn” 8
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân văn của Nho giáo từ hướng tiếp cận nội dung,
đại biểu của nó 16
Tiểu kết chương 1 25
Chương 2 27
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA NHO GIÁO 27
2.1. Một số nội dung cơ bản về khái niệm nhân văn 27
2
2.2. Cơ sở xã hội cho sự xuất hiện và những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn của Nho giáo.
41
2.2.1 Cơ sở xã hội cho sự xuất hiện của tư tưởng nhân văn của Nho giáo 41
2.2.2 Những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn của Nho giáo 44
Tiểu kết chương 2 90
Chương 3 91
ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA NHO GIÁO 91
TRONG TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRÃI 91
3.1. Nguyễn Trãi và thời đại của ông 91
3.1.1. Sơ lược thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi 91
3.1.2. Thời đại của Nguyễn Trãi 93
3.2. Nguyễn Trãi tiếp thu, phát triển tư tưởng nhân văn của Nho giáo 97
3.2.1.Tư tưởng của Nguyễn Trãi về quyền được sống trong một cộng đồng tự do, một quốc gia
độc lập của nhân dân Đại Việt 98
3.2.2. Tư tưởng của Nguyễn Trãi về nhân nghĩa – con đường để hiện thực hóa quyền con người
104
Tiểu kết chương 3 126
Chương 4 127
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN NGUYỄN TRÃI ĐỐI VỚI VIỆC 127
TIẾP THU VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN Ở VIỆT NAM 127
4.1. Tổng kết thực tiễn, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống 127

4.2. Gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng con người 132
4.3. Củng cố niềm tin, xây dựng lý tưởng, cổ vũ tinh thần gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc 137
4.4. Định hướng tư duy và bồi dưỡng tư tưởng cộng đồng 142
Tiểu kết chương 4 147
KẾT LUẬN CHUNG 148
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong khi giới trí thức, khoa học và những người quan tâm đến vấn đề
học thuật còn đang tiếp tục bàn cãi về tính chất của nền văn minh đương đại thì
có một thực tế không thể chối cãi được là: tiếng chuông cảnh tỉnh về sự sa sút
đạo đức, về sự sòng phẳng đến mất nhân tính trong mối quan hệ giữa người với
người, về sự rạn nứt và thay thế của các hệ chuẩn giá trị đang gióng lên ở hầu
khắp các quốc gia. Cùng với đó, nhân loại đang tiếp tục đối mặt với một sự bất
ổn toàn diện về cả kinh tế, chính trị và văn hóa. Để khắc phục và giải quyết các
vấn đề mang tính toàn cầu liên quan đến loài người như chiến tranh, dịch bệnh,
đói nghèo, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, phai nhạt lý tưởng sống…
các tổ chức quốc tế đều khuyến nghị các quốc gia, dân tộc và mỗi cá nhân tham
gia vào việc thúc đẩy phát triển và phổ biến rộng khắp một nền văn hóa hòa
bình, dân chủ, tự do, đoàn kết cùng tiến bộ dựa trên cơ sở nhân văn.
Trong bối cảnh thế giới khẳng định và đề cao tư tưởng nhân văn, coi đó
như chất keo kết dính, liên kết con người lại gần nhau hơn để cùng giải quyết các
xung đột, Nho giáo đang được khai thác, vận dụng đang tiếp tục nhận được khai
thác và vận dụng không chỉ ở các nước phương Đông – những nước chịu ảnh
hưởng trực tiếp của văn hóa Nho giáo trong lịch sử, mà còn ở nhiều nước
phương Tây. Chính những hành công của một số nước trong việc vận dụng Nho
giáo để ổn định và phát triển xã hội đã đưa tới kỳ vọng có thể khai thác Nho giáo
4
với tư cách là một trong những cơ sở, tiền đề tư tưởng để giải quyết những vấn

đề bất ổn của thế giới. Do đó, tư tưởng nhân văn của Nho giáo cần được tiếp tục
nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và cụ thể hơn nữa.
Tuy giá trị nhân văn Việt vốn có trong truyền thống dân tộc, trong mỗi
con người Việt Nam song dưới sự ảnh hưởng của Nho giáo, nhất là ở giai đoạn
Nho giáo cực thịnh, các giá trị đạo đức Việt đã được hệ thống hoá, được khuôn
vào các tiêu chí mang tính quy tắc để đánh giá phẩm cách con người. Việc đánh
giá một cách khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể về những ảnh hưởng của tư
tưởng nhân văn Nho giáo khi gia nhập vào hệ giá trị nhân văn dân tộc là công
việc cần thiết để khẳng định những giá trị mang bản chất Việt và tính phổ biến
toàn nhân loại lúc nào cũng vốn có trong các tư tưởng nhân văn. Bên cạnh đó,
cần thấy rằng Nho giáo ở Việt Nam là kết quả của quá trình tiếp biến Nho giáo
cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc. Sự tiếp biến này, đối với
các nhà tư tưởng trong lịch sử cũng không hoàn toàn giống nhau.
Trong danh sách các đại biểu tiêu biểu của giới nhân sỹ trí thức được đào tạo
theo sách vở Nho giáo, Nguyễn Trãi được biết đến với tư cách một nhà Nho Việt
tiêu biểu . Ông được coi là hiện thân của lương tri Việt, làm rạng danh chủ nghĩa
nhân văn Đại Việt. Tư tưởng nhân văn Nguyễn Trãi đã thể hiện vai trò, sức mạnh
của tư tưởng trong chính hoạt động thực tiễn vì lợi ích chung của dân tộc, vì con
người của bản thân ông. Không những thế, tư tưởng nhân văn ấy còn phát huy tác
dụng trong việc định hướng về mặt chủ trương, đường lối chính trị, xã hội đương
thời và lịch sử dân tộc về sau. Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi cũng được thực
tiễn khẳng định không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với xã hội trong thời đại ông sống
mà còn là một tài sản truyền thống có giá trị của dân tộc. Nói cách khác, tư tưởng
nhân văn Nguyễn Trãi có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp thu, phát triển tư tưởng
nhân văn, chủ nghĩa nhân văn Việt Nam.
5
Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài:“Tư tưởng
nhân văn của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong tư tưởng của Nguyễn Trãi”,
làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích
Làm rõ tư tưởng nhân văn trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong tư
tưởng Nguyễn Trãi, từ đó nêu lên ý nghĩa của tư tưởng nhân văn Nguyễn Trãi
đối với việc tiếp thu và phát triển tư tưởng nhân văn ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
Một là, phân tích cơ sở hình thành, bối cảnh xã hội tác động đến việc hình
thành các tư tưởng nhân văn của Nho giáo.
Hai là, dựa trên các tài liệu kinh điển Nho giáo để minh chứng và khái
quát những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn của Nho giáo,
Ba là, phân tích làm rõ ảnh hưởng tư tưởng nhân văn của Nho giáo trong
tư tưởng Nguyễn Trãi và chỉ ra những điểm tiếp thu có chọn lọc, phát triển và
sáng tạo của ông.
Bốn là, khái quát và làm rõ và những ý nghĩa cơ bản của tư tưởng nhân văn
của Nguyễn Trãi đối với việc tiếp thu và phát triển tư tưởng nhân văn ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư tưởng nhân văn của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó trong tư tưởng Nguyễn Trãi.
- Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu trong chuyên ngành Lịch sử triết
học bằng cách khảo cứu tưởng nhân văn của Nho giáo (những tư tưởng chính, cơ
bản thông qua tư tưởng của các đại biểu tiêu biểu của Nho giáo, nhất là Nho giáo
Tiên Tần) trong các kinh điển Nho giáo, tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi (thể
hiện rõ sự tiếp thu, phát triển tư tưởng nhân văn của Nho giáo) được thể hiện
trong các trước tác của ông.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6
- Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện
chứng, những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong nghiên cứu
lịch sử triết học.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp: phân tích,
tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, thống nhất giữa logic và lịch sử. Luận án cũng

kết hợp phương pháp sử học, chính trị học…
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đã tìm hiểu và phân tích một cách chuyên sâu từ phương diện
triết học tư tưởng nhân văn của Nho giáo.
- Luận án đã góp phần gợi mở cách tiếp cận những nội dung kinh điển
Nho giáo dựa trên mối tương quan, sự liên hệ trong hệ trục so sánh với khái
niệm nhân văn hiện đại.
- Luận án đã khái quát và đặt tên cho những tư tưởng nhân văn của
Nguyễn Trãi theo ngôn ngữ hiện đại. Trên cơ sở đó, luận án đã phân tích và đánh
giá mức độ ảnh hưởng tư tưởng nhân văn Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi.
- Luận án đã khẳng định ý nghĩa của tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi
trong việc tiếp thu và phát triển tư tưởng nhân văn ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa của luận án
Về mặt lý luận: Luận án làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân
văn của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, đồng
thời chỉ ra ý nghĩa của tư tưởng nhân văn Nguyễn Trãi đối với việc tiếp thu, phát
triển tư tưởng nhân văn ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần phục vụ công tác nghiên cứu chuyên
sâu và giảng dạy: Lịch sử Triết học, lịch sử tư tưởng, Cơ sở văn hóa Việt Nam.
Luận án cũng có thể trở thành tư liệu tham khảo cho các chuyên ngành có liên
quan.
7
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân văn của Nho giáo
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu Nho giáo dưới phương diện học thuyết
chính trị - xã hội, hệ thống quy phạm đạo đức và tôn giáo là vấn đề không mới. Từ

khi du nhập vào Việt Nam, một mặt nó nhận được sự quan tâm rộng khắp vì đã
tồn tại và từng trở thành học thuyết cai trị của bộ máy cầm quyền. Mặt khác, luân
lý đạo đức Nho giáo đã được người dân đón nhận trong ứng xử gia đình và xã hội
nhờ thế nó tham gia vào nội dung đạo lý của người Việt Nam. Điều quan trọng
hơn, Nho giáo trở thành nền tảng kinh điển để con người học tập, thi cử trước,
trong, sau khi đỗ đạt. Nó lại tiếp tục là luận thuyết được những người chưa thành
danh hoặc những người cáo quan về quê mở trường, lớp dạy học…Vì thế, có thể
nói hệ thống sách vở viết về Nho giáo và các vấn đề liên quan là một công trình
vô cùng đồ sộ. Với giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi chú trọng
vào những khuynh hướng nghiên cứu chủ yếu về Nho giáo có liên quan trực tiếp
đến nội dung luận án. Qua khảo cứu, chúng tôi nhận thấy có một số khuynh hướng
nghiên cứu sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân văn của Nho giáo từ
hướng tiếp cận thuật ngữ “nhân văn”
8
Nho giáo ra đời là sản phẩm phản ánh thực tiễn lịch sử xã hội cổ đại Trung
Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Trong phạm vi nhận thức thời kỳ đó, tất nhiên
bản thân vấn đề tư tưởng nhân văn sẽ không thể tìm thấy và lấy thuật ngữ “nhân
văn” làm xuất phát điểm bởi lẽ đây là vấn đề của thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu.
Song, với nội hàm khái niệm được định vị, một số học giả đã đặt vấn đề trong hệ
trục so sánh để có thể tìm thấy các nội dung mang tính nhân văn phổ quát trong tư
tưởng của Nho giáo.
PGS. Hà Thúc Minh trong bài viết “Chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa
nhân đạo”, in trên Tạp chí Khoa học xã hội số 7/2006, “Chủ nghĩa nhân văn thế
kỷ XXI”, số 9+10/2007, đã đề cập tới nhân văn phương Đông và cho rằng: “Thay
vì gọi là “chủ nghĩa nhân văn” thì nên gọi là “chủ nghĩa nhân đạo” có lẽ thích
hợp hơn đối với Nho giáo Phương Đông, dựa vào “nhân ái” (đạo đức) để quản lý
xã hội. Có lẽ nên xem “chủ nghĩa nhân văn” chỉ là một biểu hiện của chủ nghĩa
nhân đạo hoặc ít ra cũng không thể đồng nhất với “chủ nghĩa nhân đạo” được”
[94, tr.7].

Hà Thúc Minh đã phân tích bản tính thiện của Mạnh Tử và cho rằng “Nho
giáo không gắn bản tính “thiện” của con người với “nhân quyền” nào cả. Cũng
chẳng cần có “luật” nào để bảo vệ cũng như hạn chế nó. Một khi bản tính con
người là “thiện” thì cần gì phải dùng luật pháp để hạn chế nó. Còn nếu nó trở
thành xấu thì làm thế nào có thể dùng cái bên ngoài để ngăn chặn cái bên trong
được? Cái bên trong phải được điều chỉnh từ cái bên trong. Giáo dục đạo đức hay
tự giáo dục mới là biện pháp hữu hiệu, triệt để nhất…hạnh phúc không phải chỉ là
thỏa mãn nhu cầu tự nhiên. Thỏa mãn nhu cầu tự nhiên đó là sự thực, nhưng hạnh
phúc không phải chỉ là sự thực mà là giá trị. Cho nên, khi tôi hy sinh lợi ích cho
người khác, tức là tôi cho chứ không phải được. Giá trị mà tôi có cao hơn sự thật
mà tôi mất. Cái mà chủ nghĩa nhân đạo đòi hỏi không phải là nhân quyền mà là
nhân cách. Nhân quyền đòi hỏi bên ngoài còn nhân cách đòi hỏi bên trong. Nhân
cách dành cho chủ thể của nó không gian bên ngoài hoàn toàn tự do lựa chọn. Khi
9
bên trong đã đạt được cảnh giới tối cao thì mọi trở ngại bên ngoài đều không có gì
đáng kể. Cho dù giầu sang cũng không sa ngã, nghèo khổ cũng không nhụt ý chí,
uy vũ cũng không thể khuất phục” [94, tr.10].
Quan điểm của Hà Thúc Minh có tính hợp lý nhất định bởi vì bản thân tồn
tại xã hội phương Đông nói chung và xã hội Trung Quốc cổ đại nói riêng chưa
từng có được các bước cách mạng đánh dấu sự ra đời và trưởng thành của thuật
ngữ “nhân văn”. Hà Thúc Minh phân tích lịch sử hình thành chủ nghĩa nhân văn
và chỉ ra rằng ở Phương Đông từ ngữ “nhân văn” đã có từ trước công nguyên.
Thuật ngữ này không giống như “humanism” của phương Tây, “nhưng đều dùng
để chỉ về con người và những tiến hóa của con người…Một bên là đầu vào còn
một bên là đầu ra của xã hội phong kiến” [95, tr.9]. Hà Thúc Minh cũng chỉ ra
điểm gặp nhau không hẹn trước giữa Phương Đông và Phương Tây, về sự giống
nhau giữa “bác ái” của Phương Tây và “nhân ái” của Phương Đông, của Khổng
Tử.
Tuy nhiên, những vấn đề mà Hà Thúc Minh đề cập mới chỉ là những tiếp
cận ban đầu mang tính gợi mở bởi lẽ để so sánh về chủ nghĩa nhân đạo và chủ

nghĩa nhân văn là cả một vấn đề lớn, chưa kể giữa chúng có những sự giao thoa
không thể tách biệt tuyệt đối được. Trong khi đó, bản thân Hà Thúc Minh cũng
đã khẳng định thuật ngữ “nhân văn” cũng đã xuất hiện ở Phương Đông từ trước
công nguyên và nó có điểm tương đồng, khác biệt với thuật ngữ này ở Phương
Tây. Tính không đồng nhất trong việc sử dụng thuật ngữ cũng như khoanh vùng
nội hàm thuật ngữ có thể khiến cho vấn đề trở nên phức tạp. Đương nhiên,
không thể khoác cho Nho giáo thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” song có thể thấy
suy cho cùng chủ nghĩa nhân văn hay chủ nghĩa nhân đạo cũng đều giải quyết
các vấn đề của con người, liên quan đến con người. Cho nên, cách tiếp cận của
Hà Thúc Minh là một gợi ý khoa học để triển khai luận án trên cơ sở bám sát nội
dung khái niệm chứ không phải truy tìm khái niệm một cách siêu hình, cứng nhắc.
Bên cạnh đó, tuy có đề cập song chưa thấy tác giả đi sâu vào phân tích cơ sở tồn
10
tại xã hội, nền tảng mà trên đó Nho giáo nảy sinh. Đây là vấn đề có tính nguyên
tắc trong nghiên cứu triết học. Vì thế việc trở lại phân tích mối quan hệ biện chứng
giữa thực tiễn lịch sử và những gì Nho giáo Tiên Tần phản ánh là rất cần thiết.
Cùng với đó cần trở lại để cụ thể hóa (một cách tương đối) nội hàm khái niệm
thuật ngữ “nhân văn” cũng như phân tách nó với các thuật ngữ khác và với bản
thân nó trong từng tầng bậc khác nhau.
Cũng với lối tiếp cận hiện đại, có chiều sâu về mặt học thuật, GS. Đỗ Duy
Minh. ĐH Harvard gọi Nho giáo cổ điển là học thuyết nhân văn. Ông cho rằng:
“Sự khó khăn trong việc đạt đến một hiểu biết mang tính chất phân tích về chủ
nghĩa nhân văn Nho giáo – một trong những truyền thống phức tạp nhất và có
ảnh hưởng lớn nhất vẫn tiếp tục tồn tại tại Đông Á – chủ yếu là do lãnh vực quan
tâm căn bản của Khổng Tử (551 - 479 TCN) – người đã có những tri kiến độc
đáo về thân phận con người – có mức độ thống nhất rất cao…Gạt ra ngoài các
vấn đề khởi nguyên và ranh giới, sự xuất hiện của hiện tượng Nho giáo như một
sự đáp ứng đầy ý thức đối với sự suy tàn và sụp đổ của văn minh nhà Chu đã
nhằm minh giải cho những vấn nạn (Problematiken) cụ thể mà sau đó chính
những vấn nạn này lại trở thành những nét đặc trưng tiêu biểu cho chủ nghĩa

nhân văn Nho giáo. Ba tư tưởng hạt nhân trong tác phẩm luận ngữ chỉ ra ba vấn
nạn này là: Khái niệm Đạo (the Way), Học (Learning), và Chính trị (Politics).”
[23, tr.239]. Quả thực, khi Đỗ Duy Minh đi sâu vào nội dung của Đạo, Học và
Chính trị của Học thuyết nhân văn Nho giáo cổ điển có thể thấy rõ tính chất
phức tạp trong việc phân tích về chủ nghĩa nhân văn Nho giáo. Đột phá trong
cách tiếp cận mới đối với những nội dung kinh điển của Nho giáo như: niềm tin
của Khổng Tử vào khả năng tự hoàn thiện của con người; quan niệm tính thiện
bẩm sinh của Mạnh Tử; quan niệm về cuộc sống của người quân tử, ý niệm về
chính quyền nhân đạo… Đỗ Duy Minh khẳng định: “Niềm tin vào khả năng
hoàn thiện (perfectibility) trong bản tính nhân loại thông qua sự tự nỗ lực, như
một câu trả lời cho những khuynh hướng phi nhân trong thời đại lịch sử đang
11
bủa vây ông. Niềm tin đó hướng dẫn toàn bộ năng lực của ông vào việc chuyển
hóa thế giới nhân loại từ bên trong. Thái độ tập trung này đặt căn bản trên niềm
xác tín rằng giá trị tối hậu của tồn tại nhân sinh nằm kề sát bên cạnh con người
và ước muốn đạt đến nhân tính sẽ dẫn đến sức mạnh cần thiết cho việc hiện thực
hóa” [23, tr.243] và “nếu chúng ta không xem kinh điển Nho giáo như những
văn bản viết thuần túy mà xem chúng như thể hiện cái nhìn, thị kiến nhân bản
được quan niệm một cách rộng rãi, chúng có thể cho chúng ta thấy được phạm vi
học thuật theo tinh thần Khổng giáo thời Cổ đại…Gộp chung lại, chúng thể hiện
sự khai mở một dự phóng toàn diện nhằm cứu vớt ý nghĩa sâu xa của văn minh
nhân loại đang trong bối cảnh khủng hoảng” [23, tr.247]. Đỗ Duy Minh quy về
“năm thị kiến cơ bản về thân phận con người” và tác giả tự nhận định: “một cá
nhân cùng lúc là một sinh thể thi ca, một sinh thể chính trị, một sinh thể xã hội,
một sinh thể lịch sử và một sinh thể siêu hình. Quan điểm cực kỳ cô đọng và
phức tạp này về con người như một hữu thể bao gồm nhiều chiều kích khác nhau
khiến cho chúng ta khó mà thấu hiểu hệ tư tưởng Khổng giáo như một cơ chế
thực tiễn (Praxis)”.
Như vậy, Đỗ Duy Minh đã tìm cách đi đến tận gốc rễ của Khổng giáo để
thống nhất năm thị kiến căn bản về thân phận con người. Năm thị kiến đó cũng

chính là các vai trò khác nhau của con người trong cuộc sống, trong xã hội và
trong lịch sử. Đây là cách tiếp cận mang tính phối hợp đem lại sự tương khớp
giữa một học thuyết của thời kỳ cổ đại với học chủ nghĩa Mác (Trong tính hiện
thực của mình, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội). Tuy
nhiên, khuôn khổ bài viết hạn hẹp, số lượng thuật ngữ mới nhiều, vấn đề được đề
cập đòi hỏi sự phân tích sâu rộng và đầu tư công phu…có thể là những nguyên
nhân căn bản khiến sự tập trung của tác giả không nhằm vào việc chứng minh
tính nhân văn của học thuyết Nho giáo cổ điển. Tính nhân văn của học thuyết
Nho giáo cổ điển gần như được coi là sự mặc định dùng để chỉ ra mối quan hệ
12
thống nhất giữa đạo học và chính trị. Sự mặc định này cần được minh chứng một
cách rõ ràng, thuyết phục hơn.
Thấy được vai trò quan trọng của môi trường thực tiễn và coi đó như là một
trong những nguyên nhân khiến cho tư tưởng nhân văn của Nho giáo về sau
không thể phát triển, Vi Chính Thông trong “Nho gia với Trung Quốc ngày nay”
đã khẳng định: “Sự tự giác về tự do trong ý chí đạo đức của Nho gia thời Tiên Tần
là bước ngoặt quan trọng trong quá trình đưa cuộc sống của con người từ đần độn
đến sáng sủa. Sự tu dưỡng của con người, sự phấn đấu trở thành thánh hiền cũng
bắt đầu từ đấy. Phát hiện đó chứng tỏ văn hóa Trung Quốc đã từng có sự tự giác
về lý tính. Đáng tiếc là về sau, do không có sự phối hợp của các điều kiện văn hóa
xã hội nên phát hiện vĩ đại đó dừng lại ở hình thái biểu hiện tiêu cực và ngày càng
co lại, xơ cứng…Nho gia Tiên Tần có lý tưởng tốt, nhưng điều kiện văn hóa xã
hội để thực hiện lý tưởng đó lại là chế độ phong kiến tông pháp ngặt nghèo, do
vậy lý tưởng của Nho gia đã trở thành “hoa trong kính, trăng dưới nước” [115,
tr.164]. Theo Vi Chính Thông, “tư tưởng nhân văn Trung Quốc quá nhấn mạnh
phương pháp tu dưỡng nội tâm, tương phản với quan điểm nhận thức khoa học là
phải nghiên cứu nhân tố khách quan. Phương pháp tu dưỡng nội tâm tất yếu dẫn
tới xa rời kinh nghiệm, coi thường tri thức. Ngay thời kỳ đầu của tư tưởng nhân
văn Nho gia Tiên Tần đã thể hiện xu hướng đó” [115, tr.237].
Tuy nói về hạn chế và một số nguyên nhân khiến cho tư tưởng nhân văn

Nho giáo không phát triển tương dung được với khoa học nhưng không thấy Vi
Chính Thông chỉ rõ nội dung của tư tưởng nhân văn Nho giáo. Ông chỉ khẳng
định: “Nho gia thời Tiên Tần quả là có tư tưởng và niềm tin của chủ nghĩa nhân
văn. Khổng Tử không nói quái, lực, loạn, thần; Mạnh Tử tôn trọng đạo đức; Tuân
Tử chủ trương “trời và người tách rời” đều là những biểu hiện quan trọng của tư
tưởng cổ đại Trung Quốc. Nhờ có sự truyền bá những tư tưởng này, văn hóa
Trung Quốc mới từ tôn giáo và thần thoại nguyên thủy dần dần đi theo hướng
nhân văn; mới khiến cho người Trung Quốc từ sùng bái thượng đế, trời, dần dần
13
chuyển sang tự thân con người, nhận thức được sức mạnh và trách nhiệm của bản
thân”[115, tr.344].
Không sử dụng thuật ngữ “nhân văn” mà dùng thuật ngữ “nhân bản” song
Tào Thượng Bân trong “Tư tưởng nhân bản của Nho học Tiên Tần” thực sự đã
có cách tiếp cận đạt đến bản chất của vấn đề và mở ra một tiềm năng khai thác
sâu rộng hơn nội dung này. Theo ông, “Mục đích của học thuyết Nho gia hướng
tới là trở thành thánh nhân, ít nhất cũng là lấy việc xây dựng một cõi nhân gian
mà mọi người đều mong đợi làm mục đích. Có thể nói, học thyết Nho gia là chủ
nghĩa giáo dưỡng. Đã gọi là giáo dưỡng, tất nhiên là phải lấy con người làm gốc,
từ đó sẽ phát triển thành triết học nhân văn”[4, tr.21]. Ông cũng khẳng định: “Tư
tưởng nhân bản của Nho gia Tiên Tần lấy sự tồn tại xã hội của con người làm
tiền đề. Nhưng quan niệm về tính xã hội giữa các nhà Nho như Mạnh Tử, Tuân
Tử ít nhiều có điểm khác biệt…Mạnh Tử nhấn mạnh cộng đồng xã hội, còn
Tuân Tử nhấn mạnh lợi ích xã hội. Mạnh Tử chú trọng cá thể tồn tại giữa các
mối quan hệ giữa người với người, vì thế chủ trương tính thiện. Còn Tuân Tử
chú trọng đến con người sống trong tập thể, cho rằng những chế ước bên ngoài
chi phối cả tập thể mang tính tất yếu, không liên quan tới quyền của mỗi cá nhân,
vì thế mới chủ trương tính ác. Nói một cách khác: Mạnh Tử nhấn mạnh phương
diện luân lý, Tuân Tử nhấn mạnh phương diện chính trị, hay còn hiểu là xã hội.
Khi Nho gia coi con người là tồn tại xã hội, tất nhiên không thể không quan tâm
đến vấn đề mối quan hệ giữa người với người” [4, tr.22]. Đây là quan điểm có

tính hợp lý đã được Tào Thượng Bân khi khai triển để chứng minh tính nhân bản
của học thuyết Nho gia. Tào Thượng Bân đã khẳng định Nho học lấy nhân bản
làm tôn chỉ và minh chứng bằng việc chỉ ra sự tỏa sáng của nhân học Khổng Tử.
Thông qua sự chuyển hóa tư tưởng nhân bản học trong học thống nhân văn của
Nho giáo Tiên Tần (từ Khổng Tử đến Mạnh Tử, Tuân Tử), Tào Thượng Bân còn
chỉ ra phương thức thực hành các quy phạm giáo dục mang tính nhân bản của
Nho học Tiên Tần: thi hành giáo dục đạo nhân và thực tiễn chính trị nhân bản.
14
Theo sự phân tích của ông, “Tư tưởng Nho học thời Tiên Tần – tức học thuyết
của Khổng Tử, từ đầu đến cuối, luôn lấy con người làm đối tượng và mục đích
cuối cùng, cao cả nhất và trực tiếp nhất. Nói cách khác, muốn phát triển nhân
tính, phát huy nhân lực, ủng hộ nhân quyền, bồi dưỡng nhân cách, phải từ trong
cuộc sống nhân sinh thể hiện ra chân lý, nên gọi là chủ nghĩa nhân văn. Ý nghĩa
tinh túy của triết học Nho gia là đem niềm hy vọng của nền văn minh xây dựng
trên sự hoàn thiện cá nhân. Về phương diện này chủ nghĩa nhân văn của triết học
Nho gia và phương Tây dường như thống nhất…Mọi học thuyết khiến cho con
người ngày càng hoàn mỹ hơn đều được coi là chủ nghĩa nhân văn (humanism),
nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn này là sự thể hiện của ý thức chỉ thú
lấy con người làm bản vị” [4, tr.140 -141].
Như vậy, Tào Thượng Bân đã khẳng định những nội dung mang tính nhân
bản có trong học thống nhân văn Nho giáo. Tuy sử dụng cả “nhân bản” và “nhân
văn” nhưng chưa thấy Tào Thượng Bân phân tách một cách rõ ràng phạm vi,
tầng bậc giữa hai thuật ngữ này. Trong sự phân tích của ông, tư tưởng nhân bản
của Nho học khiến cho con người hoàn mỹ hơn và vì thế học thuyết này được
coi là chủ nghĩa nhân văn. Do đó, vấn đề này cần được tiếp tục luận chứng, lý
giải một cách cụ thể và chi tiết hơn.
Tóm lại, từ hướng tiếp cận thuật ngữ “nhân văn” để nghiên cứu Tư tưởng
nhân văn của Nho giáo có thể thấy thành tựu căn bản là có một sự thống nhất khi
đề cập đến tính nhân văn của Nho giáo. Minh chứng, phân tích và hệ thống các
nội dung mang tính nhân văn có trong Nho giáo đã bước đầu đạt được những kết

quả nhất định. Song đó mới chỉ là những tiếp cận phái sinh trong một nội dung
lớn khác hoặc chỉ là cách gọi tên rồi minh chứng bằng một vài trích dẫn kinh
điển. Bên cạnh đó, hầu hết các học giả ít khi khoanh vùng nội hàm khái niệm.
Đôi khi, nhân văn, nhân bản, nhân đạo cũng có sự phân tách tương đối song
chưa cụ thể. Các nội dung mang tính nhân văn được khai thác nếu không ôm
trùm toàn bộ nội dung Nho giáo thông qua các đại biểu chính thì cũng là sự chọn
15
lọc mang tính cá biệt. Tồn tại xã hội với tư cách là yếu tố làm nảy sinh và ảnh
hưởng đến tư tưởng nhân văn của học thuyết gần như chưa được phân tích…Đây
là những vấn đề mà luận án cần tiếp tục kế thừa và làm rõ.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân văn của Nho giáo từ
hướng tiếp cận nội dung, đại biểu của nó
Các công trình nghiên cứu về nội dung, đại biểu Nho giáo là hệ thống tài
liệu đồ sộ. Thông qua việc khảo cứu các tư liệu này có thể thấy, các tư tưởng
nhân văn của Nho giáo đã được đề cập ở những mức độ nhất định. Sự thể hiện
các tư tưởng này thông qua các đại biểu chính của Nho giáo như Khổng Tử,
Mạnh Tử, Tuân Tử cũng đã được khai thác. Tuy nhiên, trong các công trình này,
tư tưởng nhân văn của Nho giáo không được nghiên cứu với tư cách là nội dung
độc lập mà là tư tưởng đơn lẻ, nằm đan xen hoặc tư tưởng phái sinh từ việc phân
tích các tư tưởng khác.
Quang Đạm trong “Nho giáo xưa và nay” đã đánh giá về những cống hiến
chủ yếu đáng được nêu lên với xã hội cũ của Nho giáo và khẳng định: “Nho giáo
đã có những cống hiến lớn bền bỉ và những cống hiến tích cực trong việc khuyên
bảo dạy dỗ cho con người thương yêu đồng loại, cho người và người có quan hệ
tốt với nhau, sống yên vui hòa thuận với nhau: Đạo đức nhân nghĩa lễ trí, đạo
đức hiếu đễ trung tín, đạo đức yêu người, yêu thương rộng rãi mọi người…vv
tuy có phần mơ hồ do sự hạn chế của những điều kiện lịch sử và xã hội đương
thời, biểu thị rõ tinh thần và ý chí tốt lành, tha thiết mong muốn làm cho con
người tránh được, bớt được đau khổ, cùng nhau sống trong “bốn bể đều là anh
em”. Phản đối giết chóc, căm ghét chiến tranh, Nho giáo đặt giáo dục đạo đức để

thuyết phục và cảm hóa lên trên chính trị và hình phạt, và thường ước mơ đi tới
cảnh “thiên hạ đại đồng” trong đó mọi chuyện bất công, bất bình, oan ức, tội lỗi
sẽ không còn, và hạnh phúc yên vui sẽ đến với mọi người” [24, tr.458].
Nguyễn Thị Tuyết Mai trong “Quan niệm của Nho giáo về con người, về
giáo dục và đào tạo con người” cũng đặt vấn đề: “Giá trị nhân sinh, thái độ nhân
sinh và trách nhiệm nhân sinh của nhà nho còn được triển khai thành một vấn đề
16
có tính nhân văn căn bản hơn, thiết dụng với mỗi cá nhân, đó là vấn đề sống để
làm gì? Nói cách khác mục đích nhân sinh ra sao? Nêu lên mục đích nhân sinh là
trình độ nhận thức riêng của con người. Con vật dù thông minh đến mấy cũng
chỉ biết sống theo bản năng, sống theo tự nhiên, đến đâu hay đến đó” [89, tr.146]
GS.Trần Đình Hượu trong “Các bài giảng về tư tưởng Phương Đông” cho
rằng: “Chủ nghĩa nhân đạo của Nho giáo quả thật là cao cả vì nó yêu thương con
người. Thử nghĩ mà xem, cách đây 25 thế kỷ mà đã nói: người nào lần đầu tiên
lấy hình con người mà tạc ông bù nhìn là xúc phạm con người, người đó không
nên có con cái. Hoặc người nói rằng tôi không phải là chim, tôi không phải là thú
mà tôi là con người, nếu con người không đau khổ thì tôi chạy vạy làm gì. Điều
đó thì hết sức nhân đạo, là một tình cảm hết mực yêu thương con người. Nhưng
ở đây có 3 điều mà tôi lưu ý:
- Một là không đặt vấn đề đấu tranh cho công bằng, tự do và bình đẳng
- Hai là không đấu tranh cho hạnh phúc
- Ba là không dựa vào trí tuệ và sức lao động
Như thế, rốt cuộc chủ nghĩa nhân đạo của Nho giáo chỉ là lòng thương vô
bổ…Nhưng cũng không phải vì thế mà nói Nho giáo phản động; nó là nhân đạo
nhưng cái nhân đạo của nó không thể phát triển” [53, tr.266]
Như vậy, Trần Đình Hượu đã đặt ra vấn đề về mặt trái của chủ nghĩa nhân
đạo Nho giáo và lý do chủ nghĩa nhân đạo này không thể phát triển được. Tất
nhiên, ngoài những nguyên nhân nằm sẵn trong bản thân học thuyết, còn có
những nguyên nhân khách quan khác. Vì thế, để hiểu được thực chất của vấn đề
phải đặt Nho giáo trong bối cảnh lịch sử của chính nó. Đây là nguyên tắc căn bản

để khai thác những tư tưởng nhân văn của Nho giáo của luận án.
GS.Nguyễn Tài Thư trong “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo
đối với con người Việt Nam hiện nay” dành một chương bàn về “Nho giáo sơ kỳ
và ảnh hưởng của nó đối với con người Việt Nam hiện nay” và cho rằng: “Có
một vấn đề liên quan mật thiết với việc xác định và nhận diện ảnh hưởng của
Nho giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, đó là ảnh hưởng của Nho giáo
trong quan niệm về hạnh phúc của con người và về phương thức đạt tới hạnh
17
phúc đó. Bởi vì xét toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại thì từ xưa tới nay, quan
niệm về hạnh phúc và phương thức đạt tới hạnh phúc đó của con người vốn đã
chi phối cuộc đời của con người từ lối sống đến tâm linh, từ hành vi mưu sinh
cho đến văn hóa ứng xử với đồng loại , với cả chính mình…Những vấn đề vừa
nêu ở trên lại liên hệ với vấn đề các giá trị phổ biến toàn nhân loại trong Nho
giáo sơ kỳ” [131, tr.34-35].
Bảng các giá trị toàn nhân loại của Nho giáo được khẳng định trong tác
phẩm bao gồm: Thứ nhất, giá trị nhân văn trong việc phụng dưỡng cha mẹ, trong
các khái niệm “hiếu” và “từ”, về “gia đình”; Thứ hai, trong yêu cầu phải biết tôn
trọng sự sống và giá trị sự sống của con người; Thứ ba, trong việc chấp nhận khát
vọng hạnh phúc của con người và cố hết sức tìm cách đáp ứng khát vọng hạnh
phúc của con người.
Việc đạt đến các giá trị toàn nhân loại này còn mang một ý nghĩa nhân văn
sâu sắc bởi vì: “Dù trong Nho giáo sơ kỳ, khát vọng hạnh phúc của con người bị
chế ước nặng nề trong lễ giáo tôn pháp đến thế nào đi chăng nữa, nhưng ở thời đại
chúng ta khó có thể phủ nhận tính nhân văn mang giá trị toàn nhân loại của nó ở
những điều cơ bản vừa phân tích trên. Bởi vì đó là những bước chập chững đầu
tiên rất khó nhọc của sự tiến hóa của con người và loài người trong quá trình nhận
thức về hạnh phúc và quá trình tìm kiếm phương thức đạp ứng khát vọng hạnh
phúc vốn là bẩm sinh của con người” [131, tr.54].
Có thể thấy, những giá trị nhân văn của Nho giáo đã được nhận diện và
bước đầu đi vào phân tích chứng minh bằng những luận cứ trích từ kinh điển.

Đây thực sự là kết quả nghiên cứu có giá trị. Dùng bảng giá trị này làm để soi
tìm, hoàn toàn có thể phát hiện các tư tưởng nhân văn của Nho giáo. Tuy nhiên
chưa thấy các tác giả xâu chuỗi, hệ thống hóa tiến trình hình thành và phát triển
các giá trị toàn nhân loại này trong Nho giáo. Các dẫn chứng kinh điển còn
mỏng. Điều kiện hình thành hay vấn đề thực tại của tính toàn nhân loại này (theo
cách nói của chính các tác giả) tuy có được đề cập nhưng lại thiên về sự khảo sát
ý thức hệ, sự tự nhận thức, sự suy tư chứ không phải là vai trò hay tác động của
18
thực tiễn lịch sử xã hội lúc bấy giờ đối với các quan niệm của con người về sinh
mệnh, gia đình, khát vọng hạnh phúc…Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên
cứu.
Khi đi vào từng đại biểu của Nho giáo, nói như Lý Tường Hải trong
“Khổng Tử”: “Nho học là một loại “học vấn của đời sống”, sức sống nội tại của
nó không thể không gắn liền với Khổng Tử, người sáng lập ra Nho học. Trong
xã hội truyền thống, Khổng Tử được người ta suy tôn là thánh nhân, không chỉ
bởi ông là một người thầy lớn có mặt từ rất sớm trong lịch sử Trung Quốc, mà là
người thầy vĩ đại dẫn người Trung Quốc hoàn thành sinh mệnh riêng của mình.
Mấy nghìn năm lại đây, Nho gia sở dĩ được lưu truyền như thế, không chỉ bởi
mọi người khâm phục học vấn của Nho gia mà quan trọng hơn là, người ta kính
trọng nhân cách Nho gia ở Khổng Tử, tiến đến gắn bó với Nho gia trên ý nghĩa
sinh mệnh tồn tại. Khổng Tử đã để lại cho lịch sử nhân loại một tấm bia lớn về
con người và nhân ái” [43, tr.11-12].
Nguyễn Hiến Lê trong “Khổng Tử” cũng khẳng định: “Muốn đánh giá
công của một triết gia nào phải đặt họ vào thời đại của họ, xét xem họ đã làm
được gì hơn người trước, gợi ý được gì cho người sau, chứ đừng xét học thuyết
của họ, một hai ngàn năm sau, còn hợp thời hay không; theo nguyên tắc đó thì
chúng ta phải nhận rằng công của Khổng Tử rất lớn, nhất là về phương diện luân
lý. Khắp thế giới ai cũng trọng ông là một luân lý gia có tinh thần nhân bản
(humanisme) cao. Ông yêu con người, tin ở bản tính con người có thể cải hóa
được; ông trọng sự nhân ái, sự công bằng, tặng nhân loại một hệ thống luân lý

hợp tình người, để lặp lại trật tự xã hội, thay đổi thế giới” [74, tr.225].
Phạm Đình Đạt trong “Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử với việc giáo
dục đạo đức ở nước ta hiện nay” đã chỉ ra rằng: “Học thuyết tính thiện của
Mạnh Tử, tuy cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng nếu gạt bỏ những hạn chế về
điều kiện lịch sử và dấu ấn của lợi ích giai cấp…, nó vẫn còn có những giá trị
toàn nhân loại phổ biến nhất định: Một là, đã phát hiện ra bản chất tốt đẹp của
con người – bản tính thiện và tin tưởng, về bản chất ai cũng có thể trở thành
19
thánh thiện. Điều đó có ý nghĩa xã hội tích cực và tính nhân văn sâu sắc…Rõ
ràng với sự cố gắng khắc phục và vượt qua đẳng cấp danh phận xã hội ở chừng
mực nhất định và sự khẳng định rằng co người sinh ra vốn bình đẳng về bản tính,
Mạnh Tử đã đặt niềm tin vào sự vươn lên của con người…”[ 29, tr.154-155].
Phạm Đình Đạt tập trung vào việc phân tích nguồn gốc, nội dung cơ bản trong
học thuyết tính thiện của Mạnh Tử để minh chứng về ý nghĩa của nó đối với việc
giáo dục đạo đức con người Việt hiện nay. Chính trong quá trình ấy, bản tính
thiện của con người và khả năng quay về với bản tính thiện ấy được thể hiện như
một tư tưởng nhân văn vì con người. Điều này hoàn toàn có cơ sở để tiếp tục
khai thác bởi lẽ từ Khổng Tử đến Mạnh Tử, Tuân Tử đều bàn về bản tính.
Như vậy, khi đi vào nghiên cứu các nội dung của Nho giáo qua từng đại
biểu riêng biệt, các tư tưởng nhân văn của Nho giáo đã được tiếp cận và nhận
diện ở những phạm vi nhất định. Nếu việc nghiên cứu các đại biểu riêng lẻ chỉ
đem lại sự nhặt nhạnh một vài tư tưởng nhân văn để khẳng định tư tưởng nhân
văn Nho giáo có tồn tại thì việc nghiên cứu nội dung của Nho giáo qua các ấn
phẩm kể trên về cơ bản đã hệ thống được các giá trị nhân văn mang tính phổ
quát. Tuy vậy, cơ sở nảy sinh, diễn tiến thay đổi và phát triển các tư tưởng này
cũng như các minh chứng kinh điển của chúng chưa được đề cập hoặc chỉ mới ở
mức độ rất hạn chế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để đạt
đến những chất lượng cao hơn.
1.2. Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Nho giáo nói chung, tư
tưởng nhân văn của Nho giáo nói riêng trong tư tưởng Nguyễn Trãi

Tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng như công lao của ông trong lịch sử đã
được giới nghiên cứu khai thác từ sớm trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, nói
như GS.Trần Văn Giàu, mặc dù “Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng được nhiều người
nghiên cứu và đã được nghiên cứu từ hàng chục năm nay, nhưng việc nghiên cứu
đó ta chưa thể xem là xong rồi. Nếu nói rằng chúng ta bắt đầu thì có lẽ đúng
hơn”[40, tr.506]. Sự bắt đầu này hoàn toàn có thể đi đến thành công nhờ có một
20
khối lượng tư liệu đồ sộ. Đặt trọng tâm ở việc khảo cứu sự ảnh hưởng của tư
tưởng nhân văn của Nho giáo trong tưởng Nguyễn Trãi, luận án chỉ khoanh vùng
ở những tài liệu có liên quan trực tiếp và gián tiếp chứ không khảo cứu toàn bộ
tài liệu về Nguyễn Trãi.
Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” GS. Nguyễn Tài Thư chủ biên,
các tác giả dành hẳn một chương để khảo cứu về “Nguyễn Trãi – Nhà tư tưởng vĩ
đại của thế kỷ XV và của lịch sử tư tưởng dân tộc” và khẳng định: tư tưởng của
Nguyễn Trãi đã đạt đến tầm cao của thời đại, đã khái quát lên được những vấn đề
có tính quy luật của công cuộc cứu nước và dựng nước, chỉ ra được tầm quan
trọng của nhận thức lý luận trong hoạt động thực tiễn, từ đó nâng tư duy dân tộc
lên một trình độ mới. Những lý luận của ông vừa có ý nghĩa đối với đương thời,
vừa có tác dụng sâu xa về sau [128, tr.259]. Nói cách khác, những tư tưởng của
Nguyễn Trãi không chỉ có ý nghĩa đối với lịch sử mà còn vượt qua giới hạn không
thời gian để tỏ rõ sức mạnh định hướng, chỉ đạo của lý luận đối với thực tiễn.
Nhìn chung, từ những góc độ học thuật khác nhau như triết học, sử học,
đạo đức học…song các học giả đạt được sự thống nhất khá lớn trong việc khẳng
định vị trí, giá trị lịch sử và những đóng góp của Nguyễn Trãi cho lịch sử tư tưởng
Việt Nam cũng như yếu tố Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi. Chẳng hạn, Võ
Xuân Đàn với “Những cống hiến của tư tưởng Nguyễn Trãi vào lịch sử Việt Nam”
nhận định: “Dấu ấn về Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi khá đậm nhưng nó là
những nội dung tích cực, “cách mạng” của học thuyết Khổng Mạnh nguyên thủy.
Nguyễn Trãi đã tiếp thu và vận dụng nó trong điều kiện thực tế Việt Nam và đã
mang lại những giá trị lớn lao trong quá trình giành độc lập và xây dựng tổ quốc”

[27, tr.16]; “Nguyễn Trãi là sỹ phu phong kiến duy nhất lên án chiến tranh phi
nghĩa và thiết tha với hòa bình” [27, tr.85]. Tuy nhiên, do tiếp cận từ góc độ lịch
sử nên tác giả chưa khái quát hóa, trừu tượng hóa và phân tích trên lập trường triết
học những giá trị mang tính phổ biến toàn nhân loại có thể tìm thấy trong tư tưởng
21
Nguyễn Trãi. Vấn đề kế thừa, vận dụng Nho giáo của Nguyễn Trãi cũng chỉ được
đề cập mà chưa được đi vào khai thác.
Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi và sự chịu ảnh hưởng của nó từ tư
tưởng của nhân văn Nho giáo chưa thấy được đề cập với tư cách một nội dung độc
lập mà thường chỉ được bàn tới trong phạm vi hẹp hoặc thông qua các nội dung
căn bản khác của ông. Chẳng hạn, PGS.Trần Nguyên Việt trong “Tư tưởng nhân
văn của Nguyễn Trãi trong Quân trung từ mệnh tập” đã khẳng định: “Tư tưởng
nhân văn của Nguyễn Trãi dựa trên những nguyên lý cơ bản của học thuyết chính
trị - đạo đức Nho giáo để phản bác lại tư tưởng Hoa Hạ và chính sách xâm lược
tàn bạo của nhà Minh. Tư tưởng đó được thể hiện ở những điểm căn bản sau: Mọi
hoạt động của con người, sự thành bại của nó phải dựa trên nguyên lý đã được
khẳng định hàng nghìn năm là “nhân nghĩa”; Phạm trù “nhân nghĩa” trong bối
cảnh xã hội loạn lạc phải được xem xét, vận dụng như thế nào để minh chứng
được tính hợp lý của nó trong cuộc chiến tranh “trừng phạt”; Mối quan hệ giữa
“nhân nghĩa” với “quyền mưu” phải như thế nào trong cuộc chiến tranh nói trên,
khi bất đắc dĩ phải dùng đến quyền mưu để thực hiện mục đích an dân; Chiến
tranh “trừng phạt” không đồng nghĩa với chiến tranh xâm lược, tức là phải bảo
toàn tính mệnh cho dân thường, không làm ảnh hưởng đến đời sống và tổ chức đời
sống của nhân dân…Trong mọi trường hợp, bằng mọi hình thức đấu tranh, những
bậc vương giả trước hết phải nghĩ đến tình cảnh con người trong chiến tranh mà
sớm chấm dứt xung đột để nhân dân được bình yên, thiên nhiên được bảo vệ”
[163, tr.38].
Tuy đã khẳng định Nguyễn Trãi kế thừa Nho giáo song như chính Trần
Nguyên Việt đã khẳng định, bàn về tư tưởng nhân văn Nguyễn Trãi mà chỉ thông
qua “Quân trung từ mệnh tập” thôi thì chưa đủ. Cho nên, một mặt phải trở lại

với tư tưởng của nhân văn của Nho giáo, lấy đó làm hệ trục để đối sánh với
Nguyễn Trãi, tìm ra và khẳng định mức độ tiếp thu, kế thừa, phát triển của
Nguyễn Trãi. Mặt khác, từ những khái quát về tư tưởng nhân văn của Nguyễn
22
Trãi một cách khu biệt trong một tác phẩm, cần mở rộng khảo cứu các tác phẩm
khác của Nguyễn Trãi để từ đó, khái quát lên những tư tưởng nhân văn cơ bản
của ông. Vấn đề này, về sau đã được chính tác giả tiếp tục triển khai trong “Tư
tưởng khoan dung của Khổng Tử và sự thể hiện nó ở Nguyễn Trãi”. Trên cơ sở
phân tích khái niệm khoan dung, tư tưởng khoan dung của Khổng Tử, khoan
dung trong tư tưởng Nguyễn Trãi, tác giả kết luận: “Tư tưởng khoan dung của
Nguyễn Trãi thấm đậm đạo đức nhân nghĩa của Nho giáo, nhờ đó ở ông chủ
nghĩa nhân văn được biểu hiện một cách rõ nét, đó là tình thương yêu con người.
Lòng trắc ẩn của ông đã vượt ra khỏi phạm vi yêu thương con người thân tộc,
ruột thịt của Khổng Tử để cứu dân binh hai nước thoát khỏi chiến tranh đẫm
máu, thực hiện mục đích “Hồ Việt nhất gia”” [167, tr.16].
Trường Lưu trong “Chủ nghĩa nhân văn và văn hoá dân tộc” đã dành một
phần để phân tích “Chủ nghĩa nhân văn Đại Việt qua tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi”. Ông cho rằng: “Đó là tinh thần tiếp thu những yếu tố tích cực
trong tư tưởng Nho giáo trên cơ sở những đặc điểm đời sống tinh thần của dân
tộc ta, từ đó mà đề ra một chủ nghĩa nhân văn lành mạnh, lấy nhân nghĩa làm
gốc, lấy văn trị làm phương châm xây dựng thái bình, và lấy ý thức tự cường văn
hóa dân tộc làm cơ sở dài lâu cho việc bảo tồn và phát triển văn hiến, văn minh
dân tộc…Tư tưởng nhân văn và tư duy triết lý đã bao trùm toàn bộ các tác phẩm
văn học thiên tài của Nguyễn Trãi” [85, tr.82-83]
GS. Nguyễn Tài Thư khi bàn về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
cũng khẳng định: “Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi có phạm vi rộng hơn,vượt ra ngoài
chủ trương và đường lối, và ở mức độ cao hơn, vượt lên trên những vấn đề cụ
thể, trở thành cơ sở của đường lối và chuẩn mực của đối xử; nguyên tắc trong
giải quyết sự việc. Nhân nghĩa đó thực sự đã đạt tới một nền tảng phương pháp
luận của suy nghĩ và hành động” [128, tr.267]. Tác giả chỉ ra rằng: “Cứu nước

trước hết phải cứu dân đó là nét nổi bật trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi” [128, tr.268]; “Lòng thương người, tình người, sự chân thành, sự khoan
23
dung độ lượng để có thể cảm hóa được những kẻ lầm đường, những người trộm
cắp và kẻ địch đã đầu hàng là nét độc đáo trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi” [128, tr269]; “Đất nước thái bình, no đủ, bên trên thì vua thánh tôi hiền,
bên dưới thì không còn tiếng hờn giận oán sầu là lý tưởng nhân nghĩa của ông”
[128, tr.270]; “Yêu hòa bình là nét đặc sắc trong tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi” [128, tr.271]
Như vậy, mặc dù các công trình nghiên cứu trên đây, từ những góc tiếp
cận khác nhau đã có những đóng góp đáng kể. Các khái niệm nhân nghĩa, nhân
đạo, nhân bản, nhân văn…đã được khai thác và so sánh ở những mức độ nhất
định. Bên cạnh đó, như một sự mặc định, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về
Nguyễn Trãi đều coi ông là nhà nho song nền tảng Nho giáo, yếu tố tư tưởng
nhân văn của Nho giáo trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi đến đâu thì
mới được khai thác ở mức độ hạn hẹp. Cũng đã có một số công trình tiếp cận nội
dung chủ nghĩa nhân văn Nho giáo, tư tưởng nhân văn Nguyễn Trãi song cho tới
nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng nhân văn của Nho
giáo và ảnh hưởng của nó trong tư tưởng Nguyễn Trãi từ giác độ triết học.
Tựu chung lại, một sự khảo cứu khá toàn diện và chi tiết đã cho thấy rằng
các nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra những nhận định mang tính gợi mở về vấn
đề tư tưởng nhân văn của Nho giáo và sự ảnh hưởng cũng như nền tảng Nho
giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi . Song, vì những lý do chủ quan và khách quan,
các công trình nghiên cứu này còn có những hạn chế, khiếm khuyết nhất định.
Khi triển khai đề tài “Tư tưởng nhân văn của Nho giáo và ảnh hưởng của
nó trong tư tưởng Nguyễn Trãi”, dựa trên những luận cứ khoa học của các nhà
nghiên cứu đi trước, luận án có nhiệm vụ đi sâu làm rõ hơn nữa các vấn đề căn
bản sau: Một là, khoanh vùng, định vị khái niệm nhân văn được sử dụng, nội
hàm khái niệm tư tưởng nhân văn cũng như tương quan giữa nó trong hệ trục so
sánh với các khái niệm gần như: nhân bản, nhân đạo. Hai là, phân tích cơ sở xã

hội cho sự ra đời và khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Nho
24
giáo có minh chứng bằng những luận điểm từ các tác phẩm kinh điển của Nho
giáo. Ba là, làm rõ sự ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn Nho giáo trong tư tưởng
của Nguyễn Trãi. Bốn là, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thu được, làm rõ
ý nghĩa của tư tưởng nhân văn Nguyễn Trãi đối với việc tiếp thu và phát triển tư
tưởng nhân văn ở Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Khảo cứu, đánh giá hệ thống các tài liệu có liên quan trực tiếp và gián tiếp
đến đề tài “Tư tưởng nhân văn của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong tư tưởng
Nguyễn Trãi” có thể rút ra một số kết luận căn bản sau:
1. Bản thân luận thuyết Nho giáo là một luận thuyết đồ sộ và có lịch sử
lâu dài, tư tưởng nhân văn của Nho giáo đã bước đầu được đề cập và khai thác.
Tuy nội dung tư tưởng nhân văn của Nho giáo có xuất hiện trong một số công
trình nghiên cứu song chủ yếu là tư tưởng phái sinh hoặc chỉ là những nhận định,
những kết luận mang tính gợi mở về mặt khoa học. Chưa thấy có công trình
nghiên cứu chuyên biệt về tư tưởng nhân văn của Nho giáo từ hướng tiếp cận
hiện đại của thuật ngữ này trên phương diện triết học một cách hệ thống.
2. Tư liệu về Nguyễn Trãi khá đồ sộ, công trình nghiên cứu chuyên biệt
về Nguyễn Trãi cũng khá nhiều, có thể đáp ứng yêu cầu khảo cứu của các nhà
nghiên cứu. Các nội dung chính cũng như ảnh hưởng của Nho giáo đến Nguyễn
Trãi cũng đã được các chuyên gia khai thác, phân tích ở các cấp độ và phạm vi
khác nhau. Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, nằm trong lộ trình chung đó
cũng đã bước đầu được khai thác. Tuy nhiên, chưa thấy có công trình chuyên về
ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn Nho giáo đến tư tưởng Nguyễn Trãi từ góc độ
triết học.
3. Nghiên cứu “tư tưởng nhân văn của Nho giáo và ảnh hưởng của nó
trong tư tưởng Nguyễn Trãi” là một sự trở lại để gạn đục khơi trong và khẳng
định giá trị toàn nhân loại khởi phát trong học thuyết Nho giáo cũng như sự vận
dụng, nâng tầm của Nguyễn Trãi. Để đạt được kết quả nghiên cứu, trên cơ sở

25

×