1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng và nhân dân ta lựa chọn, tiến
hành cùng với nhiệm vụ phát triển toàn diện các lónh vực kinh tế, chính trò – xã
hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hóa, đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm “xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc”
( )1
, chúng ta còn có một
nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế –
xã hội. Đó cũng chính là triết lý của sự phát triển xã hội hài hòa và bền vững giúp
chúng ta có thể tiếp nối và phát huy sức mạnh truyền thống của dân tộc trong công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phong phú nhưng không
kém phần phức tạp hiện nay.
Trong tiến trình của công cuộc đổi mới, hơn 20 năm qua đất nước ta đã đạt
được những thành tựu thực sự to lớn và toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trò,
văn hóa, xã hội. Đạt được kết quả đó, văn hóa đóng vai trò rất quan trọng bởi văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là nguồn lực nội sinh, là động lực, mục tiêu
của sự phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trò
văn hóa tinh thần của dân tộc ta trong tiến trình lòch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ
sở đó phát huy sức mạnh của những giá trò văn hóa truyền thống tốt đẹp và lâu đời
của dân tộc trong cuộc sống hôm nay là việc làm vừa có ý nghóa lý luận lâu dài
vừa có tính thời sự cấp bách.
Trong lòch sử tư tưởng Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, trong đó
tiêu biểu là tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông – “đệ nhất tổ thiền Trúc Lâm
n Tử” nổi lên như một dấu son, góp phần khắc họa khá đậm nét bản sắc, cốt
cách tâm hồn Việt Nam nói chung và đặc trưng của triết học Phật giáo Việt Nam
nói riêng trong quá trình phát triển. Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trò –
một vò vua anh minh, “nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng
sáng ngời thû trước”
( )2
mà còn là nhà quân sự tài năng; không chỉ là nhà văn, nhà
thơ mà còn là nhà tư tưởng lớn, một bậc thiền sư lỗi lạc – người sáng lập ra một
dòng thiền mang bản sắc Việt Nam. Ông đã biết dung hợp các nguồn tư tưởng từ
quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú, sâu sắc, thâm trầm của Nho, Lão,
Phật, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự kế thừa, chọn lọc các dòng thiền trước
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 18.
( )2
Viện khoa học xã hội Việt Nam: Đại việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 44.
2
đây như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và tư tưởng triết lý thiền
của Trần Thái Tơng, Tuệ Trung Thượng sĩ để sáng tạo nên hệ thống tư tưởng triết
học của mình với những nét độc đáo và đặc sắc riêng, ghi dấu ấn sâu đậm trong
lòch sử tư tưởng Việt Nam. Chính vì thế, tôi đã chọn vấn đề “Tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông” làm luận án Tiến só của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Sự nghiệp, cuộc đời của Trần Nhân Tông nói chung, tư tưởng triết học của
Trần Nhân Tông nói riêng từ trước tới nay đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu ở nhiều mặt, qua các vấn đề phong phú khác nhau. Có thể khái quát
kết quả các công trình nghiên cứu đó trong ba chủ đề chính sau:
Thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới dạng lòch
sử. Tiêu biểu cho chủ đề này phải kể đến các tác phẩm lớn như: Đại Việt sử ký toàn
thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; Đại cương lòch sử Việt Nam, do
Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2005, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần của Viện Sử học, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1980; Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng tháng 8 (3 tập) của Trần Văn Giàu, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội,
1996… Các công trình khoa học này đã trình bày và phân tích khá khái quát và sâu
sắc điều kiện kinh tế, chính trò, xã hội cũng như cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của
Trần Nhân Tông gắn liền với các biến cố lòch sử Việt Nam giai đoạn thế kỷ XIII –
XIV, giúp người đọc có cái nhìn tổng quát hơn về Trần Nhân Tông.
Thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới góc độ tư
tưởng văn hóa tôn giáo. Liên quan đến chủ đề này phải kể tới các công trình như:
Thơ văn Lý – Trần, do Viện Văn học biên soạn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1989; Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000;
Lòch sử Phật giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1993; Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII của Trần Văn
Giáp, Ban tu thư, Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1968; Lòch sử Phật giáo Việt Nam
của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, 1993. Trong các công
trình trên đáng chú ý là tác phẩm lớn như Thơ văn Lý – Trần, do Viện Văn học
biên soạn. Đây là công trình khoa học khá công phu, đồ sộ, giới thiệu, đánh giá và
cung cấp cho người đọc một cách khá đầy đủ, sâu sắc và đáng tin cậy nhất các
bản văn về thơ, văn, triết học, tôn giáo của Trần Nhân Tông; hay như các tác phẩm
Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Tổng tập văn học Phật giáo Việt
Nam của Lê Mạnh Thát, Lòch sử Phật giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên,
đã trình bày và phân tích khá sâu sắc tư tưởng của Trần Nhân Tông, vai trò, vò trí
của Trần Nhân Tông trong lòch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền
tông Việt Nam nói riêng…
3
Thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới góc độ tư
tưởng triết học, như các tác phẩm: Lòch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, do Nguyễn
Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 1993, Đại cương triết học Phật giáo Việt
Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2002, Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương
Văn Chung, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, 1998; Tư tưởng Việt Nam thời Lý –
Trần, do Doãn Chính – Trương Văn Chung chủ biên, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà
Nội, 2008; Lòch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006;
Tam tổ Trúc Lâm giảng giải của Thích Thanh Từ, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1995; và
các bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành, các kỷ yếu hội thảo khoa
học… Các công trình kể trên đã tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần
Nhân Tông qua các vấn đề lớn về bản thể luận, nhận thức luận và triết lý đạo đức
nhân sinh của ông gắn liền với quá trình phát triển của lòch sử tư tưởng Việt Nam
ở mức độ khái quát nhất. Kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu trên,
luận án cố gắng đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng triết học Trần Nhân Tông có tính
chuyên biệt và hệ thống hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án
Từ sự trình bày làm rõ những nội dung tư tưởng triết học cơ bản của Trần
Nhân Tông, luận án nhằm chỉ ra những đặc điểm và những giá trò có ý nghóa lòch
sử to lớn trong tư tưởng triết học của ông.
Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trình bày, phân tích cơ sở xã hội và những tiền đề lý luận và tôn giáo hình
thành tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông.
- Trình bày và phân tích nội dung tư tưởng triết học cơ bản của Trần Nhân
Tông qua các vấn đề triết học về bản thể luận, đạo đức nhân sinh; từ đó rút ra
những
đặc điểm và những giá trò lòch sử trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận án dựa trên cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghóa duy vật biện chứng và chủ nghóa duy vật
lòch sử; đồng thời tác giả luận án còn sử dụng tổng hợp các phương pháp sử học,
hệ thống cấu trúc, lôgic và lòch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dòch, so
sánh và đối chiếu… để nghiên cứu và trình bày luận án. Luận án được tiếp cận
dưới góc độ triết học lòch sử và triết học tôn giáo.
5. Cái mới của luận án
Một là, luận án đã trình bày một cách hệ thống tư tưởng triết học của Trần
Nhân Tông qua phân tích những khái niệm, phạm trù triết học, thiền học của ông
ở những vấn đề về bản thể luận, nhân sinh quan và triết lý đạo đức.
4
Hai là, luận án đã trình bày, phân tích, đánh giá rút ra những đặc điểm chủ
yếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông, đó là tính chất kế thừa, dung hợp, tinh
thần thiền hành động nhập thế tích cực và tinh thần nhân văn sâu sắc; đồng thời
luận án cũng nêu lên những giá trò lòch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông;
đó là triết học Trần Nhân Tông góp phần tạo nên hệ thống triết lý thiền đặc sắc
Việt Nam, là nền tảng tinh thần để xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập, thống
nhất, một nền chính trò thân dân.
6. Ý nghóa khoa học và ý nghóa thực tiễn của luận án
Về ý nghóa khoa học, luận án góp phần làm rõ nội dung và những đặc điểm
cơ bản trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông qua các vấn đề bản thể luận,
nhận thức luận, đạo đức nhân sinh, từ đó giúp người đọc tìm hiểu một cách sâu sắc
và hệ thống tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông.
Về ý nghóa thực tiễn, thông qua những đặc điểm của tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông được trình bày trong luận án, có thể rút ra những bài học lòch sử bổ ích
góp phần vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc
Việt Nam, trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Kết quả nghiên
cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và
giảng dạy về lòch sử tư tưởng Việt Nam cho sinh viên và học viên cao học các
ngành Triết học, Tôn giáo học, Văn hóa học, Sử học trong các trường Cao đẳng và
Đại học.
7. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết và 14 mục.
Chương 1
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI VIỆT
NAM THỜI KỲ NHÀ TRẦN – CƠ SỞ XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lòch sử kinh tế, chính trò – xã hội
Việt Nam thời kỳ nhà Trần
Là hình thái ý thức xã hội, tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông một mặt
phản ánh và bò chi phối bởi đặc điểm, nhu cầu của xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần;
mặt khác, là sự kế thừa những tiền đề tư tưởng, tôn giáo trước đó. Đúng như C. Mác
đã nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại
5
mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung
lại trong những tư tưởng triết học”
( )3
.
Sau thời kỳ hưng thònh, từ khoảng thế kỷ XII trở đi, triều đình nhà Lý bước
vào giai đoạn suy tàn. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm
trọng. Cuộc thay đổi triều đại, chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang dòng họ
Trần diễn ra trong hoàng cung và triều đình mà hầu như không có tác dụng gì xáo
trộn xã hội. Dưới sự giúp đỡ ủng hộ của Trần Thủ Độ và họ hàng, mùa đông,
tháng 12 ngày 12 năm Ất Dậu (1225) Trần Cảnh nhận thiền vò của Chiêu Hoàng,
lên ngôi hoàng đế. Nhà Trần qua các triều đại đã tiến hành nhiều biện pháp thúc
đẩy xã hội tiến lên một bước đáng kể. Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại,
năm 1240 nhà Trần đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ có châu, huyện, xã.
Đặt chức an phủ, trấn phủ. Các xã, sách
thì đặt các chức đại, tiểu xã. Chế độ
quan lại nhà Trần nói chung cũng giống như nhà Lý nhưng quy củ hơn. Các chức
quan trọng yếu trong triều đều giao cho vương hầu quý tộc nắm giữ, nhằm tập
trung mọi quyền lực về dòng họ mình. Để tạo điều kiện cho vương hầu, tôn thất
làm việc, nhà nước cấp cho mỗi người một vùng đất lớn nhỏ tùy theo thứ bậc gọi
là thái ấp. Năm 1226 do yêu cầu mới về kinh tế và chính trò, vua Trần lại ra lệnh
cho các vương hầu, công chúa, phò mã chiêu mộ dân hữu lưu vong đi khai hoang
lập trang trại riêng, tạo thành một mạng lưới tôn thất nhà Trần trấn trò khắp nơi
trong nước.
Về pháp luật, năm 1230 Trần Thái Tông ban hành Quốc triều thông chế (20
quyển), quy đònh về tổ chức chính quyền, sau đó qua vài lần sửa chữa bổ sung nhà
Trần lại ban hành bộ Quốc triều hình luật, nhằm khẳng đònh và củng cố sự phân
chia chế độ đẳng cấp, đồng thời xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản, đặc biệt
là tư hữu ruộng đất của vua chúa và giai cấp quý tộc. Trong quá trình trò vì đất
nước, nhà Trần cũng ra sức củng cố và tăng cường sức mạnh quân sự với chủ
trương “ngụ binh ư nơng”, xây dựng quân chủ lực gồm cấm quân và quân các lộ
để đủ sức bảo vệ nền độc lập dân tộc, đặc biệt là ba lần chống quân Nguyên –
Mông xâm lược.
Cũng như thời Lý, các vua Trần chú ý thúc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế,
đặc biệt là chế độ sở hữu ruộng đất. Các hình thức sở hữu ruộng đất cơ bản thời kỳ
nhà Trần là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu ruộng đất tư nhân. Có hai
bộ phận cấu thành ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: Một là, ruộng đất do nhà
nước trực tiếp quản lý: nó tồn tại như tài sản của bản thân nhà vua và hoàng cung,
một loại “tư hữu” đặc biệt mà những hoa lợi bóc lột là của riêng chính hoàng đế.
Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý có sơn lăng, tòch điền và quốc
khố. Hai là, ruộng đất công của thôn làng: ruộng công các làng xã thời bấy giờ
được gọi là quan điền hay “quan điền bản xã”. Từ năm 1266 trở đi, bản thân tầng
( )3
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 156.
6
lớp quý tộc đã dựa vào hai tổ chức kinh tế cơ bản: thái ấp và điền trang là hai bộ
phận quan trọng có ý nghóa quyết đònh tính chất loại hình sở hữu ruộng đất của
quý tộc. Ngồi ra còn có ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân của đòa chủ và tiểu nông.
Nhà Trần vừa nắm quyền đã có biện pháp nhanh chóng phục hồi sản xuất nông
nghiệp, mở rộng thêm diện tích canh tác. Triều đình đã áp dụng nhiều biện pháp
khuyến khích nông nghiệp, trong đó có tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả
nước.
Về kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp, triều đại nhà Trần vẫn tiếp
tục xây dựng quan xưởng thủ công nghiệp nhà nước gồm các ngành nghề như nhề
gốm, nghề dệt, nghề sản xuất vũ khí. Bên cạnh đó còn có nền kinh tế thủ công
nghiệp nhân dân với các nghề thiết yếu như nghề gốm, nghề mộc, nghề rèn, nghề
đúc đồng, nghề làm giấy và khắc bản in, nghề khai khoáng… Nhà Trần đã tạo
một hệ thống giao thông thủy bộ trong cả nước phục vụ cho yêu cầu quân sự
nhưng cũng có nhiều tác dụng tốt cho thương nghiệp. Thời kỳ nhà Trần tiền cũng
đã được sử dụng là phương tiện lưu thông hàng hóa. Quan hệ tiền tệ đã thâm nhập
vào đời sống chính trò và tín ngưỡng, như việc nhà nước thu tô thuế bằng tiền…
thể hiện chức năng thanh toán của tiền tệ thời Trần đã phát triển rộng lớn.
Về sự phân hóa đẳng cấp xã hội thời kỳ nhà Trần: Đất nước ta bước vào
thời đại nhà Trần trên nền tảng xã hội được xây dựng ổn đònh và vững chắc từ thời
Lý. Trong quá trình xây dựng chính quyền quý tộc quân chủ vững mạnh, đồng thời
củng cố, phát triển kinh tế, văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, xã hội Trần đã
diễn ra sự phân hóa mạnh mẽ. Một xã hội mới với những đẳng cấp mới dần được
hình thành. Nhìn chung trong gần hai thế kỷ, xã hội Trần đã hình thành và tồn tại
ba đẳng cấp chính: Đẳng cấp quý tộc, tôn thất – quan lại trong chính quyền quân
chủ, đẳng cấp những người bình dân, chủ yếu là nông dân các làng xã, thợ thủ
công và thương nhân, đòa chủ và đẳng cấp nô tỳ.
1.1.2. Sự phát triển văn hóa, giáo dục thời kỳ nhà Trần
Trên cơ sở phát triển của kinh tế – xã hội, nền văn hóa giáo dục thời Trần
đã có bước phát triển khá rực rỡ. Dưới sự ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân
tộc cũng như ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo,
nền giáo dục, sử học, văn học, kiến trúc và các thành tựu khoa học tự nhiên như
thiên văn, y học… dưới triều đại nhà Trần đã có sự phát triển vượt bậc. Có thể
thấy các thành tựu văn hóa thời Trần qua các tác phẩm nổi tiếng như: Hòch tướng
só, Binh thư yếu lược, Bạch Đằng giang phú; và đặc biệt là các bài thơ Quốc âm
Cư trần lạc đạo ca, Đắc Thú Lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông; các
tác phẩm sử học như Việt sử lược, An Nam chí lược, Việt Điện u linh, Lónh Nam
chích quái và các công trình kiến trúc như tháp Bình Sơn, chùa Phổ Minh… Đặc
biệt trong lónh vực giáo dục, nhà Trần đã xây dựng một chế độ giáo dục khoa cử
khá hệ thống với nội dung giáo dục là tư tưởng chính trò đạo đức của Nho giáo
7
nhưng cũng ảnh hưởng khá sâu sắc triết lý đạo đức nhân sinh của Phật giáo do
Phật giáo thời Trần được coi là quốc giáo, để đào tạo và tuyển chọn nhân tài, góp
phần hoàn thiện bộ máy chính quyền từ đòa phương đến trung ương, phát triển nền
văn hóa, tư tưởng Đại Việt, như các kỳ thi Thái học sinh, các khoa thi Tam giáo…
Trong thời gian tồn tại, nhà Trần đã tổ chức được 14 khoa thi để tuyển lựa nhân tài,
bổ vào làm trong các quán, các, sảnh, viện với 273 người đỗ Thái học sinh.
Tóm lại, toàn bộ điều kiện lòch sử, kinh tế, chính trò – xã hội Việt Nam thế
kỷ XIII – XIV đã đặt ra cho vua tôi nhà Trần nói chung và Trần Nhân Tông nói
riêng nhiệm vụ lớn lao; đó là phải xây dựng một thiết chế chính trò và nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, một nước Đại Việt quy mô, bề thế,
có nền văn hóa độc lập nhằm trò nước, an dân và chống lại các cuộc xâm lăng tàn
bạo của giặc Nguyên – Mông. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ra đời chính là
xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết đó của lòch sử. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu về tư
tưởng là đưa triết lý đạo đức của nhà Phật trở thành một trong những nền tảng đạo
đức cho toàn xã hội trên cơ sở xây dựng một tổ chức Phật giáo Việt Nam thống
nhất mà còn đáp ứng nhu cầu về chính trò là nhằm thiết lập hệ tư tưởng độc lập,
thống nhất làm chỗ dựa về mặt tinh thần vững chắc cho xã hội Đại Việt.
1.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TÔN GIÁO HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông không chỉ được hình thành và phát
triển trên cơ sở đặc điểm và nhu cầu của điều kiện lòch sử, kinh tế, chính trò, văn
hóa, xã hội thời kỳ nhà Trần, mà còn là sự kế thừa những tiền đề tư tưởng trước
kia, đó là tư tưởng của ba thiền phái đời Lý là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường và đặc biệt, trực tiếp là tư tưởng triết lý của Trần Thái Tông, Tuệ
Trung Thượng só.
1.2.1. Giá trò văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam
giáo” với việc hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông
Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông là sự kế thừa truyền thống văn hóa
dân tộc, thể hiện ý chí độc lập và tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc.
Dân tộc Việt đã có một lòch sử dựng nước sớm, một nền văn minh lâu đời,
đó là nền văn minh Sông Hồng và việc hình thành nhà nước sơ khai – nhà nước
Văn Lang [700 trCN – 258 trCN] và nhà nước Âu Lạc [257 trCN – 208 trCN]. Việc
hình thành một nền văn hóa và hình thức nhà nước phôi thai sớm cùng với việc
dân tộc ta liên tiếp phải chống lại các cuộc xâm lăng của các thế lực phong kiến
phương Bắc, đã giúp cho dân tộc ta hình thành ý thức về quốc gia dân tộc, về tinh
thần độc lập, tự chủ, tự cường dân tộc và
tinh thần yêu nước rất sớm. Tinh thần ấy
đã được Trần Nhân Tông kế thừa trong tư tưởng triết học của mình. Đó là ông đã
sáng lập ra dòng thiền độc đáo Việt Nam, đưa triết lý đạo đức Phật giáo thành nền
8
tảng đạo đức cho toàn xã hội; thiết lập nên một hệ tư tưởng độc lập, thoát khỏi sự lệ
thuộc chặt chẽ vào ý thức hệ bên ngoài.
Cùng với việc kế thừa và phát triển các giá trò của tư tưởng và văn hóa
truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết học của ông còn tiếp thu chắt lọc các quan
điểm khác nhau của Nho, Lão, Phật.
Nho giáo truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên vừa bằng
con đường giao lưu văn hóa, vừa bằng con đường xâm lược của các triều đại
phong kiến Trung Quốc. Cho nên ngay từ buổi đầu nó đã gặp sự phản ứng và sự
đón nhận dè chừng của đông đảo nhân dân. Nhưng đến thời Trần nó đã chiếm ưu
thế và trở thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu để xây dựng một chế độ quân chủ
tập quyền. Tư tưởng của Nho giáo, đặc biệt là tư tưởng chính trò đạo đức không chỉ
ảnh hưởng đến Trần Nhân Tông trong việc trò nước an dân mà còn ảnh hưởng đến
nội dung tư tưởng triết học của ông. Điều này được phản ánh rõ nét qua các bài
thơ của Trần Nhân Tông. Ông từng nhiều lần đề cập đến các điển tích Nho giáo,
nhắc đến Nghiêu, Thuấn và sử dụng nhiều quan điểm, khái niệm quan trọng của
Nho giáo khi bàn về vấn đề đạo đức nhân sinh như: “Sống mà không giúp ích gì
cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”, hay quan điểm “thờ chúa, thờ
cha”, cùng với các trạm phù đạo đức khác của Nho giáo như “đạo nghóa”, “nhân
nghóa”, “trung hiếu”…
Cùng với Nho giáo, Đạo giáo truyền vào nước ta từ những năm đầu Công
nguyên. Không đặc sắc và không ảnh hưởng lớn như Nho giáo nhưng Đạo giáo
cũng giữ vai trò nhất đònh trong nhân dân và là một trong những tiền đề lý luận
của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. Các đạo só Đạo giáo đã giữ một vai trò
quan trọng cho đời sống tâm linh đời Trần. Những bùa phép, tín ngưỡng ma thuật
của Đạo giáo khá phù hợp với những tín ngưỡng cổ xưa của người Việt. Chính vì
thế, Đạo giáo đã hòa mình vào tín ngưỡng dân gian của nhân dân Việt Nam, tạo
nên sự dung hợp trong tinh thần “Tam giáo đồng nguyên”. Trong tư tưởng triết học
của mình, Trần Nhân Tông cũng ảnh hưởng quan điểm của Đạo giáo, nhưng sự
ảnh hưởng đó trên cơ sở triết lý của Đạo gia chứ không phải là sự ảnh hưởng trên
lónh vực tín ngưỡng, tôn giáo, ma thuật. Trần Nhân Tông đề cao quan điểm “tiêu
dao”, hòa với tự nhiên “vô vi” của Đạo gia. Ông chủ trương sống ung dung tự tại
nơi non xanh nước biếc hoặc thanh thản nơi thôn dã thanh bình trong triết lý nhân
sinh của mình.
Một trong những tiền đề lý luận quan trọng nhất của tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông đó là Phật giáo. Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu thế kỷ 1
khi nước ta nội thuộc nhà Hán. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, tư tưởng Phật
giáo đã khẳng đònh được tầm quan trọng trong đời sống tâm linh, tinh thần đạo đức
của dân tộc ta. Ở thời nhà Trần, Phật giáo còn được tôn là quốc giáo, là tôn giáo
của triều đình. Phật giáo với tư tưởng vô thường, vô ngã, nhân quả, nghiệp báo và
9
triết lý nhân sinh từ, bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn, đứng về phía người nghèo khổ
qua học thuyết Tứ diệu đế, Thập nhò nhân duyên, Bát chính đạo, gần gũi và phù
hợp với triết lý đạo đức nhân sinh cũng như phong tục tập quán của người Việt,
như quan điểm phúc đức, nhân ái, vò tha, hòa hiếu, nên Phật giáo đã được đông
đảo người Việt tiếp nhận.
Trong sự ảnh hưởng của Phật giáo với tư tưởng triết học Trần Nhân Tông, tư
tưởng của ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường thời nhà
Lý đã trở thành tiền đề lý luận gián tiếp nhưng vô cùng quan trọng cho quá trình
hình thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói chung, cũng như tư tưởng triết học
thiền của Trần Nhân Tông nói riêng. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thiền phái Vô
Ngôn Thông, thiền phái Thảo Đường mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về
triết lý, về cách thức và phương pháp tu tập, nhưng giữa ba thiền phái trên cũng
có một số đặc điểm chung nhất đònh, chúng đều dựa trên những triết lý cơ bản của
Thiền tông để bàn luận phát triển, làm sáng tỏ phong phú hơn những vấn đề cốt
lõi của thiền, như tâm (tâm ấn của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tâm đòa của phái Vô Ngôn
Thông), Phật tính, kiến tính, đốn ngộ, trực giác, giải thoát, Niết bàn… Cả ba thiền
phái này đều có xu hướng hòa mình vào cuộc sống để giúp nước, giúp đời. Triết lý
của ba trường phái này là những tiền đề lý luận căn bản cho sự hình thành một
thiền phái duy nhất đời Trần sau này nói chung và là tiền đề lý luận cho tư tưởng
triết học của Trần Nhân Tông nói riêng, đặc biệt trong quan niệm về cái “tâm”.
1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng só – tiền
đề lý luận trực tiếp của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông
Trần Thái Tông (năm sinh 1218, mất năm 1277) là người đã kết hợp các luồng
tư tưởng trước đó trên tinh thần kế thừa có lựa chọn, nhào nặn chúng thành một hệ
thống triết lý hoàn chỉnh, làm nền tảng cho thiền học Trúc Lâm sau này. Triết học
Trần Thái Tông là tập đại thành đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.
Về bản thể luận, Trần Thái Tông lấy cái tâm làm điểm xuất phát cho tư
tưởng của mình và trên cơ sở luận giải về cái tâm ấy để đào sâu, tìm kiếm lời giải
đáp cho những vấn đề triết học khác như: “ngộ”, “kiến tính”, “sinh tử”, “giải
thoát”, “Niết bàn”… Tâm này là cái tâm ban đầu, Trần Thái Tông gọi là tâm
không, hư. Theo ông bản thể, khởi nguyên cội nguồn của vũ trụ là không (sunya),
hư. Không chính là hư, hư cũng là không. Trong đó, không bao trùm tất cả hướng
đến cái khách quan bên ngoài, tức vũ trụ chưa từng sinh diệt; còn hư là sự thể hiện
của không trong tâm mỗi người tức là hướng đến mặt chủ quan bên trong. Theo
Trần Thái Tông từ không xuất hiện vọng (không khởi vọng), và từ vọng
sinh ra
chúng sắc, tức từ vọng hay vô minh sinh ra thế giới hiện tượng có hình danh, sắc
tướng. Nhưng ở con người vọng còn là niệm. Nếu như ở trên, vọng là nguyên nhân
xuất hiện của thế giới hiện tượng, thì niệm là nguyên nhân xuất hiện cái ngã, tức
con người cá nhân. Theo Trần Thái Tông, phải thủ tiêu vọng niệm để đạt tới cái tâm
10
vô niệm. Bản thể ở Trần Thái Tông còn là Phật tính, cũng được gọi là chân như, tức
là cái tính chân thực, chưa hề biến cải, chẳng sinh chẳng diệt, là mầm thiện, mầm
giác ngộ sẵn có ở mỗi người.
Về nhận thức luận, đối tượng nhận thức trong triết học Trần Thái Tông là
hướng vào tâm, nhận thức cái tâm trong con người chứ không phải nhận thức sự
vật, hiện tượng của thế giới khách quan bên ngoài. Mục đích của nhận thức theo
Trần Thái Tông là “kiến tính”. Thực chất kiến tính là sự trở về với bản tâm,
nguyên sơ, tónh lặng, thuần khiết của chúng sinh. Về phương pháp nhận thức theo
Trần Thái Tông là dung hòa giữa đường lối tiệm ngộ và đốn ngộ, là sự tổng hợp
giữa thuật vấn đáp, niệm, tụng, kết hợp với tọa thiền và thực hiện giới, đònh, tuệ,
sám hối.
Về triết lý nhân sinh, Trần Thái Tông dành nhiều tâm trí cho vấn đề triết lý
nhân sinh – đạo đức, được thể hiện hầu khắp các trước tác của ông. Trong tư tưởng
đạo đức, Trần Thái Tông cũng lấy tâm làm nền tảng để xây dựng nên quan niệm
về đạo đức của mình. Trần Thái Tông đã có bước phát triển mới hơn ở chỗ coi
sinh tử không còn là vấn đề mang tính thuần lý, cao siêu, trừu tượng nữa, mà nó
chính là bản thân cuộc sống thực của mỗi người, với thái độ tự tại, ung dung, hài
hòa giữa tâm vật và tâm ta. Từ thái độ sống không lầm sinh tử này đã được Trần
Thái Tông nâng nên thành một phương châm độc đáo: “sống thiền” – vui với cái
vui của sự hiểu biết chân thực, hòa với cái vô cùng tận của cuộc đời để xác lập
nên một con đường đi đến giác ngộ của thiền học Việt Nam. Đó là con đường cứu
dân độ thế, đem đạo vào đời chứa đựng ý nghóa nhân văn cao đẹp.
Trong học thuyết của Trần Thái Tông nổi bật lên những giá trò thiết thực về
phương diện đạo đức, thể hiện ở lòng mong muốn và việc khuyên răn mọi người
tích cực hành thiện, tránh ác, sống có ích cho đời dựa trên triết lý nhân quả báo
ứng trong Phật giáo, đònh hướng cho việc tạo lập một xã hội tốt đẹp dựa trên nền
đạo đức từ bi Phật giáo, đảm bảo cho nền thái bình thònh trò của quốc gia, dân tộc.
Đây là những điểm cốt yếu về tính chất thiền nhập thế tích cực cũng như vấn đề
nhân sinh của Trần Thái Tông mà sau này Trần Nhân Tông đã kế thừa.
Tuệ Trung Thượng só (năm sinh 1230, mất năm 1291) là người thứ hai có
ảnh hưởng lớn lao đến việc hình thành tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông.
Ơng không chỉ là một thiền gia mà còn là một vò tướng có nhiều công trạng trong
cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông. Ông có lòng mến mộ đạo Phật
ngay từ nhỏ, lại được vua Trần Thái Tông, một thiền gia đắc đạo nhận làm con
nên Tuệ Trung Thượng só có nhiều điều kiện thuận lợi để tham vấn Thiền học với
nhà vua, và chắc chắn là có ảnh hưởng sâu sắc triết lý của Trần Thái Tông. Ơng
đã trở thành “ngọn đuốc sáng nhất của Thiền học đời Trần”, là “ngọn đèn tổ của
Phật Hoàng”.
11
Về bản thể luận, Tuệ Trung Thượng só là người đầu tiên trong lòch sử tư
tưởng Việt Nam đưa ra khái niệm bản thể để giải thích nguồn gốc của vũ trụ vạn
vật, với nội dung hết sức phong phú và sâu sắc. Bản thể ở Tuệ Trung Thượng só
được hiểu là cái ban đầu, gốc rễ, cội nguồn của vạn vật, là cái hàm chứa, tiềm ẩn
sâu khín trong bản thân sự vật, không thể dùng mắt thường mà thấy được, chỉ
những ai đạt đến giác ngộ mới thấu suốt được chân tính của bản thể này. Nó là cái
bản nhiên, trong sáng, không tòch, không được không mất, chưa từng có mê lầm,
vốn có ở trong tâm mỗi người. Bản thể này vượt lên mọi sự phân biệt phải trái, tốt
xấu, còn mất. Nó vô thò vô phi, phi hư phi thực, vô khứ vô lai, vô hậu vô tiền, phi trần
phi cấu
( )4
. Bản thể này không thể dùng “trí” mà biết được, không thể dùng “thức” mà
hiểu được mà phải dùng trực giác, vượt lên trên mọi quan niệm đối đãi, “nhò kiến”.
Về nhận thức luận, ở Tuệ Trung Thượng só từ không hay vô xuất hiện huyễn
hóa (ảo hóa hay vô minh) phân thành nhò kiến. Do vậy, để đạt đến giác ngộ và
giải thoát, Tuệ Trung hướng nhiệm vụ thiền học của mình là làm sao để giúp
chúng sinh phá bỏ mê lầm, thủ tiêu nhò kiến, vượt lên mọi đối đãi thò phi, phàm
thánh để trở về với tâm thể trong sáng, bản nhiên của mình.
Trong quan niệm nhân sinh, Tuệ Trung Thượng só rất quan tâm đến việc lý
giải tận gốc vấn đề sinh tử. Cũng chính vì quan niệm xem sinh tử là thông nhàn,
thảnh thơi mà Thượng só đã có cái nhìn tích cực với cuộc đời. Cuộc đời đối với ông
không chỉ là bể khổ trầm luân mà còn là nơi tốt nhất để hành thiền. Tôn chỉ thiền
của Tuệ Trung không chỉ gói gọn trong tu thiền, tham vấn Phật học, mà quan trọng
hơn đó là sống thiền. Đưa thiền vào gần gũi đời sống hàng ngày để đón nhận cái
hạnh phúc thoải mái, bình dò của chính cuộc sống thường nhật. Đó cũng chính là
tinh thần phá chấp trong tính chất thiền nhập thế của Tuệ Trung Thượng só, mà sau
này Trần Nhân Tông đã kế thừa và phát triển rõ nét trong đặc điểm thiền hành
động, nhập thế tích cực của mình.
Kết luận chương 1
Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông ra đời, trong quá trình tiến triển nội
tại của Thiền tông Việt Nam, không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà nó có
cội nguồn từ đặc điểm lòch sử xã hội Việt Nam thời kỳ Lý – Trần. Trước hết nó
được hình thành và phát triển trên cơ sở đặc điểm và nhu cầu của điều kiện lòch
sử, kinh tế, chính trò, văn hóa, xã hội thời kỳ nhà Trần. Tư tưởng triết học của ông
còn là sự kế thừa, dung hợp, phát triển những yếu tố Nho, Lão, Phật với các dòng
thiền trước đó như thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền
phái Thảo Đường thời nhà Lý, trực tiếp nhất là triết lý thiền của Trần Thái Tông
và Tuệ Trung Thượng só; là sự dung hợp của Thiền, Tònh, Nho, Lão trên tinh thần
( )4
Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên), Đại cương lòch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, tr. 111.
12
truyền thống triết lý, đạo đức nhân sinh Việt Nam, tạo nên bước phát triển mới
cho thiền học Việt Nam.
Chương 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
2.1. THẾ GIỚI QUAN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
Trần Nhân Tông (sinh năm 1258 – mất năm 1308) không chỉ là một vò vua
anh minh, người có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên –
Mông, mà còn là một thiền sư lỗi lạc, người sáng lập ra dòng thiền mang bản sắc
Việt Nam – thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông đã sáng tạo nên hệ
thống tư tưởng triết học hết sức phong phú, thâm trầm và sâu sắc, thể hiện qua
quan điểm về thế giới và nhân sinh của ông.
2.1.1. Quan niệm về bản thể trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông
Trong quan điểm về thế giới, Trần Nhân Tông dùng hệ thống những khái
niệm như “bản”, “tâm”, “Bồ đề”, “tính sáng”, “tính gương”, “báu vật”, “Chân
như”, “lòng trong sạch”, “gia hương”… để chỉ bản thể của vạn pháp. Trước hết là
quan điểm về chữ “bản”, Trần Nhân Tông muốn dùng để chỉ cái gốc, cái bản thể
của vũ trụ. “Vậy mới hay! Bụt ở trong nhà; Chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản
nên ta tìm bụt; Đến cốc hay chỉn bụt là ta”
( )5
. Nhưng trong triết học Trần Nhân
Tông, “tâm” cái được coi là nguồn gốc, chân thể của vạn vật và chúng sinh vẫn
là
khái niệm trung tâm, quan trọng nhất, nó chi phối và xuyên suốt mọi vấn đề khác.
Trần Nhân Tông coi “tâm” là thể tính hoàn toàn tónh lặng, vừa bao la vô tận,
không thể ràng buộc và khuôn dấu bằng ngôn ngữ và tư tưởng được, vừa vốn có
sẵn trong mỗi con người, gọi là “Tâm tónh lặng”. Cái “Tâm tónh lặng” ở Trần Nhân
Tơng là sự dứt bỏ, buông xả mọi quan niệm, ý tưởng. Nếu chỉ khuấy lên mảy may
ý niệm thôi thì thể tónh lặng đó bò phá vỡ, bò che lấp bởi thế giới hình tướng. Thể
tính đó giống như trăng đáy nước, khi mặt nước tónh lặng thì trăng trong sáng, tràn
đầy, còn nếu xao động, gợn sóng thì bò phá vỡ tan biến thành từng mảnh. Có thể
thấy cái “Tâm tónh lặng” của Trần Nhân Tông và cái “Tâm không hư” của Trần
Thái Tông là một. Vì cái “vô tâm”, “vô niệm” của tâm “không hư” chính là đạt đến
cái tâm ở trạng thái tónh lặng. Nhưng Trần Nhân Tông chú trọng đến khía cạnh
trạng thái và hình tướng của tâm nhiều hơn. Qua đó ta có thể thấy quan điểm về
“bản” hay “gốc” của Trần Nhân Tơng ở đây chính là lòng trong sạch, là tính sáng
(giác tính), tính gương là bản tính, thể tính. Đó là cái ban đầu vốn có ở mỗi con
người, luôn luôn thanh tònh, không thiện không ác, không sinh không diệt, chẳng đi
( )5
Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 497.
13
chẳng lại. Nhưng trong cuộc sống do tham, sân, si và vô minh, nên mọi người hoặc
làm cho nó lu mờ, hoặc đánh mất (khuây bản).
Theo triết lý “tinh yếu” của thiền, tự tính hay Pháp, Tâm hay Phật, phàm
hay Thánh, đồng nhất hay khác biệt là do chính cái tâm của con người quyết đònh.
“Tâm tónh lặng” thì tất cả là một, tự nhiên như nhiên, còn tâm sai biệt thì ngay lập
tức xuất hiện thế giới hiện tượng sai biệt, đối đãi. Chính tư tưởng này chi phối
xuyên suốt những vấn đề nhân sinh quan của Trần Nhân Tông. Khi đã đạt đến
nhất thì con người sẽ giải trừ được tam độc (tham, sân, si) và chứng được tam thân
(pháp thân, ứng thân, báo thân) của Phật. Theo Trần Nhân Tông, để vươn tới các
tâm tónh lặng, cái bản thể chân như vốn sẵn có trong mỗi con người thì không phải
bắt đầu từ chỗ nhận thức, đặt tên, tìm ý, mà là sự chứng nhận bằng chính cuộc
sống thật của mình. Trên con đường hướng thượng đó, nội dung, mục đích chỉ là
một – cái tâm “không hư”, “tónh lặng” – song hình thức và phương tiện lại rất đa
dạng và phong phú đến mức không thể khái quát thành những hình thức phổ biến
hay phương tiện cụ thể nào.
Ở Nhân Tông, bản thể còn thể hiện ở những khái niệm như Chân như, thực
tướng, chân không, báu vật. Ta thấy, ở đây Trần Nhân Tông không dùng khái
niệm “Phật tính” hay “tính Phật” mà ông dùng khái niệm “Bồ đề”, “tính sáng”,
“tính gương” và ông còn gọi nó là báu vật. Trong mỗi con người đều có sẵn báu
vật. Ở một nghóa khác, nó cũng là cái gốc, mà một số người hoặc bỏ quên hay
đánh mất, hoặc do tham, sân, si, vô minh chi phối mà họ không biết, bởi vậy họ
trôi dạt mãi ở sông mê, bể khổ. Quan điểm này của Trần Nhân Tông giống với
quan điểm của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, xem Phật tính là hạt minh châu, kho
báu trong người. Nên không phải tìm kiếm ở bên ngoài mà chỉ là do vô minh nên
mọi người đều không biết rằng mình có Phật tính. Trần Nhân Tông cho rằng “bản
thể” ở khắp mọi nơi, ở trong mỗi người, nhưng đã mấy ai nhận thấy. Bản thể này
không thể nghó suy, bàn đònh được, không thể dùng ngôn ngữ mô tả được, không
thể dùng màu sắc, âm thanh diễn đạt được, vừa động niệm suy nghó là sai, vừa mở
miệng nói ra là đã lầm, có ý truy tầm lại càng không thấy.
Như vậy, để chỉ bản thể hay “Tâm tónh lặng” Trần Nhân Tơng đã diễn đạt
bằng nhiều tên gọi khác nhau như Bồ đề, giác tính, tính sáng, thể tính, lòng trong
sạch yên tónh, Bụt, Chân như, Thực tướng, Chân không, Pháp thân,… Nó chính là
vật báu trong mỗi con người. Nó cũng là khởi nguyên, cội nguồn, là gốc, bản thể
của toàn vũ trụ. Nó thường trụ, bất sinh, bất diệt (phi thiện, phi ác) vượt lên trên
mọi sự đối đãi, mâu thuẫn nhò nguyên. Nhưng do quá trình sống, con người bò
tham, sân, si chi phối nên đã quên đi và xa rời cái gốc, Phật tính vốn có trong tâm
của mình. Cho nên vấn đề là phải trở về gốc, trở về cái mà Trần Nhân Tông gọi là
gia hương (quê hương xứ sở).
14
Về quan niệm giữa “tâm”,”tính”, “Pháp”, “Phật”, Trần Nhân Tông cho rằng
chúng hầu như là như nhau và quan hệ với nhau “như bóng và hình”. Ông viết:
“Những tiếng nói cười, giương mày, nhíu mắt, tay cầm chân đi ấy là tính gì ? Tính
ấy thuộc tâm nào ? Tâm và tính cũng rõ thì cái gì là phải, cái gì là không phải ?
Pháp tức là tính, Phật tức là tâm, vậy tính nào không phải pháp, tâm nào không
phải Phật ? Tâm là Phật mà tâm cũng là pháp. Nhưng vì pháp vốn không pháp nên
nói pháp là tâm, cũng như nói tâm là không tâm, mà tâm là Phật, cũng có nghóa
Phật là không Phật!
( )6
.
2.1.2. Mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng trong tư tưởng
triết học Trần Nhân Tông
Mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng trong tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông chính là mối quan hệ giữa “hữu” và “vô”ø. Cũng như quan điểm
của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng só, thế giới hiện tượng ở Trần Nhân
Tông là kết quả tạo tác của dòng nhận thức nên vạn pháp đan bện vào nhau, rắc
rối như sắn bìm, bụi cỏ, chúng sinh sinh, hóa hóa, rời đổi vô thường. Thế giới hiện
tượng đó chỉ là giả tưởng, nó có đấy nhưng không thật, không thể xác đònh tính
hiện thực của nó, dù chỉ như một giấc mơ với tất cả hình danh, sắc tướng của nó.
Muốn nhận thức được bản thể chân thực hay chân như tự tính, đạt tới cái tâm bản
nhiên trong sáng, con người ta phải tu tập, thiền đònh, rèn luyện trí tuệ và đạo đức
để thoát khỏi sự lôi kéo, mê hoặc của thế giới hiện tượng, giả tướng ấy. Còn điểm
khác giữa ông với Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng só là ở quan niệm về
nguồn gốc xuất hiện thế giới cảm tính, xuất hiện đường kia mối nọ, xuất hiện hiện
hữu. Trần Nhân Tông ít bàn đến bản – thể – không, ông cũng ít đề cập đến nguồn
gốc xuất hiện thế giới hiện tượng. Ông chỉ nói: “Đạo lớn cao rộng hư không, nào
có ràng, nào có buộc; bản tính sáng trong, kết tụ, không có dữ, không có lành. Lâu
ngày do sự lựa chọn cân nhắc mà sinh ra tắt ngang lắm ngả”
( )7
. Như vậy, nguồn
gốc những đường mối trong thế giới hiện tượng này theo Trần Nhân Tông là do phân
biệt, kén chọn. Và thực chất khi đi sâu vào phân tích ta thấy, phân biệt, kén chọn
cũng là nhò kiến, có nhò kiến tức là có sự kén chọn phân biệt, nếu vong nhò kiến tức
không còn đối đãi phải trái, trên dưới, trước sau, tốt xấu, thiện ác, thì làm gì còn phân
biệt kén chọn nữa. Ở điểm này, Trần Nhân Tông tiếp thu trực tiếp từ người thầy là
Thượng só, nhưng suy cho cùng thì nhò kiến, vọng niệm, kén chọn cũng chính là vô
minh của triết lý Phật giáo nguyên thủy.
Thế giới bản nhiên, theo Trần Nhân Tông vốn tự nhiên như nhiên, trong mối
tương quan với cái tâm tónh lặng, nó viên đồng hết thảy, chẳng phân biệt “có -
không”, “thò – phi”, “phàm – thánh”, nhưng khi nó bò ý thức đối tượng hóa, phân biệt
và chia cắt thì nó trở thành thế giới sai biệt. Lúc đó, dù có “lập tông, lập chỉ, đập
( )6
Trần triều dật tồn Phật điển lục, Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ, Hà Nội, 1943, tờ 38a - 38b.
(( )7
Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 660.
15
ngói, dúi rùa, trèo non lội nước” thì cũng chẳng ích gì. Như vậy, quan niệm của Trần
Nhân Tông về thế giới hiện tượng chính là quan điểm “vô thường” của triết lý Phật
giáo, bởi lẽ ông cho rằng thế giới này tồn tại đấy, nhưng không thực, chỉ là giả
tướng, như mộng ảo huyễn. Sự xuất hiện nó là do phân biệt kén chọn và suy cho
cùng là do vô minh. Diệt được vô minh thì những thiên sai vạn biệt, những dường
mối cũng biến mất.
2.2. NHÂN SINH QUAN VÀ TRIẾT LÝ ĐẠO ĐỨC TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
Nếu thế giới quan của Trần Nhân Tông chủ yếu là thế giới quan của Phật
giáo thì nhân sinh quan của ông, ngoài Phật giáo còn có yếu tố của Nho giáo, hòa
quyện quan điểm của Đạo giáo và là sự tổng hợp quan điểm của Thiền và Tònh
độ. Có thể nói toàn bộ tư tưởng triết học của Nhân Tông được bắt đầu từ “tâm” và
kết thúc cũng ở “tâm”. Đối tượng là “cái tâm” và mục đích của triết học Nhân
Tông cũng để đạt tới “cái tâm tónh lặng, hư không”. Vì thế, có thể nói trong tư
tưởng triết học thiền của Trần Nhân Tông thì vấn đề nhân sinh quan đã được ông
quan tâm và bàn luận đến một cách đầy đủ và nhất quán hơn cả. Trần Nhân Tông
cho rằng, đây mới là những vấn đề quan yếu cuối cùng của đời sống thiền, bởi
ông hiểu rõ cuộc đời rất ngắn ngủi, vô thường nên ông tích cực “nhập thế” và
mong muốn cống hiến toàn bộ sức lực cho sự nghiệp đời và đạo. Chính tinh thần
nhập thế tích cực này đã đưa thiền phái Trúc Lâm mà người sáng lập là Trần
Nhân Tông đến đỉnh cao của sự phát triển Phật giáo đời Trần và là đại biểu cho
Phật giáo Việt Nam với diện mạo, sắc thái riêng.
2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về cuộc đời con người và vai trò
của con người trong cuộc sống
Trần Nhân Tông cho rằng sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng
hổ thẹn của kẻ trượng phu (sinh vô bổ thế trượng phu tàm). Chính vì thế, trong
triết lý nhân sinh của mình, Trần Nhân Tông luôn đề cao vai trò, trách nhiệm của
con người trong cuộc sống, gắn cuộc sống mỗi con người với vấn đề lợi ích của
dân tộc. Ông khẳng đònh rằng làm trai phải quyết trả nợ non nước, phải để lại gì
cho núi sông, phải giúp ích gì cho đời, “miễn giao ưu quốc mỗi như đàm”
( )8
. Cho
nên ở đâu ông cũng mở lớp thuyết pháp dạy dân chúng khắp các thôn quê thực
hành Mười điều thiện (Thập thiện), diệt trừ gian tà đem lại nhân đức cho đời. Mười
điều thiện đó là: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm (ba điều
thiện nói về việc làm); 4. Không nói dối; 5. Không nói lời chia rẽ; 6. Không nói lời
độc ác; 7. Không nói lời bẩn thỉu (bốn điều thiện về lời nói); 8. Không tham lam;
9. Không giận dữ; 10. Không tà kiến (ba điều thiện về ý nghó).
( )8
Viện Văn học , Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 479.
16
2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề rèn luyện đạo đức, trí
tuệ, giải thoát
Tư tưởng của Trần Nhân Tông về thái độ, phong cách sống, về việc tu luyện
đạo đức, trí tuệ để đạt tới giác ngộ, giải thoát. Mục đích cao cả nhất trong cuộc
sống con người theo triết lý nhân sinh Phật giáo nói chung và Trần Nhân Tông nói
riêng chính là tu luyện đạo đức, trí tuệ để đạt tới chân như, bồ đề, giác tính, giác
ngộ, giải thoát, Niết bàn với cái tâm thanh tònh trong sáng, tòch diệt, viên đồng hết
thảy, chẳng còn bỉ thử, tránh nhân chấp ngã, thò phi chẳng hề; hay đó cũng chính
là “Tâm tónh lặng”. Để đạt tới cái “Tâm tónh lặng” ấy Trần Nhân Tông đã đưa ra
một hệ thống phương pháp tu luyện trí tuệ và đạo đức con người. Trong hệ thống
đó, một mặt ông chủ trương thiền đònh qua các bước khác nhau bằng tu hạnh đầu
đà, đi tới xóa bỏ vọng niệm, và tònh, độ, kết hợp với tu luyện đạo đức lối sống của
Nho và Lão, như “xem kinh, đọc lục, học đạo, thờ thầy” như “rèn lòng làm bụt,
sạch giới lòng, chùi giới tướng, cho vằng vặc tính gương”
( )9
, “ăn rau trái, vận giấy,
vận sồi”. Trần Nhân Tông đã làm nổi bật lên cuộc sống Thiền bằng chính nếp
sống giản dò, trong sáng, đạo hạnh. Với tấm lòng yêu thương chúng sinh vô hạn,
ông đã chỉ ra cái gốc trong mỗi con người, chỉ ra cho họ tại sao bò lạc đường, để
cho họ trở về gốc, trở về với chính bản thân mình. Không chỉ tự mình sống đạo
đức, mà ông còn kêu gọi và chỉ dạy cho dân chúng khắp nơi sống theo nếp sống
"Thập thiện" của Phật giáo.
Trần Nhân Tông thực sự muốn xây dựng xã hội Việt Nam lấy đạo đức Phật
giáo làm nền tảng, chỉ dẫn cho mọi người làm điều thiện, tránh điều ác và thoát
khỏi cảnh sống chết luân hồi. Trần Nhân Tông đã tìm thấy trong đạo Phật nhiều
yếu tố tích cực có thể tăng cường sự đoàn kết toàn dân và đặc biệt là củng cố nền
"đạo đức xã hội". Sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông có
ý nguyện phục hồi và phát huy vai trò chủ đạo tư tưởng Phật giáo trong đời sống
tinh thần và xã hội Đại Việt, đồng thời xây dựng một tổ chức giáo hội chặt chẽ
thống nhất, để trở thành trung tâm liên kết toàn xã hội trên lónh vực tư tưởng.
Mong muốn này của ông không chỉ có ý nghóa tôn giáo, mà còn mang ý nghóa
chính trò sâu xa, nhằm khắc phục những hạn chế của Phật giáo thời Lý và đầu thời
Trần, đồng thời nhằm thiết lập hệ tư tưởng độc lập, thống nhất cho xã hội Đại
Việt.
Về vấn đề sống chết và cuộc đời con người, Trần Nhân Tông đã nhìn ra
điều mà Lão Tử cũng đã nhìn thấy là: "làm người ắt phải có thân, có thân tức là
có họa". Ông nói: “Sinh có nhân thân, ấy là họa cả”
( )10
Như thế, Trần Nhân Tông
hiểu một cách sâu sắc tính cách vô thường, ngắn ngủi của cuộc sống con người.
Nó như là “hơi thở qua buồng phổi” mà thôi. Vậy con người có thể thoát ra khỏi
( )9
Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.505 – 508.
( )10
Sđd, tr. 532.
17
giới hạn sinh tử không? Theo Trần Nhân Tông, con người không thể tránh khỏi
sinh tử và vòng nhân quả, vì thế người ta không chạy trốn khỏi sinh tử hay nhân
quả để tìm tới Niết bàn, mà ngược lại phải ở ngay trong sinh tử để thấu hiểu suốt
bản tính của nó và để nhận ra sinh tử là không sinh, không tử. Do đó, vấn đề sinh
tử không phải là chuyện vô ích mà là vấn đề lớn quyết đònh đến thái độ sống của
người hành giả. Thái độ sống của Trần Nhân Tông trước cuộc đời ngắn ngủi là
tích cực sống hết mình cho đời, cho đạo, gắn đạo với đời.
Kết luận chương 2
Trần Nhân Tông là một trong những nhà tư tưởng lớn thời kỳ Lý – Trần, với
những đóng góp to lớn trên nhiều lónh vực như thơ, văn, nghệ thuật, triết học, tôn
giáo trong đó đặc biệt là tư tưởng thiền học.
Nổi bật trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông đó là những vấn đề về
thế giới quan, nhân sinh quan và triết lý đạo đức đặc sắc, với hệ thống các khái
niệm, phạm trù và các quan niệm về bản thể về mối quan hệ giữa bản thể và thế
giới hiện tượng. Đặc biệt trong quan điểm về nhân sinh và đạo đức, Trần Nhân
Tông đã bàn tới những vấn đề về vò trí, vai trò con người trong cuộc sống, về thái
độ sống và cuộc đời con người, về vấn đề tu luyện đạo đức và trí tuệ để đạt tới
giải thoát hết sức sâu sắc. Ông có những cách lý giải mới độc đáo về bản thể, về
sự xuất hiện của thế giới hiện tượng, cảm tính, cũng như vấn đề về nhân sinh. Ông
đã góp phần quan trọng trong việc thanh lọc tâm hồn con người, làm lành mạnh
không khí tinh thần của thời đại bằng cách kêu gọi thực hành “Thập thiện”, xiển
dương Phật giáo, cộng với lối sống tùy duyên, nhàn hạ, Trần Nhân Tông đã làm
cho thời đại Lý – Trần trở thành một trong những thời đại vẻ vang nhất về lòch sử
và rực rỡ nhất về văn hóa trong lòch sử các triều đại phong kiến Việt Nam.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN
NHÂN TÔNG
3.1.1. Tính kế thừa và dung hợp trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông
Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông ra đời, trong quá trình tiến triển nội
tại của Thiền tông Việt Nam, không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà nó có
cội nguồn từ đặc điểm lòch sử xã hội Việt Nam thời kỳ Lý – Trần và là sự kế thừa,
dung hợp, phát triển những yếu tố của các dòng thiền trước đó như thiền phái Tỳ
Ni Đa Lưu Chi, thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái Thảo Đường thời nhà Lý;
nhưng đặc biệt và trực tiếp nhất là triết lý thiền của Trần Thái Tông và Tuệ Trung
18
Thượng só; là sự dung hợp của Thiền, Tònh, Nho, Lão trên tinh thần truyền thống
Việt Nam, tạo nên bước phát triển mới cho thiền học Việt Nam. Sự dung hợp
sáng tạo ấy trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông được thể hiện sâu sắc
nhất trong vấn đề thế giới quan và vấn đề triết lý đạo đức nhân sinh của ông. Vấn
đề quan trọng và cốt yếu nhất trong triết lý của thiền là cái tâm. Do đó, trong vấn
đề bản thể luận, tiếp tục tư tưởng của các dòng thiền trước đây, Trần Nhân Tông
cũng tập trung vào lý giải phạm trù “tâm”. Tư tưởng triết học của ông bắt đầu từ
cái tâm và cũng kết thúc ở cái tâm. Ông coi tâm là thể hoàn toàn tónh lặng, bản
nhiên, vừa bao la vô tận, không thể mô tả bởi ngôn từ, màu sắc, âm thanh… cũng
như không bò ràng buộc bởi tư tưởng, là bản thể của tất cả; vừa có sẵn trong mỗi
con người, gọi là “Tâm tónh lặng”. Về thực chất “Tâm tónh lặng” của Trần Nhân
Tông cũng là “Tâm ấn” của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, “Tâm đòa” của Vô Ngôn Thông,
“Tâm hư không” của Trần Thái Tông và “Tâm thể” của Tuệ Trung Thượng só đã
được Trần Nhân Tông kế thừa, dung hợp, bổ sung, với nội dung và hình thức mới.
Bởi “tâm” là cốt yếu của thiền; đó là cái tâm bản nhiên, thanh tònh, không danh,
không tính, không hình, không sinh không diệt, vượt ra khỏi ngôn ngữ và tư duy.
Nhưng nó được xem xét nhấn mạnh ở những mặt, những tính chất và khuynh
hướng khác nhau với các quan điểm khác nhau mà thôi.
Tính chất dung hợp trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông còn thể hiện ở sự
dung hợp của tư tưởng Thiền, Tònh độ và tư tưởng đạo đức luân lý của Nho, Lão
trong lónh vực nhân sinh. Để đạt tới “Tâm tónh lặng”, là gốc, là Bồ đề, tính sáng ,
một mặt ông chủ trương thiền đònh qua các bước khác nhau bằng tu luyện hạnh đầu
đà, đi tới xóa bỏ vọng niệm và trở về với gốc của mình, bao hàm cả giới, đònh, tuệ,
niêm tụng, sám hối, đốn ngộ; mặt khác, ông cũng chủ trương kết hợp với tònh độ để
đạt tới tính sáng, lòng sạch, tức cõi Cực lạc, Niết bàn: “Tònh độ là lòng sạch, chớ
còn ngờ hỏi Đông Tây”. Không những thế, trong triết lý nhân sinh của mình Trần
Nhân Tông còn kế thừa, dung hợp quan điểm của Nho và Lão qua việc xác đònh ý
nghóa cuộc sống, việc tu luyện đạo đức, lối sống, như: “Sinh vơ bổ thế trượng
phu”
( )11
, “chơi nước biếc, ẩn non xanh…”, “công danh chẳng trọng, phú quý chẳng
màng”
( )12
.
3.1.2. Tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cực trong tư tưởng triết
học Trần Nhân Tông
Thiền hành động, nhập thế là một trong những đặc điểm của thiền tông Việt
Nam bắt đầu thể hiện qua tư tưởng của các thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn
Thông, Thảo Đường và đặc biệt là quan điểm “hoạt Phật”, “sống thiền”, “hành
thiền” của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng só. Đến Trần Nhân Tông ông đã
phát triển tính chất này ở thời đại ông lên một bước mới, khẳng đònh tính chất
( )11
Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.477.
( )12
Sđd, tr. 533.
19
thiền nhập thế tích cực như một đặc trưng riêng có của thiền Việt Nam. Điều đó
được biểu hiện ở chỗ thiền không dừng lại ở những hoạt động giới hạn trong việc
tu hành như ăn chay, niệm Phật, tọa thiền, tu thiền… mà nó còn biểu hiện bởi
những hành động thiết thực, thường nhật trong cuộc sống vì chúng sinh, có ý nghóa
và nội dung sâu sắc và rộng lớn hơn nhiều, đó là “hoạt Phật”, sống thiền. Đây
chính là điểm đặc sắc của thiền Việt Nam. Tinh thần nhập thế tích cực của thiền
Trần Nhân Tông được biểu hiện qua hai nội dung. Thứ nhất, đó việc Trần Nhân
Tông quyết tâm phục hồi và phát huy vai trò chủ đạo của tư tưởng Phật giáo trong
đời sống tinh thần xã hội Đại Việt, đưa triết lý đạo đức Phật giáo thâm nhập sâu
rộng và trở thành nền tảng đạo đức của nhân dân Đại Việt. Thứ hai, đó là đem
triết lý Phật giáo gắn với đời sống xã hội, thể hiện bằng hoạt động, sống tích cực,
không chỉ dừng lại ở những sinh hoạt tôn giáo và việc thực hành các giới luật, lễ
nghi tôn giáo hàng ngày như tụng kinh, niệm Phật cũng không phải chỉ là những
hành động thường nhật mà là những hành động có ý nghóa và mục đích cao cả, lớn
lao hơn nhiều, như lo cho dân cho nước, như đánh giặc cứu dân, cứu nước, lấy triết
lý đạo đức nhân sinh nhân bản Phật giáo, lấy thiền phục vụ cho đời, gắn đạo với
đời, trên tinh thần dung hợp Phật, Nho, Lão và nền tảng tinh thần văn hóa dân tộc,
coi nó là tính chất chỉ đường cho thiền Việt Nam.
Trong suốt cuộc đời mình, dù làm vua hay làm giáo chủ, Trần Nhân Tông lúc
nào cũng hết lòng lo cho dân cho nước, cũng như lúc nào cũng lo học hỏi tham
thiền, nhằm xây dựng một hệ tư tưởng, một tổ chức Phật giáo thống nhất góp phần
làm chỗ dựa tinh thần cho một quốc gia thống nhất, có nền văn hóa văn minh độc
lập, chống lại ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, chống lại hai lần xâm lược của quân
Nguyên – Mông tàn bạo. Bản thân Trần Nhân Tông khi xuất gia đã sống một nếp
sống vô cùng giản dò, trong sáng, thanh bạch, dốc lòng tu thiền để đạt tới giác ngộ.
Ông đã chỉ cho mọi người biết rằng Phật tính nằm ở ngay trong lòng mỗi người,
không phải đi tìm ở đâu xa, Bụt ở ngay trong tâm mỗi người không phải chạy Đông
chạy Tây tìm Bụt. Mọi người hãy tu luyện đạo đức và trí tuệ, giữ gìn giới luật, để
tâm sáng, giữ gìn tính sáng, nén niềm vọng, dứt trừ nhân ngã, dừng hết tham sân,
giữ lòng sạch (tònh độ) thì của báu, Phật tính, Niết bàn, hay cõi Cực lạc hiển hiện
trong tâm chúng ta. Ông đã trở thành một vò vua anh minh, một triết gia uyên thâm,
một thiền sư lỗi lạc với nhãn quan chính trò sâu rộng, ảnh hưởng lớn
lao đến triều
đình và toàn xã hội. Quan điểm, thái độ và hành động nhập thế tích
cực đó của Trần
Nhân Tông đã thực sự làm nên nét đặc sắc cho triết lý thiền Việt Nam.
3.1.3. Tính nhân văn trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông
Một học thuyết triết học thể hiện tính nhân văn là khi triết học đó hướng tới
con người, lấy con người làm trung tâm và đề cao con người. Tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông là một triết thuyết như vậy.
20
Trước hết trong tư tưởng triết học của mình, Trần Nhân Tông luôn khẳng
đònh và tin tưởng bản tính tốt đẹp của con người, coi Phật tính bồ đề, giác tính là
cái trong sáng bản nhiên thanh tònh luôn có sẵn trong tâm mỗi con người.
Tính nhân văn nhân bản trong triết học Trần Nhân Tông còn thể hiện rõ nét
ở ý muốn và sự trăn trở lo cho đời sống của dân, giáo hóa đạo đức cho dân, ở tinh
thần đạo nghóa khoan dung để thu phục hiền tài, nhờ vậy đã giữ yên bờ cõi và xây
dựng được lòng tin yêu nơi nhân dân.
Cao hơn nữa tính nhân văn trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông còn
được thể hiện ở sự nghiệp đánh giặc cứu nước cứu dân, ở chính sách xây dựng một
chế độ chính trò thân dân với xã hội yên bình thònh trò. Ông đã biết “khoan thư sức
dân”, dựa vào sức mạnh của dân để làm kế thượng sách giữ nước, làm cơ sở tồn
tại vững chắc của nhà nước quân chủ.
3.2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
3.2.1. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông đã góp phần tạo nên hệ
thống triết lý thiền đặc sắc của Phật giáo Việt Nam
Trên cơ sở nội dung tư tưởng triết học của mình, Trần Nhân Tông đã xây
dựng lên một trường phái thiền mang dấu ấn và bản sắc Việt Nam, đưa văn hóa
Việt Nam thời kỳ Lý – Trần phát triển rực rỡ. Đó là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Chính vì thế tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vừa mang tính chất chung
vừa thể hiện tính chất và sắc thái riêng của thiền. Tính chất, sắc thái riêng của
triết lý thiền Việt Nam do Trần Nhân Tông sáng tạo nên đó là tính chất thiền hành
động, nhập thế tích cực.
Sở dó Trần Nhân Tông sáng tạo nên được một tư tưởng triết học góp phần
tạo nên một dòng thiền độc đáo, đặc sắc Việt Nam ấy là do: Một là, Trần Nhân
Tông đã nắm được cái căn bản và tinh yếu nhất của thiền, đó là đề cao cái tâm
trong sạch, thanh khiết. Hai là, Trần Nhân Tông đã biết kế thừa cái tinh túy của
dòng thiền trước đó cũng như kế thừa các yếu tố đặc sắc của Nho, Lão đem kết
hợp hòa quyện chúng thành một thể thống nhất, tạo nên sắc thái riêng của thiền
Việt; Ba là, đặc biệt Trần Nhân Tông đã biết kết hợp lý luận về thiền với cuộc
sống sinh động, với thực tiễn và sứ mệnh lòch sử Việt Nam thế kỷ XIII – XIV, đem
đạo gắn với đời, gắn với nhiệm vụ xây dựng một nước Đại Việt.
Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ra đời đã đáp ứng nhu cầu phục hồi và
phát huy vai trò chủ đạo của tư tưởng Phật giáo trong đời sống tinh thần xã hội
Đại Việt, đưa triết lý đạo đức Phật giáo trở thành một trong những nền tảng đạo
đức cho toàn xã hội, xây dựng một tổ chức giáo hội thống nhất để trở thành trung
tâm liên kết thống nhất toàn xã hội.
Không những thế tư tưởng triết học Trần Nhân Tông còn mang một giá trò và
ý nghóa chính trò, xã hội sâu xa, bởi nó đã khắc phục những hạn chế của Phật giáo
thời kỳ nhà Lý đầu nhà Trần ở tính chất tản mạn và còn phụ thuộc vào những yếu
21
tố tư tưởng ngoại lai, chưa hoàn toàn khẳng đònh tính độc lập về nội dung triết lý
và tính chất tôn giáo cũng như ý thức hệ. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ra
đời đã góp phần thiết lập nên một hệ tư tưởng độc lập, thống nhất cho toàn xã hội,
thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ vào ý thức hệ bên ngoài.
Ngày nay cùng với việc phát triển nền kinh tế xã hội nhiệm vụ xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, trong quá trình hội nhập quốc tế sâu
rộng, giá trò trên trong triết học Trần Nhân Tông vẫn còn có ý nghóa lòch sử sâu
sắc. Ý nghóa lòch sử đó thể hiện ở chỗ trong quá trình giao lưu văn hóa, một mặt
chúng ta phải biết kế thừa, bảo tồn phát huy những giá trò văn hóa truyền thống;
mặt khác, chúng ta phải biết tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, để
tạo nên nền văn hóa Việt Nam mang bản sắc riêng.
3.2.2. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là nền tảng tinh thần để xây
dựng một quốc gia độc lập, thống nhất và một nền chính trò thân dân
Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông không chỉ góp phần xây dựng nên một ý
thức hệ độc lập thống nhất, một trường phái thiền với triết lý thiền độc đáo, đặc
sắc Việt Nam – thiền hành động, nhập thế tích cực – mà còn là nền tảng tinh thần
để xây dựng nên một nền chính trò thống nhất, một nhà nước Đại Việt thống nhất,
độc lập, tự chủ; là công cụ thống nhất quyền lực vào chính quyền trung ương, giải
quyết những mâu thuẫn nội bộ dân tộc, chủ yếu là mâu thuẫn giữa giai cấp thống
trò và đông đảo quần chúng nhân dân nhằm duy trì sự ổn đònh trật tự xã hội, trên
cơ sở một nền chính trò thân dân, một nền quân sự hùng mạnh và một nền giáo
dục tiến bộ.
Về chính trò, tinh thần khoan dung, cởi mở trong tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông đã chi phối thể chế chính trò dưới thời ông biểu hiện ở hai nội dung
sau: Thứ nhất, đó là nền chính trò mang đậm tính khoan dung và "thân dân". Thứ
hai, nền chính trò thân dân của Trần Nhân Tông được thể hiện ở chủ trương vận
dụng một cách uyển chuyển, mềm dẻo, linh hoạt và dung hòa giữa pháp trò và đức
trò trong đường lối chính trò.
Về quân sự, Trần Nhân Tông đã xây dựng được lực lượng quân đội khá
hùng mạnh để đối phó với giặc ngoại xâm. Lấy lực lượng chính quy làm lực lượng
nòng cốt cho cuộc chiến tranh nhân dân, lấy lực lượng nhân dân làm trọng. ông đã
kế thừa và nâng lên một bước chính sách "ngụ binh ư nông", chủ trương khi có
giặc ngoại xâm thì "cử quốc nghênh đòch"
Về giáo dục, chế độ học tập và thi cử thời ông có tác dụng kích thích độc lập
suy nghó cùng tính năng động sáng tạo của con người. Giáo dục và khoa cử thời
này đã đào tạo một đội ngũ quan lại, trí thức Nho học đông đảo, đáp ứng yêu cầu
kiện toàn nhà nước quân chủ tập quyền từ trung ương tới đòa phương và đóng góp
quan trọng cho sự phát triển nền văn hóa Đại Việt.
22
Tiếp thu truyền thống thân dân, khoan thư sức dân trong lòch sử dân tộc nói
chung và của Trần Nhân Tông nói riêng, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn quan tâm đến nhân dân cũng như lợi ích của toàn dân tộc, trong tư tưởng
của Người về xây dựng nhà nước kiểu mới – nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước của dân là nhà nước do dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền
dân chủ, nghóa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có
nghóa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước do dân là nhà nước do dân lựa chọn, do
dân ủng hộ, giúp đỡ, nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Về
nhà
nước vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của
dân, do dân
tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân.
Kết luận chương 3
Trong lòch sử tư tưởng Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những nhà tư
tưởng lớn và có vò trí đặc biệt. Tính chất vó đại và đặc biệt của Trần Nhân Tông
không chỉ ở chỗ ông được mệnh danh là Phật hoàng hay là người sáng lập ra thiền
phái lớn nhất Việt Nam – Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, mà còn là trong chính nội
dung tư tưởng triết học của ông. Tư tưởng triết học của ông thể hiện những đặc
điểm riêng biệt của thiền Việt Nam và mang những giá trò lòch sử sâu sắc, đó là
tính kế thừa, dung hợp sáng tạo và tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cực với
tính nhân văn sâu đậm. Điều đó được thể hiện trước hết ở mong muốn của Trần
Nhân Tông đưa triết lý Phật giáo xâm nhập sâu rộng và trở thành nền tảng đạo
đức của nhân dân Đại Việt; đem triết lý Phật giáo gắn với đời sống xã hội thể
hiện bằng hoạt động và thái độ sống tích cực, không kêu gọi xa lánh cuộc đời,
không tu hành ép xác khổ hạnh mà luôn đề cao đức nhân nghóa, tính thiện (Thập
thiện) và cái tâm từ, bi, hỷ, xả; cứu dân, giúp nước. Điều đó còn thể hiện ở chỗ,
trong tư tưởng triết học của mình, Trần Nhân Tông luôn quan tâm đến con người,
đề cao vai trò, giá trò đời sống con người, luôn lo cho đời sống của dân, giáo hóa
đạo đức cho dân và thể hiện bằng hành động cao cả là đánh giặc cứu nước, cứu
dân, xây dựng một chế độ chính trò thân dân, khoan thư sức dân và một nền quân
sự hùng mạnh, nền giáo dục tiến bộ.
KẾT LUẬN CHUNG
Trong tiến trình lòch sử Việt Nam, thời đại nhà Trần là một trong những giai
đoạn phát triển rực rỡ nhất của lòch sử dân tộc ta. Đó là thời đại mà vua tôi nhà
Trần và toàn dân đã đồng lòng xây dựng nên một quốc gia Đại Việt độc lập, tự
chủ và thống nhất, với một thiết chế chính trò của nhà nước phong kiến trung ương
tập quyền khá quy mô chặt chẽ, một nền kinh tế nông nghiệp, thủ công và thương
nghiệp khá phát đạt thời bấy giờ; “vua thánh tôi hiền”, “muôn họ hát vui thời thònh
23
trò”. Đó là thời đại cả dân tộc ta “tướng só một lòng phụ tử”, hừng hực hào khí “sát
Thát” làm nên ba lần chiến thắng giặc Nguyên – Mông vang dội; và, tương ứng
với nó, đó là thời đại đã hun đúc nên một nền văn hóa rực rỡ với những con người
có nhân cách, tư tưởng và ý chí lớn như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng só, Lê
Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông,
Huyền Quang, Pháp Loa… làm rạng danh lòch sử dân tộc. Trong đó, Trần Nhân
Tông nổi lên như một trong những nhân vật kiệt xuất nhất.
Tiếp tục truyền thống của thiền và trên cơ sở kế thừa nội dung khái niệm về
“tâm” được hình thành từ các thế hệ trước như thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô
Ngôn Thông, Thảo Đường cũng như quan điểm về “tâm hư không” của Trần Thái
Tông và “tâm thể” của Tuệ Trung Thượng só, Trần Nhân Tông đã coi “tâm vô
niệm” hay “Tâm tónh lặng” là bản thể của thế giới. Chữ “bản”, theo Trần Nhân
Tông nghóa là cái gốc, là bản nguyên của vũ trụ, vạn vật. Cái “Tâm tónh lặng”,
“vô niệm” là gốc của thế giới, theo Trần Nhân Tông là cái ban đầu, vốn có trong
con người. Nó là cái bản thiên, thanh tònh, trong sáng, viên đồng tất cả, không
hình, không tướng, thường trụ bất biến, vượt lên mọi đối đãi, nhò nguyên, không
sinh không diệt, không thiện không ác, không thò không phi… Nhưng trong cuộc
sống do vọng niệm, tham dục chi phối, nên con người đã làm nó lu mờ đi, quên
mất cái gốc là của báu trong mỗi con người ấy (khuây bản). Vì thế mới chạy
Đông, chạy Tây tìm bụt, chứ thực ra bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm đâu xa cả.
Bởi vậy, theo ông để trở về với cái gốc như trở về quê hương xứ sở (gia hương),
người ta phải tu tập, thiền đònh.
Trong tư tưởng triết học của mình, Trần Nhân Tông cũng đã đưa ra nhiều cái
tên khác nhau, để chỉ bản thể, chỉ cái “Tâm tónh lặng” như tính sáng, tính gương,
giác tính, thể tính, lòng trong sạch, Bụt, thực tướng, Pháp thân, chân như… Tuy
nhiên, trong quan điểm về “tâm”, Trần Nhân Tông đã chú trọng đến khía cạnh
hình tướng, trạng thái của tâm, và nó đã được ông diễn đạt một cách bình dò, gần
gũi hơn với cuộc sống đời thường. Ông cũng cho rằng Phật tính, Pháp thân, tâm,
tính có quan hệ với nhau “như hình với bóng, khi ẩn khi hiện”, “không dính không
rời”
( )13
, “Pháp tức là tính, Phật tức là tâm… Tâm là Phật mà tâm cũng là Pháp”.
Trần Nhân Tông cũng cho rằng, thế giới hiện tượng là biến ảo vô thường. Vạn
pháp là do duyên khởi y tha nên tồn tại đan bện vào nhau, rắc rối như sắn bìm bụi
cỏ, chúng sinh sinh, hóa hóa biến đổi vô thường. Thế giới hiện tượng ấy chỉ là giả
tưởng, nó có đấy nhưng không thật, giống như giấc chiêm bao, vừa hư vừa thực; sự
xuất hiện của nó là do phân biệt kén chọn, hay vọng niệm của con người mà ra,
nếu diệt được vọng niệm, trở về với cái “Tâm tónh lặng” thì những thiên sai, vạn
biệt ấy cũng biến mất.
( )13
Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.660.
24
Để trở về với quê hương xứ sở, để vươn tới cái “Tâm tónh lặng”, cái bản thể,
chân như vốn có, thanh tònh, bản nhiên, viên mãn trong mỗi người, theo Trần Nhân
Tông người ta không phải bắt đầu từ nhận thức, lý luận, đặt tên tìm ý, bám víu vào
câu chữ của giáo lý, “lập tông lập chỉ”, “lý thuyết ồn ào”; “quên trăng ngắm
ngón”, kén chọn phân biệt hữu vô, phải trái, có tính chất biên kiến đối đãi… mà
phải chứng ngộ trong chính cuộc sống của mình bằng quá trình tu tập giới hạnh và
thiền đònh, từ tu hạnh đầu đà, đến vong nhò kiến, phá chấp và đạt tới “Tâm tónh
lặng”. Đó là quá trình công phu như đãi cát tìm vàng, cần phải gắng sức dùi mài,
dứt nhân ngã, trừ tham sân, xét tâm thân, rèn tính thức, cầm giới, công danh chẳng
trọng, phú quý chẳng màng, sống thanh tao, đạm bạc, giác tính sáng trong, thân
tâm vui vẻ, rũ hết duyên trần, chẳng còn bỉ thử, nhất tâm bất loạn vượt biên kiến
để đạt tới vô ngôn, vô niệm. Đó chính là con đường trở về với bản thể, biến tâm
mình thành vô tâm, hay “tâm hư” như Trần Thái Tông quan niệm, hoặc “tâm vô
trụ” như trong Kinh Kim cương. Sự trở về này không thể thực hiện bằng ngôn ngữ,
văn tự hay hay luận lý, giảng giải, bởi lẽ: “Nhận văn giải nghóa, lạc lài nên Thiền
khách bơ vơ”
( )14
. Ở đây, Trần Nhân Tông đã học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm, lý luận
về thiền của các thiền sư đi trước để vạch ra cho mình một con đường và cách thức
thiền độc đáo, tổng hợp tinh túy tư tưởng tu tập, thiền đònh của các thế hệ trước
nhưng lại mang một sắc thái mới, sống động, táo bạo hơn. Đó không phải là cách
tu thiền xuất thế, lánh đời, ép xác khổ hạnh, cũng không phải bằng sự “trầm tư
mặc tưởng”; mà là tính chất thiền hành động, nhập thế tích cực, thể hiện; một mặt,
bằng chính những hành động sống bình dò thường nhật để giữ giới luật đến ăn
chay, niệm Phật, sống hòa vào thiên nhiên, ung dung, tự tại…; và, cao hơn, đó còn
là những hành động mang ý nghóa đạo đức, luân lý và ý nghĩa chính trò xã hội lớn
lao như dạy Mười điều thiện (Thập thiện), giáo dục lòng nhân nghóa để diệt trừ
gian tà cho dân; thương yêu dân và lo cho nước (ưu quốc), đánh giặc cứu dân, cứu
nước. Cuộc đời và tư tưởng của Trần Nhân Tông có thể được nghiên cứu và tiếp
cận trên nhiều bình diện khác nhau như nhà chính trò, nhà thơ, nhà tư tưởng. Và, ở
bình diện nào chúng ta cũng phát hiện ra những điều thú vò và mới lạ về ông. Là
một vò vua, một vò tướng ông là người có một bản lónh và quyết đoán; là một nhà
chính trò, ông có cái nhìn sắc bén, bình tónh, tự tại; là một thiền sư, ông có một trí
huệ thâm trầm sâu sắc mà dung dò, và cao hơn cả là tấm lòng yêu nước thương dân
của ông. Triết lý ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho quân dân Đại Việt trong
công cuộc chấn hưng đất nước, chống giặc Nguyên – Mông thời bấy giờ.
( )14
Sđd, tr. 507.