Tải bản đầy đủ (.pdf) (232 trang)

Luận án tiến sĩ triết học Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 232 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






BÙI HUY DU






TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA TRẦN NHÂN TÔNG




Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 6222.80.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học:



PGS.TS.TRỊNH DOÃN CHÍNH


Phản biện:

1. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT
2. PGS.TS.TRƯƠNG VĂN CHUNG
3. PGS.TS.NGUYỄN XUÂN TẾ

Phản biện độc lập:

1. GS.TS.NGUYỄN HÙNG HẬU
2. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT




THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011
MỤC LỤC



Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
...........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1:
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ

TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG ..............................
10
1.1. Đặc điểm điều kiện lòch sử, kinh tế, chính trò – xã hội Việt Nam
thời kỳ nhà Trần – cơ sở xã hội hình thành tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông .......................................................................................... 10
1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lòch sử, kinh tế, chính trò – xã hội thời
kỳ nhà Trần .......................................................................................10
1.1.2. Sự phát triển văn hóa, giáo dục thời kỳ nhà Trần.............................26
1.2. Những tiền đề lý luận và tôn giáo hình thành tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông ............................................................................... 33
1.2.1. Giá trò văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam giáo”
với việc hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .................. 33
1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng só – tiền đề
lý luận trực tiếp của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông...................56
Kết luận chương 1.......................................................................................83
Chương 2:
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG….
86

2.1. Thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ................86
2.1.1. Quan niệm về bản thể trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .....89
2.1.2. Mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng trong tư tưởng triết
học Trần Nhân Tông ......................................................................105
2.2. Nhân sinh quan và triết lý đạo đức trong tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông........................................................................................114
2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về cuộc đời con người và về vai trò
của con người trong cuộc sống .......................................................114
2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề rèn luyện tinh thần đạo
đức, trí tuệ, giải thoát .....................................................................122
Kết luận chương 2.....................................................................................129

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
TRẦN NHÂN TÔNG ........................................................................
132

3.1. Những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ..
132

3.1.1.Tính kế thừa, dung hợp trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .......
132

3.1.2.Tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cực trong tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông .............................................................................147
3.1.3. Tính nhân văn trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ...............155
3.2. Giá trò lòch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ............... 164
3.2.1. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông đã góp phần tạo nên hệ thống
triết lý thiền đặc sắc của Phật giáo Việt Nam ................................169
3.2.2. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là nền tảng tinh thần để xây dựng
một quốc gia độc lập, thống nhất và một nền chính trò thân dân ........
174

Kết luận chương 3 ....................................................................................195
KẾT LUẬN
CHUNG................................................................................197
PHỤ LỤC .........................................................................................................
203
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................
213
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
.............................................222






LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu, dưới
sự hướng dẫn của PGS, TS. Doãn Chính. Kết quả nghiên cứu
được công bố trong luận án là trung thực. Các tài liệu sử
dụng trong luận án có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.


Người thực hiện




BÙI HUY DU


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng và nhân dân ta khởi
xướng và tiến hành, cùng với nhiệm vụ phát triển toàn diện các lónh vực
kinh tế, chính trò – xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hóa,
đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
“xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc” [21, tr. 18], chúng ta còn có
một nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là “xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tương xứng với sự
phát triển của nền kinh tế – xã hội. Đó cũng chính là triết lý của sự phát
triển xã hội hài hòa và bền vững. Bởi vì, văn hóa nói chung và những
giá trị tinh thần, tư tưởng của dân tộc Việt Nam nói riêng không chỉ là
nền tảng tinh thần và là một trong những động lực phát triển xã hội mà
còn là một trong những nguồn lực nội sinh bền bỉ và mạnh mẽ nhất “hun
đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam” [23, tr. 54], giúp chúng ta
có thể tiếp nối và phát huy sức mạnh truyền thống dân tộc trong công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phong phú nhưng
không kém phần phức tạp hiện nay.
Trong tiến trình của công cuộc đổi mới, hơn 20 năm qua đất nước
ta đã đạt được những thành tựu thực sự to lớn và toàn diện trên các mặt
kinh tế, chính trò, văn hóa, xã hội. Đạt được kết quả đó, văn hóa đóng

2
vai trò rất quan trọng bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
yếu tố nội sinh, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã
hội. Do đó, có thể nói xây dựng, phát triển văn hóa chính là củng cố xây
dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh
thần tiến bộ, lành mạnh, không thể có sự phát triển kinh tế – xã hội bền
vững. Văn kiện Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác đònh: “Phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn
hóa – nền tảng tinh thần của xã hội.” [24, tr. 213]
Cùng với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, việc mở cửa hội
nhập giao lưu văn hóa với tất cả các nước trên thế giới là một xu thế và
quy luật tất yếu. Chúng ta không thể bảo tồn những giá trò văn hóa của
dân tộc bằng cách khép kín, thu mình, đóng cửa; nhưng ngược lại, chúng

ta cũng không thể thực sự phát triển nếu như mở cửa không kiểm soát,
đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, để bảo tồn và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một mặt chúng ta
phải giữ gìn những giá trò truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc; mặt
khác, phải mở rộng giao lưu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại. Đúng như Văn kiện của Đảng đã khẳng đònh: “Trong điều
kiện kinh tế thò trường và mở cửa giao lưu quốc tế phải đặc biệt giữ gìn
và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và tiếp thu truyền thống
đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của
các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.”
[21, tr. 111]
Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trò văn hóa tinh thần
của dân tộc ta trong tiến trình lòch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ sở đó
phát huy sức mạnh của những giá trò văn hóa truyền thống tốt đẹp và lâu

3
đời của dân tộc trong cuộc sống hôm nay là việc làm vừa có ý nghóa lý
luận lâu dài vừa có tính thời sự cấp bách.
Trong lòch sử tư tưởng Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm đời Trần,
trong đó tiêu biểu là tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông – “đệ nhất
tổ thiền Trúc Lâm n Tử” nổi lên như một dấu son, góp phần khắc họa
khá đậm nét bản sắc, cốt cách tâm hồn Việt Nam nói chung và đặc
trưng của triết học Phật giáo Việt Nam nói riêng trong quá trình phát
triển. Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trò – một vò vua anh minh,
“nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thû
trước” [85, tr. 44] mà còn là nhà quân sự tài năng; không chỉ là nhà văn,
nhà thơ mà còn là nhà tư tưởng lớn, một bậc thiền sư lỗi lạc – người
sáng lập ra một dòng thiền mang bản sắc Việt Nam. Ông đã biết dung
hợp các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú,
sâu sắc, thâm trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự

kế thừa, chọn lọc các dòng thiền trước đây như Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(Vinitaruci), Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và tư tưởng triết lý thiền của
Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng só để sáng tạo nên hệ thống tư
tưởng triết học của mình với những nét độc đáo và đặc sắc riêng, ghi
dấu ấn sâu đậm trong lòch sử tư tưởng Việt Nam.
Chính vì thế, tôi đã chọn vấn đề “Tư tưởng triết học Trần Nhân
Tông” làm đề tài luận án Tiến só của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Sự nghiệp, cuộc đời của Trần Nhân Tông nói chung, tư tưởng triết
học của Trần Nhân Tông nói riêng từ trước tới nay đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều mặt, qua các chủ đề phong phú

4
và sâu sắc khác nhau. Có thể khái quát kết quả các công trình nghiên
cứu đó trong ba chủ đề chính sau:
Thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông trên
phương diện lòch sử. Tiêu biểu cho chủ đề này phải kể đến các tác phẩm
lớn như: Tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1998; Đại cương lòch sử Việt Nam, do Trương Hữu Quýnh, Đinh
Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, xuất bản
năm 2005; tác phẩm Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, của Viện
Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1980 và tác phẩm
Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng
Tháng Tám (3 tập), của Trần Văn Giàu, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội,
1996; Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII của
Hà Văn Tấn – Phạm Thò Tâm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975...
Các công trình khoa học trên đã trình bày và phân tích khá khái quát và
sâu sắc điều kiện kinh tế, chính trò, xã hội cũng như tiền đề lý luận hình
thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông như: Hình thái kinh tế thời Lý
– Trần, thể chế chính trò và kết cấu đẳng cấp thời Lý – Trần, văn hóa và

tư tưởng thời Lý – Trần với các vấn đề nghiên cứu khá sâu sắc như: Tư
tưởng chính trò và xã hội thời Lý – Trần, Nho giáo ở Việt Nam, các yếu
tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong thời
đại Lý – Trần, ý nghóa xã hội của phái Trúc Lâm thời Trần… Các công
trình trên cũng đã nghiên cứu khá kỹ về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp
của
Trần Nhân Tông gắn liền với các biến cố lòch sử Việt Nam giai đoạn
thế

kỷ XIII – XIV, giúp người đọc có cái nhìn tổng quát hơn về Trần Nhân
Tông.


5
Thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới
góc độ lòch sử tư tưởng văn hóa, tôn giáo. Liên quan đến chủ đề này
phải kể tới các công trình như: Thơ văn Lý – Trần, do Viện Văn học biên
soạn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1989; Việt Nam Phật
giáo sử luận của Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, Hà Nội, xuất bản năm
2000; Lòch sử Phật giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1993; Phật giáo Việt Nam từ
khởi nguyên đến thế kỷ XIII của Trần Văn Giáp, Ban Tu thư, Đại học
Vạn Hạnh, Sài Gòn, xuất bản năm 1968; Lòch sử Phật giáo Việt Nam,
của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản
năm 1993; Tam tổ thực lục, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, xuất
bản năm 1995 (Thích Phước Sơn dòch và chú giải); Thiền uyển tập anh,
Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993; Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (3
tập) của Lê Mạnh Thát, Nxb, Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2002;
Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn,
1966; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1999; Thiền luận (quyển thượng,
quyển trung, quyển hạ) của Daisetzteitaro Suzuki, Nxb. Tổng hợp, Tp.
Hồ Chí Minh, xuất bản 2005.
Trong các công trình trên phải kể đến tác phẩm lớn như Thơ văn
Lý – Trần, do Viện Văn học biên soạn. Đây là công trình khoa học công
phu, đồ sộ, cung cấp cho người đọc một cách khá đầy đủ và đáng tin cậy
các bản văn về thơ, văn của Trần Nhân Tông, cùng với sự giới thiệu
đánh giá khái quát về sự nghiệp thơ văn, tư tưởng của Trần Nhân Tông;
hay như các tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang,
Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, Lòch sử Phật

6
giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, đã trình bày và phân tích
khá sâu sắc tư tưởng cũng như vai trò, vò trí của Trần Nhân Tông trong
lòch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền tông Việt Nam
nói riêng… Tất cả các công trình thuộc chủ đề thứ hai này giúp ta thấy rõ
giá trò về văn hóa, tư tưởng, tôn giáo mà Phật hoàng Trần Nhân Tông đã
đóng góp cho lòch sử tư tưởng Việt Nam.
Thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới
góc độ tư tưởng triết học, như các tác phẩm: Lòch sử tư tưởng Việt Nam,
tập 1, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, xuất bản
năm 1993; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến
thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất
bản năm 2002; Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của
Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Góp phần tìm
hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông của Nguyễn Hùng Hậu,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; Tư tưởng triết học của Thiền Phái
Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà
Nội, xuất bản năm 1998; Đại cương lòch sử tư tưởng triết học Việt Nam,
tập 1, do Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội,

xuất bản năm 2002; Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần, do Doãn Chính –
Trương Văn Chung chủ biên, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, xuất bản
năm 2008; Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Trọng
Chuẩn chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; và các tác phẩm
khác như Tam tổ Trúc Lâm giảng giải của Thích Thanh Từ, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, 1997; Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; Thiền học đời Trần của Thích Thanh Từ
chủ biên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995; Trần Nhân Tông

7
toàn tập của Lê Mạnh Thát, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000… Liên
quan đến đề tài luận án còn có các bài báo, công trình khoa học được
các nhà nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành và
các kỷ yếu hội thảo khoa học, như bài Triết học Phật giáo Trần Thái
Tông, của Nguyễn Hùng Hậu, Nội san nghiên cứu Phật học số 4/1994 và
số 1/1995, bài Tìm hiểu tư tưởng triết học Thiền của Trần Nhân Tông của
Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 3, năm 1995 hay bài Tư tưởng
triết học Trần Thái Tông, của Doãn Chính và Nguyễn Ngọc Phượng,
Tạp chí Triết học số 1 (212) tháng 1 năm 2009; Vài nhận xét về Thiền
tông và phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Tạ Ngọc Liễn, Tạp chí
Nghiên cứu lòch sử, 1976; và Kỷ yếu 700 năm ngày viên tòch Sư tổ Trúc
Lâm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, xuất bản năm 2008, v.v… Các công trình
kể trên đã tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông
qua các vấn đề lớn về bản thể luận, nhận thức luận và triết lý đạo đức
nhân sinh của ông gắn liền với quá trình phát triển của lòch sử tư tưởng
Việt Nam, tuy vậy tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông mới được các
công trình kể trên nghiên cứu ở mức độ khái quát nhất.
Tuy nhiên các công trình khoa học trên vẫn thực sự là những tài
liệu bổ ích để chúng tôi học tập, kế thừa, phát triển trong đề tài luận án
của mình. Tiếp tục thành quả của các công trình nghiên cứu trên, chúng

tôi cố gắng đi sâu nghiên cứu và trình bày tư tưởng triết học Trần Nhân
Tông qua đề tài luận án Tiến só triết học, có tính chất chuyên sâu và hệ
thống hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án

8
Từ sự trình bày, phân tích làm rõ những nội dung tư tưởng triết học
cơ bản của Trần Nhân Tông, luận án nhằm chỉ ra những đặc điểm và
những giá trò có ý nghóa lòch sử to lớn trong tư tưởng triết học của ông.
Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trình bày, phân tích cơ sở xã hội và những tiền đề tư tưởng hình
thành tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông.
- Trình bày và phân tích nội dung tư tưởng triết học cơ bản của
Trần Nhân Tông qua các vấn đề triết học về bản thể luận, đạo đức nhân
sinh; từ đó rút ra những đặc điểm và giá trò lòch sử trong tư tưởng triết
học của Trần Nhân Tông.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận án dựa trên cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghóa duy vật biện chứng và
chủ nghóa duy vật lòch sử; đồng thời tác giả luận án còn sử dụng tổng
hợp các phương pháp sử học, hệ thống cấu trúc, lôgic và lòch sử, phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dòch, so sánh và đối chiếu… để nghiên
cứu và trình bày luận án. Luận án được tiếp cận dưới góc độ triết học
lòch sử và triết học tôn giáo.
5. Cái mới của luận án
Một là, luận án đã trình bày một cách cơ bản và hệ thống tư tưởng
triết học của Trần Nhân Tông qua phân tích những phạm trù triết học,
thiền học của ông ở những vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan và

triết lý đạo đức.
Hai là, luận án đã trình bày, phân tích, đánh giá rút ra những đặc
điểm chủ yếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông, đó là tính chất kế

9
thừa, dung hợp, tinh thần thiền hành động nhập thế tích cực và tinh thần
nhân văn sâu sắc; đồng thời luận án cũng nêu lên những giá trò lòch sử
của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông; đó là triết học Trần Nhân Tông
góp phần tạo nên hệ thống triết lý thiền đặc sắc Việt Nam, là nền tảng
tinh thần để xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập, thống nhất, một
nền chính trò thân dân.
6. Ý nghóa khoa học và ý nghóa thực tiễn của luận án
Về ý nghóa khoa học, luận án góp phần làm rõ nội dung và đặc
điểm cơ bản trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông qua các vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức nhân sinh, từ đó giúp người đọc tìm
hiểu một cách sâu sắc và hệ thống tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông.
Về ý nghóa thực tiễn, thông qua những đặc điểm của tư tưởng triết
học Trần Nhân Tông được trình bày trong luận án, có thể rút ra những
bài học lòch sử bổ ích góp phần vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc và
truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và giảng dạy về lòch
sử tư tưởng Việt Nam cho sinh viên và học viên cao học các ngành Triết
học, Tôn giáo học, Văn hóa học, Sử học trong các trường Cao đẳng và
Đại học.
7. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận án được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết và 13 mục.


10
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG

1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ –
XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ NHÀ TRẦN – CƠ SỞ XÃ HỘI HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lòch sử, kinh tế, chính trò
– xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần
Là hình thái ý thức xã hội, tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông một mặt phản ánh và bò chi phối bởi đặc điểm, nhu cầu của xã
hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần; mặt khác, là sự kế thừa những tiền đề
tư tưởng, tôn giáo trước đó. Đúng như C. Mác đã nói: “Các triết gia
không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình,
của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được
tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [41, tr. 156]. Do đó,
nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông không thể không
tìm hiểu điều kiện lòch sử xã hội và những tiền đề lý luận hình thành
tưởng triết học của ông.
Sau thời kỳ hưng thònh, từ khoảng giữa thế kỷ XII trở đi, triều
đình nhà Lý bước vào giai đoạn suy tàn. Đất nước rơi vào cuộc khủng
hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Thiên tai, mất mùa, đói kém, dòch
bệnh hoành hành khắp nơi làm cho nền kinh tế ngày càng sa sút. Bên
cạnh đó, do bộ máy chính quyền nhà Lý từ trung ương đến đòa phương
tỏ ra quan liêu, lỏng lẻo trong việc quản lý xã hội dẫn đến tình trạng

11

ở nhiều đòa phương, các thế lực đòa chủ phong kiến đã tập hợp lực
lượng nổi dậy chống phá triều đình, gây nên tình trạng cát cứ phân
quyền. Nổi bật trong số các thế lực cát cứ thời bấy giờ là tập đoàn
quân sự của anh em họ Trần ở vùng Hải Ấp (Thái Bình). Do có công
giúp nhà Lý dẹp loạn, lập lại trật tự, gia tộc họ Trần được triều đình
trọng dụng đã thao túng quyền bính và dần thâu tóm mọi quyền lực
trong tay. Tập đoàn quý tộc họ Trần rất khôn khéo, dần dần từng
bước vững chắc và cuối cùng chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang
dòng họ Trần một cách êm thấm trong hoàng cung và triều đình mà
hầu như không có tác động gì làm xáo trộn xã hội.
Năm 1225 Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Chiêu
Thánh vừa mới bảy tuổi, rồi lên làm Thái Thượng hoàng và sau đó
xuất gia đi tu ở chùa Chân Giáo, lấy hiệu là Huệ Quang đại sư. Theo
sự dàn xếp của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng đã kết hôn với Trần
Cảnh. “Mùa đông, tháng 12, ngày 12 năm Ất Dậu (1225) nhận thiền
vò của Chiêu Hoàng, lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung”
[85, tr.7] dưới sự giúp đỡ, ủng hộ của Trần Thủ Độ và họ hàng. Nhà
Trần trải qua các triều vua đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm phát
triển các mặt kinh tế, chính trò, xã hội, thúc đẩy xã hội tiến lên một
bước đáng kể. Dưới triều Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông, đất
nước ta trải qua ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông
xâm lược (cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258, cuộc kháng chiến
lần thứ hai năm 1285, cuộc kháng chiến lần thứ ba năm 1288) nâng
cao vò trí nhà Trần trong lòch sử.
Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại, năm 1240 nhà Trần
đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ có châu, huyện, xã. Đại

12
Việt sử ký toàn thư viết: “Nhâm Dần/ Thiên Ứng/ năm thứ 11/ 1242
(Tống Thuần Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12

lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trò. Các xã,
sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ
lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2, 3, 4 xã
cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan” [85, tr. 19]. Nhà vua
nắm quyền lực tối cao quyết đònh tất cả, nhưng để tránh tình trạng vua
còn nhỏ tuổi, nhà Trần đặt ra chế độ Thái Thượng hoàng. Các vua
thường truyền ngôi sớm cho con nhưng vẫn trông coi chính sự. Chế độ
quan lại nhà Trần nói chung cũng giống như của nhà Lý nhưng có quy
củ và đầy đủ hơn. Các chức quan trọng yếu trong triều đều giao cho
vương hầu quý tộc nắm giữ, nhằm tập trung mọi quyền lực về dòng
họ mình. Ở đòa phương buổi đầu nhà Trần cũng phong cho một số
vương hầu đi trấn trò các vùng quan trọng (ví như Trần Quốc Khang
coi Diễn Châu, Trần Nhuật Duật coi Thanh Hóa, Trần Khánh Dư coi
Vân Đồn…).
Để tạo điều kiện cho vương hầu, tôn thất làm việc, nhà nước
cấp cho mỗi người một vùng đất lớn nhỏ tùy theo thứ bậc gọi là thái
ấp. Nhà nước cũng cho phép các quan lại tôn thất cao cấp được xây
dựng dinh thự, phủ đệ riêng, khi có việc mới phải vào chầu và làm
việc ở kinh sư. Năm 1266, do yêu cầu mới về kinh tế và chính trò, vua
Trần lại ra lệnh cho các vương hầu, công chúa, phò mã chiêu mộ dân
lưu vong đi khai hoang lập trang trại riêng, tạo thành một mạng lưới
tôn thất nhà Trần trấn trò khắp nơi trong nước. Trong buổi đầu, chủ
trương này có lợi cho việc củng cố chính quyền trung ương của nhà
Trần, nhưng về sau lại dẫn đến xu hướng cát cứ. Kinh nghiệm của nhà

13
Lý buộc nhà Trần đặt ra lệnh riêng: người trong họ không được lấy vợ
khác họ.
Tuy nhiên, nhà Trần vẫn không thể phá vỡ được quy luật phát
triển của nhà nước quân chủ tập quyền. Ngay khi tập trung những

quyền lực trong triều vào tay các vương hầu, quý tộc họ Trần, các vua
Trần phải sử dụng một số quan chức không phải họ Trần, giữ chức vụ
quan trọng trong triều Trần như trạng nguyên Mạc Đónh Chi, hoàng
giáp Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Lê Quát sau này…
Tiếp tục những chính sách của thời Lý, nhà Trần mở khoa thi để
chọn quan lại. Ngoài ra, những người không đỗ đạt nhưng có tài vẫn
sử dụng. Phan Huy Chú (sử gia thế kỷ XIX) có nhận xét: “Triều Trần
dùng người thật là công bằng, tuy đã đặt khoa mục mà trong việc kén
dùng chỉ cốt tài là được, cho nên những nho só có chí hướng thường
được trổ tài của mình, không đến nỗi bó buộc hạn chế về tư cách…,
chỉ cần người dùng được chứ không câu nệ ở đường xuất thân. Nhân
tài văn học được thònh cũng nhờ thế chăng?” [9, tr. 22].
Có lẽ trong buổi đầu, quan lại không được cấp ruộng đất, sau
kháng chiến chống giặc Nguyên mới phát triển chế độ này. Quan lại
được phép nuôi người hầu với mức nuôi nhiều nhất là 1.000 người.
Vương hầu được phép nuôi gia nô, gia đồng, khi cần được tổ chức
quân đội riêng. Thời chiến, vương hầu được lệnh thống suất quân lính
ở thái ấp của mình. Năm 1283, chuẩn bò chống ngoại xâm, nhà vua
giao cho Trần Quốc Tuấn đốc suất vương hầu chiêu mộ binh lính, sắm
sửa vũ khí tham gia kháng chiến. Nói chung bộ máy quan lại thời
Trần được tổ chức quy mô hơn thời Lý, bộ máy nhà nước đó đã góp
phần củng cố sức mạnh của nhà nước trung ương.

14
Về tổ chức quân đội, nhà Trần thay nhà Lý, cùng với việc hoàn
thiện bộ máy nhà nước để ổn đònh xã hội, củng cố chính quyền phong
kiến trung ương tập quyền, nhà Trần đã ra sức xây dựng một tổ chức
quân đội hùng mạnh đủ sức bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quân
chủ lực nhà Trần cũng chia thành hai bộ phận như thời nhà Lý là cấm
quân và quân các lộ (ở đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là

thiên binh). Quân đội nhà Trần là một đội quân thiện chiến, được
trang bò, tổ chức và huấn luyện tốt, có nhiều kinh nghiệm bởi đã trải
qua các cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông. Lực lượng
quân sự thời Trần bao gồm các thành phần chủ yếu: 1). Quân chủ lực
của triều đình; 2). Quân của lộ phủ, châu; 3). Quân của quý tộc tôn
thất; 4). Lực lượng dân binh (hương binh) trong làng xã, động, bản.
Trong chiến tranh, nhà Trần có thể tập hợp được lực lượng quân
đội lớn mạnh, đông đảo chủ yếu còn do thực hiện chế độ nghóa vụ
quân sự theo chính sách “ngụ binh ư nông”. Quân số thời bình theo
Phan Huy Chú thì cả “cấm vệ và các lộ khoảng mười vạn người”. Có
thể xem đây là chủ trương kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và tổ
chức vũ trang khá sáng tạo và độc đáo của thời đại đó.
Nhìn chung, do đặc điểm và yêu cầu của điều kiện lòch sử nên
nhà Trần là triều đại rất coi trọng binh pháp và kỹ thuật quân sự.
Luôn chú ý nâng cao chất lượng binh lính bằng các biện pháp tuyển
quân, tuyển tướng, huấn luyện binh pháp, rèn luyện tư tưởng và việc
coi trọng võ thuật đã trở thành lối sống của trai tráng trong các tầng
lớp xã hội từ quý tộc đến nô tỳ thời kỳ nhà Trần. Thực tiễn cuộc
kháng chiến chống Nguyên – Mông đã thể hiện tổ chức quân đội và
chính sách xây dựng lực lượng vũ trang của nhà Trần trong thế kỷ

15
XIII là đúng đắn, sáng tạo. Đó là quân đội có số lượng đông khi cần
thiết, có chất lượng tinh thần vào loại mạnh trên thế giới đương thời.
Hàng loạt các chiến thắng Đông Bộ Đầu (1258), Hàm Tử, Tây Kết
(1285) và đặc biệt là Bạch Đằng (1288) là hình ảnh tiêu biểu của
quân đội Đại Việt thời Trần trong thời kỳ hưng thònh.
Về luật pháp, năm 1230, Trần Thái Tông ban hành Quốc triều
thông chế (20 quyển) quy đònh về tổ chức chính quyền. Sau đó qua vài
lần sửa chữa và bổ sung nhà Trần lại ban hành bộ Quốc triều hình

luật. Cơ quan luật pháp thời Trần cũng được tăng cường và hoàn thiện
hơn. Pháp luật và tổ chức tư pháp thời Trần có mấy đặc điểm sau:
Trước hết pháp luật đời Trần khẳng đònh và củng cố sự phân
chia đẳng cấp. Đại quý tộc trước hết là hoàng gia và vua được pháp
luật bảo vệ các đặc quyền đặc lợi. Riêng với họ hàng nhà Trần nếu
phạm tội thì bò xử nhẹ hơn. Luật bắt buộc các nô tỳ phải thích chữ vào
trán, mang hàm hiệu của chủ, nếu không bò coi là giặc cướp, nhẹ thì
sung làm quan nô, nặng thì tù. Nô tỳ không có quyền kết hôn với quý
tộc. Đáng lưu ý là trong xã hội sự ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu
đậm, còn lễ giáo Nho giáo sự ảnh hưởng trong nông thôn chưa sâu sắc
lắm, ý thức về tông tộc tông pháp trong dân gian hãy còn mờ nhạt,
phong tục tập quán vẫn giữ tính bản đòa.
Pháp luật đời Trần xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản,
đặc biệt là ruộng đất. Quan hệ tiền tệ đã công khai thâm nhập pháp
luật, lệ chuộc tội bằng tiền được quy đònh cụ thể. Việc mua bán,
chuyển nhượng và gán vợ con làm nô tỳ là công khai và hợp pháp.
Tầng lớp nô, nô tỳ đông đảo là tầng lớp thấp hèn trong xã hội, bò coi
như một “vật” sở hữu của quý tộc.

16

Tiếp tục xu hướng pháp luật thời Lý, pháp luật thời Trần cũng
đã chú trọng đến việc bảo vệ sản xuất nông nghiệp trong đó đã có
những điều luật bảo vệ trâu bò và các công trình thủy lợi. Luật nhà
nước coi việc xây dựng và sửa chữa đê điều là công việc của toàn dân
kể cả triều đình [55, tr. 186].
Về ngoại giao, một vấn đề lớn đặt ra cho nhà Trần là việc đối
phó với mưu đồ bành trướng của đế quốc Nguyên – Mông ở phương
Bắc. Từ sớm nhà Trần đã giữ quan hệ hòa hảo với nhà Tống và theo
lệ cũ sang triều cống cho đến khi nhà Tống mất. Năm 1285, nhà Trần

bắt đầu cử sứ giả sang sứ Mông Cổ và đinh lệ ba năm cống một lần.
Nhưng do mưu đồ bành trướng của nhà nước Nguyên – Mông, mối
quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng cho đến khi bùng nổ
cuộc chiến tranh xâm lược vào nửa cuối thế kỷ XII. Sau kháng chiến
chống Nguyên – Mông thắng lợi quan hệ Trần – Nguyên trở lại hòa
hảo. Nhà Trần tìm mọi cách giữ vững đòa vò độc lập tự chủ của mình,
khi nhà Trần suy thì nhà Nguyên cũng đang suy thoái, tiếp đó lại bò
nhân dân Trung Hoa lật đổ nên không còn điều kiện dòm ngó nước ta
nữa.
Cũng như thời Lý, các vua Trần chú ý thúc đẩy mạnh sự phát
triển kinh tế, đặc biệt là chế độ sở hữu ruộng đất. Các hình thức sở hữu
ruộng đất cơ bản thời kỳ nhà Trần là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
thông qua công xã nông thôn và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Sự
thống trò của chính quyền nhà Trần trong phạm vi cả nước và uy
quyền chuyên chế của hoàng đế đã tạo thành một quan niệm “đất của
vua, chùa của bụt”, một quan niệm đã xác nhận sự tồn tại tự nhiên:
chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất rất phổ biến. Có hai bộ phận

17
cấu thành ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: Một là, ruộng đất do nhà
nước trực tiếp quản lý, nó tồn tại như tài sản của bản thân nhà vua và
hoàng cung, một loại “tư hữu” đặc biệt mà những hoa lợi bóc lột là
của riêng hoàng đế. Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý
có sơn lăng, tòch điền và quốc khố. Hai là, ruộng đất công của thôn
làng: ruộng công các làng xã thời bấy giờ được gọi là quan điền hay
“quan điền bản xã”. Năm 1254, triều đình “bán ruộng công, mỗi một
diện là 5 quan” [85, tr. 25] đã xác nhận quyền sở hữu ruộng đất công
làng thời bấy giờ là thuộc về nhà nước theo quan niệm dân gian: “đất
của vua”. Tô thuế ruộng đất vào thời kỳ này chủ yếu là đánh vào
ruộng công, nhân đinh cày ruộng công làng xã phải nộp bằng thóc

theo diện tích và phải thêm một số tiền nhất đònh. Như vậy số tiền và
số thóc mà nông dân làng xã đóng cho nhà nước đã mang một ý nghóa
tổng hợp: vừa là thuế vừa là đòa tô. Năm Nhâm Dần, [Thiên Ứng
Chính Bình] năm thứ 11/1242 nhà Trần cũng đã ban bố luật tô thuế
cho loại ruộng công của làng xã rằng: “Nhân đinh có ruộng đất thì
nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu thì
nộp 1 quan tiền; có 3, 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, từ 5 mẫu trở lên thì
nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.” [85, tr. 19]
Về hình thức sở hữu ruộng đất tư nhân, gồm có: thái ấp, điền
trang của quý tộc nhà Trần, ruộng tư hữu của đòa chủ và ruộng đất sở
hữu của tiểu nông.
Thời Lý các quan trong, quan ngoài đều không được cấp bổng.
Đến thời Trần mới đònh lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài,
đây là nét khác biệt rất cơ bản về tổ chức nhà nước của hai triều đại.
Có thể thấy thêm chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc của nhà

18
Trần dưới một hình thức tiêu biểu nhất là thái ấp. Ban cấp thái ấp là
chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính
quyền nhà Trần. Nguồn đất ban đầu của thái ấp thuộc quyền sở hữu
nhà nước, nhưng khi ban cấp thành thái ấp thì thái ấp thuộc chiếm hữu
tư nhân các quý tộc. Thái ấp thời Trần cũng là nơi ở bền vững của
quý tộc và mãi mãi được lưu truyền, như lời Trần Hưng Đạo đã nói
trong Hòch tướng só rằng: “thái ấp của ta mãi mãi bền vững mà bổng
lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng.” [95, tr. 392]
Ngoài thái ấp thì năm 1266, do nhu cầu khẩn trương mở rộng
diện tích canh tác và thực hiện chủ trương xây dựng, củng cố thêm thế
lực của quý tộc Trần, nhà Trần đã cho các vương hầu công chúa, phò
mã, cung tần chiêu tập những người xiêu tán không có sản nghiệp
làm nô tỳ để khai khẩn đất hoang lập điền trang. Vương hầu có điền

trang thực sự từ đấy. Từ năm 1266 trở đi, bản thân tầng lớp quý tộc đã
dựa vào hai tổ chức kinh tế cơ bản: thái ấp và điền trang là hai bộ
phận quan trọng có ý nghóa quyết đònh tính chất loại hình sở hữu
ruộng đất của quý tộc. Ngoài ra còn có ruộng đất sở hữu tư nhân của
đòa chủ và tiểu nông.
Về công cuộc trò thủy nhà Trần đã cho xây dựng hệ thống đê
đỉnh nhó và các dòng kênh tiêu úng. Ở thời Lý, công việc trò thủy vẫn
do các đòa phương tự lo liệu, tự góp tiền của, nhà nước đóng vai trò
chỉ đạo và quản lý một số đê, chủ yếu là xung quanh Thăng Long.
Mấy chục năm đầu thế kỷ XIII thì hầu như việc trò thủy bò bỏ bê,
không được lưu tâm thích đáng.
Nhà Trần vừa nắm chính quyền đã có biện pháp nhanh chóng
phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm diện tích canh tác.

19
Triều đình đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp,
trong đó có tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Năm 1248,
Trần Thái Tông đặt cơ quan hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách việc
đê điều ở các lộ phủ. Đây là công việc quan trọng, một bước ngoặt to
lớn trong lịch sử thủy lợi nước ta. Đắp đê ngăn mặn cũng là công cuộc
mới mẻ ở thời Trần, các nhà quý tộc thường cho nô tỳ đắp đê ở bãi
biển lập điền trang. Công cuộc xây dựng thủy nông cũng được nhà
Trần chú ý, ở những vùng Thanh Hóa và Nghệ An là nơi có nhiều
công trình thủy nông. Năm 1248, Trần Nhân Tông lại cho đào sông
Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở Thanh Hóa, đây cũng là công
việc tốn sức, tốn của. Năm 1256, triều đình cho khơi lại sông Tô Lòch
nhằm bảo đảm giao thông đồng thời để tưới tiêu cho các vùng xung
quanh kinh thành. Sang thế kỷ XIV nhiều công trình thủy nông vẫn
tiếp tục được xây dựng.
Về nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp, triều đại nhà

Trần vẫn tiếp tục xây dựng quan xưởng thủ công nghiệp nhà nước.
Thủ công nghiệp nhà nước gồm có nhiều ngành nghề sau: nghề sản
xuất đồ gốm là bộ phận quan trọng trong xưởng; nghề dệt cũng được
nhà nước chú ý, đặt ngay trong cung đình; và đặc biệt trong thủ công
nghiệp nhà nước là xưởng chế tạo vũ khí. Thủ công nghiệp nhân dân
cũng là bộ phận quan trọng và phổ biến của tiểu thủ công, của tiểu
nông chợ, phố, lò, sở, phủ lộ và kinh thành Thăng Long là địa điểm
trao đổi sản phẩm. Các nghề thiết yếu của thủ công nghiệp nhân dân
thời Trần là nghề gốm, nghề rèn, nghề đúc đồng, nghề làm giấy và
khắc bản in, nghề mộc, nghề xây dựng và nghề khai khoáng.

20
Mạng lưới thương nghiệp và thành thò ngay từ đầu đã được nhà
Trần quan tâm, qua việc xây dựng nên một hệ thống giao thông thủy
bộ trong cả nước. Hệ thống giao thông, biển và trên bộ thời Trần phục
vụ cho yêu cầu quân sự nhưng cũng có nhiều tác dụng tốt cho thương
nghiệp. Đường bộ, đường thủy cho yêu cầu quân sự không còn do các
đòa phương và nhân dân tự phát xây dựng mà là công tác của chính
quyền đòa phương, của triều đình trực tiếp tổ chức, xây dựng; đây là
bước tiến lớn so với thời Lý.
Để phát triển lưu thông hàng hóa các vua Đại Việt thời Lý –
Trần đều có đúc tiền. Ngoài ra trên thò trường còn sử dụng nhiều tiền
Trung Quốc. Nhà Trần đã mở rộng việc mua bán đất bằng tiền, nộp
tiền để lấy quan chức, việc đúc tiền do quan xưởng đảm nhiệm. Quan
hệ tiền tệ đã thâm nhập vào đời sống chính trò và tín ngưỡng. Nhà
nước thu tô thuế bằng tiền, cũng đã thể hiện chức năng thanh toán của
tiền tệ thời Trần đã phát triển rộng lớn.
Tiêu biểu nhất cho mạng lưới nội thương là hệ thống chợ ở
đồng bằng sông Hồng, ngoài chợ ra còn có phố. Các trung tâm phủ lò
bên sông lớn, đầu mối giao thông thủy bộ đều có phố; phố Luy Lâu

(Thuận Thành, Bắc Ninh) bên bờ sông Dâu là nơi buôn bán cố đònh;
phố Lố bên bờ sông Nghóa Trụ (Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên)
cũng được hình thành vào thời này. Chợ và phố kết hợp là thò trường
đòa phương của hương, phú nhằm giải quyết nhu cầu của các tầng lớp
nhân dân trong vùng, của tiểu nông và các tầng lớp khác. Cảng Vân
Đồn, nay là các vùng đảo Vân Hải, Ngọc Vừng, Cống Đông thuộc
Vònh Hạ Long (Quảng Ninh) là quân cảng và thương cảng có dáng vẻ
của quốc tế của nước Đại Việt thời Lý – Trần. Biển cả vốn là con

21
đường giao thông quốc tế quan trọng nhất của nước ta, là mạch nối
giữa Đại Việt và các nước xung quanh. Các cửa biển Hội Thống, Cần
Hải (đều thuộc Nghệ – Tónh), Hội Triều (Thanh Hóa) và đặc biệt là
Vân Đồn là những trung tâm buôn bán lớn với nước ngoài, là những
điểm quy tụ đường biển thời Lý – Trần.
Đô thành Thăng Long là trung tâm chính trò, văn hóa đồng thời
cũng là một trung tâm kinh tế lớn nhất của Đại Việt thời bấy giờ.
Thăng Long đến thời Trần căn bản vẫn giữ cấu trúc như đời Lý, cả La
thành, Hoàng thành, Cấm thành và nhiều cung điện vẫn giữ nguyên.
Sự chuyển triều đại từ Lý sang Trần một cách hòa bình không làm
cho Thăng Long thay đổi nhiều; nhà Trần tận dụng những cơ sở đã
được xây dựng từ trước có tu bổ và mở rộng thêm. Về kinh tế xã hội,
đô thành Thăng Long có nhiều bước phát triển cao, sự phát triển kinh
tế của Thăng Long cũng gây ảnh hưởng đến vùng ven. Người buôn
bán và sản xuất chủ yếu cùng là người trong các phường ở Thăng
Long, họ là thợ thủ công kiêm buôn bán, là thương nhân chuyên
nghiệp và không ít là nông dân mua và bán những sản phẩm; ngoài ra
còn có thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Tống. Số người tiêu
thụ hàng hóa đáng kể là thuộc tầng lớp thủ công, thương nhân, nông
dân, só phu, tăng lữ và quan lại. Sản phẩm của các quan xưởng đã

cung cấp một số đồ dùng thiết yếu như: vải, lụa, giấy, gạo, vũ khí.
Kết cấu cư dân và nghề nghiệp của Thăng Long là công, nông,
thương, só và quan chức. Các phường Thăng Long không hoàn toàn
đơn thuần là của thợ thủ công và thương nhân mà có nhiều nông dân.
Kết cấu này là sự phát triển của Thăng Long từ một trung tâm chính
trò mở rộng thành một trung tâm kinh tế – văn hóa.

×