HỌC VIỆN HÀNG KHÔNG VIỆT NAM
KHOA: VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
KINH TẾ VĨ MÔ
ĐỀ TÀI: Hãy phân tích vai trò của chính phủ trong tiến trình xã hội
hóa ngành giáo dục, y tế. Bàn luận về định hướng, tính công bằng, khả
năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế của người dân.
STT HỌ VÀ TÊN
1 Phùng Bảo Ngọc
2 Huỳnh Chiêu Hoàng
3 Lê Đức Thiện
4 Nguyễn Bùi Hoài Thương
5 Hồ Phương Thảo
6 Vân Tiểu My
7 Nguyễn Thị Bảo Trân
Lớp: QTKD6 – K7
Người hướng dẫn: Nguyễn Văn Dư
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
rong những năm gần đây, chính phủ Việt Nam đang nỗ lực cải thiện chất lượng
các dịch vụ công nói chung và giáo dục và y tế nói riêng. Chủ trương “xã hội hóa”
được thực hiện như một hình thức tăng trách nhiệm và huy động nguồn lực của
toàn xã hội nhằm nâng cao chất lượng và nguồn cung ứng các dịch vụ này. Xã hội
hóa chính là việc giảm tỷ trọng bao cấp và hỗ trợ của nhà nước thông qua việc giao trách
nhiệm tự chủ về tài chính cho các đơn vị công như bệnh viện, trường học, giảm hoặc cắt bao
cấp dịch vụ cho người dân, cũng như khuyến khích các thành phần kinh tế cung cấp các
dịch vụ cơ bản khác cho người dân. Bên cạnh những tác động tích cực, việc thực hiện chủ
trương “xã hội hóa ” cũng tiềm ẩn những nguy cơ làm giảm tiếp cận của người nghèo tới
dịch vụ y tế và giáo dục. Phát hiện và điều chỉnh kịp thời những nguy cơ tiềm ẩn trên là yêu
cầu cấp thiết đang đặt ra cho các nhà quản lý.
T
Xã hội hóa hiện là một chủ trương quan trọng trong phát triển giáo dục và y tế. Xuất phát
điểm của chủ trương này có thể coi là từ chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm” vào
thập niên 80 của thế kỷ trước. Chủ trương “Xã hội hóa ” giáo dục và y tế được chính thức
đề cập trong “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng” năm 1996, và được chính phủ cụ thể ở Nghị quyết
NQ90/CP năm 1997.
Điểm nổi bật trong các văn kiện và chính sách trên là về mục tiêu của chủ trương XHH:
XHH nhằm huy động tiềm năng nhân lực, vật lực, tài lực của toàn xã hội, trên cơ sở đổi mới
cơ chế quản lý, đa dạng hóa hoạt động và các nguồn đầu tư nhằm tạo điều kiện để toàn bộ
xã hội được hưởng thụ tốt hơn các dịch vụ y tế, giáo dục…Về lý thuyết, chính sách XHH
cũng hướng tới mục tiêu về công bằng xã hội trong thụ hưởng các dịch vụ trên. XHH các
dịch vụ công bao gồm các đặc điểm chính (i) Người sử dụng dịch vụ bỏ (một phần hay toàn
bộ) tiền ra mua dịch vụ;(ii) Các cơ sở cung cấp dịch vụ công đưa một phần hoặc toàn bộ chi
phí hoạt động của mình vào giá dịch vụ do người sử dụng chi trả (thay vì được nhà nước
bao cấp toàn bộ); (iii) Khuyến khích người dân, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cung
ứng dịch vụ.
Nhà nước cũng đã có những chính sách những khuyến khích nhất định dành cho các cơ sở
thực hiện XHH, đặc biệt là chính sách không phân biệt đối xử đối với các sản phẩm và dịch
vụ của các cơ sở này. Ngoài ra, nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách nhằm tăng cường
quản lý các cơ sở hoạt động theo hình thức XHH, cũng như trợ giúp người nghèo để có thể
tiếp cận tới các dịch vụ này. Tuy nhiên, hệ thống chính sách XHH mới chỉ nhấn mạnh việc
huy động nguồn lực cho cung ứng dịch vụ công mà chưa đề cập rõ ràng và cụ thể tới việc
thay đổi tương ứng vai trò quản lý của chính nhà nước trong quá trình XHH. Hệ thống chính
sách XHH (các chính sách ở cấp độ hướng dẫn thực hiện) hiện tại chưa gắn liền với việc
thay đổi vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan chính phủ ở địa phương. Hệ quả của việc
này là hệ thống chính sách XHH hiện tại có sự thiếu hụt trong các quy định và cơ chế kiểm
soát cụ thể về quản lý nhà nước (nhất là quản lý chất lượng dịch vụ) đối với các cơ sở XHH,
và sự thiếu cụ thể trong chính sách kiểm soát tài chính nhằm tránh lạm dụng XHH.
Kết quả phỏng vấn và khảo sát ở các tỉnh cho thấy chủ trương và các chính sách xã hội hóa
trong giáo dục và y tế được các cấp quản lý địa phương đánh giá cao và ủng hộ mạnh mẽ.
Tuy nhiên các, các địa phương có điều kiện kinh tế chậm phát triển gặp nhiều khó khăn hơn
trong việc XHH giáo dục và y tế do hạn chế cả về nguồn cung (nhà đầu tư) và nhu cầu (mức
độ sẵn sàng đóng góp của người dân). Với dịch vụ giáo dục, trên phương diện quản lý nhà
nước ở địa phương, việc triển khai chính sách XHH chưa gắn liền với vai trò quản lý nhà
nước tương ứng như vai trò định hướng, điều tiết, và giám sát. Điều này là một trong những
nguyên nhân làm cho XHH chưa được phát triển toàn diện giữa các vùng, chưa đảm bảo
chất lượng dịch vụ cung ứng, và thậm chí bị lạm dụng đối với một số khoản thu. Khi những
hạn chế này xảy ra thì người nghèo chính là đối tượng bị thiệt hại đầu tiên và nặng nề nhất.
Thực tiễn khảo sát hoạt động của một số cơ sở giáo dục cũng cho thấy người nghèo đang bị
thiệt trên một số lĩnh vực. Thứ nhất, chính sách giảm học phí cho người nghèo trên thực tế
hiện chỉ áp dụng ở các trường công lập. Trong khi đó, rất nhiều học sinh nghèo lại không
thể thi vào được trường công lập (kể từ cấp phổ thông trung học trở lên), mà chỉ có thể vào
học ở trường dân lập. Vì vậy, họ đã không được hưởng chính sách trên. Trong khi đó, kết
quả dạy và học ở các trường dân lập lại thấp hơn ở trường công lập. Kết quả khảo sát các hộ
gia đình cũng chỉ rõ người nghèo đang chịu rào cản lớn hơn về học phí và phụ phí nếu so
với 5 năm trước. Như vậy, cùng với việc triển khai XHH thì người nghèo đang gặp khó
khăn lớn hơn về chi phí cho giáo dục. Tuy nhiên, người nghèo cũng đang được hưởng
những cải thiện về chất lượng tổng thể của giáo dục từ XHH. Với dịch vụ y tế, XHH đã
mang lại những tác động tích cực tới việc chăm sóc sức khỏe cho người dân. Tác động lớn
nhất là đã huy động vốn đầu tư mở rộng nguồn cung ứng các dịch vụ y tế, đa dạng hóa loại
hình dịch vụ y tế, và tạo sức ép cạnh tranh nhất định, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng các
dịch vụ này. Người nghèo được hưởng lợi gián tiếp từ việc các cơ sở XHH làm giảm tải cho
bệnh viện công và tạo sức ép nhất định tới việc tăng chất lượng khám chữa bệnh ở bệnh
viện công. Tuy nhiên, các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân chủ yếu mới đang cung cấp các
dịch vụ ít rủi ro và có lợi nhuận cao, sử dụng các thiết bị hiện đại. Dịch vụ điều trị hoặc
chữa bệnh phức tạp vẫn do các bệnh viện công cung cấp. Khác với các cơ sở XHH trong
giáo dục (cụ thể là trường dân lập), các cơ sở XHH y tế (khám dịch vụ trong bệnh viện công
và phòng khám/bệnh viện tư) trực tiếp phục vụ người có khả năng chi trả. Như vậy, người
nghèo không phải là đối tượng phục vụ của các cơ sở này. Các cơ sở khám chữa bệnh tư
nhân có tiến hành đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất. Tuy nhiên, về nguồn nhân lực chất
lượng cao thì các cơ sở này chủ yếu đang tìm cách thu hút từ các cơ sở công. Các bệnh viện
công có nhận thấy vấn đề chảy máu chất xám, song chưa có biện pháp đối phó hữu hiệu.
Từ những phát hiện đó, các khuyến nghị chính cho việc hạn chế các tác động tiêu cực của
XHH được nhóm nghiên cứu đề xuất bao gồm: Với dịch vụ giáo dục (i) nên coi XHH giáo
dục là gắn liền với việc chuyển đổi vai trò quản lý của nhà nước từ việc trực tiếp cung cấp
dịch vụ sang việc quản lý vĩ mô, nâng cao vai trò dự báo, lên kế hoạch, quy hoạch, điều tiết
sự phát triển giữa các vùng, và kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ sở thuộc sở hữu khác
nhau; (ii) các địa phương cần có quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở giáo dục ở các vùng
khác nhau, từ đó tính toán và có chính sách khuyến khích để các vùng sâu vùng xa vẫn có
cơ sở giáo dục, giảm rào cản về khoảng cách cho họ. Trong một số trường hợp, nhà nước có
thể dành tiền đầu tư các trường công nhiều hơn cho vùng sâu vùng xa vì ở các vùng đông
dân các cơ sở dân lập và tư thục sẽ ngày càng phát triển và bổ sung khá lớn về nguồn cung
dịch vụ; (iii) tăng cường công tác kiểm tra giám sát, kiểm định chất lượng, đặc biệt là việc
thực hiện các chính sách học phí và phụ phí, tránh tình trạng lạm dụng chính sách XHH.
Với dịch vụ y tế (i) tăng cường chức năng quản lý vĩ mô như quy hoạch, kế hoạch, kiểm tra
giám sát của nhà nước; (ii) tăng cường công tác kiểm tra giám sát nhằm hạn chế hiện tượng
lạm dụng XHH để tăng chi phí khám chữa bệnh tại các bệnh viện công; và (iii) đảm bảo
nguyên tắc trong việc xác định hộ nghèo tránh tình trạng các chính sách hỗ trợ người nghèo
không hướng đúng vào nhóm đối tượng cần thụ hưởng
Mục lục
I. Tổng quan về xã hội hóa trong lĩnh vực y tế và giáo dục
Xu thế hội nhập và đẩy mạnh tự do là không thể đảo ngược, và xu thế đó đặc biệt rõ ràng
sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Các quy chế, thông lệ
quốc tế và cam kết về mở cửa thị trường, tự do hóa thương mại, về tư nhân hóa kể cả là các
lĩnh vực truyền thống và là nhiệm vụ của Nhà nước như y tế và giáo dục,… phải dần được
thực hiện phù hợp với lộ trình mà Chính phủ đã cam kết. Điều đó có nghĩa là tư nhân sẽ
tham gia tích cực hơn và việc cung cấp các dịch vụ công trong đó hai lĩnh vực chính là giáo
dục và y tế, còn Nhà nước sẽ giảm trách nhiệm trong việc cung cấp các dịch vụ này và tăng
tính trách nhiệm của cộng đồng. Như vậy, mục tiêu xã hội của các dịch vụ giáo dục và y tế
sẽ hướng dần sang mục tiêu lợi nhuận.
Việt Nam có một thời gian dài thực hiện bao cấp, việc sử dụng các dịch vụ công như giáo
dục và y tế là hoàn toàn miễn phí, nên các lĩnh vực này có một sức ì, chậm đổi mới và còn
lúng túng trong việc xây dựng cơ chế vận hành vừa phù hợp với thị trường lại vừa phù hợp
với mục tiêu xã hội. Kinh tế phát triển, mức sống dân cư và chất lượng cuộc sống của
người dân được nâng cao kéo theo nhu cầu ngày càng gia tăng về giáo dục, chăm sóc y tế.
Cho dù, chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn để cải thiện chất lượng và xây
dựng cơ chế vận hành cho các lĩnh vực này, nhưng với nguồn ngân sách hạn chế, Nhà
nước đã không thể bao cấp hết mọi đối tượng và mọi hoạt động của hai lĩnh vực này. Xã
hội hóa trong giáo dục và y tế là một trong những giải pháp được lựa chọn, theo đó việc
bao cấp và hỗ trợ từ Nhà nước sẽ giảm dần thông qua việc giao trách nhiệm tự chủ tài
chính trong các cơ sở giáo dục và y tế công, và khai thác các nguồn lực khác của toàn xã
hội đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và hoạt động y tế.
Luật giáo dục năm 2005 khẳng định “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự
nghiệp giáo dục… khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia
phát triển sự nghiệp giáo dục”. Nghị quyết 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về
công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã nhấn mạnh:
“Bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là một trong những chính sách ưu tiên
hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản
chất tốt đẹp của chế độ ta”. Nghị quyết 90/CP cũng đã khẳng định “xã hội hóa không có
nghĩa là làm giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước”. Suy
ra rằng, xã hội hóa trong giáo dục và y tế có nghĩa là huy động thêm sức mạnh của nhân
dân cộng với trách nhiệm ngày càng tăng của Nhà nước để phát triển giáo dục và y tế. Như
vậy, với tổng nguồn lực lớn hơn, xã hội hóa giáo dục, y tế nhất thiết phải thỏa mãn nhu cầu
dịch vụ ngày càng tăng, tăng chất lượng dịch vụ, và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ cho tất
cả mọi người trong xã hội.
1. Xã hội hóa giáo dục và y tế là gì?
Ở các nước phương Tây, cụm từ “xã hội hóa” (tiếng Pháp là socialisation hay tiếng Anh là
socialization) từ trước tới nay, vẫn thường được dùng theo nghĩa “tập thể hóa”, “đặt dưới
chế độ cộng đồng”, “quản lý hay điều khiển của nhà nước nhân danh xã hội”, “quốc hữu
hóa” v.v. Trong tiếng Việt trước đây “xã hội hóa” được Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ
biên - 1985) cũng giải thích xã hội hóa là làm cho trở thành của chung của xã hội, với thí dụ
xã hội hóa (XHH) tư liệu sản xuất, tức là, quốc hữu hóa tư liệu sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm XHH được dùng hiện tại ở Việt Nam có nghĩa hoàn toàn ngược lại.
Các cơ quan báo chí và trong ngôn ngữ thường ngày người ta nói về XHH hoạt động y tế,
5
giáo dục, thể thao, văn hóa
1
theo nghĩa là huy động các nguồn lực ngoài nhà nước
(nguồn lực của xã hội) vào cung cấp các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao.
Trong các văn bản pháp luật chính thức của nhà nước Việt Nam thì thuật ngữ XHH xuất
hiện lần đầu trong Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996
- 2000 (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng năm 1996). Trong báo cáo này thì XHH giáo dục được coi là
chủ trương quan trọng để phát triển giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên các nội dung của XHH
chỉ được nêu ra qua Nghị quyết số 90/CP của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam năm
1997 về phương hướng và chủ trương XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa. Sau đó
các nội dung của XHH tiếp tục được cụ thể hóa ngày 19/8/1999 khi Chính phủ có Nghị
định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Theo các văn bản này, XHH được hiểu như sau:
“Xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa là vận động và tổ chức sự tham gia rộng
rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng
cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hóa và sự phát triển về thể chất và tinh thần của
nhân dân”.
“XHH là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập
và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục,
y tế, văn hóa”.
“XHH và đa đạng hóa các hình thức hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa thể thao có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Bên cạnh việc củng cố các tổ chức của Nhà nước, cần phát triển rộng
rãi các hình thức hoạt động do các tập thể hoặc các cá nhân tiến hành”.
“XHH là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực
trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện
cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn…”
Với người dân thì XHH được hiểu đơn giản là nhân dân đóng góp thêm nguồn lực cho các
hoạt động đó: đóng góp tiền dưới dạng các loại phí, nói nôm na là mua dịch vụ; bỏ tiền,
công sức ra cung ứng các dịch vụ đó, như lập trường tư, bệnh viện tư, phòng khám tư, v.v.).
Như vậy, XHH các dịch vụ công có thể được hiểu là:
i) Người sử dụng dịch vụ bỏ (một phần hay toàn bộ) tiền ra mua dịch vụ;
ii) Các cơ sở cung cấp dịch vụ công đưa một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động của
mình vào giá dịch vụ do người sử dụng chi trả (thay vì được nhà nước bao cấp
toàn bộ)
iii) Khuyến khích người dân, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cung ứng dịch
vụ.
Khi dịch ra tiếng nước ngoài, thông thường XHH được cho là tương đương với tư nhân hóa
trong tiếng Anh (privatization). Tuy nhiên xã hội hóa có phạm vi rộng hơn, bao hàm cả việc
các cơ sở công cung cấp dịch vụ một phần hoặc toàn bộ theo cơ chế thị trường.
Trong chuyên đề này khi đề cập đến XHH giáo dục và y tế chúng tôi sử dụng các nội dung
của XHH được miêu tả bởi NQ 90/CP năm 1997 như là cách hiểu chính thức về XHH hiện
nay.
1 Và XHH cả sở hữu tài sản (trong trường hợp cổ phần hóa) nhưng vấn đề này sẽ không được bàn đến vì vượt ngoài phạm vi
chuyên đề này
6
2. Giáo dục Việt Nam và xã hội hóa giáo dục
Ngành Giáo dục Việt Nam hiện đang cung cấp dịch vụ cho 20.304 ngàn học
sinh, sinh viên các cấp từ mầm non đến đại học. Trong đó 2.774 ngàn là các cháu
thuộc cấp học mầm non, 6.732 ngàn học sinh tiểu học, 5.468 ngàn học sinh trung
học cơ sở, 2.927 ngàn học sinh trung học phổ thông, 682 ngàn sinh viên trung
học chuyên nghiệp và học viên của các Trung tâm giáo dục thường xuyên, và
1.720 ngàn sinh viên cao đẳng và đại học. Quy mô giáo dục đã tăng lên rất nhiều
qua các năm trên góc độ số trường học, và số giáo viên, nhưng giảm dần theo
quy mô học sinh ở một số cấp học. Tổng số trường học các cấp từ tiểu học đến
phổ thông trung học năm học 2008 – 2009 tăng 38,6% so với tổng số trường học
năm học 2000 – 2001, về giáo viên tăng 21,9%, nhưng quy mô học sinh lại giảm
14,9% trong cùng thời kỳ. Ở cấp Cao đẳng và Đại học, quy mô không ngừng gia
tăng cả về số trường, số sinh viên và giảng viên. Nếu so sánh quy mô ở năm
2008 với năm 2000 số trường đại học và cao đẳng tăng gấp 2,2 lần, số sinh viên
tăng 1,9 lần, và số giáo viên tăng 1,9 lần. Trong khi đó chi từ Ngân sách nhà
nước cho giáo dục chỉ tăng từ 11,6% trong tổng chi ngân sách nhà nước năm
2000 lên tới 13,5% tổng chi ngân sách nhà nước năm 2007. Rõ ràng là sức ép tài
chính từ ngân sách nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục rất lớn, và sự gia tăng chi
tiêu từ ngân sách nhà nước cho giáo dục như vậy là chưa đáp ứng được sự đòi
hỏi của thực tế. Việc xã hội hóa để giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước là một
điều có cơ sở, nếu xét trên góc độ nguồn lực dành cho giáo dục.
Sau khoảng hơn 10 năm thực hiện chủ trương xã hội hóa trong giáo dục, y tế,
văn hóa, và thể thao theo Nghị quyết 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 của
Chính phủ, cơ cấu ngành giáo dục có sự chuyển biến mạnh mẽ và đã có những
cấp học có các cơ sở xã hội hóa thực hiện nhiệm vụ giáo dục lớn hơn cơ sở công.
Chẳng hạn ở cấp học Mầm non, số trường học mầm non ngoài công lập chiếm
49,3% nhưng các trường mầm non ngoài công lập đã thu hút tới 51,1% tổng số
các cháu đến trường ở cấp học này. Một số cấp học có tỷ lệ cơ sở xã hội hóa còn
ít như Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung tâm giáo dục thường xuyên. Đây là
các cấp học thực hiện các mục tiêu xã hội của Nhà nước nhằm phổ cập giáo dục,
hoặc xóa mù chữ, hoặc đào tạo nghề cho người nghèo và con em nông dân mất
đất nông nghiệp. Ở cấp Đại học và Cao đẳng, một số trường công lập mở hệ
ngoài ngân sách nhằm thu hút các sinh viên không đủ điều kiện vào hệ ngân sách
(và tất nhiên là đóng học phí cao hơn so với sinh viên hệ ngân sách).
Biểu đồ 1: Cơ cấu cấp học và học sinh giữa cơ sở giáo dục công và ngoài
công lập năm học 2008 – 2009
7
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009
Các trường ngoài công lập chỉ mới hình thành và phát triển nhưng đã có những
kết quả đáng ghi nhận. Các cơ sở giáo dục xã hội hóa giúp giảm tải cho các cơ
sở công lập, và tăng sự lựa chọn cho người dân. Đã có 20,8% số trường trung
học phổ thông ngoài công lập, cung cấp dịch vụ cho 21,2% học sinh thuộc cấp
học này; 30,4% số trường ngoài công lập ở cấp Trung học chuyên nghiệp được
thành lập và hoạt động, cung cấp dịch vụ giáo dục cho 22,2% tổng số học sinh
của cấp học. Đối với cấp Cao đẳng và Đại học, trong ba năm gần đây, số trường
Cao đẳng và Đại học ngoài công lập thành lập mới nhiều hơn tổng số các trường
loại này từ trước đó cộng lại (37 trường ngoài công lập thành lập mới so với 31
trường đã thành lập và hoạt động trước đó). Các trường Cao đẳng và Đại học
ngoài công lập hiện chiếm khoảng 18% tổng số trường và đang cung cấp dịch vụ
giáo dục cho 11,8% tổng số sinh viên.
Có thể thấy rằng chủ trương xã hội hóa trong giáo dục đã tạo ra được sự thay đổi
cơ bản trong nhận thức của xã hội về xã hội hóa trong giáo dục. Các cơ sở giáo
dục ngoài công lập đã được mở rộng về quy mô, đa dạng hóa về loại hình và các
sản phẩm dịch vụ thuộc các loại hình, và cuối cùng làm tăng sự lựa chọn cho
người học. Các nguồn lực xã hội đã được huy động, tăng tính trách nhiệm của
cộng đồng, người dân cho việc phát triển lĩnh vực giáo dục.
3. Y tế Việt Nam và xã hội hóa y tế
Hệ thống cơ sở y tế của Việt Nam bao gồm các bệnh viện, phòng khám đa khoa,
bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, trạm y tế xã/phường, trạm y tế của
cơ quan xí nghiệp và các cơ sở khác. Các cơ sở y tế này hoặc thuộc quyền quản
lý của ngành y tế (bộ y tế và sở y tế) hoặc thuộc các ngành khác quản lý. Năm
2008, ngành y tế có 13.460 cơ sở y tế công lập với khoảng 219.800 giường bệnh
với 223,5 ngàn cán bộ y tế các cấp; khoảng 30.000 cơ sở y tế ngoài công lập
(chủ yếu là các phòng khám) với 13.180 giường bệnh và có tổng số 93.100 cán
8
bộ y tế. Quy mô ngành y tế tăng đều đặn qua hàng năm. Cơ sở y tế công lập
tăng, nhưng tăng không đáng kể; nếu so sánh giữa năm 2008 và 2000 trong vòng
tám năm số cơ sở y tế chỉ tăng 2,6%, số cán bộ y tế tăng 37,4% và số giường
bệnh tăng thêm 14,5% trong cùng thời kỳ. Các cơ sở y tế công lập khám cho
khoảng 110 triệu lượt người và điều trị nội trú cho hơn 9 triệu lượt người trong
năm 2008. Trong khi các cơ sở ngoài công lập khám và điều trị cho hơn 4 triệu
người.
Bảng 1: Quy mô ngành y tế Việt Nam, năm 2008
Công lập Ngoài công lập
Số cơ sở y tế
Bệnh viện
Phòng khám đa khoa
Cơ sở khác
13.460
974
781
11.705
30.000*
93
300
29.607
Số giường bệnh 219.800 13.188
Cán bộ y tế 223.500 93.100
**
Số lượt khám chữa bệnh (000) 119.000 4.000
* Số liệu này do Bộ Y tế ước tính năm 2008.
** Con số này bao gồm 70% số cán bộ y tế của cơ sở y tế ngoài công lập là cán bộ y tế của các cơ sở y tế công làm
việc cho các phòng khám ngoài giờ.
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế
Sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương xã hội hóa trong giáo dục, y tế, văn hóa, và
thể thao theo Nghị quyết 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ, ngành Y
tế đã có những bước phát triển đáng kể. Năm 1989 cả nước có 19.809 cơ sở hành
nghề y tế tư nhân, đến thời điểm này con số đó đã là 30.000 cơ sở, trong đó có 93
bệnh viện, 300 phòng khám đa khoa, 87 nhà hộ sinh, và số còn lại là phòng khám
chuyên khoa và dịch vụ y tế. Các cơ sở y tế ngoài công lập có số giường bệnh tương
đương với 6% số giường bệnh của các cơ sở công, khoảng 8,7% số cán bộ y tế, và
3,4% số bệnh nhân so với các cơ sở công lập. Hiện tại, cứ 100 ngàn dân có 11 người
hành nghề y tế tư nhân, trong số đó có đến 70% là cán bộ y tế của các cơ sở công,
chủ yếu làm việc trong các phòng khám chuyên khoa ngoài giờ.
Theo báo cáo của Bộ Y tế, cho tới nay đã có 28 tỉnh, thành phố có bệnh viện tư
nhân, trong đó 88 bệnh viện tư nhân có vốn đầu tư trong nước còn 5 bệnh viện có
vốn đầu tư nước ngoài. Các bệnh viện tư chiếm khoảng 8,6% so với bệnh viên công.
Các bệnh viện tư chủ yếu được thành lập ở các thành phố như Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng… Theo quy hoạch ngành y tế của Chính phủ thực
hiện năm 2006, thì đến năm 2010 cả nước có trung bình 2 giường bệnh của bệnh
viện tư nhân trên một vạn dân, và đạt 5 giường bệnh/1 vạn dân vào năm 2020.
Ngoài ra các bệnh viên công cũng mở các loại hình khám chữa bệnh “dịch vụ” dành
cho những bệnh nhân sẵn sàng trả mức phí cao hơn để có điều kiện khám chữa bệnh
nhanh và tốt hơn.
9
Trong những năm vừa qua, cùng với hệ thống cơ sở y tế công lập, các cơ sở y tế
ngoài công lập đã góp phần không nhỏ trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
người dân. Các cơ sở y tế ngoài công lập đã góp phần giảm tải cho các cơ sở y tế
công; đa dạng hóa loại hình, tăng sự lựa chọn cho người bệnh.
4. Tính cấp thiết và cần thiết của xã hội hóa ngành giáo dục, y tế
Thực hiện xã hội hoá nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát huy tiềm
năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự
nghiệp giáo dục, y tế; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các
đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế
ở mức độ ngày càng cao.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện xã hội hoá vẫn còn nhiều khó khăn,
vướng mắc và tồn tại, hạn chế; đó là: Nhận thức về xã hội hóa ở một bộ
phận cán bộ, nhân dân còn chưa đầy đủ, tốc độ xã hội hoá trong các lĩnh
vực còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và chưa huy động được tổng
thể các nguồn lực để phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, phục vụ yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội ; công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai thực
hiện công tác xã hội hóa ở một số ngành, đơn vị còn lúng túng; cơ chế
chính sách chưa đồng bộ, thiếu và chậm hướng dẫn cụ thể; tỷ trọng cung
cấp dịch vụ của các cơ sở ngoài công lập trong các lĩnh vực giáo dục, y tế,
còn thấp; các cơ sở ngoài công lập chưa nhiều, quy mô còn nhỏ bé, cơ sở
vật chất còn đơn sơ, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu, chất lượng và hiệu
quả hoạt động chưa cao; còn có lĩnh vực không khai thác hết công suất cơ
sở vật chất đã đầu tư; mức độ phát triển xã hội hoá còn thấp ở khu vực
ngoại thành và vùng xa, vùng khó khăn.
Nhu cầu của xã hội về giáo dục, y tế ngày càng cao, trong khi khả năng
đáp ứng của ngân sách Nhà nước có hạn, chỉ có thể đáp ứng được các nhu
cầu cơ bản, vì vậy tiếp tục đẩy mạnh việc huy động toàn xã hội tham gia
vào cung cấp và nâng cao chất lượng dịch vụ trong các lĩnh vực giáo dục, y
tế, là yêu cầu khách quan từ thực tiễn.
Thực tế đó, đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và triển
khai các nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục, y tế
để quá trình xã hội hóa bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, vừa khuyến khích các thành phần kinh tế, tổ chức, cá
nhân tham gia, đồng thời đẩy mạnh mở rộng các loại hình dịch vụ và nâng
cao chất lượng dịch vụ đáp ứng yêu cầu của nhân dân.
II. Vai trò của chính phủ trong tiến trình xã hội hóa ngành kinh
tế
1. Vai trò định hướng
1.1. Giáo dục
10
- Nhà nước tiếp tục tăng tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo. Bảo
đảm kinh phí cho giáo dục phổ cập; tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ trọng
điểm, các chương trình mục tiêu quốc gia; đào tạo nhân lực cho các ngành,
nghề mũi nhọn, trọng điểm, khó huy động nguồn lực từ xã hội; ưu tiên đầu tư
cho những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người. Nhà nước có cơ
chế, chính sách đào tạo đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng giáo viên,
cán bộ quản lý giáo dục và các nhân viên khác, đặc biệt là ở các vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn; tiếp tục thực hiện các cơ chế chính sách khuyến
khích, thu hút học sinh, sinh viên giỏi làm giáo viên, giảng viên, gắn đào tạo
với sử dụng.
-Huy động nguồn lực của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và
cá nhân để phát triển giáo dục - đào tạo. Tăng cường quan hệ của nhà
trường với gia đình và xã hội; huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn ngành,
toàn xã hội vào việc đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện giáo dục toàn
diện. Ban hành cơ chế chính sách cụ thể khuyến khích và quy định trách
nhiệm các ngành, địa phương, các tổ chức kinh tế - xã hội và người sử dụng
lao động tham gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút
nhân lực đã được đào tạo và giám sát các hoạt động giáo dục.
-Đổi mới cơ bản chế độ học phí: ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước theo khả
năng ngân sách, học phí cần bảo đảm trang trải chi phí cần thiết cho giảng
dạy, học tập và có tích luỹ để đầu tư phát triển nhà trường; bước đầu đủ bù
đắp chi phí thường xuyên. Xoá bỏ mọi khoản thu khác ngoài học phí.
Nhà nước có chính sách trợ cấp học phí hoặc học bổng cho học
sinh giáo dục phổ cập, cho người học là đối tượng chính sách,
những người ở vùng khó khăn, những người nghèo và những
người học xuất sắc, không phân biệt học ở trường công lập hay
ngoài công lập.
-Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngoài công
lập; chuyển một số cơ sở công lập sang loại hình ngoài công lập. Hạn chế
mở thêm các cơ sở công lập ở những vùng kinh tế phát triển. Không duy trì
các cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công.
Khuyến khích việc hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo
có chất lượng cao của nước ngoài; khuyến khích mở các các cơ sở
giáo dục đào tạo có chất lượng cao, có uy tín bằng 100% vốn đầu
tư nước ngoài; khuyến khích các nhà khoa học, giáo dục có trình độ
cao ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia
giảng dạy tại Việt Nam.
- Củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung
tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng đáp ứng nhu cầu
học tập thường xuyên của mọi người, ở mọi nơi, mọi trình độ và mọi lứa tuổi.
1.2. Y tế
11
-Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho y tế, trong đó bảo đảm ngân sách cho y tế
công cộng, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính sách, người
nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Ưu tiên đầu tư cho hệ thống y tế dự phòng, y tế
cơ sở, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các bệnh viện nhi,
khoa nhi, các chuyên khoa ít có khả năng thu hút đầu tư. Triển khai đề án
đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học cho vùng núi phía Bắc, miền Trung, Tây
Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. ưu tiên đầu tư phát triển nguồn
nguyên liệu dược và sản xuất thuốc trong nước.
-Tăng cường các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Vận
động mọi người tham gia chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bản thân, gia
đình và cộng đồng. Khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong nước và nước
ngoài hoạt động từ thiện, cung cấp, hỗ trợ các thiết bị y tế và hỗ trợ khám
chữa bệnh.
-Đẩy nhanh tiến độ phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế; củng cố
và mở rộng bảo hiểm y tế bắt buộc theo hướng đa dạng hoá các loại hình
bảo hiểm y tế đáp ứng nhu cầu của nhân dân; phát triển mạnh bảo hiểm y tế
cộng đồng dựa chủ yếu vào sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm, có
sự trợ giúp của Nhà nước và các nguồn tài trợ khác; khuyến khích các loại
hình bảo hiểm y tế tự nguyện.
Mở rộng diện các cơ sở y tế đăng ký khám chữa bệnh theo bảo
hiểm y tế. Từng bước thực hiện người đóng bảo hiểm y tế tự lựa
chọn cơ sở khám chữa bệnh phù hợp. Nhà nước quy định chế độ
thanh toán bảo hiểm y tế, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với
các đối tượng chính sách, trẻ em dưới 6 tuổi, trợ giúp người nghèo,
đồng bào dân tộc ít người, vùng khó khăn.
-Đổi mới chế độ viện phí trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí
trực tiếp phục vụ bệnh nhân. Từng bước chuyển đổi việc cấp kinh phí hoạt
động thường xuyên cho các cơ sở khám chữa bệnh sang cấp trực tiếp cho
đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do Nhà nước cung cấp thông qua hình thức
bảo hiểm y tế.
-Khuyến khích mở bệnh viện, phòng khám tư nhân, bác sĩ gia đình.
-Ngăn chặn, xoá bỏ độc quyền trong xuất nhập khẩu, sản xuất và cung ứng
thuốc chữa bệnh.
2. Quá trình tiến triển của chính sách xã hội hóa trong giáo dục và y
tế của Việt Nam
Hiện nay dù chính sách “xã hội hóa” đã trở thành một chính sách quan trọng trong
phát triển giáo dục và y tế nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào cho biết chủ trương
này này ra đời khi nào. Có thể chính sách này bắt nguồn từ chủ trương “nhà nước và
nhân dân cùng làm” nhằm đối phó với những khó khăn của việc cung cấp các dịch
vụ y tế và giáo dục đầu thập niên 1980. Tuy nhiên, chủ trương này được thực hiện
không thống nhất trên cả nước mà tùy vào từng địa phương. Trong “Báo cáo của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc
12
lần thứ VI của Đảng” ngày 15/12/1986 phần về “Phương hướng, mục tiêu chủ yếu
phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986-1990” có chỉ rõ:
“Việc đóng góp của các tổ chức kinh tế tập thể và của nhân dân vào việc xây dựng
cơ sở vật chất cho ngành giáo dục theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm” cần được quy định rõ ràng thành chế độ, vừa để huy động hợp lý sự đóng góp
của nhân dân, vừa tránh mọi sự lạm dụng”.
Nhờ vào chủ trương này cuối những năm 1980 có sự xuất hiện trở lại những trường
dân lập ở Việt Nam (trường PTDL Lương thế Vinh và Đại học dân lập Thăng long).
Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1991 tiếp tục khẳng định chủ trương cần huy động các
nguồn lực trong xã hội cho phát triển giáo dục và sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân
dân. Chủ trương này sau đó được cụ thể hóa bằng Nghị quyết số 04 - NQ/HNTW
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 14 tháng 01
năm 1993. Một trong những quan điểm chủ đạo của nghị quyết này là cần thực hiện
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong giáo dục và y tế.
Đối với giáo dục thực hiện đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng
xã hội trong giáo dục: người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua
đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người
nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học.
Đối với y tế nhà nước chủ trương đa dạng hóa các hình thức tổ chức chăm sóc sức
khoẻ (nhà nước, tập thể, nhân dân) trong đó y tế Nhà nước là chủ đạo, tận dụng mọi
tiềm năng sẵn có trong nước và mở rộng hợp tác quốc tế. Đây là nghị quyết mở
đường cho việc tư nhân tham gia vào lĩnh vực y tế ở Việt Nam kể từ sau năm 1975.
Như đã đề cập ở trên, chính sách XHH giáo dục và y tế chính thức được đề cập
trong “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng” năm 1996 phần Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000: “Các vấn đề chính sách xã hội đều
giải quyết theo tinh thần XHH. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên
mọi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ
chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội”.
Một năm sau, nghị quyết NQ 90/CP đã cụ thể hóa chính sách này bằng một nghị
quyết riêng về vấn đề XHH giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Đây là văn bản đầu tiên
quy định cụ thể và chi tiết nhất về các nội dung trong chính sách XHH giáo dục và y
tế. Để thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao trên thực tế, chính phủ đã ban hành Nghị định số
73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ với nhiều ưu đãi dành cho các tổ
chức và cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ giáo dục và y tế.
Chính sách XHH tiếp tục được khẳng định như là chủ trương quan trọng để đẩy
mạnh phát triển giáo dục và chăm sóc sức khỏe người dân qua các nghị quyết của
Ban chấp hành trung ương Đảng khóa 8, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung
ương tại các đại hội Đảng IX và X. Về phía cơ quan hành pháp, Chính phủ đã ban
hành NQ 05/2005/ NQ-CP về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa
thể thao, ban hành nghị định 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa
đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi
trường. Ngoài ra còn hàng loạt các văn bản pháp luật khác nhằm cụ thể hóa hay hỗ
trợ thực hiện chính sách XHH giáo dục và y tế (tham khảo phụ lục 4 và 5). Các bộ
ngành có liên quan cũng lần lượt ban hành các quyết định phê duyệt các đề án về
13
XHH trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền như: Quyết định số 20/2005/QĐ-BGDĐT
ngày 24/6/2005 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch
phát triển xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2005 – 2010 ; Quyết định 2194/QĐ-BYT
ngày 21/6/2005 của Bộ Y tế về phê duyệt Đề án Phát triển xã hội hóa bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; Quyết định số 1000/2005/ QĐ-BLĐTBXH
ngày 07/6/2005 của Bộ LĐ-TBXH về việc phê duyệt Đề án Phát triển xã hội hóa
dạy nghề đến năm 2010; …
Tóm lại XHH là một chủ trương chuyển đổi cơ chế quản lý có nội dung đa dạng và
phức tạp. Trong báo cáo này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những tác động của
chủ trương XHH giáo dục và y tế tới những người nghèo - những người dễ bị tổn
thương nhất trong xã hội. Các phân tích khác có liên quan cũng nhằm vào mục tiêu
này.
3. Các nguồn lực cho XHH giáo dục và y tế
Để thực hiện chủ trương XHH, nghị quyết 05/2005/NQ-CP đã chỉ rõ các nguồn lực
phục vụ cho cung cấp các dịch vụ giáo dục và y tế bao gồm:
• Nhà nước: Trong đó chủ trương Nhà nước tiếp tục tăng tỷ lệ chi ngân sách cho
giáo dục – đào tạo, y tế nhưng tập trung vào một số nhiệm vụ chính.
Với giáo dục:
Nhà nước bảo đảm kinh phí cho giáo dục phổ cập, tập trung đầu tư cho các nhiệm
vụ trọng điểm, các chương trình mục tiêu quốc gia; đào tạo nhân lực cho các ngành,
nghề mũi nhọn, trọng điểm, khó huy động nguồn lực từ xã hội; ưu tiên đầu tư cho
những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Với y tế:
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho y tế, trong đó bảo đảm ngân sách cho y tế công
cộng, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ
em dưới 6 tuổi. Ưu tiên đầu tư cho hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở, đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các bệnh viện nhi, khoa nhi, các chuyên khoa ít
có khả năng thu hút đầu tư. Triển khai đề án đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học cho vùng
núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Ưu tiên đầu
tư phát triển nguồn nguyên liệu dược và sản xuất thuốc trong nước.
• Huy động nguồn lực của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế – xã hội và cá
nhân để phát triển giáo dục – đào tạo, y tế.
Để thực hiện chủ trương này hàng loạt các giải pháp được nêu ra.
Với giáo dục:
Nhà nước ban hành cơ chế chính sách cụ thể khuyến khích và quy định trách nhiệm
các ngành, địa phương, các tổ chức kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham
gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực đã được đào
tạo và giám sát các hoạt động giáo dục.
Để tăng trách nhiệm của người học Nhà nước chế độ học phí đã được thực hiện từ
lâu ở Việt Nam. Nhưng do trước đây quy định về học phí thì Nhà nước vẫn bao cấp
phần lớn chi phí giáo dục (QĐ 241/1993/QĐ-TTg và QĐ 70/1998/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ). Vì vậy để thực hiện chủ trương XHH, nhà nước sẽ đổi mới cơ bản
14
chế độ học phí: ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước theo khả năng ngân sách, học phí
cần bảo đảm trang trải chi phí cần thiết cho giảng dạy, học tập và có tích luỹ để đầu
tư phát triển nhà trường; bước đầu đủ bù đắp chi phí thường xuyên. Đồng thời Nhà
nước cũng chủ trương xoá bỏ mọi khoản thu khác ngoài học phí.
Nhà nước khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngoài
công lập; chuyển một số cơ sở công lập sang loại hình ngoài công lập. Chủ trương
hạn chế mở thêm các cơ sở công lập ở những vùng kinh tế phát triển; không duy trì
các cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công.
Nhà nước khuyến khích việc hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất
lượng cao của nước ngoài; khuyến khích mở các các cơ sở giáo dục đào tạo có chất
lượng cao, có uy tín bằng 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Với y tế:
Nhà nước khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài hoạt động từ
thiện, cung cấp, hỗ trợ các thiết bị y tế và hỗ trợ khám chữa bệnh.
Để giảm gánh nặng bao cấp của Nhà nước thì chính sách XHH y tế chủ trương củng
cố và mở rộng bảo hiểm y tế bắt buộc theo hướng đa dạng hóa các loại hình bảo
hiểm y tế đáp ứng nhu cầu của nhân dân; phát triển mạnh bảo hiểm y tế cộng đồng
dựa chủ yếu vào sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm, có sự trợ giúp của Nhà
nước và các nguồn tài trợ khác; khuyến khích các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện.
Để huy động đóng góp của người dân trong cải thiện dịch vụ y tế Nhà nước chủ
trương thu viện phí (bắt đầu từ 1992). Tuy nhiên, do quy định viện phí này vẫn
mang tính bao cấp nên nhà nước chủ trương đổi mới chế độ viện phí trên cơ sở
từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh nhân. Nhà nước
cũng chủ trương giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước cho một số lĩnh vực y
tế thông qua việc tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp (Nghị định
43/2006/ND-CP).
Chế độ tài chính cho các cơ sở khám chữa bệnh cũng thay đổi từng bước nhằm
chuyển đổi việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các cơ sở khám chữa
bệnh sang cấp trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do Nhà nước cung cấp
thông qua hình thức bảo hiểm y tế.
Nhà nước khuyến khích mở bệnh viện, phòng khám t¬ư nhân, bác sĩ gia đình, ngăn
chặn, xóa bỏ độc quyền trong xuất nhập khẩu, sản xuất và cung ứng thuốc chữa
bệnh.
Hiện nay ngoài các bệnh viện tư nhân thì việc huy động các nguồn lực để đầu tư
phát triển các cơ sở khám chữa bệnh công lập được thực hiện dưới hai hình thức chủ
yếu: (i) liên doanh liên kết để đầu tư các trang thiết bị y tế; (ii) phát triển các dịch vụ
khám chữa bệnh theo yêu cầu. Các hình thức này cũng được Đề án XHH y tế (Bộ y
tế, 2005) nêu trong các giải pháp nhằm huy động nguồn lực cho phát triển các cơ sở
y tế công lập.
Tóm lại, thực hiện chính sách XHH nhưng nhà nước không cắt giảm chi tiêu cho
giáo dục và y tế nhưng các khoản chi này sẽ được hướng vào những nhiệm vụ cụ
thể. Nhìn chung, người sử dụng dịch vụ giáo dục và y tế sẽ phải đóng góp nhiều hơn
về học phí và viện phí. Nhà nước khuyến khích đóng góp của người dân, các tổ chức
xã hội và doanh nghiệp trong cung cấp các dịch vụ giáo dục và y tế.
15
4. Các chính sách bổ trợ để tăng cường hiệu quả và hạn chế mặt trái
của chính sách XHH với người nghèo
Theo chủ trương của Nghị quyết 90/CP năm 1997 của Chính phủ, XHH giáo dục và
y tế phải đi liền với đảm bảo công bằng xã hội trong sử dụng các dịch vụ giáo dục
và y tế, đồng thời hạn chế việc lạm dụng chủ trương xã hội hóa. Các nội dung này
đã được ghi rõ trong nghị quyết này:
“Việc huy động dân tham gia đóng góp cho giáo dục phải được xem xét một cách kĩ
lưỡng, căn cứ vào mức sống và khả năng của dân ở từng vùng, từng địa phương trên
cơ sở bảo đảm công bằng xã hội, có chính sách học phí phù hợp, đồng thời có chính
sách trợ cấp xã hội và cho vay vốn để đi học.
…Tiếp tục cải tiến chế độ học bổng, trợ cấp xã hội và tín dụng đào tạo để bảo đảm
cho người nghèo có điều kiện học. Nâng cao mức học bổng dành cho học sinh và
sinh viên giỏi và học bổng cho các ngành học cần khuyến khích…
Tổ chức tốt việc khám và chữa bệnh cho người nghèo. Chính phủ tài trợ một phần,
đồng thời khuyến khích Hội Chữ thập đỏ, các Hội Từ thiện, tổ chức quần chúng, tổ
chức kinh tế của Nhà nước và tư nhân đóng góp để xây dựng các quỹ trợ giúp cho
người nghèo được khám, chữa bệnh, mua bảo hiểm y tế cho các gia đình có công
với nước và cho người nghèo”.
Chủ trương này được nhắc lại trong nghị quyết 05/2005/NQ-CP (Về đẩy mạnh xã
hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao). Chính phủ Việt
Nam chủ trương đổi mới chế độ thu phí đi đôi với việc thực hiện tốt chính sách ưu
đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo.
Để đảm bảo chất lượng của các cơ sở thực hiện XHH nghị quyết 05/2005 cũng chỉ
rõ việc Nhà nước tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật pháp;
đồng thời cần phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các
hội nghề nghiệp trong việc giám sát các hoạt động dịch vụ.
Thông qua các văn bản pháp luật được ban hành, Chính phủ đã từng bước cụ thể
hóa chủ trương nêu trên.
Với giáo dục:
Chính phủ ban hành hàng loạt quy định về hoạt động của các cơ sở ngoài công lập
như: Quyết định 240/TTg năm 1993 (Về việc ban hành quy chế Đại học tư thục),
Quyết định 86/2000/QĐ-TTg ngày 18/7/2000 về việc ban hành quy chế trường đại
học dân lập, Quyết định 14/2005/QĐ-TTg, ngày 17/1/2005 ban hành Quy chế tổ
chức và hoạt động của trường đại học tư thục, Quyết định 39/2001/QĐ-BGD&ĐT,
ngày 28/8/2001, về việc ban hành quy chế tổ chức và họat động của các trường
ngoài công lập. Trong các văn bản này có những quy định về tiêu chuẩn về điều kiện
tổ chức hoạt động cho các trường ngoài công lập nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ
giáo dục có chất lượng phù hợp với yêu cầu. Cùng với các quy định về quy chế tổ
chức và hoạt động, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 49/2005/NĐ-CP về xử
phạt hành chính vi phạm trong lĩnh vực giáo dục. Trong đó chỉ rõ các mức phạt đối
với các vi phạm về giáo dục. Những văn bản này đã góp phần kiểm soát chất lượng
giáo dục của các cơ sở thực hiện XHH.
Để hạn chế tình trạng lạm thu trong giáo dục, Chính phủ đã có một số văn bản quy
định về vấn đề này: Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập
16
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Quyết định 242/TTg năm 1992 (Về việc dạy
thêm ngoài giờ của giáo viên các trường phổ thông công lập); Quyết định
03/2007/QĐ-BGDĐT ngày 31/01/ 2007 ban hành quy định về dạy thêm, học thêm.
Các văn bản này nêu rõ các trường không được tùy tiện tổ chức dạy thêm và học
thêm ngoài quy định để thu tiền của học sinh.
Chính phủ cũng quy định rõ về thu chi học phí đối với hoạt động đào tạo theo
phương thức không chính quy trong các trường và cơ sở đào tạo công lập (Thông tư
liên tịch 46/2001/TTLT/BTC-BGD&ĐT ngày 20/6/2001).
Nhằm hỗ trợ người nghèo có cơ hội tiếp cận giáo dục, Chính phủ cũng ban hành
nhiều văn bản cho phép miễn giảm học phí cho những gia đình thuộc diện chính
sách xã hội (Thông tư liên tịch số 26/1999/TTLT/BLĐTBXH – BTC – BGDĐT
hướng dẫn thực hiện chính sách ưu đãi trong giáo dục và đào tạo; Thông tư
23/2001/TTLT/ BTC – BLĐTB XH Hướng dẫn thực hiện chính sách miễn giảm học
phí đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách đang theo học tại các cơ sở
giáo dục và đào tạo ngoài công lập). Như vậy học sinh, sinh viên đang theo học ở
các cơ sở ngoài công lập cũng được hưởng các ưu đãi về học phí như trong các cơ
sở giáo dục công lập.
Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản quy định về học bổng, tín dụng ưu đãi cho
học sinh, sinh viên nghèo, đối tượng chính sách xã hội (Thông tư liên tịch
23/2008/TTLT/ BGDĐT-BLĐTBXH-BTC ngày 28/4/2008 về học bổng, Quyết định
157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 về Tín dụng đối với học sinh, sinh viên ; Quyết
định 1134/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay áp dụng đối với học
sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
…). Trong các văn bản này đều không có sự phân biệt đối xử giữa các trường công
lập và ngoài công lập. Người học đều có thể tiếp cận các khoản tín dụng ưu đãi nếu
họ thực sự là người nghèo hoặc các đối tượng chính sách theo quy định của pháp
luật.
Với Y tế:
Nhằm cải thiện hoạt động chăm sóc sức khỏe (CSSK), song song với việc đẩy mạnh
công tác XHH hoạt động này, Nhà nước tiếp tục tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà
nước cho ngành y tế năm sau đã cao hơn năm trước cả về số tuyệt đối và tỷ trọng
trong tổng chi NSNN (năm 2002 là 7.187 tỷ đồng, đạt 5%; năm 2007 tăng lên
23.280 tỷ đồng, đạt 6,3% và dự toán năm 2008 là 27.463 tỷ đồng, đạt 6,9% tổng chi
ngân sách nhà nước).
Do việc áp dụng chính sách thu một phần viện phí (từ năm 1989-1994 theo quyết
định số 45-HĐBT ngày 25-4-1989 của Hội đồng Bộ trưởng và hiện là Nghị định số
95/CP ngày 27-8-1994) và sự xuất hiện các cơ sở KCB ngoài công lập tất yếu sẽ dẫn
đến tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ tiền để chi trả cho dịch vụ y tế. Để
đảm bảo sự công bằng trong hưởng các dịch vụ CSSK, chế độ Bảo hiểm y tế đã
được mở rộng. BHYT ở Việt Nam được ban hành lần đầu theo nghị định 299/HĐBT
ngày 15/8/1992 và được áp dụng trong giai đoạn 1992-1998 với các đối tượng là
người lao động hưởng lương trong các cơ quan hành chính, doanh nghiệp, các tổ
chức quốc tế, người về hưu. Sau một số sửa đổi (Nghị định 58/1998/NĐ-CP), Nghị
định 63/2005 mở rộng phạm vi đối tượng tuy đã tham gia BHYT bắt buộc theo một
số quy phạm pháp luật nhưng chưa được quy định trong Nghị định 58/1998/NĐ-CP.
Đặc biệt lần đầu tiên một số đối tượng chính sách xã hội được tham gia BHYT bắt
17
buộc: người thuộc hộ nghèo và người dân tộc thiểu số. Nhằm hỗ trợ hoạt động KCB
cho người nghèo, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 139/2002/QĐ-TTG về
việc khám chữa bệnh cho người nghèo. Quyết định này yêu cầu các tỉnh lập quỹ
KCB cho người nghèo, cung cấp BHYT miễn phí cho người nghèo. Tuy nhiên quyết
định này cũng chỉ rõ người nghèo khám chữa bệnh vượt tuyến, khám chữa bệnh
theo yêu cầu thì sẽ phải tự chi trả viện phí.
Ngoài BHYT tự nguyện cho hộ gia đình, cho học sinh, sinh viên, Chính phủ đã có
hướng dẫn về BHYT cho các hộ cận nghèo với mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước
tối thiểu là 50 % mức phí BHYT. Người tham gia BHYT cũng được tự do lựa chọn
nơi đăng ký khám chữa bệnh, Chính phủ cũng cho phép các bệnh viện ngoài công
lập được tham gia khám chữa bệnh và thanh toán viện phí bằng BHYT cho người có
BHYT. Gần đây nhất, luật BHYT ban hành năm 2008 đã sửa chữa được nhiều quy
định không hợp lý trong các văn bản pháp luật trước đó như việc thống nhất quyền
lợi của các đối tượng tham gia BHYT, quy định mức đóng BHYT cho từng đối
tượng.
Về lý thuyết, những quy định trên cho phép người nghèo có cơ hội được CSSK tốt
hơn và giảm đi sự phân biệt đối xử giữa các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập
trong công tác CSSK.
Do chính sách XHH y tế, hàng loạt cơ sở y tế tư nhân ra đời. Tính đến cuối năm
2008 có hơn 70 bệnh viên tư nhân, gần 30000 phòng khám y tế tư nhân, 21600 quầy
thuốc tư nhân. Do vậy, cần phải có biện pháp để đảm bảo chất lượng CSSK trong
các cơ sở y tế ngoài công lập. Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân được ban hành
lần đầu năm 1994 và sau đó được sửa đổi bổ sung trong Pháp lệnh hành nghề y
dược tư nhân ban hành năm 2003 chính là nhằm mục đích này. Bắt đầu từ 2011, luật
Khám chữa bệnh sẽ có hiệu lực và đó là luật được áp dụng thống nhất không phân
biệt cơ sở KCB công lập hay ngoài công lập. Luật này sẽ là cơ sở pháp lý cho mọi
vấn đề liên quan đến hoạt động KCB. Công tác quản lý nhà nước về KCB cũng sẽ
được tăng cường nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng tốt cho mọi
người dân.
Để xử lý các vi phạm trong hoạt động KCB, lần đầu tiên một nghị định về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực y tế đã được ban hành (Nghị định 45/2005/NĐ-CP ngày
6/4/2005). Đây là cơ sở pháp lý cho việc xử phạt các vi phạm trong hoạt động khám
chữa bệnh trong các cơ sở y tế cả công lập và ngoài công lập.
Tóm lại, mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ Nhà nước cũng đã có nhiều quy định để hỗ
trợ cho người nghèo cơ hội tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế. Các quy định này
cũng cho thấy song song với chủ trương XHH giáo dục và y tế, Nhà nước cũng đã
có những quy định nhằm hạn chế việc lạm dụng chủ trương này và đảm bảo chất
lượng của các dịch vụ XHH.
5. Cơ sở pháp lý
5.1. Các văn bản pháp luật của Trung ương
- Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002;
- Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005, Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật Giáo dục số 44/2009/QH12 ngày 25/11/2009;
- Luật Dạy nghề số 76/2006/QH11 ngày 29/11/2006;
18
- Luật Thể dục thể thao số 77/2006/QH11 ngày 29/11/2006;
- Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008; Luật khám chữa
bệnh số 40/2009/QH12 ngày 23/11/2009;
- Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế giai đoạn 2012 – 2020;
- Nghị quyết số 18/2008/QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội về đẩy mạnh
thực hiện chính sách pháp luật, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe nhân dân;
- Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về việc đẩy
mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao;
- Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 09/8/2012 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Thông báo kết luận số
37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số lĩnh
vực dịch vụ sự nghiệp công”;
- Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và Thông tư số
71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ;
- Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25/5/2006 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập;
- Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;
- Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ về cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công
lập;
- Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở
thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn
hoá, thể thao, môi trường;
- Thông tư số 135/2008/TT-BTC ngày 31/12/2008 của Bộ Tài chính hướng
dẫn Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ.
5.2. Các chính sách, quy định
19
5.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, nâng
cao nhận thức về xã hội hoá
Tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách về xã hội hoá để các cấp
ủy Đảng, chính quyền các cấp, các đơn vị công lập, ngoài công lập và nhân dân
có nhận thức đúng, đầy đủ, thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá trong
các lĩnh vực giáo dục, y tế.
Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, làm rõ các vấn đề về sở hữu,
về tính chất hoạt động lợi nhuận và hoạt động phi lợi nhuận, về trách nhiệm xã
hội của các tổ chức, về hình thức xã hội hoá trong mỗi lĩnh vực, để từ đó tiếp
tục hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Phát động các phong trào thi đua, xây dựng và nhân rộng các điển hình xã hội
hoá trong từng lĩnh vực.
5.2.2. Tiếp tục đổi mới chính sách và cơ chế quản lý
a) Hoàn thiện các quy chế
Hoàn thiện các quy định về mô hình, quy chế hoạt động của các đơn vị
ngoài công lập theo hướng: quy định rõ trách nhiệm, mục tiêu hoạt động, nội
dung, chất lượng dịch vụ, sản phẩm, chế độ sở hữu và cơ chế hoạt động; quy
định chế độ tài chính và trách nhiệm thực hiện chính sách và nghĩa vụ xã hội
của các tổ chức hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận và áp dụng cơ chế doanh
nghiệp đối với các cơ sở hoạt động theo cơ chế lợi nhuận.
Hoàn thiện hoặc ban hành mới quy chế hoạt động của các loại quỹ; thể
chế hoá vai trò và chức năng của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tham gia
vào quá trình xã hội hoá.
Đơn giản các thủ tục hành chính trong việc thành lập các cơ sở ngoài
công lập trên cơ sở quy định chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết điều kiện thành lập,
điều kiện hành nghề và cơ chế hậu kiểm. Quy định điều kiện, thủ tục chuyển từ
loại hình công lập sang các loại hình ngoài công lập.
Sửa đổi Nghị định 73 về cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá; rà
soát, sửa đổi các quy định, quy chế đã ban hành trong lĩnh vực giáo dục, y tế,
đồng thời nghiên cứu mở rộng cho các lĩnh vực khoa học công nghệ, môi
trường và các lĩnh vực xã hội khác.
b) Chuyển cơ chế hoạt động của các cơ sở công lập sang cơ chế
cung ứng dịch vụ.
Sửa đổi Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về cơ chế tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập có thu chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng
dịch vụ nhằm tạo điều kiện phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ
và tăng hiệu quả đầu tư của nhà nước cho phúc lợi xã hội. Hoạt động tài chính
của cơ sở hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ phải được công khai và
được kiểm toán. Chênh lệch thu chi phải chủ yếu được dùng để đầu tư phát
triển cơ sở.
c) Đổi mới cơ chế sử dụng ngân sách nhà nước trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế
20
Nghiên cứu xây dựng và từng bước thực hiện chính sách đấu thầu cung
cấp dịch vụ do nhà nước đặt hàng; khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia.
Nghiên cứu chuyển việc cấp phần kinh phí nhà nước hỗ trợ cho người
hưởng thụ thông qua các cơ sở công lập sang cấp trực tiếp cho người hưởng
thụ phù hợp với từng lĩnh vực; từng bước tạo điều kiện để người hưởng thụ lựa
chọn cơ sở dịch vụ không phân biệt công lập hay ngoài công lập; từng bước
chuyển việc thực hiện chính sách xã hội hiện đang giao cho các cơ sở công lập
sang cho chính quyền địa phương các cấp.
Nhà nước hỗ trợ ban đầu có thời hạn cho các cơ sở công lập chuyển sang
loại hình ngoài công lập; hỗ trợ khuyến khích các cơ sở ngoài công lập đăng ký
hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận. Các cơ sở ngoài công lập được tham gia
bình đẳng trong việc nhận thầu các dịch vụ do nhà nước đặt hàng. Thí điểm
việc Nhà nước cho các cơ sở ngoài công lập (nhất là ở các vùng khó khăn,
vùng kém phát triển) thuê dài hạn cơ sở hạ tầng.
d) Chính sách thuế
Có chính sách ưu đãi đối với các cơ sở ngoài công lập, đặc biệt là với
các cơ sở hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận.
đ) Chính sách huy động vốn và tín dụng
Ban hành quy định về việc các cơ sở công lập hợp tác, liên kết với địa
phương, doanh nghiệp, cá nhân trong việc xây dựng cơ sở vật chất, các cơ sở
ngoài công lập huy động vốn để đầu tư phát triển cơ sở vật chất và hoàn trả
theo thoả thuận.
Ban hành chính sách bảo đảm lợi ích chính đáng, hợp pháp về vật chất
và tinh thần, về quyền sở hữu và thừa kế đối với phần vốn góp và lợi tức của
các cá nhân, tập thể thuộc các thành phần kinh tế, các tầng lớp xã hội tham gia
xã hội hoá và chính sách ưu đãi tín dụng từ Quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà
nước.
Tiếp tục phát triển các loại quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo, quỹ
phát triển văn hoá, quỹ khuyến học, quỹ hỗ trợ học nghề v.v trên nguyên tắc:
công khai, minh bạch và quản lý theo quy định của pháp luật.
e) Chính sách đất đai
Các địa phương cần điều chỉnh quy hoạch đất đai dành quỹ đất ưu tiên
cho việc xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế công lập và ngoài công lập.
Thực hiện việc miễn tiền sử dụng đất, thuê đất đối với các cơ sở ngoài
công lập hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận. Công khai, đơn giản hoá thủ tục
giao đất, cho thuê đất. Xử lý kiên quyết, dứt điểm tình trạng lấn chiếm, sử dụng
đất sai mục đích.
g) Chính sách nhân lực
Thực hiện chính sách bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công
lập về thi đua khen thưởng, về công nhận các danh hiệu nhà nước, về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, về tiếp nhận, thuyên chuyển cán bộ từ khu vực công lập
21
sang ngoài công lập và ngược lại.Từng bước xoá bỏ khái niệm ''biên chế'' trong
các cơ sở công lập, chuyển dần sang chế độ ''hợp đồng'' lao động dài hạn.
Ban hành chính sách đối với cán bộ hành nghề và cán bộ, viên chức nhà
nước tham gia hành nghề trong các cơ sở ngoài công lập; quy định trách nhiệm
của cơ sở ngoài công lập bảo đảm chất lượng và số lượng cán bộ cơ hữu, cán
bộ kiêm nhiệm phù hợp với quy mô và ngành nghề, bảo đảm chế độ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
cho cán bộ, viên chức.
Ban hành chính sách đào tạo lại, trẻ hoá đội ngũ trong giai đoạn chuyển
đổi loại hình hoặc chuyển đổi cơ chế hoạt động của các cơ sở công lập, chính
sách đào tạo và hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
các cơ sở ngoài công lập, chính sách hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập tự đào tạo,
phát triển nhân lực, kể cả việc đào tạo ở nước ngoài và thu hút nhân tài, chuyên
gia, nhà quản lý nước ngoài đến làm việc.
h) Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước
Nhà nước quản lý thống nhất đối với các cơ sở công lập và ngoài công
lập; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở đó cùng phát triển ổn định, lâu dài; bảo
đảm lợi ích của từng cá nhân, tập thể và của toàn xã hội; phân cấp quản lý, gắn
quyền hạn với trách nhiệm của từng cấp, của tập thể và cá nhân người đứng
đầu các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; gắn phân cấp nhiệm vụ với phân
cấp quản lý về tài chính, tổ chức nhân sự và bảo đảm các điều kiện vật chất
khác.
Tách bạch quản lý nhà nước khỏi việc điều hành công việc thường
xuyên của cơ sở. Một mặt trao cho cơ sở đầy đủ quyền tự chủ và trách nhiệm;
mặt khác bảo đảm quyền sở hữu và vai trò của đại diện chủ sở hữu trong các
cơ sở công lập và ngoài công lập.
Hoàn thiện việc phân cấp quản lý, tăng quyền chủ động và trách nhiệm
của các địa phương. Các địa phuơng căn cứ vào cơ chế, chính sách chung,
quyết định cơ chế, chính sách cụ thể cho địa phương, xây dựng quy hoạch phát
triển xã hội hóa đối với từng lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao
trên từng địa bàn. Cấp quận, huyện có quyền cấp phép thành lập các cơ sở do
quận, huyện quản lý.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra. Quy định chế độ và trách nhiệm
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của các cấp, đồng thời, phát huy dân chủ ở
cơ sở để giám sát công việc quản lý của các cấp.
Phát huy vai trò giám sát của các Hội nghề nghiệp về chất lượng hoạt
động của các cơ sở, tư cách hành nghề của các cá nhân. Khen thưởng kịp thời
các cá nhân, cơ quan, tổ chức làm tốt công tác xã hội hoá.
5.2.3. Xây dựng quy hoạch phát triển xã hội hoá
Xây dựng quy hoạch chuyển đổi các cơ sở công lập có điều kiện phù
hợp với yêu cầu, mục tiêu xã hội hoá sang hoạt động theo cơ chế cung ứng
dịch vụ hoặc sang loại hình ngoài công lập với các bước đi thích hợp; định rõ
22
chỉ tiêu, các giải pháp, lộ trình chuyển đổi của từng ngành, từng lĩnh vực, từng
địa phương trong giai đoạn 2005 - 2010.
Phổ biến rộng rãi dự báo phát triển mạng lưới các cơ sở, nhu cầu huy động
nguồn lực thực hiện quy hoạch để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, huy động đầu tư trực tiếp của nước ngoài
trong các lĩnh vực thích hợp.
6. Mục tiêu hướng tới
6.1. Tính công bằng phát triển nhân đạo
Thực hiện xã hội hóa giáo dục và y tế là một giải pháp quan trọng để
thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược kinh tế xã hội
của Đảng và Nhà nước. Công bằng không chỉ trong việc hưởng thụ
(người dân được Nhà nước và xã hội chăm lo), mà còn trong việc
đóng góp cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người,
từng địa phương.
6.2. Khả năng tiếp cận các dịch vụ của người dân
6.2.1. Tiếp cận các dịch vụ giáo dục
- Chủ trương và các chính sách XHH trong giáo dục được các cấp
quản lý địa phương đánh giá cao và ủng hộ mạnh mẽ. Lãnh đạo
các địa phương đều nhận rõ XHH là phương án huy động tốt
nguồn lực của xã hội, tăng nguồn và đa dạng hóa việc cung cấp dịch
vụ giáo dục, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân
dân. Tuy nhiên, các địa phương có điều kiện kinh tế chậm phát triển
gặp nhiều khó khăn hơn trong việc XHH giáo dục do hạn chế cả về
nguồn cung (nhà đầu tư) và nhu cầu (mức độ sẵn sàng đóng góp của
người dân).
- Trên phương diện quản lý nhà nước ở địa phương, việc triển
khai chính sách XHH chưa gắn liền với vai trò quản lý nhà nước
tương ứng như vai trò định hướng, điều tiết, và giám sát. Điều này
là một trong những nguyên nhân làm cho XHH chưa được phát
triển toàn diện giữa các vùng, chưa đảm bảo chất lượng dịch vụ
cung ứng, và thậm chí bị lạm dụng đối với một số khoản thu. Khi
những hạn chế này xảy ra thì người nghèo chính là đối tượng bị
thiệt hại đầu tiên và nặng nề nhất.
- Thực tiễn khảo sát hoạt động của một số cơ sở giáo dục cũng
cho thấy người nghèo đang bị thiệt trên một số lĩnh vực. Thứ nhất,
chính sách giảm học phí cho người nghèo trên thực tế hiện chỉ áp
dụng ở các trường công lập. Trong khi đó, rất nhiều học sinh
nghèo lại không thể thi vào được trường công lập (kể từ cấp phổ
thông trung học trở lên), mà chỉ có thể vào học ở trường dân lập.
Vì vậy, họ đã không được hưởng chính sách trên. Trong khi đó,
kết quả dạy và học ở các trường dân lập lại thấp hơn ở trường
công lập.
23
- Kết quả khảo sát các hộ gia đình cũng chỉ rõ người nghèo đang
chịu rào cản lớn hơn về học phí và phụ phí nếu so với 5 năm
trước. Như vậy, cùng với việc triển khai XHH thì người nghèo
đang gặp khó khăn lớn hơn về chi phí cho giáo dục. Tuy nhiên,
người nghèo cũng đang được hưởng những cải thiện về chất lượng
tổng thể của giáo dục từ XHH.
Khuyến nghị
- Nên coi XHH giáo dục là gắn liền với việc chuyển đổi vai trò
quản lý của nhà nước từ việc trực tiếp cung cấp dịch vụ sang việc
quản lý vĩ mô. Như vậy, cùng với việc triển khai XHH, chính
quyền địa phương phải nâng cao vai trò dự báo, lên kế hoạch, quy
hoạch, điều tiết sự phát triển giữa các vùng, và kiểm tra giám sát
hoạt động của các cơ sở thuộc sở hữu khác nhau. Hiện nay, lãnh
đạo các địa phương chưa quan tâm đúng mức tới các vai trò quản
lý đi kèm với XHH mà chỉ tập trung vào tác động tăng trưởng đơn
thuần (huy động nguồn lực) của XHH mà thôi.
- Về công tác định hướng, các tỉnh cần có quy hoạch phát triển
hệ thống cơ sở giáo dục ở các vùng khác nhau, từ đó tính toán và
có chính sách khuyến khích để các vùng sâu vùng xa vẫn có cơ sở
giáo dục, giảm rào cản về khoảng cách cho họ. Trong một số
trường hợp, nhà nước có thể dành tiền đầu tư các trường công
nhiều hơn cho vùng sâu vùng xa vì ở các vùng đông dân các cơ sở
dân lập và tư thục sẽ ngày càng phát triển và bổ sung khá lớn về
nguồn cung dịch vụ.
- Ngoài ra, công tác kiểm tra giám sát, kiểm định chất lượng cần
được chú trọng, đặc biệt trong quá trình XHH giáo dục. Ngoài
việc tăng cường kiểm định chất lượng, nhà nước cần tăng cường
kiểm tra việc thực hiện các chính sách học phí và phụ phí, tránh
tình trạng lạm dụng chính sách XHH.
- Cần có nghiên cứu chính sách để người nghèo đi học được
hưởng chế độ giảm học phí của nhà nước. Một trong những hướng
nghiên cứu là chuyển phần miễn giảm học phí thành phần hỗ trợ
và người nghèo có thể sử dụng nó và lựa chọn học ở bất cứ trường
nào. Một hướng khác là nghiên cứu những chính sách hỗ trợ học
sinh nghèo
ở các trường dân lập (đặc biệt từ cấp phổ thông trung học) bởi đây
là điểm đến của rất nhiều học sinh nghèo.
6.2.2. Tiếp cận các dịch vụ y tế
Xã hội hóa y tế đã mang lại những tác động tích cực tới việc chăm
sóc sức khỏe cho người dân. Tác động lớn nhất là đã huy động
vốn đầu tư mở rộng nguồn cung ứng các dịch vụ y tế, đa dạng hóa
loại hình dịch vụ y tế, và tạo sức ép cạnh tranh nhất định tăng chất
lượng các dịch vụ này. Người nghèo được hưởng lợi gián tiếp từ
24
việc các cơ sở XHH làm giảm tải cho bệnh viện công và tạo sức
ép nhất định tới việc tăng chất lượng khám chữa bệnh ở bệnh viện
công.
- Tuy nhiên, các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân chủ yếu mới
đang cung cấp các dịch vụ ít rủi ro và có lợi nhuận cao, sử dụng
các thiết bị hiện đại. Dịch vụ điều trị hoặc chữa
bệnh phức tạp vẫn do các bệnh viện công cung cấp.
- Đối với người nghèo, các chính sách hỗ trợ người nghèo, điển
hình là chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, đã làm
giảm đáng kể các rào cản tới dịch vụ y tế của họ. Có thể coi đây là
thành công trong chính sách hỗ trợ của nhà nước nhằm làm giảm
tác động tiêu cực của XHH tới người nghèo. Tuy nhiên, các dịch
vụ khám chữa bệnh sử dụng công nghệ cao chưa được bảo hiểm y
tế chi trả. Vì vậy, người nghèo khó có thể tiếp cận được các dịch
vụ này.
- Khác với các cơ sở XHH trong giáo dục (cụ thể là trường dân
lập), các cơ sở XHH y tế (khám dịch vụ trong bệnh viện công và
phòng khám/bệnh viện tư) trực tiếp phục vụ người có khả năng
chi trả. Như vậy, người nghèo không phải là đối tượng phục vụ
của các cơ sở này.
- Tương tự như XHH trong giáo dục, XHH trong y tế chưa đi
kèm với việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước tương
ứng, đặc biệt là chức năng kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ
sở. Nhiều tỉnh chưa có số liệu thống kê cơ bản về hoạt động của
các cơ sở và hình thức XHH. Việc đảm bảo cho các bệnh viện
công không lạm dụng XHH để tăng chi phí khám chữa bệnh còn
chưa được chú ý giải quyết.
- Các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân có tiến hành đầu tư trang
thiết bị và cơ sở vật chất.
Tuy nhiên, về nguồn nhân lực chất lượng cao thì các cơ sở
này chủ yếu đang tìm cách thu hút từ các cơ sở công. Các bệnh
viện công có nhận thấy vấn đề chảy máu chất xám, song chưa có
biện pháp đối phó hữu hiệu.
- Yếu tố tâm lý vốn rất quan trọng trong khám chữa bệnh chưa
được chú ý trong các chính sách XHH và chính sách đi kèm cho
người nghèo. Một ví dụ điển hình là cấp thẻ bảo hiểm có phân biệt
rõ hộ nghèo. Việc này giúp cho quá trình quản lý hành chính được
dễ dàng, song lại gây tâm lý tự ti cho người nghèo. Thậm chí nó
còn có thể gây tâm lý không tích cực cho các y bác sỹ.
Khuyến nghị:
- Xác định rõ XHH cần đi kèm với việc thực hiện các chức năng
quản lý vĩ mô khác như quy hoạch, kế hoạch, kiểm tra giám sát.
Điều này cực kỳ quan trọng nhằm giúp người bệnh được hưởng
25