Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Giải pháp mở rộng huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh từ sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.32 KB, 62 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
NEC NEC 13
NECDTBB 13
TỶ LỆ CHI PHÍ NGUỒN 14
TỶ LỆ CHI PHÍ HỒ VỐN BÌNH QUÂN CHO NGUỒN TÀI TRỢ TỪ BÊN NGOÀI 14
[4]. TS. PHAN THỊ THU HÀ- PGS., TS. NGUYỄN THỊ THU THẢO, 2002, NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI QUẢN TRỊ VÀ NGHIỆP VỤ, NXB. THỐNG KÊ 1
[8] NGUYỄN XÙN THĨNG, 2009, LỊCH SỬ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN TỪ SƠN 1
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
TCTD Tổ chức tín dụng
NHNN Ngân hàng nhà nước
UTĐT Ủy thác đầu tư
TTĐH Trung tâm điều hành
NHTƯ Ngân hàng trung ương
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG BIỂU
NEC NEC 13
NECDTBB 13
NẾU TRẢ LÃI TRƯỚC NEC = I / 1 – I 13
Nếu trả lãi n lần trong kỳ, NEC = (1 + i/n)n –1 13
TỶ LỆ CHI PHÍ NGUỒN 14
TỶ LỆ CHI PHÍ HỒ VỐN BÌNH QUÂN CHO NGUỒN TÀI TRỢ TỪ BÊN NGOÀI 14
[4]. TS. PHAN THỊ THU HÀ- PGS., TS. NGUYỄN THỊ THU THẢO, 2002, NGÂN HÀNG THƯƠNG


MẠI QUẢN TRỊ VÀ NGHIỆP VỤ, NXB. THỐNG KÊ 1
[8] NGUYỄN XÙN THĨNG, 2009, LỊCH SỬ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN TỪ SƠN 1
HÌNH VẼ
NEC NEC 13
NECDTBB 13
NẾU TRẢ LÃI TRƯỚC NEC = I / 1 – I 13
Nếu trả lãi n lần trong kỳ, NEC = (1 + i/n)n –1 13
TỶ LỆ CHI PHÍ NGUỒN 14
TỶ LỆ CHI PHÍ HỒ VỐN BÌNH QUÂN CHO NGUỒN TÀI TRỢ TỪ BÊN NGOÀI 14
[4]. TS. PHAN THỊ THU HÀ- PGS., TS. NGUYỄN THỊ THU THẢO, 2002, NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI QUẢN TRỊ VÀ NGHIỆP VỤ, NXB. THỐNG KÊ 1
[8] NGUYỄN XÙN THĨNG, 2009, LỊCH SỬ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN TỪ SƠN 1
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng thương mại,
ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã không ngừng phát triển và
ngày càng khẳng định mình là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Với
lượng vốn huy động được trong xã hội thông qua nghiệp vụ huy động vốn, ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi
hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá
trình tái sản xuất. Chính vì vậy mà hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành
phần trong nền kinh tế được diễn ra một cách thuận lợi. Vì thế nên, trong thời gian
tới, để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển
chung của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng thì việc huy
động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối
với các tổ chức tài chính, các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu
tình hình thực tế tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - chi nhánh thị
xã Từ Sơn vừa qua, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng huy động
vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Từ Sơn.”
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần chính :
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn chi nhánh Từ Sơn.
Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn tại ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn – chi nhánh Từ Sơn.
Em xin chân thành cám ơn cô giáo hướng dẫn: Nguyễn Thị Thuỳ Dương cùng
các thầy, các cơ trong khoa, các cơ, các chú, các anh, các chị cán bộ trong công ty
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
1
Chuyên đề tốt nghiệp
đã giúp đỡ em tận tình để em hoàn thanh đề tài này
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TÌM HIỂU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Theo luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930, ngân hàng có định nghĩa:
“Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng
bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối
phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân.”
Còn các nhà kinh tế Pháp năm 1941 lại khẳng định rằng: “Ngân hàng là những
xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức
ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ

chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Còn ở Việt Nam theo Điều 20 trong Luật các tổ chức tín dụng( Số
07/1997/QHX) quy định: “Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “Hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.

Có rất nhiều các khái niệm khác nhau nhưng đều khẳng định rằng ngân hàng
thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
Nhiệm vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với cam kết
hoàn trả lại đúng số tiền đó cộng thêm một khoản tiền lãi, sử dụng số tiền này cho
vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán cùng một số nghiệp vụ khác.
Các hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng chịu nhiều ảnh hưởng của các
yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị, tâm lý… đồng thời đến lượt mình, ngân hàng lại có
khả năng tác động trở lại các yếu tố này. Phải công nhận rằng, nền kinh tế của một
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
2
Chuyên đề tốt nghiệp
nước chỉ phát triển ổn định và bền vững khi có chính sách tài chính – tiền tệ đúng
đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có khả năng thu hút tập trung các
nguồn vốn và phân bổ hợp lý nguồn vốn đó vào các ngành sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Thời gian gần đây, tình hình diễn biến lãi suất, tín dụng, giá vàng, ngoại hối và
đặc biệt là hoạt động của các ngân hàng thương mại đang thu hút sự quan tâm lớn
của dư luận và giới kinh doanh. Chính vì vậy, ngân hàng thương mại thông qua việc
thực hiện chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng đã trở
thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện qua
nhưgx vấn đề sau :
 Thứ nhất, ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế để

đầu tư vào sản xuất kinh doanh và cac nhu cầu chi tiêu khá.
Với vai trò cầu nối, ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế bằng cơ chế tiền
gửi cú kỳ hạn và không có kì hạn, tái phân phối cho nền kinh tế quốc dân, đáp ứng
đầy đủ và kịp thời cho quá trình tái sản xuất kinh tế
 Thứ hai, ngân hàng thương mại hỗ trợ Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
Các ngân hàng thương mại thực hiện đúng chức năng của mình để hướng tới
mục tiêu lợi nhuận cho chính ngân hàng đồng thời góp phần thực hiện các mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia như ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo việc làm
và tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng thương mại phát huy được vai trò công cụ đòn
bõ̉y của nó trong việc thực thi chính sách tiền tệ tín dụng, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế theo như những mục tiêu đã hoạch định. Như, việc xoá bỏ cơ chế lãi
suất “trần”, “sàn” , thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản, sau đó chuyển sang cơ chế lãi
suất thoả thuận đã giúp cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn trong điều hành lãi
suất, ưu đãi cho vay lãi suất thấp hơn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần thực hiện
mục tiêu hướng mạnh về xuất khẩu như chính sách đã đề ra ban đầu.
 Thứ ba, ngân hàng thương mại góp phần phân bổ, điều hòa vốn giữa các
ngành, các vùng trong nền kinh tế, do đó tạo nên sự phát triển nhanh, các vùng
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
3
Chuyên đề tốt nghiệp
trong một nước.
Để tạo đồng đều cân bằng về vốn giữa các ngành, vùng trong nền kinh tế, ngân
hàng thương mại sẽ đứng ra thực hiện chức năng của mình, thu hút vốn thừa ở
các ngành, vùng có nhiều nguồn vốn nhàn rỗi chuyển sang các ngành, vùng đang có
nhu cầu sử dụng vốn nhiều.
 Thứ tư, ngân hàng thương mại góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp và là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn chủ yếu bổ sung vốn lưu động (ngắn hạn)

cho các tổ chức kinh tế mua nguyên vật liệu để tiến hành sản xuất kinh doanh và
hoạt động ngân hàng đã góp phần làm biến đổi các điều kiện sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, nhất là đảm bảo các yếu tố “đầu
vào” và “đầu ra” qua một hệ thống đồng bộ về vốn.
 Thứ năm, ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các nước, thúc đẩy phát
triển ngoại thương, công nghiệp và các ngành có liên quan.
Cùng với xu hướng hội nhập, khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh
mẽ, các quốc gia trên thế giới không ngừng mở rộng giao lưu buôn bán hợp tác
tương trợ lẫn nhau. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại tờ, quan
hệ tín dụng với ngân hàng nước ngoài, hệ thống ngân hàng đã thực hiện vai trò điều
tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
Như vậy có thể nói, ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế hiện nay. Ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn trong quá trình hình thành, phát
triển, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, làm
cho nền kinh tế tăng trưởng mạnh, từ đó tạo động lực thúc đẩy quy mô tín dụng
ngân hàng, giảm bớt rủi ro xảy ra. Điều này cần được nhận thức và quán triệt xuyên
suốt trong quá trình hoạch định chính sách về vốn, phương thức và cơ chế hoạt
động của các ngân hàng thương mại hiện nay.
1.1.3. Một số nghiệp vụ cơ bản của ngân thương mại
1.1.3.1. Nghiệp vụ huy động vốn ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là:
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
4
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ cung ứng dịch vụ ngân
hàng như: dịch vụ tư vấn, thanh toán hộ, giữ hộ Ba nghiệp vụ này có quan hệ mật
thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh
tranh cho các ngân hàng thương mại, các nghiệp vụ này đan xen lẫn nhau trong quá
trình hoạt động của ngân hàng, tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong quá trình
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này phản ánh các quá

trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, cụ thể
bao gồm các nghiệp vụ sau:
 Nghiệp vụ tiền gửi:
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ
các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản. Ngoài ra,
ngân hàng thương mại có thể huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các
hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số
tiền gửi.
 Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính
thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng cung
cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn thế nữa,
nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn định
vốn trong hoạt động kinh doanh thương mại.
 Nghiệp vụ đi vay:
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo
vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ
và vay ngân hàng Nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo
Trong đó các khoản vay từ ngân hàng nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân đối trong
điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối được nguồn vốn.
 Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn kinh
doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý, uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không thường suyên của NHTM,
thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các ngân hàng phải lập ra các dự án cho
từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay.
1.1.3.2. Nghiệp vụ tín dụng

Là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích
khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Nghiệp
vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể như sau:
 Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dựng vào với mục
đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả năng
thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do ngân
hàng Nhà nước đề ra.
 Nghiệp vụ cho vay:
Đây có thể nói là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong hoạt động quản lý tài
sản có của NHTM. Nghiệp vụ này đóng góp phần lớn lợi nhuận trong quá trình hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng. Bởi, thông qua nghiệp vụ này mà ngân hàng
cung cấp các khoản tín dụng ngắn, trung và dài hạn cho các thành phần trong nền
kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn.
 Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dựng số vốn huy động được từ
dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức
như: góp vốn, hùn vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường và trực tiếp thu lợi
nhuận trên các khoản đầu tư như vậy.
1.1.3.3. Nghiệp vụ cung ứng dịch vụ.
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản nêu trên, trong hoạt động kinh doanh, các NHTM
còn tiến hành các hoạt động kinh doanh khác trên thị trường như: thực hiện dịch vụ
tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và đá quý, nghiệp vụ uỷ
thác và đại lý trong hoạt động cung ứng chứng khoán ra thị trường và hàng loạt
những dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như : dịch vụ cầm đồ, dịch
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
vụ bảo quản giấy tờ có giá, dịch vụ cho thuê két sắt Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hoá đặc biệt là trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động

thu - chi hộ, chuyển tiền qua ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển.
Ngân hàng đã không ngừng áp dụng những tiến bộn, thành tựu khoa học công nghệ,
kết hợp với uy tín kinh doanh của ngân hàng làm cho nghiệp vụ này ngày càng
được thay đổi về chất lượng hơn.
1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Các hình thức huy động vốn của NHTM
Ngay sau khi đã sử dụng hết lượng vốn tự có nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu
cầu giao dịch, thanh toán của khách hàng thì các NHTM phải tiến hành huy động
vốn từ bên ngoài. Thường thường nguồn vốn huy động này chiếm một tỷ trọng
tương đối lớn trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng, và cũng đảm bảo cho ngân
hàng có thể hoạt động một cách bình thường. Quá trình huy động vốn của NHTM
chủ yếu dưới các hình thức sau:
1.2.1.1. Huy động vốn bằng tiền gửi không hỳ hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền mà chủ sở hữu của khoản tiền này có thể rút
tiền hoặc trả cho đối tác kinh doanh của họ bằng hình thức phát séc. Tại những nước
có hệ thống Ngân hàng phát triển hoạt động dựa trên công nghệ cao, thì việc rút tiền
từ tài khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại hoặc thực hiện qua các
máy rút tiền tự động ATM được lắp đặt rộng khắp.
Đối với khách hàng, thì việc gửi tiền vào tài khoản này với mục đích chủ yếu
là thanh toán và chi trả cho các hoạt động kinh doanh và các hoạt động dịch vụ phát
sinh một cách thường xuyên. Vì thế, việc dễ dàng chuyển nhượng, dễ dàng thanh
toán được xem là yếu tố rất quan trọng, còn việc hưởng lãi đối với khoản tiền gửi
này chỉ là thứ yếu. Nên loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi theo yêu cầu, nó
không đem lại lợi tức cao cho người gửi. Ngược lại, đối với NHTM thì đây lại là
một khoản vốn huy động với mức chi phí thấp nhất trong tất cả các khoản vốn huy
động được khác. Ngân hàng chỉ phải bỏ ra những khoản chi phí nhỏ về quản lý tài
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
7
Chuyên đề tốt nghiệp

khoản hoặc trả lãi bù lại là được sử một phần lớn làm vốn kinh doanh.
Tuy vậy, vốn tiền gửi không kỳ hạn lại là khoản vốn có sự biến động nhiều
nhất, số dư của khoản vốn này tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh
doanh của người gửi tiền. Vì vậy, NHTM chỉ có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn
này khi và chỉ khi đưa ra được các dự đoán về sự biến động số dư trên tài khoản
tiền gửi này một cách chính xác.
1.2.1.2. Huy động vốn bằng tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là hai
loại tiền gửi có tính ổn định hơn, chi phí huy động và quản lý cao hơn, hơn nữa hai
loại tiền gửi này lại có độ nhạy cảm cao về lãi suất nên trong quá trình huy động
cũng có những điểm khác biệt.
 Huy động tiền gửi có kỳ hạn.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi trong đó đã có sự thoả thuận giữa
người gửi tiền và Ngân hàng về lãi suất và thời hạn rút tiền. Cơ bản mà nói, các
khoản tiền gửi này thường có kỳ hạn tương đối dài và không được sử dụng để tiến
hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Vỡ vậy,
mức lãi suất đối với loại tiền gửi này có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ thuộc vào sự
thoả thuận của khách hàng với Ngân hàng. Đối với các khoản tiền gửi có lãi suất
linh hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn quy định.
 Huy động tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm từ lâu đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống
của các NHTM. Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng
tương đối trong cơ cấu tiền gửi vào Ngân hàng, ví dụ: Tiền gửi tiết kiệm tại các
NHTM Việt nam chiếm khoảng 60- 70% tổng tiền gửi, còn ở Mỹ là khoảng 25%.
Lãi suất huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi tiền sẽ khuyến khích khách hàng gửi
tiền với thời hạn dài hơn. Ngân hàng thường dùng nguồn vốn có tính ổn định cao
này để đầu tư các dự án dài hạn nhưng phụ thuộc rất lớn vào đặc tính về dân số – xã
hội, tình hình kinh tế xã hội, đặc biệt là thu nhập của dân cư, do đó các ngân hàng
áp dụng mọi biện pháp để nâng cao uy tín của ngân hàng mình nhằm lôi kéo nhiều
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A

8
Chuyên đề tốt nghiệp
khách hàng gửi tiền tiết kiệm cao nhất.
1.2.1.3. Huy động vốn qua đi vay.
Những khoản vốn vay ngày càng chiếm tỷ trọng cũng như vị trí đặc biệt quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại không chỉ về mặt
quy mô đơn thuần mà còn mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các danh
mục trong tài sản nợ. Vốn vay của ngân hàng có thể hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau nhưng chủ yếu vẫn bao gồm những nguồn cơ bản sau đây:
 Vay từ ngân hàng Trung Ương.
Thời nay, hầu hết các quốc gia đều cho phép NHTM và các tổ chức tài chính
khác trong nước mình được phép vay tiền từ NHTƯ trong những trường hợp cấp
thiết như: thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt về vốn. Tuy vậy, để giữ ổn định giá trị đồng
bản tệ cũng như ngăn chặn sự lạm dụng của các NHTM trong việc vay vốn, NHTƯ
thường không muốn cho các NHTM vay quá nhiều, nhưng khi đó nó có thể nâng
mức lãi suất chiết khấu, lãi suất phạt lên cao hoặc đưa ra những điều kiện vay mà
hiếm NHTM nào có thể chịu được.
 Vay từ các tổ chức tín dụng khác.
Cũng giống như trên, trong quá trình hoạt động của mình có những lúc NHTM
phải đối đầu với những tình huống khó khăn về tài chính như: thiếu hụt dự trữ bắt buộc,
mất khả năng thanh toán những khoản tiền lớn và để tránh nguy cơ mất khách hàng,
bảo đảm uy tín cho Ngân hàng thì giải pháp tốt nhất là đi vay. NHTM có thể đi vay từ
nhiều nguồn khác nhau và một trong số đó là đi vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ trong và nước ngoài.
Việc vay mượn vốn giữa các NHTM, giữa NHTM với các tổ chức tín dụng
khác được diễn ra liên tục trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Việc đó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên trong bảng cân đối tài
sản. Mặt khác nó còn đảm bảo cho ngân hàng có những mối quan hệ tốt với các
ngân hàng khác trong cùng hệ thống, đồng thời tạo ra cơ hội cho các ngân hàng
giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình kinh doanh .

1.2.1.4. Huy động vốn qua phát hành công cụ nợ.
Các NHTM có thể phát hành các loại công cụ nợ ra thị trường để huy động
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn như : các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng có mệnh giá lớn, trái phiếu, kỳ phiếu
Trong đó, việc huy động vốn bằng các công cụ nợ ngắn hạn (gồm có chứng chỉ tiền
gửi, giấy thoả thuận mua lại ) lại có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý tài sản
nợ bên cạnh việc huy động vốn, bởi vì nó có thể được sử dụng mọi lúc khi cần thiết.
Mức lãi suất được trả cho loại công cụ nợ ngắn hạn này thường được quy định
bằng cách thỏa thuận trực tiếp giữa ngân hàng và người gửi tiền hoặc được quy định
ở mức mà người gửi có thể chấp nhận được. Vì thế cú thể nói, những người mua
chứng chỉ tiền gửi này rất nhạy cảm với những biến động của lãi suất trên thị
trường. Vậy nên, để có thể làm chủ được nguồn vốn này đòi hỏi các NHTM phải
đưa ra mức lãi suất cao hơn so với mức lãi suất của các loại chứng chỉ tiền gửi khác
hoặc cũng có thể cao hơn cả mức lãi suất của trái phiếu.
1.2.1.5. Các hình thức huy động vốn khác.
Ngoài các hình thức huy động vốn trên, NHTM cũng có thể sử dụng những
hình thức huy động vốn khác để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư, từ nền kinh
tế thông qua các hoạt động uỷ thác về các dịch vụ xã hội như: dịch vụ câu lạc bộ…
hoặc đứng ra làm dịch vụ đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty, làm trung
gian thanh toán…qua đó ngân hàng có thể sử dụng một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi
đáng kể trong quá trình chi hộ hoặc thu hộ khách hàng.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng vốn tại ngân hàng Thương Mại
Vốn của NHTM khác với nhiều loại hình doanh nghiệp, trong đó vốn chủ
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, vốn nợ là nguồn chủ
yếu của ngân hàng cảu ngân hàng. Vốn này rất đa dạng và gồm nhiều thành phần,
trong số đó có những thành phần không ổn định, đổi lại khả năng giao dịch lại cao
và tỷ lệ lãi suất thấp, một số khác hạn chế khả năng phát hành sec ổn định nhưng lãi
suất cao hơn.

Rị ràng phần lớn các nguồn nợ của ngân hàng liên quan tới chi phí trả lãi. Chi
phí trả lãi là bộ phận chi phí lớn nhất đối với các ngân hàng. Vì vậy, nó có ảnh
hưởng quyết định đối với với thu nhập của ngân hàng. Chi phí trả lãi bị tác động
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
10
Chuyên đề tốt nghiệp
trực tiếp bởi quy mô, cơ cấu các nguồn trả lãi và lãi suất cá biệt.
Vì vậy, hoạt động huy động vốn của một ngân hàng được đánh giá là có hiệu
quả khi:
•Quy mô, cơ cấu nguồn huy động đủ lớn để tài trợ các danh mục tài sản và
không
ngừng tăng trưởng ổn định
•Nguồn vốn có chi phí hợp lý
•Huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặt kỳ hạn
•Quản lý tốt các loại rủi ro lien quan đến hoạt động huy động vốn
1.2.2.1. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn từ bên ngoài
Nguồn vốn từ bên ngoài của ngân hàng bao gồm nhiều bộ phận khác nhau:
nguồn tiền gửi, nguồn tiền vay và các nguồn khác. Mỗi thành phần này có đặc tính
khác nhau về qui mô, cơ cấu, tính ổn định, thời gian tồn tại, chi phí phải trả, khả năng
thanh toán và rủi ro lãi suất. Trong đó:
+ Qui mô là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng. Qui mô
nguồn huy động gia tăng đáp ứng cho hoạt động tài trợ không ngừng tăng trưởng sẽ
tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính
ổn định của nguồn vốn.
+ Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của
ngân hàng. Cơ cấu huy động phải phù hợp với cơ cấu sử dụng. Nếu cơ cấu nguồn
huy động không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng thì sẽ không tối đa
được dư nợ tín dụng và đầu tư, ngược lại cơ cáu huy động nhiều mà sử dụng không
hết thì hoạt động không hiệu quả, ngân hàng vẫn phải chịu lãi suất trên phần huy
động thừa.

Trong điều kiện cụ thể, các nguồn có thể có tốc độ và quy mô thay đổi khác
nhau. Các ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn thì tốc độ tăng trưởng nguồn có thể
không cao như các ngân hàng nhỏ. Những ngân hàng ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu
nguồn khác với các ngân hàng ở xa.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng có thể rất khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
11
Chuyên đề tốt nghiệp
khách hàng, chiến lược kinh doanh và hoạt động Marketing của ngân hàng.
Nhìn chung cơ cấu nguồn vốn của một ngân hàng được xem là hợp lý nếu
các thành phần của nó đáp ứng được kế hoạch sử dụng vốn, đồng thời với chi
phí biến động thấp nhất.
Khi huy động với qui mô, cơ cấu như đã trình bày ở trên, ngân hàng sẽ tạo lập
được nguồn vốn tăng trưởng ổn định kết hợp với chi phí vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả: ngân hàng có thể cơ cấu lại được nguồn vốn, mở
rộng qui mô hoạt động, chủ động trong việc chuyển dịch cơ cấu dư nợ, kết quả kinh
doanh khả quan hơn, từ đó nâng cao sức cạnh tranh, uy tín và chất lượng.
1.2.2.2. Chi phí vốn
Các thành phần cơ bản của chi phí huy động vốn của các ngân hàng thể
hiện ở khoản chi phí trả lãi (trả lãi cho tiền gửi và tiền vay), cùng với khoản chi
phí không dưới dạng lãi suất (chi phí phi lãi) mà ngân hàng phải bỏ ra để huy
động vốn.
Công tác huy động vốn của ngân hàng được đánh giá có chất lượng và hiệu
quả cao về phương diện chi phí khi nó đạt được những lợi ích cơ bản sau đây:
+ Tìm kiếm được nguồn có chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu cho vay
và đầu tư trong khi vẫn thoả mãn các yêu cầu tương xứng giữa huy động và sử
dụng về thời hạn tính ổn định và các phương diện quy mô. Theo nguyên lý
chung, những nguồn có chi phí biên thấp nhất sẽ là nguồn có ưu thế nhất về
phương diện chi phí.
+ Gia tăng được lợi nhuận cho ngân hàng mà không nhất thiết phải chấp nhận

những rủi ro cao do sức ép tăng chi phí vốn. Lợi nhuận của ngân hàng về cơ bản sẽ
bằng tổng thu nhập trừ đi chi phí và thuế, đo đó việc tăng lợi nhuận bằng cách tăng
thu nhập (thông qua việc đầu tư vào tài sản sinh lời cao tương ứng với rủi ro cao) sẽ
mạo hiểm hơn là cách quản lý hiệu quả chi phí vốn.
Những nguồn có thời hạn ngắn thường có chi phí nguồn thấp và tính ổn định
thấp, ngược lại những nguồn có thời hạn càng dài thì chi phí cao hơn nhưng ổn định
hơn. Nên để hoạch định chiến lược kinh doanh cho mỗi giai đoạn, căn cứ vào chi phí
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
phải trả cho mỗi nguồn ngân hàng đưa ra các sách lược huy động vốn phù hợp nhằm
mục tiêu mở rộng kinh doanh tăng dư nợ cho vay, đầu tư đồng thời bảo đảm lãi suất
được định giá bù đắp được chi phí nguồn và đem lại doanh lợi mong muốn mà không
ảnh hưởng đến khả năng thanh toán.
Lãi suất ngân hàng quy định trả cho từng nguồn chỉ phần lớn chi phi phí của
nó, chi phí thực hiện cho vốn và các chi phí khác như phí dịch vụ, kiếm ngân, phí
bảo hiểm tiền gửi tính trên số được sử dụng để đầu tư vào tài sản sinh lời.
Tuỳ theo các tính chất của từng nguồn vốn sẽ có nhiều mức lãi suất danh
nghĩa khác nhau. Để cạnh tranh mở rộng nguồn tiền thì các ngân hàng đều cố
gắng tạo ra các ưu thế của riêng mình trong đó có ưu thế về lãi suất cạnh
tranh. Một ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất danh nghĩa cao hơn các ngân
hàng khác hoặc cũng có thể tạo ra lãi suất cạnh tranh bằng các phương pháp
như trả lãi trước hoặc trả lãi làm nhiều lần trong kỳ. Để đánh giá hiệu quả của
các phương pháp này ngân hàng căn cứ vào NEC (Net effective cost: lãi suất
hiệu quả của mỗi nguồn tiền).
Giả sử không có lạm phát, dự trữ bắt buộc thì:
NEC
NEC
= Lãi thực phải trả khách hàng
Gốc thực ngân hàng sử dụng

Nếu có tính đến dự trữ bắt buộc:
NECDTBB =
Lãi thực phải trả khách hàng
Gốc thực ngân hàng sử dụng
NEC càng nhỏ thì ngân hàng càng có lợi. NEC phụ thuộc vào cách trả gốc và
lãi. Cách trả lãi khác nhau thì NEC khác nhau.
Nếu trả gốc và lãi luôn một lần thì NEC = i (lãi suất danh nghĩa)
Nếu trả lãi trước NEC = i / 1 – i
Nếu trả lãi n lần trong kỳ, NEC = (1 + i/n)
n
–1
Các ngân hàng thường sử dụng phương pháp trên trong điều kiện bị khống chế
về lãi suất tối đa, hoặc để thay đổi tạm thời quy mô của các khoản mục chi phí trả
lãi trong kỳ.
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Để đánh giá được hiệu quả quản lý chi phí trả lãi và hoạch định các mức lãi suất
cạnh tranh (gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay) cho hoạt động huy động vốn, các
ngân hàng thường tình toán lãi suất bình quân. Lãi suất bình quân của một nguồn
(nhóm nguồn) được xác định bằng tỷ lệ bình quân của chi phí trả cho nó so với số dư
bình quân của nguồn (nhóm nguồn) đó trong khoảng thời gian.
Lãi suất này cho chúng ta thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn,
mức độ thay đổi mỗi nguồn, sự kết hợp giữa lãi suất cá biệt và tỷ trọng mỗi
nguồn; nó cũng cho thấy những nguồn đắt tương đối (lãi suất cá biệt > lãi suất
bình quân) và các nguồn rẻ tương đối (lãi suất cá biệt < lãi suất bình quân).
Ngoài trên ra, lãi suất bình quân đóng vai trị quan trọng trong việc xác định
chênh lệch lãi suất (phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng). Điều này rất
có ý nghĩa đối với hoạch định chiến lược nguồn vốn.
Với mỗi nguồn khác nhau, tỷ lệ có thể đầu tư vào các tài sản là khác

nhau do đó tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Để có thể đánh giá được chi phí
cho một nguồn hay nhóm nguồn ngân hàng căn cứ vào Tỷ lệ chi phí nguồn và
Tỷ lệ chi phí hồ vốn bình quân cho nguồn tài trợ từ bên ngoài.
Tỷ lệ chi phí nguồn =
∑(chi phí trả lãi + chi phí phi lãi + Lợi nhuận trước thuế)
∑ Tài sản sinh lời
Tỷ lệ chi phí hồ vốn bình quân cho nguồn
tài trợ từ bên ngoài
=
∑(Chi phí trả lãi + chi phí phi lãi)
∑ Tài sản sinh lời
Nguồn vốn của ngân hàng không chỉ đa dạng về loại hình, đối tượng gửi mà các
thành phần của nó có thời hạn rất khác nhau vì thế phản ứng với sự thay đổi lãi suất cũng
khác nhau. Đó là mức độ nhạy cảm của nguồn huy động với lãi suất.
Nguồn tiền gửi trên tài khoản giao dịch nhìn chung ít nhạy cảm với lãi
suất hơn bởi vì mục đích của khách hàng gửi tiền chủ yếu mua các dịch vụ
của ngân hàng, không phải để hưởng lãi, nên họ đánh đổi thu nhập lấy tính
lỏng trong tài sản của họ.
Trái lại, tiền gửi tiết kiệm của dân cư là nguồn có phản ứng mạnh nhất với mỗi
sự thay đổi của lãi suất. Vì thế, ngân hàng dựa vào phân tích độ nhạy cảm của từng
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
nguồn (nhóm nguồn) với lãi suất cụ thể để ấn định hệ thống lãi suất phù hợp với
từng giai đoạn. Với hệ thống lãi suất này các ngân hàng có thể tăng qui mô huy
động vốn trong cạnh tranh đồng thời điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn theo kế hoạch
kinh doanh của mình.
1.2.2.3. Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn về kỳ hạn
Sau khi được huy động, vốn được phân chia vào tài sản của ngân hàng.
Các danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần được xem xét dưới giác độ cơ

cấu thời hạn để xác định sự phù hợp với nguồn vốn.
Trước tiên là kỳ hạn danh nghĩa của nguồn.
Nguồn huy động thường gắn liền với kỳ hạn nhất định, được ngân hàng tuyên
bố rộng, đó là kỳ hạn danh nghĩa của nguồn. Những kỳ hạn danh nghĩa thường gắn
với một mức lãi suất nhất định, theo xu hướng nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài
thì lãi suất càng cao. Kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của
nguồn vốn, kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân
hàng, kỳ hạn liên quan đến tính ổn định và vì vậy liên quan tới kỳ hạn sử dụng.
Trong khi đó, kỳ hạn liên quan tới chi phí các nguồn có tính ổn định cao thường
phải có chi phí duy trì cao. Vì vậy mà, kỳ hạn là một chỉ tiêu đánh giá nội dung đảm
bảo an toàn và sinh lời cho ngân hàng.
Kỳ hạn thực của nguồn.
Dựa vào kỳ hạn danh nghĩa, ngân hàng sẽ đưa ra kỳ hạn huy động phù hợp với
thị trường. Ngân hàng rất quan tâm tới kỳ hạn thực tế của nguồn tiền bởi kỳ hạn
thực tế liên quan chặt chẽ đến kỳ hạn các khoản cho vay và đầu tư.
Kỳ hạn thực tế của nguồn vốn là thời gian mà khoản vốn đó tồn tại liên tục tại
một đơn vị ngân hàng. Nhưng nhân tố ảnh hưởng tới kỳ hạn danh nghĩa đều tác động
đến kỳ hạn thực tế. Bên cạnh đấy, lãi suất cạnh tranh giữa các ngân hàng, giữa các
nguồn vốn, nhu cầu chi tiêu đột xuất cũng ảnh hưởng tới kỳ hạn này.
Một nguồn vốn nào đó trong ngân hàng được tạo ra bởi sự liên tục tiếp nối của
các nguồn tiền gửi và đi vay. Vì vậy, một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là ngắn hạn,
có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kỳ hạn thực tế là trung
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
và dài hạn. Đo lường và phân tích kỳ hạn thực tế là cơ sở để ngân hàng quản lý
thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn để
cho vay với kỳ hạn dài hơn nữa.
Phải có khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Bình thường các ngân hàng vẫn sử dụng một phần nguồn vốn có thời hạn ngắn

để đầu tư vào các tài sản có thời hạn dài hơn nhưng chỉ ở một tỷ lệ nhất định vì nếu
lớn hơn nữa tức là sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn thì các ngân hàng đến
một thời điểm nào đó phải chịu sức ép về khả năng thanh toán vì dư nợ cho vay là
một tài sản kém lỏng, trong khi cho vay dài hạn là một loại tài sản kém lỏng nhất .
Trái lại, nếu mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn dài hạn để cho vay ngắn
hạn thì sẽ khó đảm bảo chênh lệch lãi suất và không thể hiệu quả được bởi
nguồn vốn dài hạn có chi phí huy động cao hơn trong khi cho vay ngắn hạn
thường thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Mô hình cấu trúc kỳ hạn giúp chúng ta phân tích sự phù hợp giữa nguồn
vốn và sử dụng vốn. Căn cứ vào đó ngân hàng điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn
và danh mục tài sản để vừa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tăng doanh lợi,
đồng thời duy trì khả năng thanh toán (trường hợp thiếu hụt dự trữ), đầu tư
thêm tài sản sinh lời (trường hợp thừa vốn) hoặc chuẩn bị tái đầu tư cho một
tài sản sắp đến hạn .
Danh mục các tài sản và cấu trúc thời hạn của tài sản thông thường được
xây dựng dựa trên cơ sở qui mô, cơ cấu nguồn vốn. Tuy vậy, trong nhiều
trường hợp các ngân hàng phải điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp
với sử dụng vốn cho kế hoạch mở rộng kinh doanh hoặc theo chỉ định của
Chính phủ để đầu tư trong giai đoạn đó.
Những sự phù hợp còn thể hiện giữa lãi suất và từng nhóm tài sản với lãi suất
phải trả cho từng nguồn vốn. Xem xét về nguyên tắc lãi suất trên tài sản phải cao hơn
lãi suất trên nguồn có cùng kỳ hạn và các tài sản có thời hạn dài hơn phải có lãi suất
cao hơn để bù đắp chi phí trả lãi cao hơn của bên nguồn vốn.
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
16
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2.4. Quản lý tốt các loại rủi ro liên quan đến huy động vốn
- Quản lý rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất phụ thuộc vào sự tương quan giữa độ nhạy cảm lãi suất của việc
sử dụng vốn với độ nhạy cảm lãi suất của huy động vốn. Rủi ro này làm thu nhập từ

lãi ròng của ngân hàng giảm xuống (chi phí thu từ lãi < chi trả lãi).
Lãi suất luôn biến động, những nhà quản lý ngân hàng khi đầu cơ trên những
biến động này, cách thức họ làm là sử dụng nguồn ngắn hạn để cho vay hay mua
chứng khoán có thời hạn dài hơn với kỳ vọng lãi suất hạ xuống. Nếu mà đúng như dự
đoán, ngân hàng có thể bán các chứng khoán có giá trị cao hơn hay giữ các khoản cho
vay chứng khoán để hưởng các khoản thu nhập cao hơn thị trường. Tất nhiên là tình
trạng trái ngược khi lãi suất tăng đến chừng mực nào đó thu nhập lãi không đủ bù đắp
chi phí vốn.
Những biến đổi khó đoán trước của lãi suất có thể làm tăng khả năng sinh lợi của
ngân hàng. Phụ thuộc vào từng đặc điểm của nguồn vốn và danh mục tài sản thay đổi
về lãi suất có thể làm tăng hay giảm thu nhập ròng từ lãi. Vì thế, song song với việc
quản lý rủi ro lãi suất các ngân hàng rất quan tâm đến các cơ hội đầu tư nếu lãi suất
biến động theo hướng có lợi.
Để phân tích rủi ro lãi suất có rất nhiều mô hình được áp dụng, trong đó mô hình
được sử dụng phổ biến nhất là phân tích khe hở (GAP analysis). Dựa vào phương
pháp này, ngân hàng quản lý thu nhập ròng từ lói trong ngắn hạn. Xác định rủi ro
bằng cách tính chênh lệch tài sản và nợ nhạy cảm với lãi suất trong khoảng thời
gian nhất định từ đó có thể tính được mức độ biến động của thu nhập ròng từ lãi
suất thay đổi. Những khe hở kỳ hạn (GAP) tương ứng với phần chênh lệch giữa tài
sản nhạy cảm với lãi suất và nợ nhạy cảm với lãi suất.
GAP = Tài sản nhạy cảm với lãi suất - Nợ nhạy cảm với lãi suất
Sử dụng và căn cứ vào những thông tin về GAP để phân tích độ nhạy cảm
với lãi suất, dựa vào phân tích độ nhạy cảm với lãi suất các nhà quản lý có thể
điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn cần huy động sao cho đảm bảo có khe hở tích cực
nhằm tăng thu nhập tiền lãi ròng.
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Duy trì được sự ổn định thu nhập từ lãi có thể thực hiện bằng cách điều chỉnh
qui mô tài sản và nguồn vốn nhạy cảm hoặc sử dụng các công cụ ngoại bảng của

bảng tổng kết tài sản như hợp đồng tương lai, hoán đổi lãi suất và quyền lựa .
- Tính thanh khoản của nguồn vốn và quản lý rủi ro thanh khoản
Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo bằng khả năng tìm kiếm nguồn
vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất có thể. Đối với những ngân hàng
phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang trở thành trọng tâm quản lý
nguồn vốn. Rất nhiều ngân hàng lớn do thực hiện chuyển hoán kỳ hạn nguồn
và duy trì tỷ lệ dự trữ thấp, rất quan tâm tới khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới
để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, đặc biệt là các nguồn trong ngắn hạn. Có
điều như vậy là bởi khả năng rủi ro thanh khoản rất dễ xảy ra, rủi ro thanh
khoản tức là ngân hàng mất khả năng chi trả cho các nguồn huy động từ bên
ngoài. Dễ nhận thấy các nguồn dài hạn như tiền gửi tiết kiệm, có kỳ hạn ổn
định ít bị rủi ro thanh khoản hơn các nguồn ngắn hạn nhất là tiền gửi thanh
toán Để hạn chế, quản lý rủi ro thanh khoản căn cứ vào tính thanh khoản
của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường nợ của mỗi ngân hàng và chính
sách tiền tệ được vận hành. Hơn thế nữa, sự phát triển của các công cụ nợ sẽ
cho phép ngân hàng có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nguồn, đa dạng hoá
nguồn vốn huy động để phân tán rủi ro tín dụng.
Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn bắt đầu từ việc phân tích thị
trường nguồn vốn của mỗi ngân hàng để thấy đặc điểm của mỗi nguồn, cú thể
nhận thấy ngân hàng cần tập trung phân tích nguồn vay mượn từ NHNN và từ
các TCTD khác. Các nguồn này tuy ngắn hạn song có thể có được trong thời
gian ngắn, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong ngắn hạn đặc biệt là khi
rủi ro thanh khoản xảy ra. Ngoài ra, các nguồn mà ngân hàng có ưu thế cũng
cần được xét tới.
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
18
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.3.1 Các yếu tố khách quan
 Yếu tố pháp lý

Tất cả các hoạt động của ngân hàng cũng như bất kỳ ngành nghề kinh doanh
nào đều chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật nhà nước. Hoạt động huy động
vốn cũng không nằm ngoài phạm vi đó, nỉ chịu nhiều sự tác động trực tiếp của các
bộ luật như luật các tổ chức tín dụng, các văn bản về pháp lý ngân hàng, đầu tư, luật
ngân hàng nhà nước, chính sách tài chính tiền tệ, đầu tư, chính sách tỷ giá,…trong
đó quy định về việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của ngân hàng, tỷ lệ huy động
vốn so với vốn tự có, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu… nhằm đảm bảo an toàn, sự bình
đẳng cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ ngân hàng, giảm chi phí, góp phần nâng
cao chất lượng dịch vụ, tăng khả năng tự bảo vệ trước cạnh tranh quốc tế trong quá
trình hội nhập.
 Yếu tố chính trị
Những vấn đề chính trị bất ổn hay ổn định, chính sách ngoại giao mở rộng hay
thắt chặt và các quan hệ hợp tác song phương, đa phương đều ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động của ngân hàng thương mại trong đó có công tác huy động vốn. Nếu
chính trị ổn định, chính sách ngoại giao mở rộng kích thích đầu tư nước ngoài, tăng
cường quan hệ hợp tác với các nước có nền kinh tế phát triển tạo cơ hội thiết lập
quan hệ với các tổ chức tài chính lớn như WB,IMF ADB, ngân hàng đầu tư Bắc Âu,
quỹ OPEC… từ đó đem lại cho ngân hàng nhiều thách thức và thời cơ mới
 Yếu tố kinh tế
Nhưng biến động của nền kinh tế chính là cơ sở đầu tiên để người gửi tiền ra
quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng, ngoại hối, tích trữ vàng hay đầu tư vào tài
sản khác. Khi mà điều kiện kinh tế bất ổn, giá cả và sức mua của tiền tệ biến động
phức tạp, lạm phát xảy ra, người dân có xu hướng mua các ngoại tệ, tích trữ vàng
hoặc các dạng tài sản khác như buôn các tài sản quý giá, bất động sản…nhằm mục
đích an toàn cho tài sản. Ngược lại, nền kinh tế phát triển ổn định với tỷ lệ lạm phát
hợp lý thì người dân sẽ có cái nhìn khả quan hơn và có xu hướng gửi tiền vào ngân
hàng làm cho nguồn vốn trong ngân hàng thương mại được tăng lên cao hơn.
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
19
Chuyên đề tốt nghiệp

 Yếu tố văn hoá - Xã hội
Những yếu tố thói quen, tập quán, tâm lý cũng ảnh hưởng phần nào đến hoạt
động huy động vốn. Vì thế cho nên, các ngân hàng cần quan tâm đến các hoạt động
marketing, quảng cáo, tuyên truyền giúp người dân hiểu đúng và hiểu sâu hơn nữa
về vai trò và chức năng của ngân hàng.
1.3.2.2 Các yếu tố chủ quan
 Uy tín của ngân hàng
Mọi người thường chọn những ngân hàng có uy tín tốt để gửi tiền hay sử dụng
các dịch vụ với mong muốn an toàn và tiện lợi nhất, có nhiều khi họ còn phải chịu
lãi tiền gửi thấp hơn các ngân hàng khác. Những tổ chức tín dụng sẽ chấp nhận cho
vay các ngân hàng có danh tiếng, uy tín tốt, luôn kinh doanh có lãi bởi họ có khả
năng trả được nợ đúng hạn, do đó không làm gián đoạn đến việc sử dụng vốn của tổ
chức mình. Vì thế, các ngân hàng cần chú trọng hơn nữa đến nâng cao uy tín, hoạt
động lâu dài thông qua quy mô hoạt động, công nghệ, trình độ quản lý, tài sản của
ngân hàng…
 Lãi suất huy động vốn.
Lãi suất luôn là mối quan tâm hàng đầu khi một cá nhân hoặc một tổ chức
kinh tế nào đó muốn gửi tiền vào ngân hàng. Bởi tại vì mọi người có tiền muốn
đem gửi Ngân hàng, trước tiên họ so sánh lãi suất huy động nơi nào cao hơn, tiếp
theo mới là vấn đề an toàn tiền gửi cho họ cũng như các dịch vụ tiện ích mà họ
được hưởng. Khi mà khách hàng đánh giá các ngân hàng có cùng một hệ số an toàn
và các dịch vụ tiện ích như nhau thì họ sẽ chọn Ngân hàng nào có lãi suất huy động
cao hơn để gửi. Những điều kiện này hoàn toàn hợp lý bởi trong nền kinh tế, lĩnh
vực có lợi cao bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu tư, và người
tham gia đầu tư luôn muốn làm thế nào để mình thu được lợi nhuận cao nhất.
Hơn thế nữa, lãi suất còn là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến quy mô của
nguồn vốn huy động. Tuy vậy nhưng, không phải lúc nào lãi suất huy động cũng
giống nhau, thông thường lãi suất tiết kiệm có ảnh hưởng nhiều hơn cả. Người dân
thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt giá của đồng
tiền và khả năng sinh lợi của dòng tiền đầu tư vào tiết kiệm so với đầu tư vào cổ

Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
20
Chuyên đề tốt nghiệp
phiếu, bất động sản, trái phiếu từ đó đưa ra quyết định có nên gửi vào ngân hàng
hay không, gửi bao nhiêu và gửi theo hình thức nào thì có lợi hơn. Trái lại, đối với
các tổ chức kinh tế thì lãi suất huy động lại có ảnh hưởng ít hơn vì phần lớn các
doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng đều với mục đớch thanh toán là chính. Vì vậy
nguồn tiền huy động này chịu ảnh hưởng nhiều bởi kỹ thuật, công nghệ của ngân
hàng cũng như khả năng thanh toán và cho vay vì lượng tiền của các doanh nghiệp
và tổ chức kinh tế luôn luân chuyển và biến động theo nhu cầu thanh toán.
Như vậy có thể nói, để thực hiện cơ chế lãi suất huy động hợp lý tức là vừa
thu hút được vốn, vừa đảm bảo sức cạnh tranh thì các NHTM thì phải thường xuyên
theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên thị trường và ngay trên địa bàn
hoạt động để có các quyết định điều chỉnh kịp thời phù hợp với mặt bằng lãi suất
trên thị trường và đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng
cần quan tâm đến lãi suất kho bạc, bởi vì trên thực tế kho bạc thường phát hành tín
phiếu trả lãi cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại.
 Các hình thức huy động vốn.
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với nhiều những mục đích khác nhau, có
người vì mục đích bảo đảm an toàn, có người gửi tiền vào ngân hàng để đồng vốn
ngày càng được sinh sôi nảy nở, có người gửi chủ yếu để lấy lãi tiêu xài hàng
tháng Vì vậy, họ có những hình thức gửi tiền cũng như lĩnh lãi khác nhau có thể là
3, 6, 9 tháng hoặc lâu hơn. Do đó, để có thể huy động được nhiều vốn trong dân
cư, các ngân hàng thương mại phải đưa ra các hình thức huy động đa dạng. Khi có
nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo nhiều cơ hội cho người gửi lựa chọn, đáp ứng
những yêu cầu khắt khe, thoả mãn được mong muốn của họ. Mỗi khách hàng đều
tìm cho mình cách phù hợp nhất với yêu cầu sử dụng, bảo đảm có hiệu quả nhất với
nguồn vốn của mình. Vì vậy điều này đồng nghĩa với số lượng người gửi tăng lên
và số tiền được gửi vào ngân hàng cũng tăng theo tỷ lệ thuận, kéo theo sự giảm
xuống của chi phí huy động vốn.

Tuy thế nhưng, việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn sẽ làm cho công
việc quản lý cũng như chi phí quản lý huy động vốn của ngân hàng sẽ tăng lên, đòi
hỏi NHTM phải tìm cho mình được những mô hình quản lý vốn hợp lý, tiết kiệm
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
21
Chuyên đề tốt nghiệp
chi phí huy động nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc huy động vốn chung là: nguồn vốn
có tính ổn định càng cao thì lãi suất huy động cũng phải cao.
1.2.3.3 Các dịch vụ cung ứng.
Một ngân hàng mà có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn
các ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Trong những điều kiện ngân hàng có các
dịch vụ ngân hàng qua thư tín, hệ thống chi nhánh tự động làm việc 24/24 giờ và
các dịch vụ khác được cải tiến, nguồn thu của ngân hàng đảm bảo sẽ tăng lên cao.
1.2.3.4. Các nhân tố khác.
Hoạt động huy động vốn của NHTM còn chịu nhiều tác động của nhiều nhân
tố khác và một trong số những nhân tố đó là hoạt động Marketing ngân hàng. Hoạt
động Marketing ngõn hàng, sẽ có nhưng tác dụng gây sự chú ý cho khách hàng về
hình ảnh của ngân hàng để khách hàng có sự so sánh và chọn lựa trước khi quyết
định tham gia giao dịch với ngân hàng. Hơn thế nữa, không phải ai cũng thông hiểu
hết mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng như các chính sách ưu đãi, khuyến khích, mà họ
được hưởng, đặc biệt là đối với những khách hàng do trình độ học vấn chưa cao và
với những khách hàng mới lần đầu đến ngân hàng gửi tiền. Với những hoạt động
Marketing ngân hàng, thông qua các bảng niêm yết đầy đủ, công khai các tiện ích
dễ hiểu sẽ tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái dễ chịu và không cảm thấy cực nhọc
khó khăn về thủ tục khi gửi tiền. Hơn thế nữa, nó sẽ giúp cho khác hàng tìm thấy
được một cơ hội hấp dẫn để gửi tiền cho ngân hàng. Tạo nên những điều kiện cho
ngân hàng có thể tiếp xúc và duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng.
Ngoài ra, còn phải kể đến một vài nhân tố thuộc về nội bộ Ngân hàng cũng có
những tác động không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng chẳng hạn
như: chiến lược kinh doanh của ngân hàng, quy mô cơ cấu vốn tự có, cơ sở vật chất

kỹ thuật trang thiết bị của ngân hàng Những yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp sâu
sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức huy động vốn thậm chí là đến cả uy tín của ngân
hàng trên thị trường, nó đảm bảo giữ vững lòng tin của khách hàng đối với ngân
hàng cũng như là giới hạn tối đa của nguồn vốn huy động.
Nguyễn Đắc Trọng Lớp: TCDN 49A
22

×