Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.24 KB, 120 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







PHẠM THỊ BÍCH HUỆ




CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC
CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC








Thái Nguyên - 2012




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






PHẠM THỊ BÍCH HUỆ



CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC
CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH THÁI NGUYÊN


Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60.14.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền





Thái Nguyên - 2012



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn



Phạm Thị Bích Huệ




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban Giám hiệu,
Ban chủ nhiệm khoa Tâm lý - Giáo dục, khoa Sau Đại học Trường Đại học
Sư phạm Thái Nguyên , Ban Giá m hiệ u , tập thể giáo viên và học sinh các
trường THPT Luơng Ngọc Quyến , THPT Đồng Hỷ , THPT Phổ Yên , THPT
Định Hoá, THPT Võ Nhai đã tạo điều kiệ n giúp đỡ em hoàn thành công trình
nghiên cứu của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Bích Huệ





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Trang

Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt vii
Danh mục bảng biểu viii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CHỌN NGHỀ CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 6
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài 6
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam 8
1.2. Các khái niệm công cụ 11
1.2.1. Khái niệm nghề nghiệp 11
1.2.2. Khái niệm ảnh hưởng 12
1.2.3. Lựa chọn nghề 12
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh THPT 14
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản về nhân cách của học sinh lớp 12 THPT . 14
1.3.2. Vai trò của việc chọn nghề đối với học sinh lớp 12 16
1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh lớp 12
THPT 17
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN
VIỆC CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH THÁI NGUYÊN 35
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể điều tra 35
2.2. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh
THPT Tỉnh Thái Nguyên 38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iv
2.2.1. Ảnh hưởng của các nhân tố khách quan đến việc chọn nghề của
học sinh 38
2.2.2 Ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan đến việc chọn nghề của học
sinh THPT Tỉnh Thái Nguyên 47
Chƣơng 3 CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƢỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 72
3.1. Cơ sở pháp lý đề xuất biện pháp 72
3.2. Nguyên tắc để xây dựng biện pháp 74
3.2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích của giáo dục hướng nghiệp 74
3.2.2. Nguyên tắc phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm lý và nhân
cách của HS THPT 74
3.2.3 Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ trong hoạt động
hướng nghiệp 75
3.2.4. Nguyên tắc đảm bảo sự phân hoá và cá biệt hoá trong hoạt động
hướng nghiệp 75
3.2.5. Giáo dục hướng nghiệp phải dựa trên cơ sở tiếp cận hoạt động và
nhân cách 76
3.2.6. Nguyên tắc phải đảm bảo phù hợp với thực tiễn 77
3.3. Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
THPT 77
3.3.1. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho GV, HS, gia đình HS về
nghề và sự lựa chọn nghề, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên
chuyên trách về GDHN 77
3.3.2. Đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức sinh hoạt HN 82
3.3.3. Tăng cường đầu tư trang thiết bị, sách, tài liệu và các cơ sở vật
chất, đảm bảo thực hiện nghiêm túc chương trình GDHN theo quy định
của Bộ Giáo dục đào tạo. 84
3.3.4. Kết hợp chặt chẽ với các lực lượng tham gia GDHN trong và
ngoài nhà trường. 85


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
3.4. Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp 89
3.4.1 Mục đích khảo nghiệm 89
3.4.2 Đối tượng khảo nghiệm 89
3.4.3. Quá trình tiến hành khảo nghiệm 89
3.4.4 Kết quả khảo nghiệm 89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 94


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DN : Dạy nghề
GV : Giáo viên
THCN : Trung học chuyên nghiệp
TVHN : Tư vấn hướng nghiệp
GDHN : Giáo dục hướng nghiệp
GĐ : Gia đình
HS : Học sinh
TTTVHN : Trung tâm tư vấn hướng nghiệp
THCS : Trung học cơ sở
TB : Trung bình
THPT : Trung học phổ thông
GD-ĐT : Giáo dục – Đào tạo

LNQ : Lương Ngọc Quyến
CNH- HĐH : Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
STT : Số thứ tự
SL : Số lượng
HN : Hướng nghiệp
GD : Giáo dục
NN : Nghề nghiệp







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Ảnh hưởng từ phía gia đình đến việc chọn nghề của học sinh
THPT Tỉnh Thái Nguyên 38
Bảng 2.2. Sự giúp đỡ của gia đình học sinh trong việc chọn nghề của con
em họ 40
Bảng 2.3: Các hình thức hướng nghiệp của nhà trường THPT 42
Bảng 2.4: Đánh giá của HS về các nguồn thông tin giúp hiểu biết về nghề 45
Bảng 2.5: Nhận thức của học sinh về khái niệm nghề 48
Bảng 2.6: Nhận thức về hệ thống nghề nghiệp trong xã hội của học sinh
THPT Tỉnh Thái Nguyên (tính theo tỷ lệ % trên tổng số 500 học
sinh). 49
Bảng 2.7: Nhận thức về đặc điểm đào tạo của nghề định chọn của học sinh

THPT Tỉnh Thái Nguyên (tính theo tỷ lệ % trên tổng số 500 học
sinh). 51
Bảng 2.8: Những khó khăn học sinh THPT Tỉnh Thái Nguyên gặp phải khi
lựa chọn nghề 53
Bảng 2.9: Những khó khăn GV gặp phải trong công tác GDHN cho học
sinh THPT 55
Bảng 2.10: Nguyện vọng được trang bị những kiến thức về nghề của học
sinh THPT 56
Bảng 2.11: Mức độ ưu tiên lựa chọn các ngành nghề của học sinh THPT 58
Bảng 2.12: Những nghề (hay nhóm nghề) được học sinh lớp 12 ưu tiên lựa
chọn theo sự đánh giá của GV 61
Bảng 2.13: Nhận thức về yêu cầu của nghề mình định chọn của học sinh
THPT Tỉnh Thái Nguyên (tính theo tỷ lệ % trên tổng số 500 học
sinh). 63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

viii
Bảng 2.14: Nhận thức về đặc điểm cá nhân so với nghề mình định chọn của
học sinh THPT Tỉnh Thái Nguyên (tính theo tỷ lệ % trên tổng số
500 học sinh). 63
Bảng 2.15: Lý do chọn nghề của học sinh THPT Tỉnh Thái Nguyên 65
Bảng 2.16: Những nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh
THPT theo ý kiến của GV. 69
Bảng 3.1: Đánh giá của giáo viên về tính cấp thiết của các biện pháp giáo
dục hướng nghiệp 90
Bảng 3.2: Đánh giá của giáo viên về sự phù hợp của các biện pháp giáo
dục hướng nghiệp. 91
Bảng 3.3: Đánh giá của giáo viên về tính khả thi của các biện pháp GDHN 92






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bước vào bậc cuối cấp của nhà trường phổ thông, tuổi trẻ học đường
thường có những hoài bão lớn lao gắn liền với cuộc sống tương lai của họ.
Không ít các câu hỏi được đặt ra như: “tôi thích nghề gì?”, “tôi làm được
nghề gì?”, “tôi cần làm nghề gì?” luôn xuất hiện trong suy nghĩ của học sinh
THPT nhằm tìm hiểu một vị trí thích hợp cho bản thân mình.
Đối với một số học sinh, việc tìm ra câu trả lời cho những vấn đề trên
là không khó lắm. Xong, ở phần đông số học sinh còn lại, những câu hỏi trên
đặt ra cho các em nhiều trăn trở buộc các em phải đắn đo, suy nghĩ kỹ càng,
bởi có biết bao nghề đáng yêu, đáng gửi gắm “số phận” của mình, có biết bao
con đường để đạt tới mục đích của mình, mà các em thì còn thiếu hiểu biết về
cuộc sống nghề nghiệp trong xã hội, nhất là những yêu cầu về nghề định
chọn. Thậm chí đối với những nghề đang hấp dẫn trong xã hội, sự hiểu biết
của các em cũng chỉ có tính chất kinh nghiệm. Vì thế, các em thường hướng
vào những giá trị mang tính chất chủ quan cảm tính, các em thường cho rằng
nghề mình chọn là một nghề lý tưởng với hình mẫu đẹp dẫn tới ước mơ xa rời
thực tế, làm cho các em không thấy rõ được đặc trưng lao động của nghề
nghiệp. Do đó các em thường kỳ vọng quá cao để rồi khi tiếp xúc với nghề
nghiệp trong thực tế làm các em thất vọng, bi quan, chán nản.
Chọn nghề là một vấn đề quan trọng và cần thiết đối với mọi cá nhân,
bởi, nó quyết định hướng đi của cuộc đời sau này. Nếu lựa chọn được nghề

mình ưa thích, phù hợp với năng lực thì nó sẽ tạo ra một động lực lớn thúc
đẩy cá nhân say mê tham gia vào hoạt động xã hội một cách tích cực, cá nhân
sẽ có điều kiện phát huy được khả năng sáng tạo của mình. Ngược lại, nếu lựa
chọn không đúng sẽ nảy sinh ở họ tư tưởng buồn bã, chán nản hay nói khác đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
là xuất hiện tư tưởng tiêu cực, từ đó sẽ hạn chế mọi việc làm của cá nhân
trong công tác xã hội. Trong bài luận những suy nghĩ của một thanh niên khi
chọn nghề Các Mác đã từng viết: “cân nhắc cẩn thận vấn đề này, đó là trách
nhiệm của mỗi thanh niên khi bước vào đời nếu không muốn biến việc quan
trọng nhất của đời mình thành việc ngẫu nhiên”. Trong quá trình chọn nghề
của học sinh chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố chủ quan
và khách quan. Vì thế, việc tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn
nghề nghiệp của học sinh phổ thông trung học là vấn đề quan trọng và có ý
nghĩa thiết thực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp cho các
em, nhất là hiện nay trong xã hội vấn đề chọn nghề, cơ cấu ngành nghề còn
nhiều bất cập, mất cân đối.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Các nhân tố
ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Thái
Nguyên” làm đề tài nghiên cứu với hy vọng đóng góp một phần rất nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường
phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng về các nhân tố ảnh hưởng đến việc
chọn nghề của học sinh THPT, phát hiện các nhân tố cơ bản tác động đến việc
chọn nghề của học sinh làm cơ sở để xây dựng các biện pháp tổ chức hoạt
động giáo dục hướng nghiệp phù hợp cho học sinh, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông.

3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1 . Khách thể nghiên cứu
Vấn đề chọn nghề của học sinh trung học phổ thông.
3.2 . Đối tượng nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh THPT Tỉnh
Thái Nguyên.
3.3 Khách thể điều tra
Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài chúng tôi tiến hành điều tra ở 500 học
sinh và 100 giáo viên trường Trung học phổ thông tỉnh Thái Nguyên. Cụ thể:
100 học sinh lớp 12 (55 nam và 45 nữ) và 20 giáo viên trường THPT
Định Hoá- Thái Nguyên.
100 học sinh lớp 12 (50 nam và 50 nữ) và 20 giáo viên trường THPT
Võ Nhai- Thái Nguyên.
100 học sinh lớp 12 (45 nam và 55 nữ) và 20 giáo viên trường THPT
Phổ Yên - Thái Nguyên.
100 học sinh lớp 12 (40 nam và 60 nữ)và 20 giáo viên trường THPT
Đồng Hỷ- Thái Nguyên.
100 học sinh lớp 12 (55 nam và 45 nữ) và 20 giáo viên trường THPT
Lương Ngọc Quyến- Thái Nguyên.
4. Giả thuyết khoa học
Việc chọn nghề của học sinh THPT chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân
tố chủ quan và khách quan. Nếu chỉ ra được các nhân tố này ảnh hưởng như
thế nào đến việc chọn nghề của học sinh, từ đó xây dựng các biện pháp giáo
dục hướng nghiệp một cách khoa học, hợp lý thì sẽ giúp các em chọn được
một nghề phù hợp với bản thân và nhu cầu của xã hội, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc chọn nghề của học sinh THPT.
5.2 Khảo sát thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học
sinh THPT tỉnh Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
5.3 Đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1 . Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp lý thuyết, phân loại, hệ
thống hoá lý thuyết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu lý thuyết. Từ đó rút ra
các kết luận khoa học làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng và đề
xuất các biện pháp của đề tài.
6.2 . Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
 Phương pháp điều tra
Dùng phiếu điều tra (anket) khảo sát thực trạng nhận thức nghề và việc
chọn nghề của học sinh lớp 12 trường THPT Tỉnh Thái Nguyên.
 Phương pháp quan sát
Quan sát học sinh trong quá trình học tập, học nghề để từ đó thấy được
hứng thú của học sinh trong việc chọn nghề.
 Phương pháp nghiên cứu tiểu sử
Nghiên cứu hồ sơ, tiểu sử của học sinh để biết được ảnh hưởng của gia
đình đến việc chọn nghề của học sinh như thế nào.
 Phương pháp trao đổi, trò chuyện
Sử dụng phương pháp này nhằm hỗ trợ cho phương pháp điều tra. Qua
trao đổi, trò chuyện với giáo viên và học sinh để tìm hiểu thêm những vấn đề
liên quan đến vấn đề chọn nghề của học sinh như: tâm tư, tình cảm, quan

điểm, hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, gia đình học sinh…Từ đó chính xác hoá
nhhững vấn đề đã nghiên cứu.
 Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Gặp gỡ trực tiếp các cán bộ quản lý giáo dục và những giáo viên có
kinh nghiệm trong công tác giáo dục hướng nghiệp để điều tra, trao đổi, xin ý
kiến về những vấn đề có liên quan đến đề tài, đặc biệt là về thực trạng, đánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
giá thực trạng, xây dựng, đề xuất các biện pháp và khảo nghiệm các biện pháp
của đề tài.
6.3. Các phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê
Sử dụng các phương pháp này để xử lý số liệu, là cơ sở để đánh giá
thực trạng và xây dựng các biện pháp của đề tài.
7. Phạm vi giới hạn của đề tài
Việc chọn nghề của học sinh THPT là một vấn đề khó khăn, phức tạp
và có nhiều nhân tố ảnh hưởng. Căn cứ vào khả năng và điều kiện thực hiện
đề tài chúng tôi chỉ đề cập đến ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách
quan đến việc chọn nghề của học sinh lớp 12 của 5 trường THPT (Định Hoá,
Võ Nhai, Phổ Yên, Đồng Hỷ, Lương Ngọc Quyến) Tỉnh Thái Nguyên.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về việc chọn nghề của học sinh THPT.
- Chương 2: Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề
của học sinh lớp 12 THPT Tỉnh Thái Nguyên.
- Chương 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT.

Phần Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Vấn đề chọn nghề từ trước đến nay đã được nhiều tác giả đề cập đến
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất hiện năm 1948 ở Pháp được
xem là cuốn sách đầu tiên nói về hướng nghiệp. Nội dung cuốn sách đã đề cập
đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển
của công nghiệp từ đó đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là
một vấn đề quan trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và
cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển [9].
Ở Liên Xô vấn đề hứng thú nghề nghiệp đã được nhiều tác giả như:
V.Ph.gri-bar-ep, L.M.Gu-ben, V.RGiucopxkaia, M.Vginvanôp, V.N Sup-kin
nghiên cứu và nêu lên những nhận xét sau đây:
- Hứng thú nghề nghiệp nảy sinh và phát triển ngay từ khi còn học phổ thông.
- Học sinh thích nghề kỹ sư hơn nghề nhân viên.

- Hứng thú nghề nghiệp chịu ảnh hưởng của đặc điểm lứa tuổi và đặc
điểm gia đình.
- Học sinh nam chú ý đến các ngành kỹ thuật hơn là học sinh nữ. Học
sinh nữ chú ý đến y tế, kỹ thuật và giáo dục. Nhìn chung, học sinh thích
những nghề thuộc về công nghiệp, còn những nghề thuộc về nông nghiệp
không được các em ưa thích, V.Vtêbưsêva [28, tr52] nhận xét: Học sinh chọn
nghề nhưng chưa hiểu đầy đủ ý nghĩa của việc lựa chọn đó, khi không có các
kiến thức cần thiết về ngành nghề đã chọn và ngoài sự hiểu biết đó dù là tối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
thiểu về nghề đã chọn, còn cần phải đối chiếu những đặc điểm cá nhân mình
với những yêu cầu mà nghề đó đề ra và đó là điều mà học sinh thường không
tính đến.
Theo A.V Pêtrôpxki [22] thì nguyên nhân hấp dẫn cho học sinh lựa
chọn một nghề nghiệp nào đó là do tính chất sáng tạo của lao động, ý nghĩa
xã hội của nghề nghiệp và quy mô tiền lương là những yếu tố quan trọng thúc
đẩy học sinh chọn nghề. Và ông đã nhận như sau: học sinh phổ thông trung học
quan tâm nhiều nhất giá trị xã hội của nghề sau đó mới đến giá trị vật chất.
Còn V.A Cruchetxki [2] cho rằng nghề được chọn phù hợp với nguyện
vọng cá nhân khi khuynh hướng cá nhân đối với một dạng lao động nhất định,
các dạng năng lực đối với dạng lao động ấy, sự đánh giá các ý nghĩa xã hội
của nó được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau mang lại sự thoả mãn về mặt đạo
đức cho con người và lợi ích tối đa cho xã hội. Theo V.A Cruchetxki, thì sự
kết hợp giữa nguyện vọng, khả năng của cá nhân với ý nghĩa xã hội của nghề
trong sự lựa chọn nghề đó là những yếu tố giúp cho quá trình lựa chọn nghề
đạt hiệu quả tốt.
M.SnayMatk [18,tr 42] cũng cho rằng: “Thanh niên hãy còn biết rất ít
cả những thuộc tính thực tế của những nghề hấp dẫn họ và cả những yêu cầu

mà các nghề đó đề ra cho người lao động lẫn những khả năng tiềm tàng của
bản thân mình”.
Năm 1980 James Mckeen Cattell- một trong những người tiên phong
của khoa học hướng nghiệp, giáo sư tâml ý học của Đại học Pensylvania (Mĩ)
đã mở màn bằng việc xây dựng các Test đầu tiên để đo lường và đánh giá các
thành công học đường của sinh viên. Năm 1909 Frank Parsons giáo sư Đại
học Pensylvania đã xuất bản cuốn “Lựa chọn một nghề nghiệp” (choosing
vacation). Cuốn sách đã trình bày cơ sở tâm lý học của hướng nghiệp và chọn
nghề, các tiêu chí về sự phù hợp nghề của mỗi cá nhân để từ đó có sự lựa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
chọn phù hợp. Vào những năm 1940, nhà tâm lý học Mỹ T.L Holland đã
nghiên cứu và thừa nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề
nghiệp tác giả đã chỉ ra tương ứng với mỗi kiểu nhân cách nghề nghiệp đó là
một số những nghề nghiệp mà cá nhân có thể chọn để có được kết quả làm
việc cao nhất. Lý thuyết này của J.L Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất
trong thực tiễn hướng nghiệp trên thế giới [36].
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
chọn nghề.
Công trình nghiên cứu của tập thể các tác giả Viện khoa học giáo dục
[19] nghiên cứu về xu hướng chọn nghề, dự định chọn nghề của học sinh
trung học phổ thông. Kết quả cho thấy: đa số học sinh có xu hướng đạt trình
độ cao (Đại học) trước khi đi vào lao động phục vụ (78,64% nữ; 63,38%
nam). Xu hướng chọn nghề của các em nam nữ khác nhau là do đặc điểm tâm
lý lứa tuổi và giới tính. Xu thế của các em nam hướng vào ngành công
nghiệp, cơ khí, nữ hướng vào ngành y tế, giáo dục. Từ đó các tác giả đi tìm
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự hình thành xu hướng nghề nghiệp của học

sinh THPT và tìm ra các yếu tố tác động mạnh nhất tới việc chọn nghề của
học sinh.
Trong kỷ yếu Hội nghị Tâm lý học lần thứ V và lần thứ VI [14] tác giả
Phạm Ngọc Anh và Đỗ Thị Hoà khi nghiên cứu nguyện vọng học nghề của
học sinh phổ thông và các yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng đó đã đưa ra
nhận xét như sau: đa số học sinh THPT có nguyện vọng đi làm ngày càng ít
(0,8%). Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh, việc định
hướng nghề nghiệp của các em hoàn toàn mang tính chủ quan, cảm tính.
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh
niên Tiệp Khắc (1979) đã nêu ra nhận xét: Động cơ chọn nghề của thanh niên
học sinh được thúc đẩy bởi động cơ bên trong. Các em nam coi khả năng thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
hiện được công việc là khả năng đầu tiên, thứ hai là tính chất quan trọng của
nghề, thứ ba là nghề có liên quan đến hứng thú của hoạt động. Còn các em nữ
thanh niên quan niệm: Thứ nhất là do nhu cầu của Nhà nước, thứ hai vị trí xã
hội, thứ ba là khả năng của bản thân. Theo tác giả thì sự lựa chọn ngành nghề
của nam và nữ có sự khác nhau cũng như thanh niên Việt Nam khác với thanh
niên Tiệp Khắc.
Tác giả đưa ra một số động cơ tiêu biểu có liên quan đến sự lựa chọn
nghề của học sinh và đánh giá những động cơ nào quan trọng đối với họ,
nhưng chưa quan tâm đến vấn đề các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề.
Tác giả Phạm Ngọc Uyển [33] cho rằng: Nếu nhận thức hoạt động học
tập, lao động kỹ thuật, hướng nghiệp là một hoạt động chủ đạo đối với lứa
tuổi sắp tốt nghiệp phổ thông thì hoạt động đó có khả năng hình thành ở các
em những cấu tạo tâm lý mới, sự sẵn sàng đi vào lao động có tác dụng định
hướng, kích thích chủ thể đi vào một hình thức lao động xác định.
Đặc điểm về xu hướng nghề nghiệp của học sinh thành phố đã được

nghiên cứu trong công trình của tác giả Nguyễn Quang Uẩn và những cộng sự
[25]. Bằng cách tiếp cận nghiên cứu xu hướng nghề theo các chỉ số: mức độ
nhận thức nghề nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp, tính ổn định của thái độ,
tác giả đã chỉ ra đặc điểm chung xu hướng nghề nghiệp của học sinh trung
học và một số vấn đề khác. Tác giả còn cho biết: Nhận thức về nghề của học
sinh còn yếu, số nghề và các trường chuyên nghiệp được học sinh biết đến
chưa nhiều. Hứng thú nghề nghiệp của học sinh hình thành muộn chưa tập
trung và chưa rõ nét.
Trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây của tác giả Phạm Tất
Dong [4,5,6,7] đã xem xét sâu sắc và có hệ thống về hứng thú nghề nghiệp,
cũng như những vấn đề cơ bản về nội dung, phương pháp hướng nghiệp cho
học sinh. Ông có nhận xét: Hứng thú môn học, hứng thú nghề nghiệp có tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
dụng thúc đẩy việc lựa chọn nghề và thực hiện được khả năng của mình là động
cơ mạnh nhất, quan trọng nhất trong công việc lựa chọn nghề của học sinh.
Tác giả Phan Tố Oanh (luận án phó tiến sĩ Tâm lý học) năm 1996 với
đề tài: “Nghiên cứu nhận thức nghề, dự định nghề của học sinh trung học phổ
thông”, đã nhận xét: học sinh đã có nhận thức về nghề nhưng ở mức độ chưa
sâu, chưa đây đủ, chưa cao, mới dừng lại ở sự hiểu biết bên ngoài, chưa đi sâu
tìm hiểu những đặc trưng bên trong của nghề. Ngoài ra, tác giả còn quan tâm
nghiên cứu dự định chọn nghề và những yếu tố chi phối việc chọn nghề.
Tác giả Lê Khắc Thìn năm 1996 đã nghiên cứu: “Tìm hiểu thực trạng
lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường THPT
trên nghiên cứu các địa bàn: Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Tây Ninh”. Tác giả đã
nhận xét: Nhận thức về nghề của học sinh mới chỉ dừng lại ở biểu hiện bề
ngoài của nghề, chưa đi sâu tìm hiểu những đặc trưng của nghề, sự hiểu biết của
các em mang tính chất cảm tính, vì các em chưa có thông tin chính xác về nghề.

Tác giả Nguyễn Văn Hộ cũng là một trong những người rất tâm đắc và
nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục hướng nghiệp. Trong luận án tiến sĩ của
mình, tác giả đã đề cập đến vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ thống hướng
nghiệp cho học sinh Việt Nam”. Tác giả đã xây dựng được luận chứng cho hệ
thống giáo dục hướng nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Trong tác phẩm: “Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy
kỹ thuật trong trường THPT”. Tác giả đã trình bày một cách hệ thống về cơ
sở lý luận của giáo dục hướng nghiệp, vấn đề tổ chức giáo dục hướng nghiệp
trong trường THPT và giảng dạy kỹ thuật ở nhà trường THPT trong điều kiện
kinh tế thị trường và sự nghiệp CNH-HĐH đất nước hiện nay [10].
Như vậy có thể nói ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh
vực nghề nghiệp, xu hướng nghề nghiệp, hứng thú nghề nghiệp, nhận thức
nghề, lựa chọn nghề… song chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về các nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh THPT. Chính vì vậy chúng tôi
lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “Các nhân tố ảnh hƣởng đến việc chọn nghề
của học sinh THPT Tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu của mình,
với hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé, làm cơ sở trong việc giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh THPT.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm nghề nghiệp
Trong Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Nghề là công việc chuyên
làm theo sự phân công xã hội”; còn “Nghề nghiệp là nghề nói chung” [34].
Nghề nghiệp theo chữ La tinh có nghĩa là công việc chuyên môn được
hình thành một cách chính thống, là dạng lao động đòi hỏi một trình độ học
vấn nào đó, là hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Theo tác giả E.A Klimop: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức

mạnh vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho
xã hội, nó tạo cho mỗi người khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy
những phương tiện cho việc tồn tại và phát triển” [13].
Theo Tác giả Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp như là một dạng lao động
vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu
bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thoả
mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân” [11].
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong đó một hệ thống giá trị:
Tri thức nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, hiệu quả do nghề
mang lại. Những giá trị này có thể được hình thành theo con đường tự phát
(tức là do tích lũy kinh nghiệm trong quá trình sống với cộng đồng mà có)
hoặc theo con đường tự giác (tức là do được đào tạo trong các cơ sở trường,
lớp dài hạn hoặc ngắn hạn).
Hiểu một cách ngắn gọn nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở
con người một quá trình đào tạo chuyên biệt, có những kiến thức, kỹ năng, kỹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
xảo chuyên môn nhất định, có phẩm chất, đạo đức phù hợp với yêu cầu của
dạng lao động tương ứng. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp con người có
thể tạo ra sản phẩm thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần của cá nhân,
cộng đồng và xã hội.
Nghề nghiệp trong xã hội là kết quả của sự phân công lao động. Sự
phân công lao động càng tinh vi, càng phức tạp thì số nghề trên thế giới càng
tăng lên. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là sự
xuất hiện của một nghề khác và sự biến mất của một số nghề. Sự biến đổi này
đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, thái độ và hành động của con người đối
với nghề nghiệp.
1.2.2. Khái niệm ảnh hƣởng

Ảnh hưởng là sự tác động của một sự vật, hiện tượng hay của con
người đến sự vật, hiện tượng khác và đưa đến một kết quả nào đó. Có thể hiểu
ảnh hưởng vừa là sự tác động, vừa là kết quả của sự tác động. Một sự vật hiện
tượng được xem là chịu ảnh hưởng của sự vật, hiện tượng khác khi mà nó
chứa đựng những dấu hiệu, dấu vết, hình ảnh của sự vật hiện tượng tác động
vào nó. Chính vì vậy, ảnh hưởng không chỉ là quá trình tác động mà còn là
kết quả của quá trình tác động đó. Ảnh hưởng có thể mang tính tự phát hay tự
giác tùy thuộc hoàn cảnh cụ thể. Ảnh hưởng tự phát thường mang tính tự
nhiên, không được bố trí, sắp đặt, thậm chí đối tượng chịu ảnh hưởng có thể
không nhận thức được. Nếu mang tính tự giác, quá trình ảnh hưởng đó được gọi
là giáo dục. Ảnh hưởng đó có thể là ảnh hưởng qua lại một chiều hay hai chiều.
1.2.3. Lựa chọn nghề
Việc chọn nghề của học sinh là một quá trình lâu dài và phức tạp. Nó
được biểu hiện ở các mức độ khác nhau ngay trong những năm đầu của
trường THCS, được tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần ở những lớp sau nhất
là ở cuối cấp THPT, trong các trường, lớp dạy nghề và được tạm coi là kết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
thúc khi họ đã có những khả năng lao động nghề nghiệp độc lập. Với tư cách
là một quá trình hoạt động, lựa chọn nghề nghiệp bao gồm những tính chất cơ
bản sau:
 Tính chủ thể của quá trình lựa chọn
Quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh diễn ra với sự chi phối của
những mối quan hệ xã hội phức tạp (giữa học sinh với gia đình; học sinh với
tập thể lớp, trường, đoàn đội; học sinh với cộng đồng…). Những mối quan hệ
này tác động tới nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở thích nghề nghiệp
của học sinh. Tuy nhiên, để đi tới một quyết định lựa chọn nghề thì hầu hết đó
là quyết định do chính chủ thể đưa ra và khẳng định. Tỷ lệ ảnh hưởng của

những tác động khách quan tới sự lựa chọn trên mỗi cá nhân là nhiều ít khác
nhau, song quyết định cuối cùng của quá trình lựa chọn nghề bao giờ cũng
thuộc về một con người cụ thể.
 Tính mục đích của quá trình lựa chọn nghề
Lựa chọn nghề là một hoạt động có đối tượng. Đối tượng ở đây chính
là những nghề mà học sinh sẽ chọn. Nghề được chọn trở thành mục đích hoạt
động của học sinh. Để đạt tới mục đích, học sinh cần phải hiểu rõ đối tượng
(nghề). Sự hiểu biết này càng cặn kẽ sâu sắc, đầy đủ bao nhiêu thì khả năng
chiếm lĩnh nghề nghiệp càng nhanh chóng trở thành hiện thực bấy nhiêu. Một
khi đã hiểu rõ nghề nghiệp, học sinh sẽ dần thiết lập được kế hoạch cụ thể, có
những biện pháp, phương pháp thích hợp trong học tập, rèn luyện để chiếm
lĩnh được nghề lựa chọn ở những mức độ khác nhau. Việc xác định mục đích
cho sự lựa chọn nghề của học sinh là rất đa dạng và phức tạp. Muốn xác định
được nghề sẽ chọn phù hợp với mình, ngoài việc hiểu biết về nghề đó, học
sinh phải tự hiểu mình. Chỉ có trên cơ sở này, bản thân học sinh mới đáp ứng
với những yêu cầu của nghề nghiệp.
 Tính cấu trúc của quá trình lựa chọn nghề
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giai đoạn lựa chọn nghề được coi
là một bộ phận, một mắt xích trong cấu trúc đời sống của con người khi xác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
định cho mình một hướng đi, một vị trí hoạt động trong đời sống xã hội chính
là lúc con người ta lựa chọn nghề. Quá trình lựa chọn nghề không phải là
chốc lát, không phải diễn ra chỉ một lần mà nó nảy sinh trong các mối quan hệ
phức tạp: “Tôi và nghề nghiệp”, “Tôi và chức vụ”, “Tôi và gia đình”, “Tôi và
lương bổng”… Điều đó có nghĩa là lựa chọn nghề được đặt trong một hệ
thống các mối quan hệ giữa chủ thể (người lựa chọn) và những điều kiện
khách quan có mối quan hệ trực tiếp đối với nghề nghiệp.

Như vậy, việc xem xét và lựa chọn nghề của học sinh nếu tách khỏi các
dạng lựa chọn (các mối quan hệ) trong đặc trưng của cuộc sống con người thì
sẽ dẫn tới sự hạn chế kết quả thực tế của các biện pháp hướng nghiệp, giới hạn
khả năng điều khiển quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực cho đất nước [11].
1.3. Những nhân tố ảnh hƣởng đến việc chọn nghề của học sinh THPT
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản về nhân cách của học sinh lớp 12 THPT
Học sinh lớp 12 bao gồm những em ở độ tuổi 17, 18. Đây là lứa tuổi
chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, được đặc trưng với ngưỡng của cuộc
đời, của sự trưởng thành về thể chất, xúc cảm và phát triển xã hội, lứa tuổi
chứa đầy nguyện vọng, ước mơ hoài bão về tương lai. Ở lứa tuổi này các em
có một số đặc điểm phát triển sau:
 Đặc điểm phát triển về thể chất
Có thể nói sự phát triển về thể chất của thanh niên mới lớn là sự hoàn
thiện về mặt thể chất. Phát triển để hoàn thiện về các mặt: chiều cao, trọng
lượng thân thể, hệ xương, hệ cơ, làm cân đối giữa các bộ phận trong cơ thể.
Đặc biệt, hoàn thiện về cấu tạo của bộ não cùng với hệ thống hoạt động sinh
lý thần kinh của nó, hoàn thiện các chức năng tâm lý khác.
 Đặc điểm phát triển về tâm lý
- Đặc điểm về tự ý thức
Tự ý thức của con người phát triển từ rất sớm song đến lứa tuổi thanh
niên sự phát triển đó mới được bộc lộ rõ rệt và mang nhiều nét đặc trưng.
Trước hết nó liên quan tới nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những thuộc tính tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
lý - đạo đức của họ theo quan điểm, mục đích sống và những hoài bão cụ thể.
Điều này khiến cho các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý riêng, tới những
phẩm chất nhân cách, những năng lực bản thân vì thế ở các em đã xuất hiện nhu
cầu xem xét hành vi, phân tích tình cảm và những cảm nghiệm của mình.

- Đặc điểm về hoạt động nhận thức
Do tính chất và nội dung học tập cũng như trình độ nhận thức của học
sinh lớp 12 có nhiều khác biệt so với lứa tuổi thiếu niên nên hoạt động nhận
thức của các em cũng có nhiều nét đặc trưng và điều đó quyết định tính chất
lựa chọn nghề trong tương lai của các em. Trong hoạt động nhận thức của học
sinh lớp 12 tính tích cực, tính độc lập, tính phê phán cao hơn nhiều so với học
sinh thiếu niên. V.A.Cruchetxki đã nói rằng: “Học sinh càng trưởng thành,
kinh nghiệm của các em cũng ngày một phong phú. Các em ý thức được rằng,
mình đang đứng trước ngưỡng của của cuộc đời độc lập. Thái độ tự giác của
các em đối với học tập cũng tăng lên” [2].
Dấu hiệu của thái độ tự giác này là các em không còn tiếp thu thụ động
sự tác động từ thế giới bên ngoài mà trong sự nhận thức của họ đã có sự tham
gia của những kinh nghiệm, quan điểm riêng, có sự lựa chọn và phê phán rõ
ràng. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển hơn nữa tính chủ định của các quá trình
nhận thức và của kỹ năng điều khiển chúng. Các em đã hoàn toàn làm chủ được
các quá trình nhận thức của mình (tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy).
Hoạt động tư duy của lứa tuổi này có đặc điểm là: sự khái quát hóa và
trừu tượng hóa xu hướng giải thích nguyên nhân các hiện tượng, kỹ năng lý
giải, chứng minh tính chân thực và giả dối của nguyên lý riêng biệt, rút ra các
kết luận sâu sắc, liên kết những điều đã học thành một hệ thống…đạt tới trình
độ cao hơn. Đặc biệt tính phê phán của tư duy phát triển mạnh. Tất cả những
điều đó là tiền đề của sự hình thành tư duy lý luận, hình thành năng lực nhận
thức các quy luật chung của thế giới xung quanh, các quy luật của tự nhiên, sự
phát triển xã hội….

×