Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số giống lúa thơm tại huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 115 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM







NGUYỄN VĂN VƢỢNG






NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM
SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT
CỦA MỘT SỐ GIỐNG LÚA THƠM
TẠI HUYỆN PHỔ YÊN TỈNH THÁI NGUYÊN






LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP









Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






























ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN VĂN VƢỢNG





NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM
SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT
CỦA MỘT SỐ GIỐNG LÚA THƠM
TẠI HUYỆN PHỔ YÊN TỈNH THÁI NGUYÊN


Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Mã số : 60 62 01 10



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đức Thạnh





Thái Nguyên, năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đều đã được ghi rõ nguồn gốc.

Xác nhận của
ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Tác giả luận văn



TS. Nguyễn Đức Thạnh



Nguyễn Văn Vượng



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CẢM ƠN

Được sự nhất trí của Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và sự quan tâm của Phòng Quản lý đào tạo Sau Đại học cùng các
thầy, cô giáo Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, tôi đã tiến hành thực
hiện đề tài “Nghiên cứ u đặc điểm sinh trưởng, phát triển và năng suất của
một số giống lúa thơm tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”
Đến nay tôi đã hoàn thành đề tài của mình, để có được kết quả như vậy,
trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn:
TS.Nguyễn Đức Thạnh - Trưởng phòng Thanh tra Khảo thí và Đảm bảo chất
lượng Giáo dục - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, người đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
1. Ban giám hiệu Nhà trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
2. Ban Chủ nhiệm khoa Sau Đại học (Phòng quản lý Đào tạo Sau Đại học) -
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
3. Các thầy, cô giáo giảng dạy các bộ môn Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên.
4. Các đồng chí cán bộ thuộc Trung tâm nghiên cứu Lúa thuần - Viện Cây
lương thực và Cây thực Phẩm -Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
5. Ban Giám hiệu cùng các thầy cô giáo giảng dạy bộ môn Sinh – Kỹ thuật

Nông nghiệp trường Trung học Phổ thông Yên Lạc 2 – huyện Yên Lạc – tỉnh
Vĩnh Phúc.
6. Đảng Ủy - HĐND - UBND, các ban ngành đoàn thể và nông dân 3 xã: Tân
Hương, Trung Thành và Hồng Tiến huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
những người người thân yêu đã động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian vừa qua.
Do còn hạn chế về trình độ lý luận, chuyên môn và kinh nghiệm thực tế
nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự giúp đỡ,
đóng góp ý kiến bổ sung của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đề
tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 09 năm 2012
Tác giả luận văn


Nguyễn Văn Vượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MC LC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục các hình ix

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 5
1.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong và ngoài nước 9
1.2.1. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới 9
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong nước 13
1.3. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam 19
1.3.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới 19
1.3.2 Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam 22
1.3.3. Tình hình sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 28
1.3.4 Sản xuất lúa thơm chất lượng cao trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 29
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 30
2.1. Đối tượng nghiên cứu 30
2.2. Nội dung nghiên cứu 30
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 30
2.4. Phương pháp nghiên cứu 31
2.4.1. Bố trí thí nghiệm 31
2.4.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 31
2.5. Kỹ thuật làm mạ và thời vụ gieo trồng 31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.5.1. Thời vụ 31
2.5.2. Kỹ thuật làm mạ, cấy 32
2.6. Các chỉ tiêu theo dõi 33
2.6.1. Số liệu khí tượng: Nhiệt độ trung bình, ẩm độ, lượng mưa, số
giờ nắng. 33
2.6.2. Các giai đoạn sinh trưởng 33

2.6.3. Các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý 33
2.6.4.Các chỉ tiêu về tính chống chịu 34
2.6.5. Các chỉ tiêu về tính trạng hình thái 35
2.6.6. Các chỉ tiêu về sâu, bệnh hại chủ yếu 37
2.6.7. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 39
2.6.8. Đánh giá chất lượng các giống lúa thí nghiệm 40
2.6.9. Đánh giá chất lượng cơm của các giống lúa thí nghiệm 40
2.7. Phương pháp xử lý số liệu 40
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 41
3.1. Đặc điểm cơ bản của vùng nghiên cứu 41
3.1.1. Vị trí địa lý 41
3.1.2. Đặc điểm tự nhiên 41
3.1.3. Đặc điểm thời tiết khí hậu 43
3.1.4. Tình hình sử dụng đất đai của địa phương 44
3.2. Kết quả thí nghiệm so sánh các giống lúa thơm 45
3.2.1. Sinh trưởng và phát triển của mạ 45
3.2.2. Thời gian sinh trưởng và phát triển của từng giống lúa 48
3.2.3. Một số đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm 50
3.2.4. Một số đặc điểm nông học của các giống lúa thí nghiệm 52
3.2.5. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 54
3.2.6. Chỉ số diện tích lá của các giống lúa thí nghiệm 58
3.2.7. Khả năng chống đổ của các giống lúa thí nghiệm 60
3.2.8. Khả năng chống chịu sâu, bệnh hại lúa thí nghiệm 62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
3.2.9. Các yếu tố cấu thành năng suất lúa 65
3.2.10. Năng suất thực thu của các giống lúa thí nghiệm 71
3.2.11. Chỉ tiêu chất lượng gạo của các giống lúa thí nghiệm 74

3.2.12. Đánh giá chất lượng gạo bằng cách nấu ăn thử 77
3.2.13. Hiệu quả kinh tế của các giống lúa thí nghiệm 78
3.3. Kết quả sản xuất thử nghiệm ở vụ xuân 2012 81
3.3.1. Đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh của các giống lúa thử nghiệm 81
3.3.2. Đánh giá năng suất thực thu các giống lúa thử nghiệm 82
3.3.3. Hiệu quả kinh tế của các giống lúa thử nghiệm 83
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
PHỤ LỤC



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DT
Diện tích
Đ/c
Đối chứng
ĐH
Đại học
ĐVT
Đơn vị tính
FAO
Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc
HĐND
Hội Đồng Nhân Dân

IRRI
Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế
NL
Nhắc lại
NS
Năng suất
NSLT
Năng suất lý thuyết
NSTT
Năng suất thực thu
SL
Sản lượng
TB
Trung bình
UBND
Ủy Ban Nhân Dân













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Các quốc gia sản xuất lúa gạo nhiều nhất trên thế giới năm 2010 20
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam giai đoạn
2000 – 2010 24
Bảng 1.3. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa tại Thái Nguyên giai đoạn
2005 - 2011 28
Bảng 3.1: Diễn biến thời tiết khí hậu năm 2011 tại tỉnh Thái Nguyên 43
Bảng 3.2: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Phổ Yên 45
Bảng 3.3. Chất lượng mạ của các giống lúa vụ mùa năm 2011 46
Bảng 3.4. Chất lượng mạ của các giống lúa vụ xuân 2012 47
Bảng 3.5: Thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa năm 2011 . 48
Bảng 3.6: Thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí nghiệm vụ xuân 2012 . 49
Bảng 3.7: Đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm 50
Bảng 3.8: Đặc điểm nông học của các giống thí nghiệm 52
Bảng 3.9: Khả năng đẻ nhánh của giống thí nghiệm vụ mùa 2011 54
Bảng 3.10: Khả năng đẻ nhánh của giống thí nghiệm vụ xuân 2012 56
Bảng 3.11: Chỉ số diện tích lá (LAI) của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa 2011 58
Bảng 3.12: Chỉ số diện tích lá (LAI) của các giống lúa thí nghiệm vụ xuân 2012 59
Bảng 3.13: Khả năng chống đổ của các giống lúa thí nghiệm 61
Bảng 3.14: Mức độ nhiễm sâu, bệnh hại của các giống lúa thí nghiệm vụ
mùa 2011 63
Bảng 3.15 : Mức độ nhiễm sâu, bệnh hại và chịu lạnh của các giống lúa thí
nghiệm vụ xuân 2012 64
Bảng 3.16: Năng suất lý thuyết và các yếu tố cấu thành năng suất vụ mùa 2011 67
Bảng 3.17: Năng suất lý thuyết và các yếu tố cấu thành năng suất vụ xuân 2012 69
Bảng 3.18: Năng suất thực thu của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa 2011 71


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

viii
Bảng 3.19: Năng suất thực thu của các giống lúa tham gia thí nghiệm vụ
xuân 2012 73
Bảng 3.20: Chỉ tiêu chất lượng gạo của các giống lúa tham gia thí nghiệm
vụ mùa 2011 75
Bảng 3.21: Chỉ tiêu chất lượng gạo của các giống lúa tham gia thí nghiệm
vụ xuân 2012 76
Bảng 3.22: Chất lượng cơm của các giống lúa thí nghiệm 77
Bảng 3.23: Hạch toán kinh tế cho 1ha lúa vụ mùa 2011 79
Bảng 3.24: Hạch toán kinh tế cho 1ha lúa vụ xuân 2012 80
Bảng 3.25: Tình hình sâu, bệnh hại chính vụ xuân 2012 82
Bảng 3.26: Hạch toán kinh tế cho 1 ha lúa thử nghiệm 83




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ix
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Trang
Biểu đồ 3.1. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa 2011 54
Biểu đồ 3.2. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ xuân 2012 56
Biểu đồ 3.3: Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu vụ mùa 2011 72
Biểu đồ 3.4: Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu vụ xuân 2012 74
Biểu đồ 3.5: Hiệu quả kinh tế của các giống lúa thí nghiệm vụ mùa 2011 79
Biểu đồ 3.6: Hiệu quả kinh tế của các giống lúa thí nghiệm vụ xuân 2012 80




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây lúa (Oryza sativa L) là một trong những cây lương thực chính có
vai trò rất quan trọng đối với hơn một nửa dân số trên thế giới. Nó là cây
lương thực chủ yếu hiện nay trong bữa ăn hàng ngày của hàng tỷ người dân
sống ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh và khu vực Trung Đông. Trong
những năm tới, lúa vẫn sẽ là cây lương thực hàng đầu của họ.
Lúa gạo là một trong ba loại cây lương thực trọng yếu trên thế giới là:
lúa mì, lúa gạo và ngô. Ở châu Á nói chung và ở Việt Nam nói riêng, lúa gạo
là cây lương thực có vai trò quan trọng nhất trong việc cung cấp lương thực
cho cuộc sống hàng ngày của con người. Để phát triển sản xuất lúa trong khi
điều kiện về diện tích có hạn, chúng ta cần tập trung thâm canh trên cơ sở ứng
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất
trên một đơn vị diện tích.
Cây lúa là cây trồng có từ lâu đời và gắn liền với quá trình phát triển
của loài người. Từ buổi đầu của nền văn minh, cây lúa đã trở thành cây lương
thực chính của người Việt Nam và có vai trò quan trọng trong nét văn hoá ẩm
thực của dân tộc ta. Trong những năm trước đổi mới, nước ta là một trong
những nước ở trong tình trạng thiếu lương thực triền miên. Năm 1986, cả
nước sản xuất lúa đạt hơn 16.002.900 tấn, sang năm 1987 lại giảm chỉ còn
15.102.600 tấn trong khi đó dân số tăng lên 1,5 triệu người/năm. Ở miền Bắc,
mặc dù nhà nước đã phải nhập khẩu 1,28 triệu tấn để thêm vào cân đối lương
thực nhưng vẫn không đủ, vẫn có đến 9,3 triệu người thiếu ăn (trong đó có 3,6

triệu người bị đói gay gắt). Từ khi đổi mới đến nay, ngành nông nghiệp nước
ta đã có những bước phát triển vượt bậc nhờ có những chủ trương, đường lối,
chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Đến năm 1989, nước ta đã giải
quyết được vấn đề lương thực đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và một phần đã
xuất khẩu ra các nước khác trên thế giới. Từ đó đến nay, Việt Nam luôn là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
một trong ba nước xuất khẩu lúa gạo lớn nhất trên thế giới với sản lượng gạo
xuất khẩu trung bình đạt trên 4 triệu tấn/năm. Để có được những thành tựu
trên là do sự tổng hợp của nhiều yếu tố như: đổi mới cơ chế, chính sách cùng
với các giải pháp quan trọng khác như tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng phuc vụ
sản xuất nông nghiệp (thuỷ lợi, giao thông, mạng lưới điện, phân bón,…),
đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ
cấu mùa vụ, đặc biệt là sử dụng các giống lúa mới có năng suất cao, chất
lượng tốt là yếu tố quan trọng góp phần vào thành tựu chung trong sự phát
triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta trong thời gian qua. Yếu tố đóng góp của
khoa học và công nghệ cho việc nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh
của nông sản Việt Nam ngày càng được khẳng định rõ rệt trong thời kỳ đổi mới.
Khi xã hội càng phát triển, cuộc sống của người dân đã trở nên no đủ
thì nhu cầu ăn ngon của người dân ngày càng tăng. Trước kia khi năng suất và
sản lượng lương thực còn thấp, con người chỉ mơ ước là làm sao ăn đủ no.
Nhưng hiện nay, nhờ ứng dụng những tiến bộ mới trong tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã làm cho năng suất và sản
lượng lương thực ngày càng cao. Chính vì vậy, nhu cầu được ăn ngon của con
người ngày càng tăng lên rõ rệt. Con người thường tìm đến những sản phẩm
có chất lượng cao (trong đó có những giống lúa chất lượng cao), ít quan tâm
đến số lượng hơn. Xuất phát từ nhu cầu đó, các nhà khoa học đã tiến hành
nghiên cứu, chọn lọc và lai tạo nhằm tạo ra những giống lúa vừa có năng suất

cao mà chất lượng lại tốt.
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã nghiên cứu, chọn tạo
ra rất nhiều các giống lúa chất lượng cao được người dân hưởng ứng rộng rãi
như các giống: Bắc thơm, Hương thơm, Hương cốm, Tám thơm,
Thái Nguyên là một tỉnh thuộc khu vực trung du miền núi phía Bắc.
Đây là tỉnh được thiên nhiên ưu đãi về điều kiện khí hậu, địa hình, vị trí địa
lý, đất đai và tài nguyên khoáng sản. Được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu và
đất đai nên Thái Nguyên có nhiều khả năng để phát triển nông, lâm, ngư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
nghiệp, công nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác. Diện tích đất nông nghiệp
toàn tỉnh chiếm 48,69 % diện tích đất tự nhiên. Đây là một điều kiện thuận lợi
để phát triển mở rộng diện tích cây lương thực trong đó có cây lúa.
Sản xuất lúa nước là một nghề truyền thống của nhân dân tỉnh Thái
Nguyên. Trong những năm gần đây tập quán độc canh cây lúa với các giống
lúa cổ truyền đã thay đổi bằng tập quán đưa thêm một số cây trồng cạn vào
gieo trồng trên đất lúa, tạo nên hệ thống cây trồng đa dạng, nhiều hộ gia đình
đã mạnh dạn thay đổi giống lúa truyền thống bằng việc đưa vào các giống lúa
thơm chất lượng cao, lúa lai năng suất nhằm nâng cao giá trị sản xuất trên
cùng diện tích canh tác. Từ đó năng suất lúa của tỉnh Thái Nguyên đã có bước
tăng đáng kể cả về năng suất và chất lượng, đóng góp một phần lớn trong đó là
sự phát triển của các giống lúa lai. Tuy nhiên giống lúa lai cũng bộc lộ những
hạn chế nhất định trong sản xuất lúa của tỉnh do đòi hỏi đầu tư thâm canh cao,
chất lượng gạo trung bình, không chủ động được giống, giá thành giống cao,
chưa phù hợp với tập quán để giống hàng vụ của người dân. Hàng năm, tỉnh đã
chi cho hỗ trợ cho việc mua giống lúa lai hàng chục tỷ đồng nhằm trợ giá giống
cho bà con nông dân trên địa bàn nhưng hiệu quả kinh tế chưa cao. Trong khi đó
giống lúa thuần giải quyết được khá triệt để những hạn chế của giống lúa lai.

Do nhu cầu về chất lượng cuộc sống của con người ngày càng cao nên sản
phẩm gạo chất lượng tại nhiều địa phương trên cả nước nói chung và trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên nói riêng cũng không ngừng tăng lên. Xuất phát từ thực tế
đó chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển
và năng suất của một số giống lúa thơm tại huyện Phổ Yên tỉnh Thái
Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống lúa thơm
gieo cấy ở vụ mùa năm 2011 và vụ xuân năm 2012 tại huyện Phổ Yên tỉnh
Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
- Chọn ra được những giống lúa thơm có khả năng thích ứng rộng, có
khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh, cho năng suất
cao và ổn định gieo cấy tại huyện Phổ Yên và mở rộng ra trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
2.2. Yêu cầu của đề tài.
- Xác định được một số đặc điểm sinh trưởng, phát triển và khả năng
thích ứng, khả năng chống chịu sâu, bệnh hại và bước đầu đánh giá được tiềm
năng về năng suất của các giống lúa tham gia thí nghiệm.
- Hạch toán được hiệu quả kinh tế của giống lúa chất lượng so với
giống đối chứng gieo cấy đại trà ở địa phương.
- Xây dựng được mô hình một số giống lúa thơm có triển vọng.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
- Là cơ sở cho việc đề xuất hướng chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng theo
hướng sản xuất hàng hoá.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Lựa chọn được một số giống lúa có năng suất cao, có hiệu quả kinh tế
cao từ đó khuyến cáo nhân rộng mô hình với quy mô hợp lý.
- Góp phần định hướng cho nông dân chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp
sang sản xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá thêm bộ giống lúa chất lượng cao tại địa phương.
- Đề tài mang tính ứng dụng cao, được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất
góp phần làm thay đổi tập quán sản xuất của người dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các giống lúa thơm thu thập, chọn lọc từ các
tỉnh vùng trung du miền núi phía Bắc, các trường đại học, viện nghiên cứu trên
khu đất ruộng thí nghiệm thuộc địa bàn huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên trong
thời gian từ tháng 04 năm 2011 đến tháng 08 năm 2012.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Lúa là cây trồng có nguồn gốc từ lâu đời. Nhiều ý kiến thống nhất cho
rằng lúa trồng xuất hiện ở châu Á cách đây 8.000 năm [44]. Tổ tiên trực tiếp
của lúa trồng châu Á (Oryza sativa L.) vẫn còn chưa có những kết luận chắc
chắn. Một số tác giả như Sampath và Rao (1951) [54], Sampath và
Govidaswami (1958) [55], Oka (1974) [52] cho rằng O.sativa được tiến hóa
từ lúa dại lâu năm O.rufipogon, còn các tác giả khác như Chatterjee (1951)
[43], Chang (1976) [42] lại cho rằng O.sativa được tiến hóa từ lúa dại hàng
năm O.nivara. Các nhà khoa học Nhật Bản như Oka (1988) [53], Morshima

và cộng sự (1992) [51] cho rằng kiểu trung gian giữa O.rufipogon và O.nivara
giống với tổ tiên lúa trồng O.sativa hơn chính các loài lúa dại nhiều năm
(O.rufipogon) hoặc hàng năm (O.nivara).
Lúa trồng châu Á O.sativa có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc
(Decadolle A., 1985; Roscheviez, Ru., 1931) và Ấn Độ (Sampath và Rao,
1951) [54]. Theo công bố của Chang (1976) [42] thì O.sativa xuất hiện đầu
tiên trên một vùng rộng lớn từ lưu vực sông Gamges dưới chân núi Himalaya
qua Myanmar, Bắc Thái Lan, Lào đến Việt Nam và nam Trung Quốc. Ông
còn cho rằng lúa Indica phát sinh từ vùng Nepal, Myanmar, Vân Nam (Trung
Quốc) đến khu vực sông Hoàng Hà và từ Việt nam phát tán dần lên tận lưu
vực sông Dương Tử, từ đó phát sinh những biến dị thích ứng và hình thành
các chủng chịu lạnh Japonica (hoặc O.Sinica).
Lúa gạo là một trong ba loại cây lương thực chủ yếu trên thế giới: lúa
mì, lúa gạo và ngô. Đây là nguồn lương thực quan trọng cho khoảng 3 tỷ
người trên thế giới. Trong khi dân số thế giới không ngừng tăng lên thì ngược
lại diện tích đất trồng lúa không tăng mà có xu hướng bị thu hẹp do các hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
động sản xuất công nghiệp, xây dựng của con người, xâm lấn của nước
biển,…Do đó, vấn đề lương thực được đặt ra như một mối đe doạ đến sự an
ninh và ổn định của thế giới trong tương lai. Theo dự đoán của các chuyên gia
dân số học, nếu dân số thế giới tiếp tục tăng trong vòng 20 năm tới thì sản
lượng lúa gạo phải tăng 80% mới đáp ứng đủ nhu cầu sống còn của cư dân
mới. Khoảng 40% dân số trên thế giới sử dụng lúa gạo như là nguồn lương
thực chính. Sản xuất lúa gạo chủ yếu tập trung ở các nước châu Á với mức
tiêu dùng hàng năm khoảng 180 - 200 kg/người.
Về mặt dinh dưỡng trong lúa gạo có đầy đủ các chất giống như các loại
cây lương thực khác, trong đó tinh bột chiếm hàm lượng chủ yếu (chiếm đến

62,4% hàm lượng chất khô). Ngoài ra trong lúa gạo còn có một số loại
Vitamin, đặc biệt là vitamin B1.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có tới 75% dân số sản xuất
nông nghiệp và từ lâu cây lúa đã ăn sâu vào tiềm thức người dân, nó có vai trò
rất quan trọng trong đời sống con người. Lúa gạo không chỉ giữ vai trò trong
việc cung cấp lương thực nuôi sống mọi người mà còn là mặt hàng xuất khẩu
đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, do có điều kiện tự
nhiên thuận lợi phù hợp cho cây lúa phát triển nên lúa được trồng ở khắp mọi
miền của đất nước. Trong quá trình sản xuất lúa đã hình thành nên 2 vùng sản
xuất rộng lớn đó là vùng Đồng bằng châu thổ Sông Hồng và Đồng bằng sông
Cửu Long [20], [27].
Dân gian ta có câu: “Tốt giống, tốt má, tốt mạ, tốt lúa” , đó là câu nói
mà cha ông ta đã đúc rút để khẳng định vai trò quan trọng của giống cây trồng
trong sản xuất nông nghiệp. Trong ngành trồng trọt nói chung thì giống cây
trồng chính là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế, năng suất,
góp phần làm giảm chi phí sản xuất, tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm.
Giống cây trồng là khâu rất quan trọng trong trồng trọt. Đặc tính của
giống, yếu tố môi trường và kỹ thuật canh tác quyết định đến năng suất. Kiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
gen tốt chỉ được biểu hiện trong một phạm vi nhất định của môi trường. Các
giống khác nhau được so sánh qua các môi trường khác nhau thì biểu hiện
năng suất khác nhau. Vì vậy, tính ổn định và thích nghi của giống với môi
trường thường được sử dụng để đánh giá giống.
Giống cây trồng nói chung và giống lúa nói riêng chưa bao giờ đáp ứng
đủ cho nhu cầu sản xuất. Công tác nghiên cứu về giống được tiến hành ở hầu
hết các nước trên thế giới. Viện nghiên cứu lúa quốc tế International Rice
Research (IRRI) đã có các chương trình nghiên cứu lâu dài về lúa như các vấn

đề về chọn tạo giống, nhằm đưa ra những giống có đặc trưng chính như: thời
gian sinh trưởng, khả năng chống chịu sâu, bệnh hại, chất lượng gạo, tính mẫn
cảm với quang chu kỳ thích hợp nhất với những vùng trồng lúa khác nhau,…
Giống lúa mới được coi là tốt thì phải có độ thuần cao, thể hiện đầy đủ
đặc tính di truyền của giống đó, có khả năng chống chịu tốt với các điều kiện
ngoại cảnh bất thuận của từng vùng khí hậu khác nhau, đồng thời chịu thâm
canh, kháng sâu bệnh hại, cho năng suất cao, phẩm chất tốt và ổn định qua
nhiều thế hệ. Muốn phát huy hết tiềm năng năng suất của một giống tốt đó
phải sử dụng chúng hợp lý, phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, kinh tế, xã
hội của vùng.
Các giống khác nhau có khả năng phản ứng với điều kiện sinh thái ở
mỗi vùng khác nhau. Do đó để xác định được một số giống tốt cho từng vùng
sản xuất nông nghiệp là việc làm cần thiết và đòi hỏi có thời gian. Bởi vậy,
việc xác định tính thích nghi của một giống mới trước khi đưa ra sản xuất trên
diện rộng thì giống đó phải được trồng ở những vùng sinh thái khác nhau.
Mục đích là để đánh giá tính khác biệt, độ đồng đều, tính ổn định, khả năng
thích ứng, khả năng chống chịu sâu bệnh cũng như điều kiện bất thuận và kả
năng cho năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế của giống đó.
Giống là tiền đề của năng suất và phẩm chất. Một giống lúa tốt cần thoả
mãn một số yêu cầu sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Sinh trưởng, phát triển tốt trong điều kiện khí hậu, đất đai và điều
kiện canh tác tại địa phương.
- Cho năng suất cao và ổn định qua các năm khác nhau trong giới hạn
của biến động thời tiết.
- Có tính chống chịu tốt với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất thuận.
- Có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng.

Tất cả các giống lúa trước khi đưa ra sản xuất đại trà cần phải qua khảo
nghiệm và khu vực hoá.
Mỗi vùng, mỗi điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng cần có giống
cây trồng tốt và điều kiện canh tác phù hợp. Vì vậy một trong những biện
pháp kinh tế kỹ thuật nhằm tận dụng các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội là
bố trí cơ cấu cây trồng cho phù hợp với một vùng hay một đơn vị sản suất
nông nghiệp. Trong việc xác định giống cây trồng hợp lý đạt hiệu quả kinh tế
cao, đất đai là một trong những căn cứ quan trọng sau điều kiện khí hậu, cho
nên cần phải nắm vững được mối quan hệ giữa giống cây trồng với đặc điểm đất
đai thì mới xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Việc xác định đưa giống lúa thuần chất lượng cao vào sản xuất ở mỗi
vùng, mỗi khu vực sản xuất nhằm bảo đảm tính hợp lý, phù hợp của từng
giống lúa đó với điều kiện cụ thể của nơi sản xuất, thì ngoài việc giải quyết
các mối liên hệ giữa giống lúa thuần với điều kiện đất đai, tập quán canh tác,
còn phải quan tâm tới phương thức sản xuất ở vùng, khu vực đó.
Trong lịch sử phát triển lâu đời của sản xuất nông nghiệp, các giống lúa
được con người tạo ra được chọn tạo sau có ưu việt hơn giống trước đó và
được thay thế cho nhau. Có những giống mới đưa vào sản xuất nhưng do môi
trường sản xuất không thích hợp nên phải nhường chỗ cho các giống khác.
Hiện nay các giống lúa này tồn tại xen kẽ nhau và thích hợp với từng điều
kiện của mỗi địa phương.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Trong thực tế sản xuất thì mỗi giống lúa đều có ưu, nhược điểm song
sự chuyển dịch cơ cấu giống lúa thuần như thế nào để giải quyết được nhu
cầu cấp bách của người dân nghèo mà vẫn có lợi về mặt tài chính, đem lại hiệu
quả kinh tế cao và phù hợp với đặc điểm của vùng sản xuất, của một không gian,
thời gian nhất định và được người dân chấp nhận và mở rộng.

Cơ cấu các giống lúa thơm hiện nay đang được gieo trồng thường được
chọn lựa trên lợi ích lớn nhất cho đa số người dân, nó phải được bố trí hợp lý,
phù hợp với tập quán của địa phương, mà vẫn đảm bảo an toàn hệ sinh thái
trong vùng.
1.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong và ngoài nƣớc
1.2.1. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới
Vào đầu những năm 1960, Viện nghiên cứu lúa gạo Quốc tế
International Rice Research Institute (IRRI) đã được thành lập ở Philippines.
Viện này đã tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu, lai tạo và đưa ra sản xuất
nhiều giống lúa các loại, tiêu biểu như các dòng IR, Jasmin. Đặc biệt vào thập
niên 80 giống IR8 được trồng phổ biến ở Việt Nam đã đưa năng suất lúa tăng
lên đáng kể. Cuộc “cách mạng xanh” từ giữa thập niên 60 đã có ảnh hưởng
tích cực đến sản lượng lúa của châu Á. Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được tạo ra
để nâng cao năng suất và sản lượng lúa gạo.
Các nhà nghiên cứu của Viện lúa Quốc tế (IRRI) nhận thức rằng các
giống lúa mới thấp cây, lá đứng, tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể giải
quyết vấn đề lương thực trong phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI đang tập
trung vào nghiên cứu chọn tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có thể đạt
13 tấn/ha/vụ, đồng thời phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR6 và Jasmin là
giống có phẩm chất gạo tốt, được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới.
Trên cơ sở một số giống lúa chất lượng cao Viện IRRI đang tập trung vào
nghiên cứu, chọn tạo các giống lúa có chất lượng cao (giàu vitamin, giàu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
protein, có mùi thơm, cơm dẻo…) vừa để giải quyết vấn đề an ninh lương thực,
vừa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng [40].
Nhiều nước ở châu Á có diện tích trồng lúa lớn, có kỹ thuật thâm canh
tiên tiến và có kinh nghiệm dân gian phong phú. Có đến 85% sản lượng lúa

trên thế giới phụ thuộc vào 8 nước châu Á, đó là: Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Bangladesh, Thái Lan, Việt Nam, Myanma và Nhật Bản [17].
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới, là một nước thiếu đói
lương thực trầm trọng trong thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, vì vậy công tác
nghiên cứu, lai tạo, chọn tạo và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất
là giống lúa mới vào sản xuất được đặc biệt chú trọng. Trong lịch sử phát
triển lúa lai trên thế giới, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu
thế lai của lúa vào sản xuất. Năm 1960 khi theo dõi thí nghiệm của mình,
Viêm Long Bình phát hiện một cây lúa lạ khỏe, bông to, hạt nhiều. Nhưng
ông đã thất vọng vì chưa tìm ra phương pháp sử dụng ưu thế lai. Sau đó ông
bắt đầu tìm dòng bất dục đực. Con đường tạo giống ưu thế lai theo phương
pháp “3 dòng” được hé mở từ đây. Năm 1964, Viêm Long Bình phát hiện cây
có tính bất dục đực nhưng không giữ được tính bất dục đó bởi không có dòng
duy trì mẹ. Tháng 11/1970 Lý Tất Hồ cộng tác với Viêm Long Bình thu được
cây bất dục đực trong loài lúa dại ở đảo Hải Nam. Đây là thành công có tính
quyết định đến việc tạo ra các tổ hợp lai 3 dòng và 2 dòng sau này. Vào năm
1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp lai có ưu thế
lai cao, đồng thời quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ “3 dòng” được hoàn
thiện và đưa vào sản xuất năm 1975, đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc nói riêng và trên toàn thế giới nói
chung [18]. Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI Trung Quốc tập
trung vào việc lai tạo các giống lúa lai 2 dòng và đang hướng tới tạo ra các
giống lúa lai 1 dòng siêu cao sản (siêu lúa) có thể đạt năng suất 18 tấn/ha/vụ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Về chiến lược phát triển lúa lai của Trung Quốc trong thế kỷ XXI là phát triển
lúa lai hai dòng và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai một dòng, lúa lai siêu cao sản
nhằm nâng cao năng suất, sản lượng lúa gạo của đất nước [49].

Ấn Độ là một nước có diện tích trồng lúa đứng đầu thế giới, đồng thời
Ấn Độ cũng là nước đi đầu trong cuộc “cách mạng xanh” về đưa các tiến bộ
khoa học kỹ thuật nhất là giống mới vào sản xuất, làm tăng năng suất và sản
lượng lúa gạo của Ấn Độ. Viện nghiên cứu giống lúa trung ương của Ấn Độ
được thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang Orisa là nơi tập trung nghiên
cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó Ấn Độ cũng là
nước có giống lúa chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới như giống lúa:
Basmati, Brimphun có giá trị rất cao trên thị trường tiêu thụ.
Nhật Bản là một trong mười nước có diện tích trồng lúa nhiều nhất thế
giới. Nhật Bản cũng là nước đạt năng suất lúa cao đứng hàng đầu thế giới, tuy
có diện tích không lớn song sản lượng năm 2009 đạt trên 10 triệu tấn. Có
được kết quả đó là do người Nhật chỉ trồng lúa 1 vụ/năm, cây lúa được gieo
trồng trong điều kiện thời tiết thuận lợi nhất, công tác giống lúa của Nhật
cũng được đặc biệt chú trọng về giống chất lượng cao vì người Nhật đòi hỏi
lúa gạo chất lượng cao. Để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, Nhật bản đã tập
trung vào công tác nghiên cứu giống lúa ở các Viện. Các nhà khoa học Nhật
Bản đã lai tạo và đưa vào sản xuất các giống lúa vừa có năng suất cao, chất
lượng tốt như Koshihikari, Sasanisiki, Koenshu… đặc biệt ở Nhật đã lai tạo
được 2 giống lúa có mùi thơm đặc biệt, chất lượng gạo ngon và năng suất cao
như giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho đến giờ các giống này vẫn giữ được
vị trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là hàm lượng Protein cao tới 13%,
hàm lượng Lyzin cũng rất cao [10].
Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng hàng đầu thế giới. Với những
ưu đãi của thiên nhiên, Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu, mặc dù

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
năng suất và sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ chú trọng
đến việc chọn tạo giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm nghiên cứu lúa

của Thái Lan được thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực. Các trung tâm này
có nhiệm vụ tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo, nhân giống phục vụ cho
nhu cầu sản xuất của người dân với mục tiêu phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật của các giống lúa mà các nhà khoa học tập
trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt gạo dài và trong, ít dập gãy khi xay sát,
có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn là năng suất, điều này cho thấy giá
lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan bao giờ cũng cao hơn của Việt Nam. Một số
giống lúa chất lượng cao nổi tiếng thế giới của Thái Lan là: Khaodomali,
Jasmin (Hương nhài). Sản xuất nông nghiệp của Thái Lan trong mấy thập kỷ
qua phát triển tương đối ổn định và Thái Lan cũng như nhiều nước Đông Nam
Á khác trong buổi đầu phát triển kinh tế Tư bản chủ nghĩa, đều xuất phát từ
thế mạnh nông nghiệp.
Indonesia là nước có diện tích trồng lúa khá lớn trong danh sách 10
nước đứng đầu thế giới về sản xuất lúa gạo. Đây cũng là nước có nhiều giống
lúa chất lượng cao, cơm dẻo, có mùi thơm, hầu hết các giống lúa ở Indonesia
có nguồn gốc bản địa hoặc được lai tạo ở các cơ sở nghiên cứu. Trong thời
gian gần đây Indonesia nhận định có khả năng đối mặt với khủng hoảng
lương thực trong mười năm tới nên đã khởi động chương trình “hồi sinh
ngành nông nghiệp”.
Ở khu vực Đông Á còn có một số nước cũng có diện tích trồng lúa
đáng kể đó là: Hàn Quốc, Triều Tiên, Đài Loan. Các nước này chủ yếu sử
dụng giống lúa thuộc loại hình Japonica, hạt gạo tròn, cơm dẻo phù hợp với
thị hiếu tiêu dùng của người dân khu vực này. Các giống lúa nổi tiếng của khu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
vực này là Ton gil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang chan gi, Đee-
Geo-Wô-Gen (Đài Loan)… đặc biệt giống Đee-Geo-Wô-Gen là một vật liệu
khởi đầu để tạo ra giống lúa IR8 nổi tiếng một thời [47].

Ngoài châu Á thì ở Mỹ, trong thời gian gần đây các nhà khoa học
không chỉ quan tâm đến việc chọn lọc, lai tạo và đưa ra những giống lúa có
năng suất cao, ưa thâm canh và ổn định, mà còn nghiên cứu tỷ lệ protein trong
gạo, phù hợp với thị trường hiện nay.
Ngoài ra, trên thế giới còn rất nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên
cứu các giống lúa nhằm mục đích đưa ra những giống lúa có năng suất cao,
phẩm chất tốt, có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, thâm canh.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong nước
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam châu Á, khí hậu nhiệt đới gió mùa rất
thích hợp cho sự phát triển của cây lúa. Có nhiều đồng bằng châu thổ rộng lớn
được phù sa bồi đắp thường xuyên, các vùng đồng bằng châu thổ đều được sử
dụng trong sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa.
Trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, cây lúa luôn gắn
liền với đời sống hàng ngày của dân tộc ta. Vì vậy có thể nói rằng Việt Nam
là cái nôi của nền văn minh lúa nước, sản xuất lúa gạo đóng vai trò quan trọng
đối với đời sống của người dân Việt Nam, nó không những đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người dân trong nước mà nó còn góp phần quan trọng vào thị
trường xuất khẩu lúa gạo của thế giới.
Trước năm 1954, người dân Việt Nam với đức tính cần cù sáng tạo đã
đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và đã sử dụng các giống lúa
địa phương, mặc dù năng suất không cao song chất lượng tốt, thích ứng với
điều kiện đất đai khí hậu của Việt Nam, đồng thời có khả năng chống chịu tốt
với sâu, bệnh. Nhiều giống lúa được lưu truyền trong sản xuất từ đời này sang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
đời khác như giống: Chiêm Tép, Chiêm Sài Đường, Chiêm cút… các giống
gieo cấy vụ mùa như: lúa Di, lúa Tám Xoan, lúa Dự…
Từ sau ngày hòa bình lập lại (1954), miền Bắc nước ta bước vào công

cuộc xây dựng và tái thiết đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú
trọng tới việc phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng
với mục đích nhanh chóng đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, bị
tàn phá nặng nề bởi chiến tranh trở thành một đất nước có nền công nghiệp
phát triển. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau kinh tế của đất nước ta
vẫn rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đất nước vẫn không thể chuyển mình và
nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Trước thực trạng đó
Đảng và Nhà nước ta đã có những nhìn nhận đúng đắn, thẳng thắn về đường
lối chính sách và vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Đảng và Nhà nước ta quan tâm đó là tập trung phát triển sản xuất nông
nghiệp. Các nhà nông học đã nhập nội, thử nghiệm sản xuất nhiều giống lúa
ngắn ngày của Trung Quốc, làm tiền đề cho sự ra đời của vụ lúa Xuân gieo
cấy bằng các giống Chân Trâu Lùn, Trà Trung Tử…
Khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta được thống
nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975), nước ta đã tập trung
nhiều vào nghiên cứu cây lúa, trong đó công tác chọn tạo và lai tạo các giống
lúa được đặc biệt chú trọng. Nhờ các thành tự trong nghiên cứu và áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, năng suất lúa của Việt Nam không ngừng tăng.
Nước ta cũng đã nhập nội một số giống lúa từ Viện nghiên cứu lúa Quốc tế
(IRRI) và của một số nước khác làm phong phú bộ giống lúa của Việt Nam.
Nhận rõ tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp nói chung và sản
xuất lúa gạo nói riêng, từ Đại hội Đảng lần thứ VI và các thời kỳ đại hội tiếp
theo, ngành nông nghiệp đã được Đảng, Nhà nước quan tâm thúc đẩy đúng
mức. Trong một thời gian không lâu nước ta đang từ một quốc gia nhập khẩu

×